Friday, September 18, 2020

Điển tích - TR

 TR

TRÁ NGÔN 

Trá: Lừa dối. Ngôn: Lời nói.

Trá ngôn là lời nói dối để đánh lừa kẻ khác.



Sự đời thấu rõ dạng hình,

Trá ngôn lánh chước gia đình pháp nghiêm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRÀ CHUYÊN NƯỚC NHẤT

Trà chuyên nước nhất là uống trà xong nước đầu đã bỏ, không dùng đến nước thứ hai, mặc dầu nước thứ hai là lúc trà ngon. Ý muốn nói không có ai cùng uống, nên không muốn uống nước thứ hai.



Lại buồn đến cảnh cỏn con,

Trà chuyên nước nhất hương dồn khói đôi.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



TRÀ ĐÌNH TỬU TỨ 

Hay “Trà đình tửu điếm  ”.



Trà đình: Ngôi nhà bán nước trà. Tửu tứ: Quán rượu. Trà đình tửu điếm tức là nhà bán nước trà và quán bán rượu.

Nghĩa bóng: Chỉ chỗ ăn chơi.



Trà đình, tửu tứ, chớ thân,

Sĩ nông công cổ, bốn dân tập rèn.

(Huấn Nữ Ca).



TRÀ KHAN GIỌNG TÌNH

Trà khan giọng tình ý muốn nói uống trà ngon mà không có tình nhân thì trà cũng mất cả hương vị ngon.



Mành tương phơn phớt gió đàn,

Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.

(Truyện kiều).



TRÀ MI 

Trà mi là tên một loại hoa đẹp. Nguyên trước đọc là “Đồ mi”, đến đời nhà Đường, Lục Vũ viết quyển Trà Kinh mới đổi chữ “Đồ” thành chữ “Trà”. Như vậy, đọc “Đồ mi” hay “Trà mi” đều viết như nhau.

Đường Thi có câu: Khai đáo trà mi hoa sự liễu  , nghĩa là nở đến hoa trà mi thì sự chơi hoa đã hết rồi.

Sợ cơn giông gió tơi bời,

Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Tiếc thay một đóa trà mi,

Con ong đã tỏ đường đi lối về.

(Truyện Kiều).



TRẢ MẬN GIEO ĐÀO

Nhận được quả đào thì trả lại quả mận, ý nói tình nghĩa đền báo trong quan hệ nam nữ phải được sồng phẳng. Kinh Thi có câu: Đầu ngã dĩ đào, báo chi dĩ lý  , , nghĩa là cho ta quả đào, ta báo trả quả mận.

Xem: Gieo đào trả lý.

Lỡ ra rồi biết làm sao,

Chừ còn trả mận gieo đào với ai?

(Quan Âm Thị Kính).



TRÀ NGÂU

Ngâu là một loài hoa rất thơm, cũng như hoa lài, người ta thường lấy để ướp trà.

Trà ngâu là loại trà ướp hoa ngâu.

Chừ toan bứt mảnh tơ tình,

Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRÁC DẬN 

Theo Tấn thư, Trác Dận là người đất Nam Bình, đời Tấn, học rộng biết nhiều. Thuở nhỏ rất chăm học, đêm ngày học không biết mệt mỏi, nhà nghèo không tiền mua dầu, về mùa hè, thường bắt đom đóm bỏ vào túi vải thưa để lấy ánh sáng đọc sách. Sau ông được thành danh, làm quan đến chức Thượng Thư.

Thơ Lý Trung có câu: Tam thập niên tiền cộng khổ tâm, nang huỳnh tằng kỷ thử yên sầm  , , nghĩa là ba mươi năm trước cùng khổ tâm, túi đom đóm từng soi cảnh tối tăm.

Nọ người Trác Dận dầu không,

Túi bao đom đóm bạn cùng thư trai.

(Gia Huấn Ca).



TRÁC VĂN QUÂN 

Trác Văn Quân là con gái của Trác Vương, người ở đất Lâm Ngang. Văn Quân là một quả phụ, hiểu về âm nhạc, nên sau khi nghe được bản “Phụng Cầu Hoàng” của Tư Mã Tương Như gãy lên để trêu ghẹo, nàng liền bỏ nhà theo Tương Như.

Về với Tương Như, vợ chồng sống hòa hợp, nhưng sau Tương Như đòi cưới vợ bé, Văn Quân buồn, làm bài Bạch Đầu Ngâm tự huỷ đời mình, Tương Như hối hận liền thôi.

Xem: Cầu hoàng.



Cầu hoàng một khúc lẳng lơ,

Trác Văn Quân phải ngẩn ngơ lòng sầu.

(Thi Lễ con nhà, Khuyết Danh).



Đờn Tư Mã lên dây cao thấp,

Trác Văn Quân đường lấp cũng leo tường.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

TRẠCH HỮU NHI GIAO 

Trạch hữu: Chọn lựa bạn. Nhi giao: Mà giao thiệp.

Trạch hữu nhi giao tức là lựa bạn mà giao thiệp, bởi quan niệm người xưa cho rằng gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.



Xem đến câu”Trạch hữu nhi giao”,

bạn vô ích chơi làm chi nữa.

(Văn Tế Thuốc Phiện).



TRAI BẢY THIẾP

Do câu tục ngữ: Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng.

Ngày xưa luật hôn nhân cho phép người đàn ông có nhiều vợ (Theo chế độ đa thê), nhưng người đàn bà chỉ được có một chồng. Vì vậy, mới nói “Trai năm thê bảy thiếp”.

Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,

Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRAI GIÀ NỞ CHÂU

Bởi câu “Lão bạng sinh châu  ” tức là con trai già sinh ra ngọc quý. Ý nói người tuổi già sinh ra đứa con quý, điềm tốt.

Xem: Lão bạng sinh châu.

Cứ xem phúc trạch nhà ta,

Một mai cũng dễ trai già nở châu.

(Quan Âm Thị Kính).



TRAI GIỚI 

Trai: Ăn chay. Giới: Răn.

Trước khi tế tự, người ta phải giữ trai, mà đã giữ trai tức là thủ giới.

Trai giới theo nhà Phật tức là giữ theo phép tắc giới luật của nhà chùa.

Lòng từ bi mộ đạo Thích Ca;

nguyện Phật pháp vui bề trai giới.

(Sãi Vãi).



TRAI PHÒNG 

Trai: Tự răn cấm để được trong sạch, như không ăn mặn, không nghĩ chuyện dâm dục. Phòng: Cái buồng.

Trai phòng là cái phòng để người tu tĩnh dưỡng, giữ tâm hồn trong sạch. Trai phòng còn gọi phòng ăn, hay phòng học.



Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,

Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.

(Truyện Kiều).



TRAI TÀI GÁI SẮC

Thành ngữ trai tài gái sắc là trai có tài năng, gái có sắc đẹp, dùng để nói trai gái xứng đôi vừa lứa.



Lời tục ví trai tài gái sắc,

Gái thỏa nguyền trai đẹp mắt ấy thường tình.

(Phương Tu Đại Đạo).



Vậy trúng nghĩa trai tài gái sắc,

Trai ưa tài, gái ưa sắc cho xinh.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRÁI CĂN 

Trái: Nợ. Căn: Gốc rễ.

Trái căn là những món nợ có gốc rễ từ kiếp trước, gây ra tai họa cho kiếp này phải đền trả.

Do gốc rễ đó, mà kiếp sống của con người phải thọ lãnh cái nghiệp báo: Nếu kiếp trước làm những điều thiện thì tạo căn lành cho khiếp sống hiện tại, nếu bây giờ ta gieo những việc ác, thì tạo ác căn cho kiếp lai sinh. Như vậy căn hay gốc rễ tạo thành cái nghiệp cho con người. Vì thế người ta thường gọi căn quả hay căn nghiệp.

Thiện căn hay ác căn có khả năng ăn sâu và lớn mạnh lên vào gốc rễ mà tạo thành nghiệp báo.



Bước đường sanh tử đã chồn

Oan oan nghiệt nghiệt dập đồn trái căn.

(Kinh Tận Độ).



Đến phồn hoa thân gần tục lự,

Chơi lầu hồng hỏi thử trái căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRÁI CHỦ 

Trái: Nợ. Chủ: Người làm chủ.

Trái chủ tức là người chủ nợ. Nợ này là nợ gây ra bởi oan gia nghiệt chướng.



Khối trái chủ nhẫng lo vay trả,

Mới gầy nên nhân quả nợ đời.

(Kinh Tận Độ).



Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ,

Nương huyền linh sạch giũ thất tình,

(Kinh Tận Độ).



Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,

Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.

(Kinh Thế Đạo).



Cầu duyên Phật khử oan gia,

Trái chủ đừng khinh gánh đến già.

(Đạo Sử).



Nắm huệ kiếm định thâu trái chủ,

Mặc đạo y sạch giũ phồn hoa.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRÁI OAN 

Trái: Nợ. Oan: Bị oan ức.

Theo thuyết luân hồi của Phật, kiếp trước làm những điều oan ức cho người thì kiếp sau phải chịu đền trả lại món nợ mà mình đã gây ra, gọi là oan trái (Hay trái oan).



Hoặc là kiếp trước trái oan,

Đời nay nghiệp báo, phải toan làm lành.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Trái oan nào khác mối tơ,

Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.

(Kinh Sám Hối).



Lưng vơi lấy chí anh hùng,

Mượn gươm thần huệ dứt lần trái oan.

(Ngụ Đời).



TRANG CHÂU ĐIỆP 

Trang Châu: Hay Trang Chu là một triết gia thời Chiến Quốc. Điệp: Bươm bướm.

Trang Châu điệp là bướm Trang Châu hay Giấc điệp, dùng để chỉ giấc ngủ.

Do tích Trang Châu chiêm bao thấy mình hóa bướm. Tỉnh dậy, thấy mình là Châu. Không biết Châu chiêm bao làm bướm, hay bướm chiêm bao làm Châu

Xem: Trang Sinh.



Trang Châu điệp mơ màng một giấc,

tính linh đà về chốn u minh;

(Tử Tế Mẫu Văn).



TRANG ĐÀI 

Trang: Tô điểm. Đài: Cái nhà cao.

Trang đài là nơi đàn bà con gái trang điểm. Còn dùng để chỉ người con gái.



Ngại ngần khi lại trang đài,

Tấm riêng riêng để chất cài một bên.

(Hoa Tiên Truyện).



Trương Công nghe nói não nùng,

Tiếng ai oán đã dậy trong trang đài.

(Sơ Kính Tân Trang).



TRANG KHOÁN

Trang: Hay cái khánh dùng để thờ phụng. Khoán: Chửa bệnh bằng phù phép, huyền bí.

Trang khoán ý muốn nói bọn đồng cốt và thầy pháp dùng cách thờ phụng và khoán bùa để lợi dụng sự mê tín của người mà ăn tiền.



Khoe khoang nhiều phép linh thiêng,

Phỉnh treo trang khoán ăn tiền đứa ngu.

(Dương Từ Hà Mậu).



TRANG SINH 

Trang sinh tức là Trang Chu hay Trang Châu, người huyện Mông, nước Lương thời Chiến Quốc, sống đồng thời với Lương Huệ Vương, Tề Tuyên Vương. Ông là người có tư tưởng lớn trong thời cổ đại Trung Quốc, suốt đời không chịu ra làm quan. Ông thuộc phái Đạo gia, soạn sách hơn mười vạn chữ, lời lẽ mông lung, phóng túng, công kích đạo Nho và đạo Mặc. Sở Uy Vương nghe Trang là người hiền, cho mời ra làm Tể tướng, nhưng Trang không nhận.

Xưa Trang Chu chiêm bao thấy mình hóa bướm. Tỉnh dậy, thấy mình là Chu. Không biết Chu chiêm bao làm bướm, hay bướm chiêm bao làm Chu?

Xem: Trang Tử.



Còn người còn cái thẹ này,

Cũng liều như thể vợ thầy Trang Sinh.

(Quan Âm Thị Kính).



Khúc đâu đầm ấm dương hòa,

Ấy là Hồ điệp hay là Trang Sinh.

(Truyện Kiều).



Nào đình, nào khách, nào thơ?

Bấy giờ Hồ điệp, bây giờ Trang sinh!

(Mai Đình Mộng Ký).



TRANG TÍCH 

Trang Tích, đời Xuân Thu, người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi Trang Tích bị bịnh, vua Sở muốn biết Trang còn nhớ nước cũ hay không, triều thần có kẻ tâu: Người bịnh thường hay nhớ quê hương, nay Trang đương nằm bịnh, nếu nhớ nước Việt thì sẽ hát tiếng Việt, bằng không thì hát tiếng Sở.

Vua cho người dò xem, thì thấy Trang hát tiếng Việt, giọng rất bi ai.

Trong “Cầm Giả Dẫn”, Nguyễn Du có câu: Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm  , nghĩa là buồn như khúc Việt Trang Tích ngâm não lòng.



Buồn như khúc Việt ai ngâm,

Nỗi lòng Trang Tích âm thầm mà đau.

(Thơ Học Canh).



Thơ mấy thiên hay lòng Trang Tích,

Phú mấy vần hay thích Phan Công.

(Tứ Thời Khúc Vịnh).



TRANG TỬ 

Tên là Chu hay Châu, Tự là Tử Hưu, người nước Tống, sanh khoảng 369 trước Tây lịch, đời vua Châu Liệt Vương, Ông mất khoảng 286 trước Tây lịch, thường giao du với Huệ Tử. Ông là người chịu ảnh hưởng tư tưởng của Lão Tử và Dương Tử, nên có đời sống thanh bạch, ghét danh lợi, chủ trương trở về với tự nhiên. Trang Tử có một tư tưởng rất lãng mạn, lại là người không màng thế tục, không ham sống cũng chẳng sợ chết, coi cuộc đời như một giấc mộng lớn, chết đi là tỉnh giấc mộng. Ông có soạn ra bộ “Nam Hoa Kinh  ”.



Một đức đủ nên Trang Tử trước,

Nên hiền đâu dụng cũng nhơn tài.

(Đạo Sử).



TRÀNG KHANH 

Theo Sử Ký: Tràng Khanh tức là Tư Mã Tương Như, tự là Tràng Khanh, người đất Thành Đô. Thuở nhỏ, ham học, giỏi thi phú, nhà lại nghèo không có kế sinh nhai, mới dời qua đất Lâm Cùng, trọ nhà người bạn cũ là Vương Cát, đang làm quan lệnh ở đấy.

Khi còn hàn vi đi vào đất Thục, qua cầu Thăng Tiên có đề vào cột cầu rằng hễ không được ngồi vào xe cao đi bốn ngựa thì không qua lại cầu này.

Có một người rất giàu là Trác Vương Tôn, đầy tớ trong nhà có đến tám trăm người. Vương Tôn mở một bữa tiệc lớn mời Tràng Khanh và Vương Cát. Trong tiệc, Trác Vương Tôn yêu cầu Tràng Khanh đánh đàn cầm. Con gái của Vương Tôn là Văn Quân mới goá chồng, vốn thích âm nhạc, khi nghe tiếng đàn của Tràng Khanh thì cảm, đem bụng yêu vì, rồi đêm đó trốn theo Tràng Khanh.



Dập dìu lá gió, cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.

(Truyện Kiều).



Tràng Khanh tư ả Văn Quân,

Tống sinh dùng gái chủ nhân cũng vì.

(Truyện Trinh Thử).



Lửa Thái Ất đêm soi Lưu Hướng,

Cầu Thăng tiên ngày tưởng Tràng Khanh.

(Tự Tình Khúc).



TRÀNG PHAN 

Tràng (Trường): Dài. Phan: Tấm phướn.

Tràng phan là tấm phướn dài, đây là nghi trượng của nhà chùa bên Phật giáo.



Ào ào dạng bóng tường loan,

Tràng phan bảo cái giao quan âm thầm.

(Quan Âm Thị Kính).



Chuông kêu lẫn tiếng thiều rung,

Cờ xen bảo cái, tán lồng tràng phan.

(Truyện Phan Trần).



TRẠNG NGUYÊN 

Trạng nguyên là người đỗ đầu khoa thi Đình, một kỳ thi lớn nhứt trong chế độ khoa cử ngày xưa.

Trạng nguyên có từ đời nhà Đường bên Trung Hoa. Đời Tống, những người đỗ hạng nhứt, nhì và ba đều được gọi là Trạng nguyên. Đến đời Minh, ba người đỗ đầu là Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa.

Trạng nguyên, bảng nhỡn, thám hoa,

Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh.

(Quốc sử Diễn Ca).



Nền trung trực dạ trang đài.

Trời cho văn tướng kén tài Trạng nguyên.

(Nhị Độ Mai).



Bảng trời hôm nọ mới treo,

Mai sinh tên đã giật lèo Trạng nguyên.

(Nhị Độ Mai).



TRANH HÙNG 

Tranh: Giành nhau. Hùng: Mạnh mẽ, tài giỏi.

Tranh hùng là giành nhau để làm người tài giỏi, hoặc hai nước tranh lấy hùng cường.



Rằng: Khi đôi nước tranh hùng,

Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?

(Quốc Sử Diễn Ca).



TRANH KHỔNG TƯỚC

Tranh khổng tước là bức tranh vẽ hình chim công treo trên bình phong, do điển Lý Uyên đua tài thi bắn để được vợ. chỉ việc kén rể.

Xem: Bắn sẻ.

Bức tranh khổng tước vẽ vời,

Tay hèn dẫu bắn mấy đời cho tin.

(Quan Âm Thị Kính).



TRANH THI 

Tranh: Giành nhau. Thi: Làm một việc gì.

Tranh thi có nghĩa là giành nhau để thi hành một công cuộc gì.



Những tuồng loài vật biết gì,

Cũng còn sự lý tranh thi khéo là.

(Truyện Trê Cóc).



Nhược bằng có dạ tranh thi,

Lại làm đơn phục cho trê khó gì.

(Truyện Trê Cóc).



TRÁNH VOI XẤU MẶT

Voi là loài vật mạnh, ngộ như gặp phải, tránh đi là chuyện thường tình, là khôn ngoan, không có gì phải xấu mặt.



Tránh voi xấu mặt hay sao,

Hãy xem sứa vượt được nào qua đăng.

(Truyện Trinh Thử).



TRAO TƠ

Trao tơ chỉ việc đính hôn, kết duyên vợ chồng.

Do tích đời Đường, Quách Nguyên Chấn lúc trẻ là người tài mạo. Tể tướng là Trương Gia Trinh muốn kén làm rể, bèn cho năm người con gái đứng sau màn, mỗi người cầm một sợi dây tơ một màu, rồi bảo Quách Nguyên Chấn rút được sợi nào thì lấy người con gái cầm sợi tơ đó. Quách Nguyên Chấn rút sợi tơ màu hồng, lấy được cô thứ ba đẹp nhất.

Sự đâu chưa kịp đôi hồi,

Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ.

(Truyện Kiều).



Nuôi con những ước về sau,

Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.

(Truyện Kiều).



Cớ sao như ủ như vày,

Hay là nhắc thiếp những ngày trao tơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRAO TRÂM

Trâm là vật cài tóc của phụ nữ.

Trao trâm là người con gái lấy trâm trao cho người tình để làm vật hẹn ước. Nghĩa bóng chỉ sự đính hôn.

Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,

Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Khi gặp đặng phải trang tài mạo,

Hoặc trao trâm đắp áo làm tin.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Lại sợ ai ăn trộm ở thầm,

Coi phải phận trao trâm đừng ái ngại.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRẢO NHA 

Bởi chữ “Nha trảo  ” là nanh và vuốt.



Nha: Răng, nanh. Trảo: Móng, vuốt.

Những loài mãnh thú nhờ có nha trảo (Nanh vuốt) để tự bảo vệ.

Trảo nha dùng để chỉ những tay chân bộ hạ.

Dõi đời con cháu lâu xa,

Cánh lông đã lắm trảo nha đã nhiều.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



Vũ dực tam thiên nhân khủng khiếp,

Trảo nha bách vạn quỷ thần kinh.

(Nhạc Hoa Linh).



TRÁP VĨNH THÚC

Tráp Vĩnh Thúc tức là tráp đựng sách vở của Vĩnh Thúc, tên tự của Âu Dương Tu, một văn hào đời Tống bên Tàu, là người học rộng, văn chương quán thế. Ông đỗ Tiến sĩ làm gián quan, tính lại thẳng thắn, không chịu sự cải cách của Vương An Thạch, nên xin về trí sĩ.



Tráp Vĩnh Thúc tay phong tay mở,

Tập Thiếu Lăng câu lựa câu ngâm.

(Tự Tình Khúc).



TRẮC DĨ 

Trắc: Leo lên.  (Có thể đọc tỵ): Núi không có cây cối mọc.

Kinh Thi có câu: Trắc bỉ dĩ hề, chiêm vọng mẫu hề  , , nghĩa là trèo lên núi trọc kia trông ngóng mẹ vậy.

Nghĩa bóng: Nhớ mẹ.

Sinh rằng hiếu phục vừa xong,

Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên.

(Truyện Kiều).



TRẮC HỘ 

Trắc: Leo lên. Hộ: Núi có cây mọc.

Kinh Thi cũng có câu: Trắc bỉ hộ hề, chiêm vọng phụ hề  , , nghĩa là trèo lên núi có cây, trông ngóng cha vậy.

Nghĩa bóng: Nhớ cha.

TRĂM CỖ MUÔN CHUNG

Bởi chữ “Thiên tứ vạn chung  ”, nghĩa là làm quan to, có nghìn cỗ xe bốn ngựa, và được hưởng lộc muôn thùng thóc lương.

Trăm cỗ muôn chung ý nói quan lớn, có nhiều xe ngựa và lúa thóc.

Xe trăm cỗ thóc muôn chung,

Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



TRĂM ĐẮNG NGÀN CAY

Đắng cay do chữ “Tân khổ  ” là vị đắng, vị cay, dùng chỉ sự gian nan, khổ cực.

Trăm đắng ngàn cay ý nói chịu muôn phần khổ sở, cực nhọc.

Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,

Công hầu vương bá dám đâu hơn.

(Đạo Sử).



TRĂM HỌ

Bởi chữ “Bách tính  ” hoặc “Bá tánh” là trăm họ. Trăm họ dùng để chỉ tất cả người dân trong nước. Bởi vì người trong nước, vua chỉ có một họ mà dân thì hàng trăm họ.



Các chợ sanh tài trăm họ nhóm,

Mấy ghe hóa trị bốn phương ruồng.

(Dương Từ Hà Mậu).



Dân như cá chậu gà chuồng,

Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.

(Ngụ Đời).



TRĂM NÃO NGÀN PHIỀN

Phiền não là buồn bực. Theo Phật, đó là những sợi dây ràng buộc tâm ý, có tác dụng làm náo loạn, làm cho con người mất đi sự an vui.

Trăm não ngàn phiền tức là trăm ngàn phiền não dấy động tâm ý con người.

Lạ cho vừa bén màu thiền,

Mà trăm não ngàn phiền sạch không.

(Hương Sơn Hành Trình).



TRĂM NĂM

Do câu trong Kinh Lễ: “Nhân thọ dĩ bách niên vi kỳ  ” nghĩa là Đời sống của con người lấy trăm tuổi làm kỳ hạn.

Trăm năm dùng để chỉ một đời người.

Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

(Truyện Kiều).



Cho biết trăm năm là cõi tạm,

Hơn nhau chỉ một tấm lòng son.

(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).



Trăm năm khá nhớ hương nguyền,

Chồng hay trọn nghĩa, vợ hiền trọn trinh.

(Kinh Thế Đạo).



Trăm năm kim cải cũng chồng,

Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRĂM NGHE MỘT THẤY

Bởi chữ “Bách văn bất như nhất kiến  ” tức là trăm lần nghe không bằng một lần thấy.



Trăm nghe còn hãy sai ngoa,

Chi bằng một thấy là ta cam lòng.

(Ca Dao).



TRĂM PHIỀN ĐEO ĐẲNG

Trăm phiền: Trăm thức bực bội. Đeo đẳng: Đeo đuổi mãi.

Trăm phiền đeo đẳng là nói trăm thứ phiền phức, bực bội tgeo quấy rối than tâm, không dứt bỏ được.



Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng,

Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRĂM TUỔI

Bởi chữ “Bách tuế vi kỳ” trong Kinh Lễ: Nhân thọ dĩ bách tuế vi kỳ  , nghĩa là đời sống của con người lấy trăm tuổi làm kỳ hạn. Chỉ đời người.

Xem: Trăm năm.

Bạn trăm tuổi thân hòa làm một,

Dầu sang hèn xấu tốt cũng duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Trăm tuổi sống chẳng lầm tuổi sống,

Một kiếp sanh chưa trọng kiếp sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Nỗi thương trăm tuổi thương chưa đủ,

Xin hỏi, ai ơi nỡ phụ phàng.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRĂM TRỨNG

Bởi chữ “Bách noãn  ”, tức là một trăm trứng.

Tích Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc gồm trăm cái trứng, nở ra một trăm người con trai. Lạc Long Quân dẫn năm mươi con lên non, Âu Cơ dẫn năm mươi con xuống biển.

Tục truyền dòng dõi ta phát sinh từ một trăm người ấy.



Kết nguyền vừa được năm năm,

Bi hùng điềm ấy sinh trăm trứng rày.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



TRĂNG CHỊ

Dịch từ chữ “Nguyệt tỷ  ”, chỉ nàng tiên trong cung trăng. Do câu thơ của Lý Thương Ẩn: Nguyệt tỷ tằng phùng hạ thái thiềm  , nghĩa là chị nguyệt từng gặp tới cung trăng.



Biết ai mà được nỉ non,

Tối than trăng chị, ngày đon gió dì.

(Truyện Phan Trần).



TRĂNG GIÀ

Bởi chữ “Nguyệt lão  ”, hay “Nguyệt hạ lão nhân  ”, tức là ông già dưới trăng.

Do điển: Vi Cố thấy một ông già ngồi dưới trăng, xem sách, và bên cạnh ông có một cái đãy đựng chỉ đỏ.

Những người có duyên nợ với nhau, được ghi tên họ trong quyển sách, Nguyệt lão mới dùng chỉ hồng buộc chân kết làm vợ chồng.

Xem: Xích thằng.

Trăng già độc địa làm sao,

Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.

(Truyện Kiều).



Trăng già đưa mối tơ vương,

Mới hay con tạo mở đường di duyên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Trêu ngươi chi bấy trăng già,

Sao con chỉ thắm mà ra tơ mành.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



TRĂNG GIÓ

Bởi chữ “Phong nguyệt  ” là gió trăng.

1.- Trăng gió chỉ những người thích cảnh trăng thanh gió mát. Do câu “Bán nang phong nguyệt  ”, tức là nửa túi gió trăng, dùng tả người phong lưu tài tử.

Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,

Non sông dạo khắp lối đêm xuân.

(Đạo Sử).

2.- Trăng gió còn dùng để chỉ sự ăn chơi, tình tự. Phường trăng gió chỉ hạng ăn chơi, đĩ điếm.

Vẩn vơ người ấy phường trăng gió,

Đau đớn lòng ai cuộc bể dâu.

(Huỳnh Thúc Kháng).



TRĂNG HOA

Do chữ Hán “Nguyệt hoa  ” hay “Hoa nguyệt  ” để chỉ việc trai gái ngắm trăng, xem hoa đặng đùa giỡn nhau bất chính.

Trăng hoa thường dùng trong văn chương để nói việc trêu hoa ghẹo nguyệt, về phong tình, về cuộc hội họp trai gái bất chính.

Rằng: Đây về đạo kim thằng,

Trăng hoa sao khéo nói năng những lời.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Niềm âu yếm ai đâu rõ giá,

Vui trăng hoa dối trá là thường.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Dạy cho biết những điều đau đớn,

Của phụ nhân đặng tởn trăng hoa.

(Phương Tu Đại Đạo).


TRĂNG TỦI HOA SẦU

Trăng tủi hoa sầu có nghĩa là nhìn trăng mà tủi thân, nhìn hoa mà sầu não dùng để chỉ người bị cảnh khổ sở, chịu nhiều đày đọa, nhục nhã.



Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu,

Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai.

(Truyện Kiều).



TRÂM ANH 

Trâm: Vật dùng để cài lên tóc, dành cho đàn bà lẫn đàn ông (Ngày xưa đàn ông đều để tóc dài). Anh: Cái dải mũ thả mối hai bên.

Trâm anh là biểu hiệu cho hạng nguời có quan tước áo mũ, dùng để chỉ con nhà quyền quý, hay người thế gia.



Nguyên người quanh quất đâu xa,

Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.

(Truyện Kiều).



Trướng loan trò chuyện đàm hoà,

Đã gương dù ngựa lại nhà trâm anh.

(Hoa Tiên Truyện).



Công danh tuổi ấy đương vừa,

Trâm anh, chung đỉnh dấu nhà sẵn đây.

(Nhị Độ Mai).



Hoàng ngọc điệp của trâm anh,

Tập tánh ôn phu đã tánh thành.

(Đạo Sử).



TRÂM GÃY BÌNH RƠI

Do chữ “Bình trầm trâm chiết  ” nói về việc sắp thành mà bỏ dở, có làm mà cũng như không. Hoặc dùng để chỉ người đẹp bị chết yểu.

Bạch Cư Dị đời Đường có thơ: Bình trầm trâm chiết tri nại hà, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt  , , nghĩa là bình chìm trâm gãy biết làm sao, tựa thiếp sáng nay cùng chàng biệt.

Trong Cổ Nhạc Phủ cũng có câu: Thạch thượng ma ngọc trâm, ngọc trâm dĩ thành trung ương chiết. Tỉnh thượng vãn ngân bình, Ngân bình vị thượng ty thằng tuyệt  , . , , nghĩa là trên đá mài trâm ngọc, trâm ngọc vừa thành bị gãy ở giữa. Trên đá kéo bình bạc, bình bạc chưa lên đến nơi đã bị dây tơ đứt.



Thuyền tình vừa ghé tới nơi,

Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ.

(Truyện Kiều).



Trên lầu cao dưới dòng nước chảy,

Phận đã đành trâm gãy bình rơi.

(Thập Loại Chúng Sinh)

 

TRÂM GÃY GƯƠNG TAN

Trâm và gương là hai vật dùng trong việc trang điểm của phụ nữ, nếu như trâm cài gãy, gương soi vỡ thì chẳng khác như đời người con gái chết đi, tình duyên dang dở.

Do vậy, trâm gãy gương tan ví người đẹp đã chết.

Bây giờ trâm gẫy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

(Truyện Kiều).



TRÂM GIẮT LƯỢC CÀI

Trâm và lược là đồ trang sức của phụ nữ.

Trâm giắt lược cài ý nói người con gái đến tuổi trưởng thành thì cài trâm và giắt lược, chỉ người phụ nữ.

Xem: Lược cài trâm giắt.



Mành mành trâm giắt lược cài,

Lưng hô hổ phách hoa hồng gấm phong.

(Thạch Sanh Lý Thông).



TRÂM HỐT 

Trâm: Vật để cài tóc. Hốt: Cái thẻ ngà của quan cầm để trước ngực. Hốt có đính một gương nhỏ dùng cho các quan soi mặt và ghi chép những điều tâu vua, những lệnh vua truyền.

Trâm hốt dùng để nói những hạng quyền quý.



Bắc nam đôi ngả một nhà,

Nền trâm hốt nếp hào hoa dõi thường.

(Sơ Kính Tân Trang).



Lạm sinh trâm hốt cùng dòng,

Dõi truyền thi lễ quận Đông quê nhà.

(Lưu Nữ Tướng).



TRẦM LUÂN 

Trầm: Chìm. Luân: Chìm đắm (Hoặc Luân : Luân hồi).

Trầm luân là chìm đắm trong vòng sanh tử luân hồi, đau khổ từ đời này qua đời khác, không thể nào thoát ra được.



Đánh liều nhắn một hai lời,

Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.

(Truyện Kiều).



Trầm luân kiếp ấy đã đành,

May ra còn có chút tình xót xa.

(Quan Âm Thị Kính).



Một câu thất đức thiên niên đọa,

Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Chông gai vạch bước thảnh thơi,

Cầm phuơng cứu khổ độ người trầm luân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRẦM NGƯ LẠC NHẠN 

Cá chìm nhạn lạc.

Sách Trang Tử nói sắc đẹp của nàng Vương Tường và Lệ Cơ đẹp đến nỗi con cá thấy phải chìm lặn, con nhạn thấy phải sa xuống.

Trầm ngư lạc nhạn có nghĩa là cá lặn chim sa, ý chỉ người đàn bà rất đẹp.



Thấy nàng thục nữ hình dong,

Trầm ngư lạc nhạn tuyệt vòng trần gian.

(Nữ Tú Tài).



TRÂN CAM 

Trân: Quý giá. Cam: Ngon ngọt.

Trân cam là các loại thức ăn ngon ngọt, quý báu, ý chỉ sự phụng dưỡng cha mẹ.



Sân hoè đôi chút thơ ngây,

Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình.

(Truyện Kiều).



Mặc người cha mẹ dể duôi,

Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRẦN AI 

Trần: Hạt bụi đất. Ai: Loại bụi nhỏ.

Trần ai là chỉ bụi bặm, dùng để nói về sự đau đớn, khổ sở, chỉ về nơi hiểm nghèo.

Ngoài ra còn chỉ về cõi thế gian.

Công tư đôi lẽ đều xong,

Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.

(Truyện Kiều).



Hương trời sá động trần ai,

Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Thường xem khí số biết Thiên Cơ,

Hết kiếp trần ai cõi ở nhờ.

(Đạo Sử).



TRẦN BÌNH 

Trần Bình là người đời Hán, quê ở Dương Vũ, nhà nghèo chăm học, sau về giúp vua Hán Cao Tổ trong việc thu phục thiên hạ, được phong đến chức Tả thừa tướng. Lữ Hậu tiếm quyền, phong tước cho người họ Lữ. Sau khi Lữ Hậu chết, Trần Bình cùng với Chu Bột mưu trừ được tất cả người họ Lữ, lập Hiếu Văn Đế, dựng lại cơ nghiệp họ Lưu.



Thái giám rằng ngươi Trần Bình,

Song còn phụ giá thánh minh ngoài trào.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



Trần Bình nhà bạc cửa thưa,

Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.

(Gia Huấn Ca).



Người Hàn Tín ấy cố nhân,

Trần Bình gã ấy đồng quần bạn chơi.

(Tống Thần Cùng).



TRẦN CẤU 

Trần: Bụi bặm. Cấu: Cáu bẩn, nhớp nhúa.

Trần cấu có hai nghĩa:

1.- Ví với vật nhỏ mọn nhớp nhúa:

Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,

Dám đem trần cấu dựa vào bố kinh.

(Truyện Kiều).

2.- Chỉ bụi bặm dơ bẩn của thế gian:

Trừ trần cấu, xủ phất trần,

Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRẦN DUYÊN 

Trần: Bụi bặm, chỉ cõi đời. Duyên: Dây ràng buộc.

Trần duyên là sợi dây ràng buộc con người với cõi đời, tức là số kiếp.



Nào hay chưa hết trần duyên,

Trong mê dường đã đứng bên một nàng.

(Truyện Kiều).



Cho hay giọt nước cành dương,

Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.

(Truyện Kiều).



Mùi tục lụy đường kia cay đắng,

Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



TRẦN ĐOÀN 

Trần Đoàn biệt hiệu là Hi Di, người đời Tống, tu thành một vị Đại Tiên, có nhiều thần thông biến hoá, ở ẩn trong Hoa Sơn. Tương truyền rằng ông ngủ luôn một giấc đến một trăm ngày mới dậy.



Trần Đoàn chẳng chút lo âu,

Gió trăng một túi công hầu chiêm bao

(Lục Vân Tiên).



TRẦN GIAN 

Trần: Bụi bặm. Gian: Khoảng, cõi.

Trần gian có nghĩa giữa khoảng đời đầy cát bụi, chỉ cõi thế gian. Cõi trần gian khác với cõi tịnh là cõi Tiên, Phật.

Xem: Trần thế.

Rằng: Từ phân cách trần gian,

Mừng nay thầy tớ một tràng hiệp nhau.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Chuyển thân trở lại trần gian,

Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.

(Kinh Sám Hối).



Sắm nghiệp trần gian còn phải khó,

Lựa là nghi trưởng tại Bồng Sơn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Lời vàng nhắn hỏi khách trần gian,

Một nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn.

(Đạo Sử).



Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,

Trốn đau thương xa cảnh trần gian.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRẦN HOÀN 

Trần: Bụi bặm, chỉ thế giới chúng ta đang ở. Hoàn: Khu vực rộng lớn.

Trần hoàn chỉ cõi đời bụi bặm mà con người chúng ta đang ở. Đồng nghĩa với trần gian.



Áo nhung cởi lại Linh san,

Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên.

(Quốc Sử Diễn Ca).

Thoi đưa ảo cảnh hồn như mộng.

Khoá chặt trần hoàn kiếp hữu sinh.

(Thơ Chiêu Lỳ).



Cho hay những khách trần hoàn,

Nghìn xưa ở lại thế gian mấy mà!

(Thơ Tản Đà).



Tại nơi chít mát bóng tùng,

Trần hoàn vì nỗi đau lòng hồng nhan.

(Đạo Sử).



Đạo chồng vợ duyên Trời đã buộc,

Giữa trần hoàn gây cuộc tang thương

(Phương Tu Đại Đạo).



TRẦN LUỴ 

Trần: Bụi, chỉ cõi trần. Lụy: Ràng buộc.

Trần luỵ là những điều ràng buộc ở cõi thế gian, chỉ cõi thế gian.



Mới hay bĩ cực thới lai,

Còn trong trần luỵ biết ai vương hầu.

(Truyện Phan Trần).



TRẦN QUANG KHẢI 

Danh tướng đời nhà Trần. Con thứ ba của vua Trần Thái Tông, tước Chiêu Minh Vương. Ông là người thông minh, học thức rộng, lại giỏi về phép dụng binh.

Trong trận thắng oanh liệt ở Chương Dương độ, ông vào thành Thăng Long mở tiệc khao quân, đã khẩu chiếm nên bài thơ tứ tuyệt: Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Thái bình nghi nỗ lực, Vạn cổ thử Giang san  , . , . Dịch nôm: Chương dương cướp sáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy nghìn thu (Trần Trọng Kim dịch).

Sắc sai Hưng Đạo tổng binh,

Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào.

(Quốc Sử Diễn Ca).



TRẦN QUÂN 

Trần Quân tức là vua Trần Linh Công.

Do tích Hạ Cơ là người con gái rất đẹp, con gái Trịnh Mục Công, thời Xuân Thu, có tính đa dâm. Sau khi goá chồng, bà lấy rất nhiều người, trong đó có Khổng Ninh, Nghi Hành Phủ và vua nước Trần là Linh Công. Sau khi vua Trần chết, Hạ Cơ còn gá nghĩa với Liên Doãn Tương Lão, và nhiều người khác nữa, cuối cùng bà phải trốn sang qua nước Tấn.

Hạ Cơ lớn nhỏ cũng ưa,

Sớm đưa Doãn phủ, tối ngừa Trần Quân.

(Lục Vân Tiên).



TRẦN TÌNH 

Trần: Bụi bặm, chỉ cõi trần. Tình: Tình cảm.

Trần tình là tình cảm của con người ở cõi thế gian.

Theo Phật, trần là cõi uế trược, nên những thứ tình cảm của con người đối xử với nhau nơi cõi ấy cũng xấu xa ô trược. Trong Giáo lý Phật chia tình cảm con người ra làm bảy thứ, gọi là Thất tình: Đó là : Hỷ (mừng), Nộ (giận), Ái (yêu), Ố (ghét), Ai (buồn), Lạc (vui) và Dục (muốn). Xem: Thất tình.

Cửa Tây Phương khá bay đến chốn,

Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu,

(Kinh Tận Độ).



TRẦN TỤC 

Trần: Bụi bặm, chỉ cõi Thế gian. Tục: Thấp kém.

Trần tục là cõi đầy bụi bặm, cõi thấp kém, chỉ cõi thế gian mà con người đang sống.

Xem: Trần thế.

Lánh đường trần tục đến non Tiên,

Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Trần tục là nơi chỗ biển buồn,

Nghe nơi Ðại Ðạo rán nghe luôn

(Đạo Sử).



TRẦN THẾ 

Trần: Bụi bặm, chỉ thế giới chúng ta đang sống. Thế: Đời.

Trần thế là cõi đời nhơ bụi, tức cõi thế gian.



Trong trần thế cảnh nghèo là khổ,

Nỗi sinh nhai khốn khó qua ngày.

(Thơ Tản Đà).



Thân nam tử đứng trong trần thế,

Cuộc trăm năm có dễ ru mà?

(Thơ Tản Đà).



Trần thế hầu gây náo nhiệt trường,

Lánh nguy nguồn Đạo vẹn tìm phương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Ở trần thế phẩm người nhiều hạng,

Phải trí mưu tính toán liệu vừa đôi.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRẬN CƯỜI NGÀN VÀNG

Do câu “Nhất tiếu thiên kim  ” tức một tiếng cười đáng giá ngàn vàng.

Điển tích: Bao Tự là người vợ sủng ái của Châu U Vương, nàng rất đẹp, nhưng luôn luôn ủ dột. Muốn làm vui người đẹp, U vương truyền xuất kho lấy lụa xé cho Bao Tự nghe, mặt nàng hơi tươi chứ không cười. Theo kế Quách Thạch Phủ, U Vương cho đốt Phong Hoả đài, chư hầu khắp nơi thấy hiệu lịnh, tưởng có giặc đánh vào Kinh Đô, liền kéo quân về cứu viện. Đến nơi mới biết mắc lừa, tiu nghĩu kéo quân về. Bao Tự ngồi trên lầu uống rượu cùng với U Vương, thấy vậy cả cười. Về sau, có giặc đánh Kinh Thành thật, U Vương sai người đốt lửa báo hiệu, các chư hầu không đem quân về tiếp cứu. Xem: Bao Tự.

Liếc mắt ngó vào trường phong nguyệt,

Mua trận cười nào tiếc ngàn vàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRẬN NHÀN

Bởi chữ “Nhạn trận  ”, tức là hàng chim nhạn.

Nhạn là một loại du cầm, mình có sắc xám, dưới bụng trắng, mỏ xanh lẫn vàng, cổ và cánh đều dài, chân ngắn. Thường bay cả bầy, xếp thành hàng chữ nhân .

Người ta cho rằng nhạn là loài chim biết trật tự lớn nhỏ, lại có tính chung thuỷ. Một cặp trống mái, nếu một con chết thì con kia ở vậy, chứ không kết đôi với con khác. Vì vậy, trong hôn nhân, người ta lấy nhạn để biểu tượng về nghi lễ như “Lễ điện nhạn”.

Trận nhàn là bầy nhạn bay trên không thành hàng.

Có đêm ngắm bóng trăng tàn,

Tiếng quyên hót sóm, trận nhàn bay khuya.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



TRÂU LỖ 

Trâu: Tên một nước nhỏ thời Xuân Thu, quê hương của Mạnh Tử. Lỗ: Tên một nước chư hầu, quê hương của Khổng Tử.

Trâu Lỗ ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông ngày nay. Cả hai nước chịu sự giáo hoá của Khổng Mạnh, văn học rất hưng thịnh. Trâu Lỗ dùng để chỉ đạo lý Nho gia, văn hoá Khổng Mạnh.

Nam Sử có câu: Trâu Lỗ di phong, anh hiền bất tuyệt  , , tức là nền phong hoá còn lại của Trâu Lỗ, người anh tài, hiền đức không bao giờ hết.

Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học.

Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.

(Thơ Lê Quý Đôn).



TRE TÀN MĂNG MỌC

Cây tre trải qua một thời gian lâu, già đi, rồi tàn, măng lại mọc lên thành cây tre khác, ý nói luật đào thải và sự tiến hoá, tức người già chết đi người trẻ tấn lên.



Tre tàn măng mọc cuộc đời in,

Ðánh lận mưu sâu khá giữ mình.

(Đạo Sử).



TRẺ NGẬM CƠM

Bởi chữ “Hàm bô cổ phúc  ” nghĩa là ngậm cơm vỗ bụng.

Trẻ ngậm cơm, ý muốn nói đời thái bình thạnh trị, dân chúng được no cơm ấm áo.

Xem: Ngậm cơm vỗ bụng.



Già phò gậy đến xem thạnh trị;

Trẻ ngậm cơm mừng gặp thái bình.

(Sãi Vãi).



TRẺ TẠO HOÁ

Bởi chữ “Tạo hoá tiểu nhi  ” tức là trẻ nhỏ tạo hoá, lời nói bỡn gọi ông trời bằng trẻ con.

Đỗ Thẩm Ngôn, đời nhà Đường khi đau nặng, Tống Chi Vấn vào thăm, Đỗ Thẩm Ngôn nói rằng: Ngao ngán thay! Trẻ tạo hoá làm ta nên khổ sở…

Xem: Hoá nhi.



Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,

Chết đuối người trên cạn mà chơi.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



TREO CUNG

Do chữ “Quải cung  ” là treo cung để chỉ việc thôi đánh giặc.

Đường Thi có câu: Phiên hải vô truyền tiễn, Thiên sơn tảo quải cung  , , nghĩa là miền Phiên hải không còn bắn tên chuyền, núi Thiên sơn cũng sớm treo cung.

Nghĩa bóng: Bãi bỏ sự chinh chiến.



Hộ chàng trăm trận nên công,

Buông tên ải Bắc, treo cung non Ðoài.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Non Thiên Sơn mong thuở treo cung,

Sóng Giang Hán chờ ngày rửa mác.

(Thập Giới Cô Hồn).



Cá kình im lặng tăm hơi,

Duềnh Ngân rửa mác, non Đoài treo cung.

(Truyện Phan Trần).



TREO SÁCH TRÊN SỪNG

Bởi câu “Ngưu giác quải thư  ” tức là sừng trâu treo sách.

Do tích: Lý Mật đời nhà Đường, lúc còn hàn vi, nhà nghèo khó, phải đi chăn trâu. Nhưng ông là người siêng năng học tập, hằng ngày đuổi trâu ra đồng, túi sách treo trên sừng, mình ngồi lưng trâu đọc sách. Sau đỗ đạt, lập nên sự nghiệp.

Xem: Lý Mật.



Lý Sinh chẳng quản công phu,

Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.

(Gia Huấn Ca).



TRÊN DÂU DƯỚI BỘC

Do chữ “Tang gian Bộc thượng  ” có nghĩa trong đám dâu trên bờ sông Bộc, là những nơi kín đáo, theo Kinh thi nói trai gái nước Trịnh và nước Vệ thường hay hẹn hò, tư tình nhau ở nơi đó.

Nghĩa bóng: Chỉ sự dâm bôn.

Xem: Bộc thượng tang gian.



Đừng ham thói trên dâu dưới bộc,

Muốn yêu nhau đừng học chước khi nhau.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRÊN BỘC TRONG DÂU

Trong Kinh Lễ có câu: Tang Gian bộc thượng chi âm, vong quốc chi âm dã  , , nghĩa là tiếng hát ở Tang Gian, một nơi trên bờ sông Bộc phát ra là tiếng hát, đó là tiếng hát mất nước.

Ngày xưa, Sư Diên đặt ra một khúc hát, lời lẽ uỷ mỵ, thường đàn cho vua Trụ nghe. Sau đó, Sư Diên trầm mình trên sông Bộc. Một người khác tên là Sư Quyên, có dịp đi ngang qua nơi đó, ban đêm nghe văng vẳng tiếng hát, trở về phổ lại thành bản nhạc.

Ra tuồng trên Bộc trong dâu,

Thì con người ấy ai cầu làm chi.

(Truyện Kiều)



Thể lòng dãi bến Hà châu,

Đợi nhau trên Bộc trong dâu ru mà.

(Hoa Tiên Truyện).



TRI ÂM 

Tri: Biết. Âm: Tiếng, âm nhạc.

Tri âm là hiểu được tiếng đàn.

Do sách Liệt Tử chép: Bá Nha là người giỏi đàn, Chung Tử Kỳ là người sành nghe đàn, biết thưởng thức tiếng đàn của Bá Nha. Khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập vở đàn, vì cho rằng không ai còn hiểu nổi tiếng đàn của mình nữa.

Nghĩa bóng: Tri âm chỉ tình bạn thân thiết.

Xem: Bá Nha Tử Kỳ.

Thưa rằng nay gặp tri âm,

Xin đưa một vật để cầm làm tin.

(Lục Vân Tiên).



Thơ rồi lại khảy đàn cầm,

Như tuồng mừng bạn tri âm tới nhà.

(Dương Từ Hà Mậu).



Tri âm chẳng gặp tri âm,

Để ai mong đứng mong nằm, sầu riêng.

(Quan Âm Thị Kính).



Ðờn hay vì có kẻ tri âm,

Dựa bệ không ai cũng tủi thầm.

(Đạo Sử).



Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các,

Xót bạn tri âm cõi dạ đài.

(Đạo Sử).



Tri âm ví đáng dây cầm nguyệt,

Đừng đem tình chí thiết giao hoan.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRI HUYỆN 

Tri: Biết. Huyện: Một phần đất của tỉnh.

Theo tổ chức hành chánh của triều đình thời xưa, mỗi tỉnh chia ra nhiều phủ và huyện. Tri Huyện là một chức quan được cai quản một huyện.



Mai công Tri huyện Lịch thành,

Gương trung sáng vặc, túi thanh nhẹ bồng.

(Nhị Độ Mai).



Phút đâu trời đã hừng đông,

Đòi quan Tri huyện, hỏi trong dân tình.

(Dương Từ Hà Mậu).



Tri huyện lâu nay giá rẻ mà,

Ví vào tay tớ quyết không tha.

(Thơ Trần Tế Xương).



TRI KỶ 

Tri: Biết. Kỷ: Mình.

Tri kỷ tức là người biết rõ về mình, chỉ tình bạn.

Người ta cho rằng Quản Trọng và Bảo Thúc Nha là hai người bạn tri kỷ. Bởi vì Bảo Thúc Nha rất hiểu về Quản Trọng: Khi chia của, Quản Trọng lấy phần hơn, Thúc Nha không cho là tham, mà biết là vì Quản Trọng nghèo. Mưu tính công việc, gặp lúc khôn cùng, Thúc Nha không cho Quản Trọng là ngu mà biết đó là thời chưa có lợi. Ba lần ra làm quan, ba lần bỏ chức mà về, Thúc Nha không cho Quản Trọng là bất tài, mà cho rằng Quản Trọng chưa gặp thời. Ba lần ra trận ba lần lui lại đằng sau, Thúc Nha không cho là hèn nhát mà biết Quản Trọng còn có mẹ già phải phụng dưỡng.

Vì vậy, người đời cho Quản Trọng và Bảo Thúc Nha là đôi tri kỷ.



Nghe lời vừa ý gật đầu,

Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người!

(Truyện Kiều).



Vui thay một lá khinh thuyền,

Kết người tri kỷ dạo miền hồ san.

(Bất Phong Lưu Truyện).



TRI NHÂN TRI DIỆN 

Biết người biết mặt, tức có ý muốn nói chỉ biết được cái bề ngoài.

Do câu ngạn ngữ Trung Hoa: Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm  , , nghĩa là vẽ cọp vẽ da, khó vẽ xương, biết người biết mặt, khó biết lòng.

Thế gian hoạ hổ hoạ bì,

Tri nhân tri diện ai thì tri tâm.

(Nữ Tú Tài).



TRI THIÊN 

Tức tri thiên mệnh là biết được mệnh trời.

Do câu nói của Đức Khổng Tử: Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng  , , , nghĩa là con người, ba mươi tuổi thì lập, bốn mươi tuổi thì không còn nghi ngờ, lầm lẫn nữa, năm mươi tuổi thì biết mệnh trời.

Tri thiên chỉ quá năm mươi tuổi.



Hai mai tuyết điểm đã ngần,

Trên vai bất hoặc, dưới tuần tri thiên.

(Song Tinh Bất Dạ).



Thiên tử đà tác quá tri thiên,

Thứ Hậu hỡi nhâm thần kết tử.

(Nhạc Hoa Linh).



Thôi gần hết kiếp còn gì,

Co tay đếm tuổi quá kỳ tri thiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRÍ QUÂN 

Theo truyền thuyết Nghiêu, Thuấn là hai vị vua hiền đức, trị dân được thái bình thịnh trị.

“Trí quân” là do bởi câu “Trí quân Nghiêu Thuấn  ” nghĩa là giúp vua trở nên hiền đức như đời vua Nghiêu, Thuấn.

Đã cam chút phận dở dang,

Trí quân” hai chữ mơ màng năm canh.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

TRÍ THUỶ NHÂN SƠN 

Nước trí non nhân, nói cảnh sông núi mà người có trí có nhân ưa chuộng.



Trí thuỷ: Người tài trí ưa nước. Nhân sơn: Người nhân thích núi.

Do trong Luận Ngữ chép: Trí giả nhạo thuỷ, nhân giả nhạo sơn  , , nghĩa là người trí chuộng nước, người nhân thích núi.



Mượn màu trí thuỷ nhân sơn,

Tiêu dao ngày tháng thanh nhàn cho qua.

(Truyện Trinh Thử).



TRÍ THỨC 

Trí: Hiểu biết sự vật. Thức: Biết.

Trí thức sự hiểu biết rộng rãi. Trí thức này khác với trí tuệ. Trí thức là trí thông minh bình thường dùng trong các sự học hỏi, suy luận hiểu biết trong đời sống hàng ngày. Còn trí tuệ là sự chứng ngộ chân lý vạn hữu, là sự nhận thức sáng tỏ về thực tại sau khi mọi phiền não, vô minh được diệt trừ.



Không sâu trí thức hiếu hơn người,

Nếu chẳng mắt Thầy hỏi có ngươi.

(Đạo Sử).



Giồi trí thức tinh thần đẹp đẽ,

Trau tài ba vẹn vẻ anh thư.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Hễ có thân âu biết thương thân,

Lấy trí thức định phân cho cạn.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRÌ DIÊN 

Trì: Chậm chạp. Diên: Kéo dài.

Trì diên có nghĩa là chậm chạp, để kéo dài thời gian ra.



Lại truyền không được trì diên,

Trong hai ngày hạn xe tiên lên đường,

(Nhị Độ Mai).



TRĨ XẬP XOÈ

Chim trĩ là loại chim thường kết đôi lứa trống mái, không tham chạ như gà vịt, vì vậy trên áo bà Hoàng Hậu thường thêu hình chim trĩ lông ngũ sắc, tỏ ý là người trinh chính.

Đời Tề Tuyên Vương có người xử sĩ ở ẩn đã năm mươi tuổi rồi không có vợ, một hôm đi hái củi sớm, thấy đôi chim trĩ bay với nhau, bèn đặt bài hát “Trĩ triêu phi  ” để tỏ nỗi lẻ loi của mình.

Non Ðông thấy lá hầu chất đống,

Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



TRÍCH TIÊN 

Hay “Trích tử 謫子”, tức người bị đày.



Trích: Quan bị đày. Tiên: Tiên (Thánh).

Trích tiên là vị tiên ở trên Thượng giới bị đày xuống nhân gian.

Đời nhà Đường thi sĩ Hạ Tri Chương mới gặp Lý Bạch đã tặng ngay cái mỹ hiệu “Thiên thượng trích tiên nhân  ” nghĩa là ông tiên bị đày xuống trần. Chỉ thi sĩ Lý Bạch.

1.-Chỉ tiên bị đày:



Bổ di còn chuyện trích tiên,

Có người họ Chử ở miền Khoái châu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Lắc bầu rượu dốc nghiêng non nước lại,

chén tiểu đàm mời mọc trích tiên.

(Tài Tử Đa Cùng Phú).



Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống,

Theo đường không khí về trần ai!

(Thơ Tản Đà).

2.- Chỉ Lý Bạch:

Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,

Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.

(Đạo Sử).

 

TRIÊM NHU 

Triêm: Thấm vào. Nhu: Ướt.

Triêm nhu tức là nước ướt một cách đầm thấm. Ý chỉ ơn trên ban khắp như mưa móc thấm nhuần cây cỏ.



Qua Canh Tuất lại tưới cơn thời vũ,

cỏ cây đều đội đức triêm nhu.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



TRIỀN BƯNG

Triền: Đất có bờ dốc thoai thoải xuống. Bưng: Vùng đồng lầy ngập nước có nhiều cỏ lác.

Triền bưng là chỉ những đám ruộng đất cao hay đầm lầy mà người nông dân gọi là ruộng triền hoặc ruộng bưng.



Kìa nhịp cầu bên đầu khe nhỏ,

Đông chòm cây, Tây có triền bưng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRIÊU MỘ 

Triêu: Buổi mai. Mộ: Buổi tối.

Buổi mai và buổi tối.

Trong các ngôi chùa, khi công phu thường đánh chuông vào buổi sáng và buổi tối mỗi ngày.

Ba hồi triêu mộ chuông gầm sống,

Một vũng tang thương nước lộn trời.

(Thơ bà Huyện Thanh Quan).



TRIÊU TAM MỘ TỨ 

Sáng ba chiều bốn.

Ông Liệt Tử cho rằng những kẻ có nhiều mưu trí thường hay dối gạt người. Ông gọi đó là “Dĩ thuật ngu nhân , tức là mưu chước để dối gạt người.

Trong sách ông kể lại câu chuyện ông Thư Công, người đời Tống, có nuôi một bầy vượn. Mỗi ngày khẩu phần ăn là sáng ba chiều bốn. Các con vượn giận, làm reo không ăn. Ông đến nói: Nếu các ngươi không chịu khẩu phần là sáng ba chiều bốn, thôi thì ta tăng khẩu phần ăn cho là sáng bốn chiều ba, các ngươi chịu không? Bấy giờ vượn vui vẻ ưng thuận.



TRIÊU VÂN 

Bởi câu “Triêu vân mộ vũ  ” tức buổi mai làm mây, buổi tối làm mưa.

Do điển: Núi Vu Giáp tiếp liền với núi Vu Sơn. Dưới chân núi Vu Giáp có miếu Thần nữ.

Vua Sở Tương Vương đến chơi ở Cao Đường, nằm mộng thấy một thiếu nữ cùng vua chăn gối. Vua hỏi thì nàng ấy nói: Thiếp là Thần nữ núi Vu Sơn có nhiệm vụ sáng làm mây, tối làm mưa (Triêu vân mộ vũ). Nghĩa bóng: Chỉ việc trai gái chung chạ nhau.



Xa so Phi Yến triêu vân,

Biện Cầm nhường lửa Thái Tần kém đôi.

(Sơ Kính Tân Trang).



TRIỆU BÍCH VỀ TẦN

Triệu bích là viên ngọc bích nước Triệu, tức là ngọc Biện hoà.

Vua Chiêu Vương nước Tần nghe Triệu có một viên ngọc quý, xin đem mười lăm thành đổi lấy viên ngọc bích ấy. Vua Triệu bằng lòng, bèn sai Lạn Tương Như mang ngọc bích sang Tần.

Tương Như thấy vua Chiêu Vương không có thiện chí giao thành, nên lập mưu lừa vua Tần, lấy viên ngọc trở lại, không để cho Triệu bích về Tần.



Một hai ngăn đón hành trần,

Để cho Triệu bích về Tần sao nên.

(Quốc Sử diễn Ca).



TRIỆU BIỆN 

Triệu Biện, tự là Duyệt Đạo, là người Tây An, đời nhà Tống, đỗ Tiến sĩ, làm đến chức quan Ngự sử. Tánh cương trực, mỗi khi đàn hặc không sợ kẻ quyền thế, nên người đương thời gọi ông là Thiết diện Ngự sử (Ngự sử mặt sắt). Lúc làm quan đất Ích Châu, đất Thành Đô, ở đâu, ông chỉ đem theo một cây đàn và một con chim hạc. Ông rất được dân chúng yêu mến.



Giá cầm hạc so vào Triệu Biện,

Thơ phụng hoàng đưa đến Mao Khanh.

(Tự Tình Khúc).



TRIỆU PHI YẾN 

Triệu Phi Yến là vợ vua Hán Thành Đế, có sắc đẹp và giỏi về ca vũ từ ngày còn nhỏ. Khi vua vi hành gặp được nàng, lấy làm ưa thích, đòi cả hai chị em vào cung, đều phong làm Tiếp dư. Phi Yến được vua sủng ái, phế Hứa Hoàng hậu để phong Phi Yến thế vào địa vị ấy. Hai chi em Phi Yến nắm quyền hành trong cung hơn mười năm, đêm ngày mê hoặc nhà vua, khiến vua bị bạo bịnh mà chết.

Ai Đế lên ngôi tôn Triệu Phi Yến lên làm Hoàng Thái hậu. Sau, Bình Đế lên ngôi, phế Phi Yến làm thứ dân, bà buồn rầu rồi tự sát.

TRIỆU QUANG PHỤC 

Triệu Quang Phục là con của quan Thái phó Triệu Túc, người ở Châu Diên , Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, theo cha giúp Lý Nam Đế lập được nhiều công, nay đem quân chống cự với nhà Lương (Trung Quốc) được ít lâu, rồi thấy thế quân Tàu còn mạnh, địch không nổi, bèn rút quân về Dạ Trạch. Dạ Trạch là chỗ đồng lầy, chung quanh cỏ mọc như rừng, ở giữa có bãi cát làm nhà ở được.Triệu Quang Phục vào ở đất này núp ẩn, tối thì cho lính chở thuyền độc mộc ra đánh quân của Trần Bá Tiên, cướp lấy lương thực về nuôi quân sĩ. Trần Bá Tiên đánh mãi không được. Người thời bấy giờ gọi Triệu Quang Phục là “Dạ Trạch Vương”.



Lý vương phút trở xe rồng,

Triệu Quang Phục mới chuyên lòng kinh doanh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



TRIỆU TỬ 

Triệu Tử hay Triệu Tử Long tên là Vân, người đời Tam Quốc, theo phò Lưu Bị nhà Thục. Ông là một trong năm tướng tài của Lưu Bị, lập được nhiều công lớn. Xem: Triệu Vân.



Vân Tiên tả đột hữu xông,

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương.

(Lục Vân Tiên).



TRIỆU VÂN 

Triệu Vân tự là Tử Long, người đất Thường Sơn nhà Thục, là một dũng tướng đời Tam Quốc, theo phò Lưu Bị. Ông đạt được đầu công trong việc phò ấu chúa A Đẩu, đánh phá vòng vây tại trận Đương Dương.

Xem: Triệu Tử.

Ðạt đầu công có gã Triệu Vân,

Tá Thục trong khi lớn sức Thần.

(Đạo Sử).



TRINH BẠCH 

Trinh: Trinh tiết. Bạch: Trắng.

Trinh bạch là chỉ người đàn bà con gái giữ gìn trinh tiết trong trắng.



Thân lươn bao quản lấm đầu,

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!

(Truyện Kiều).



Luân thường quyết gánh lấy mình,

Treo gương trinh bạch rành rành cho coi.

(Hoa Tiên Truyện).



TRINH LIỆT 

Trinh: Trung trinh, lòng ngay thẳng. Liệt: Cứng cỏi, không khuất phục.

Trinh liệt là một lòng ngay thẳng, trung thành với vua với nước, hoặc đàn bà giữ lòng trong trắng, ngay thẳng với chồng.



Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,

Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.

(Kinh Sám Hối).



TRINH TIẾT 

Trinh: Con gái còn trong trắng, hoặc người đàn bà chỉ theo một người chồng cho đến trọn đời. Tiết: Giữ vững lòng ngay thẳng.

Trinh tiết là sự giữ gìn trong trắng của người đàn bà và con gái.



Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,

Có chồng còn lại ngoại tình với trai.

(Kinh Sám Hối).



Mây gió đành thân đem chứa giọt,

Ngàn năm trinh tiết phận yêu đào.

(Đạo Sử).



Đóng chặt cửa giữ nguyên trinh tiết,

Trọng thân danh bền nét đào yêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Chữ trinh tiết dạy đừng để thiếu,

Phải phận dâu phải điệu vợ chồng.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRÌNH CHU 

Trình: Hai anh em nhà họ Trình, là Trình Hạo và Trình Di. Chu: Chu Đôn Hy.

Ba danh Nho đời Tống là anh em Trình Hạo, Trình Di cùng với thầy là Chu Đôn Hy được người đương thời gọi chung là “Trình Chu”.



Cựa đuôi kình vượt bể Trình Chu,

tài bay nhảy ngại chi lao khổ.

(Tài Tử Đa Cùng Phú).



TRÌNH MÔN 

Trình: Họ Trình, chỉ hai anh em Trình Di, Trình Hạo đời nhà Tống. Môn: Cửa.

Trình môn là cửa Trình, đồng nghĩa với “Sân Trình”, chỉ trường học Nho thời xưa.

Xem: Sân Trình.

Trình môn đã muốn ít câu văn,

Chải chuốt mép môi cũng gọi rằng.

(Đạo Sử).



TRONG DÂU HẸN HÒ

Hẹn hò trong bãi dâu, chỉ thói dâm bôn.

Do Kinh Thi nói về nước Trịnh có phong tục xấu, trai gái thường hay dâm loạn nơi ruộng dâu hay bên bờ sông Bộc. Xem: Thói Trịnh.

Sắt cầm bỗng dở dang nhau,

Say đâu với đứa trong dâu hẹn hò.

(Quan Âm Thị Kính).



TRONG DƯA DƯỚI MẬN

Trong dưa dưới mận dùng để chỉ sự hiềm nghi, khiến người ta ngờ vực.

Do câu: Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan  , , nghĩa là ruộng dưa không xỏ giầy, dưới mận không sửa mũ, để phòng sự ngờ vực bẻ trộm dưa, hái trộm mận.

Tuyên phi học thói buông mành,

Trong dưa dưới mận nhân tình đều nghi.

(Quốc Sử Diễn Ca).



TRONG GIÁ TRẮNG NGẦN

Trong như băng giá, trắng như màu bạc. Dịch từ câu: Thanh như băng tuyết, bạch như ngân  , , dùng để chỉ sự trong trắng như băng tuyết.



Tiếc thay trong giá trắng ngần,

Đến phong trần cũng phong trần như ai.

(Truyện Kiều).



TRONG HANG VẮNG TIẾNG

Trong hang vắng tiếng tức là trong hang vắng vẻ không có âm thanh. Ý nói đừng nghĩ rằng nơi kín đáo không ai hay biết.



Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng.

Mà dể duôi sanh biến lăng loàn,

(Kinh Sám Hối).



TRONG SÁCH LÀ DUYÊN

Bởi lấy ý trong câu chữ “Thú thê mạc hận vô lương môi, thư trung hữu nữ nhan như ngọc  , , nghĩa là lấy vợ đừng lo sợ không mối tốt, trong sách có gái đẹp như ngọc.

Trong sách là duyên ý muốn khuyên cố gắng đọc sách, học hành, khi nên danh phận thì duyên lành chẳng thiếu chi.

Đã người trong sách là duyên,

Mấy thu hạt ngọc Lam Điền chưa giâm.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



TRỌNG DO 

Tức là Tử Lộ, họ Trọng, tên Do, người đời Xuân Thu, học trò Đức Khổng Tử. Ông là người nghèo, nhưng rất có hiếu, thường đổi gạo để kiếm tiền nuôi mẹ. Tử Lộ được xếp vào một trong nhị thập tứ hiếu (Tức hai mươi bốn người con hiếu thảo).

Xem: Tử Lộ.

Áo Trọng Do bạc thếch,

giãi xuân thu cho đượm sắc cần lao,

(Tài Tử Đa Cùng Phú).



TRỌNG NI 

Trọng: Bậc con thứ nhì (Mạnh, trọng, quý). Ni: Tức núi Ni Sơn ở nước Lỗ, tỉnh Sơn Đông, mà mẹ Khổng Tử đã lên cầu tự trên núi ấy.

Khổng Tử tên là Khưu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, đời nhà Châu. Ngài là tổ của Nho giáo, soạn ngũ kinh: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu và Kinh Dịch, học trò có hơn ba ngàn người.

Ngài là người có đức độ, nên được người đời gọi là Tố Vương.

Ngỡ là chuông vua Hạ Võ chiêu hiền;

Ngỡ là đạc đức Trọng Ni thiết giáo.

(Sãi Vãi).



TRỌNG NI NHẬN VI SƯ HẠNG THÁC

Tức Khổng Tử nhận Hạng Thác là thầy.

Quốc Sách cho rằng Hạng Thác là một thần đồng trong thời Xuân Thu, mới bảy tuổi đã làm thầy Đức Khổng Tử.

Khi Khổng Tử qua nước Trần, gặp Hạng Thác đang ngồi đắp một cái thành bằng đất ở giữa đường. Xe Khổng Tử đến vẫn không tránh, Khổng Tử bảo: Sao cậu không tránh xe? Cậu bé thản nhiên đáp: Xưa nay xe tránh thành chứ thành nào có tránh xe.

Nghe xong Khổng Tử phục đứa bé, bèn xuống xe, cùng cậu bé đàm luận. Hạng Thác đặt nhiều điều hỏi Khổng Tử, khiến ông chịu thua, phải nhận Hạng thác làm thầy.

Trọng Ni nhận vi sư Hạng Thác,

Học tinh thần khai phát Nho tông.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI 

Trọng nghĩa: Coi trọng việc làm phải. Khinh tài: Xem nhẹ tiền của.

Trọng nghĩa khinh tài là quý trọng đường nghĩa, xem nhẹ tiền tài.

Sách Ngự Loại có câu: Quân tử sở trọng giả đạo nghĩa, cố thị kim ngọc như hồng mao  , , nghĩa là người quân tử trọng điều đạo nghĩa, nên xem vàng ngọc nhẹ như lông hồng.

Chiếc thoa nào của mấy mươi,

Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao?

(Truyện Kiều).



Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,

Nào ai chịu lấy của ai làm gì?

(Lục Vân Tiên).



TRỌNG TÀI KHINH NGHĨA 

Hay “Trượng tài khinh nghĩa”.



Trọng tài: Coi trọng tiền bạc. Khinh nghĩa: Khinh khi việc làm phải.

Trọng tài khinh nghĩa là nói hạng người chỉ biết tiền tài, coi nhẹ về hành vi nhơn nghĩa.

Xem: Trọng nghĩa khinh tài.

Trượng tài khinh nghĩa đã bao phen,

Làm mất số sang chịu khó hèn.

(Đạo Sử).



TRỌNG TIẾT 

Hay “Trượng tiết”.



Trọng: Coi trọng, coi nặng. Tiết: Khí tiết, lòng dạ ngay thẳng cứng cỏi.

Trọng tiết hay trượng tiết là coi trọng cái khí tiết hay tiết hạnh của con người.



Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,

Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.

(Kinh Sám Hối).



TRỌNG TƯƠNG 

Trọng Tương là tên một nhân vật trong tác phẩm “Trọng Tương Vấn Hớn  ”, một quyển sách khuyết danh, nói về tiền căn báo hậu kiếp kể từ thời Tây Hớn cho đến đời Tam Quốc.

Sách kể rằng: Trọng Tương, họ là Tư Mã, ở tại quận Ích Châu, đời vua Hớn Linh Đế, nhà tuy nghèo nhưng là người thông minh, học giỏi, có lên kinh ứng thí chẳng may bị đánh rớt, khi trở về quê nhà cha mẹ lại mất. Ông là người con có hiếu, nên rất xót thương cha mẹ, bèn cất một cái lều bên phần mộ để cư tang.

Thường ngày vì nỗi thương nhớ cha mẹ, uất ức vì học tài thi mạng, cùng chứng kiến những cảnh khổ sở, oan ức mà bọn gian thần trong triều đình gây ra khiến người dân phải gánh chịu, làm cho Trọng Tương u uất, bèn làm một bài thơ có ý trách trời đất không công bình. Vì vậy, mắc tội phạm thượng với Thiên đình, bị bắt hồn về cõi Diêm cung vấn tội. Khi xuống Phong Đô, Trọng Tương xin ngồi ghế Diêm Vương xử tội. Vua Thập Điên bằng lòng.

Trọng Tương bèn xử: Tiền căn báo hậu kiếp, như Bành Việt cho đầu thai làm Lưu Bị, Hạng Võ làm Quan Công, Phàn Khoái làm Trương Phi, Anh Bố làm Ngô Tôn Quyền, Hàn Tín làm Tào Tháo, Lưu Bang làm Hán Đế, Hạng Sư làm Nhan Lương, Hạng Bá làm Văn Xủ…

Ta thấy Hàn Tín có công lớn với nhà Thục, đã không được hưởng, thế mà Lưu Bang còn buộc tội tru di tam tộc, nên kiếp sau, vào đời Tam Quốc, Hàn Tín đầu kiếp làm Tào Tháo, Lưu Bang làm Hán Đế để Tào Tháo bức hiếp, rồi soán ngôi nhà Hán, báo thù cho kiếp trước.

Tác phẩm “Trọng Tương vấn Hớn” tuy do trí tưởng tượng đặt ra, nhưng khéo liên kết để thành một câu chuyện giống như thật, nói về luân hồi quả báo để khuyên người làm lành, Phạt kẻ hung ác.

Trọng Tương thuở trước chết đi,

Hoàn hồn thuật lại sự thì phân minh.

(Hứa Sử Tân Truyện).



TRỌNG THUỶ MỴ CHÂU

Do điển “Trọng Thuỷ Mỵ Châu”.

Thục Phán chiếm được Văn Lang rồi lên ngôi, đổi tên là Âu Lạc, xưng hiệu An Dương Vương, chọn đất Phong Khê, nay là Phúc Yên để xây thành Cổ Loa. Khi xây Cổ Loa thành, An Dương Vương nhờ thần Kim Quy giúp đỡ và cho một cái móng chân để làm chiếc nỏ thần, lúc nào có giặc đem ra bắn, một phát có thể giết hàng vạn quân.

Tướng nhà Tần là Triệu Đà sang đánh Âu Lạc, nhờ chiếc nỏ thần nên không thắng được, phải giao hoà và xin cầu hôn Mỵ Châu, con gái An Dương Vương cho con là Trọng Thuỷ.

Trọng Thuỷ tuy yêu thương vợ, nhưng theo lệnh cha, dỗ dành Mỵ Châu để lén tráo lấy nỏ thần. Sau đó chàng xin phép An Dương Vương về thăm nhà và đem nỏ thần về nước, chàng đến từ giả vợ nói: Tôi về thăm nhà, nếu chẳng may có chiến tranh thì làm thế nào để tìm nhau. Mỵ Châu đáp: Nếu có giặc, khi ra khỏi Loa Thành thiếp sẽ mặc theo chiếc áo lông ngỗng, hễ chạy về đâu, sẽ lấy lông ngỗng ấy mà rắc dọc đường, chàng sẽ theo dấu lông ngỗng mà tìm nhau.

Lấy được nỏ thần, Triệu Đà bèn phát binh đánh thắng được Âu Lạc. An Dương Vương mới chở Mỵ Châu chạy về phương nam, đến núi Mộ Dạ, bây giờ thuộc tỉnh Nghệ An, sát bờ biển, thấy sau lưng quân giặc đuổi theo rất gấp. Đang lúc lo lắng thì thần Kim Quy hiện lên khỏi mặt nước và nói: Giặc ngồi sau lưng đấy. Bấy giờ An Dương Vương mới hiểu sự tình, tức là biết Mỵ Châu rải lông ngỗng dọc đường để quân Trọng Thuỷ đuổi theo, ông tức giận rút gươm ra chém chết Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biển mà tự tận.



Rằng: Xưa Trọng Thủy, Mỵ Châu,

Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.

(Quốc Sử diễn Ca).



TRỌNG THƯ 

Tức là Đổng Trọng Thư, người Quảng Xuyên đời Hán. Lúc tuổi trẻ chuyên học kinh Xuân Thu. Đời Cảnh Đế, ông làm chức Bác sĩ, buông màn ngồi đọc sách và giảng sách, học trò ngồi ngoài rèm học tập, có thể không bao giờ thấy mặt. Ông học rất tinh cần, có khi ba năm không ra vườn ngắm. Ông thực tiễn những điều lễ nghĩa. Vì vậy, học giả đương thời đều tôn kính ông là thầy. Xem: Đổng Tử.



Đèn Mông Chính canh khuya một ngọn,

Màn Trọng Thư năm trọn nửa vây.

(Tự Tình Khúc).



TRÔI HOA GIẠT BÈO

Hoa bị nước cuốn trôi, bèo bị sóng đưa giạt. Ý chỉ thân phận người đàn bà con gái bị lưu lạc, lênh đênh, không biết đâu mà dừng lại.



Rằng: Tôi trót quá chân ra,

Để cho đến nỗi trôi hoa giạt bèo.

(Truyện Kiều).



Tiếc thay trong ngọc trắng ngà,

Nỡ hoài chi để trôi hoa, giạt bèo.

(Hoa Tiên Truyện).



Lục ông nói lại cùng cha,

Duyên con rày đã trôi hoa giạt bèo.

(Lục Vân Tiên).



TRỘM HƯƠNG CẮP PHẤN

Dịch từ câu “Thâu hương thiết phấn  ”, tức là ăn cắp hương phấn cho người. Ý muốn nói hành động bất chính, vụng trộm của trai gái, tư tình với người ngoài.

Do điển: Con gái của Giả Sùng đời nhà Tần mê một chàng đẹp trai là Hàn Thọ, rồi lén trộm hương phấn quý hiếm của nhà vua ban, đem cho người tình ấy.

Xem: Thâu Hương.



Công cô rằng: Bảo cho hay,

Trộm hương cắp phấn cũng đầy chan chan.

(Quan Âm Thị Kính).



TRỘM NÉN HƯƠNG

Như thành ngữ “Trộm hương cắp phấn”, ý nói việc trai gái thầm lén, vụng trộm yêu nhau.

Do điển Hàn Thọ và người con gái của Giả Sung vụng trộm yêu nhau. Con gái Giả Sung trộm nén hương do vua ban cho cha, để lén tặng Hàn Thọ.

Xem: Thâu hương.



Không lẽ nói mến anh quên én,

Không lẽ rằng trộm nén hương thừa.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRỐNG GÔNG

Trống: Cái cùm để khóa chơn người có tội. Gông: Một tấm gỗ nặng có khoét lỗ dùng để tròng vào cổ và tay người có tội.

Trống gông là những thứ hình cụ dùng để xiềng xích, trăn trói tội nhân thời xưa.

Xem: Gông trống.

Trống gông nô lệ sao ham muốn?

Hình bóng quan viên xúm giựt giành.

(Đạo Sử).



TRỐNG THÔI HOA

Bởi chữ “Thôi hoa cổ  ”.

Trống thúc giục cho hoa nở.

Sách Khai Nguyên Dị Sự chép: Vua Đường Minh Hoàng vào buổi sáng tháng hai, dạo vườn Thượng uyển, bảo Cao Lực Sĩ lấy cái trống Yết cổ (Trống có một mặt), vua ngự vào Bình Đài nổi trống lên, tấu một khúc nhạc, gọi là bài “Xuân Quang hảo” (Ánh xuân đẹp). Tấu xong, bảo Cao Lực sĩ đi xem hoa kiểng, thì thấy cây liễu hạnh đều nức hoa. Vua cười bảo mọi người “Các ngươi chẳng đáng gọi ta là Thiên tử ư!”.



Chòm cỏ mọc lơ thơ bên nọ miếu,

Trống thôi hoa chia rẽ Lan Do.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



TRỞ ĐẬU QUÂN CƠ 

Trở Đậu: Ngăn trở cho dừng lại. Quân cơ: Guồng máy của quân đội.

Trở đậu quân cơ là ngăn trở trong mọi hoạt động của quân đội hay chậm trễ việc quân.



Bá Cao với lại Đông Sơ,

Tội làm trở đậu quân cơ bấy giờ.

(Nhị Độ Mai).

TRỞ GÓT GIẦY

Bởi chữ “Đảo lý xuất nghinh  ” tức đi ngược giầy ra đón.

Do tích: Thái Ung, tự là Bá Hài, đời Đông Hán là người có danh vọng trong triều đình, nhà lúc nào cũng đông tân khách. Một hôm có người bạn là Vương Xán đến chơi, Thái Ung vội vàng mang ngược giầy ra tiếp đón. Ý nói cử chỉ ân cần, niềm nở, vội vàng ra tiếp đón khách quý.

Vội vàng bèn trở gót giầy,

Mối rằng nương tử vào ngay trong phòng.

(Nữ Tú Tài).



TRỢ LỊNH 

Trợ: Giúp đỡ. Lịnh: Mệnh lệnh.

Trợ lịnh là giúp đỡ thi hành các mệnh lệnh.



Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,

Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.

(Kinh Tận Độ).



TRỢ NGUY TẾ HIỂM 

Trợ nguy: Phò trợ việc nguy cho người. Tế hiểm: Giúp đỡ người thoát điều hiểm.

Trợ nguy tế hiểm là phò trợ, giúp đỡ người gặp điều nguy hiểm.



Trợ nguy tế hiểm con ra sức,

Ðạo đức chung lo trọn tấc lòng.

(Đạo Sử).



TRỢ NHƯỢC PHÒ NGUY 

Trợ nhược: Giúp cho kẻ yếu đuối. Phò nguy: Cứu kẻ gặp cơn nguy.

Trợ nhược phò nguy ý nói cứu giúp người yếu đuối, cô thế thoát khỏi cơn nguy.



Tưởng cơn trợ nhược phò nguy

Việc trong nhà nước bỏ đi sao đành!

(Hứa Sử Tân Truyện).



TRỜI CAO BỂ RỘNG

Bởi câu “Thiên cao hải khoát  ”.

Trời cao bể rộng là trời biển bao la, còn dùng để ví với những gì to lớn, cao rộng

Trời cao bể rộng bao la,

Việc gì mà chẳng phải là việc ta.

(Thanh Hoá Quan Phong).



TRỜI CŨNG CÓ TA

Sung sướng hay khổ đau đều do từ phước hoạ, tức là điều may mắn hay sự rủi ro mà ra. Phước hoạ, người ta thường đổ cho trời, hay mạng số, nhưng theo triết lý các tôn giáo phước hoạ đó cũng do lòng người mà ra. Tức là mọi sự việc xảy ra cho con người, trong đó có trời (Mạng số) mà cũng có ta (Lòng người).



Có trời mà cũng có ta,

Tu là cõi phúc tình là dây oan.

(Truyện Kiều)

Rồi đây trời cũng có ta,

Làm bao giờ, biết bấy giờ, mới cao

(Nhị Độ Mai).



TRỜI CHE ĐẤT CHỞ

Bởi chữ “Thiên phú địa tải  ”.



Thiên phú: Trời che. Địa tải: Đất chở. Kinh Thi có câu: Thiên chi sở phú, địa chi sở tái  , , tức là trời che đất chở.

Theo quan niệm của người xưa, con người cùng với trời đất thuộc tam tài là thiên, địa, nhân. Con người đứng giữa trên thì trời che, dưới thì đất chở.

Trời che đất chở còn ví với công ơn cao dày của cha mẹ che chở cho con cái như trời đất.

Ai lớn bằng đất bằng trời,

Trời che đất chở, già đời không quên.

(Huấn Nữ Ca).



Trời che đất chở rộng thinh,

Lò âm dương đúc nên hình người ra.

(Thanh Hoá Quan Phong).



TRỜI NGHIÊU NGÀY THUẤN

Bởi chữ “Nghiêu thiên Thuấn nhật  ”.

Trời Nghiêu ngày Thuấn ý muốn nói ngày tháng của đời vua Nghiêu Thuấn, chỉ đời thánh bình thịnh trị.

Xem: Nghiêu Thuấn.



Bốn phương đầm ấm dân an,

Trời Nghiêu ngày Thuấn lưỡng gian thái hoà.

(Thanh Hoá Quan Phong).



TRỜI Ở CHO VỪA

Trời thật là công bình, thế mà khi làm việc gì cũng chẳng vừa lòng hết mọi người. Như nắng mưa trong ngày, người thì mong mỏi, kẻ thì sợ sệt, nên không bao giờ Trời làm vừa lòng hết trong thiên hạ được.



Một ngày cũng khó làm ơn,

Người kêu rằng nắng, kẻ hờn rằng mưa.

Biết sao Trời ở cho vừa,

Thay Trời nên phải trước ngừa việc dân.

(Thanh Hoá Quan Phong).

 

TRỜI TRU ĐẤT DIỆT

Tru : Giết, phạt. Diệt : Dứt, tiêu mất.

Bởi câu “Thiên tru địa lục  ” nghĩa là trời tru đất diệt.

“Trời tru đất diệt” là lời mà người ta thường hay dùng để thề thốt, có nghĩa là trời đánh phạt, đất tiêu diệt, lời thề độc địa.

Xem: Thiên tru địa lục.



Trời tru đất diệt về phần,

Ông bà bẻ cổ, họa gần chẳng chơi.

(Huấn Nữ Ca).



TRU DI TAM TỘC 

Tru di: Giết chết. Tam tộc: Ba dòng họ: Họ cha, họ mẹ và họ vợ.

Tru di tam tộc là xử giết chết những người trong ba dòng họ. Đây là một hình phạt nặng trong chế độ vương quyền thời xưa đối với những kẻ trọng tội hay mang tội phản nghịch.



Bắt đặng chàng lộc thưởng quyền phong,

Bằng sơ phạm tru di tam tộc.

(Nhạc Hoa Linh).



TRUÂN CHUYÊN 迍邅

Truân: Bước khó khăn. Chuyên: Khó đi.

Truân chuyên là đi dùng dằng, bước đường gặp những khó khăn, không tiến tới được.

Nghĩa bóng: Chỉ sự gian nan vất vả.

Phồn hoa bõ lúc truân chuyên,

Đã đầy phúc hậu, lại bề hiển vinh.

(Hoa Tiên Truyện).



Gạt châu mới kể sự tình,

Nỗi quê cách trở nỗi mình truân chuyên.

(Truyện Phan Trần).



Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Truân chuyên đã bấy nhiêu lần,

Nỗi oan chín khúc ruột dần chạnh đau.

(Đạo Sử).



Phạm Trọng Yêm mấy lần xa vợ,

Nợ quân vương nhiều thuở truân chuyên

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRÚC BẠCH 

Trúc: Cây tre. Bạch: Lụa. Trúc bạch là tre và lụa.

Ngày xưa, người ta dùng cây tre chẻ ra miếng rồi bào cho láng để viết chữ. Đến thời nhà Tần, không viết vào tre nữa, mà viết trên lụa.

Theo Hậu Hán Thư, người ta thường chép công nghiệp vào trúc bạch.

Đề danh trúc bạch. Hưởng phúc thái bình.

Chẳng phụ lời Cung trung bảo huấn.

(Cung Trung Bảo Huấn).



TRÚC HOÁ RỒNG

Trúc hoá rồng, tức cây trúc biến hoá ra con rồng, hay gọi gậy rút đất, một bửu bối của vị tiên Hồ Công ban cho Phí Trường Phong dùng để cỡi du hành.

Xem: Hồ tiên.

Đài Vương tử vẳng nhàn xoang phượng,

Chằm cát pha trúc dễ hoá rồng.

(Hồng Đức Quốc Âm)



TRÚC LÂM 

Hay “Trúc Lâm Thất Hiền  ”.



Trúc lâm: Rừng tre. Thất hiền: Bảy người hiền.

Bảy người hiền ở rừng trúc.

Đời nhà Tấn có các ông Sơn Đào, Nguyễn Tịch, Kê Khang, Hướng Tú, Lưu Linh, Nguyễn Hàm, Vương Nhung, thường nhóm họp say sưa ở rừng trúc, người đời gọi là Trúc Lâm Thất Hiền.

Cũng không học thói Trúc lâm,

Rủ nhau uống rượu hôn trầm ngày đêm.

(Dương Từ Hà Mậu).



Trúc Lâm là bọn đắm say,

Nước loàn bầu rượu còn hay che mình.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



TRÚC LỆ 

Trúc: Cây tre. Lệ: Nước mắt. Trúc lệ là nước mắt vấy vào thân tre.

Do tích: Vua Thuấn đi tuần thú Thương Ngô và chết ở đấy, hai bà vợ là Nga Hoàng, Nữ Anh đi tìm chồng. Khi đến bờ sông Tương hai bà ngồi khóc, nước mắt vẩy vào bờ trúc, về sau tre ở đây lấm tấm như trổ đồi mồi, gọi là “Tương trúc”.



Kìa đâu trúc lệ nhuộm thâu,

Tiêu tương lích chích mưa mau canh chầy

(Hoa Tiên Truyện).



TRÚC MAI 

Hay “Trước mai”.

Trúc và mai là hai giống cây chịu đựng được tiết lạnh của ngày đông tháng giá. Trong khi các giống cây khác, lá đều rơi rụng, kém tươi thì trúc vẫn tươi xanh, mai hoa vẫn nở.

Vì vây, cây trúc, cây mai được đặt cạnh bên nhau, để chỉ nghĩa bạn bè hay tình chồng vợ bền chặt, khắng khít bên nhau.

Xem: Mai trúc.

1.- Trúc mai:



Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

(Truyện Kiều).



Sóng tình sao khéo mênh mang,

Trúc mai sao khéo mơ màng chăng ai?

(Hoa Tiên Truyện).



Trúc mai sum hợp một nhà,

Song tình đạo nghĩa đã già đồng cân.

(Thanh Hoá Quan Phong).

2.- Trước mai:

Chừ sao bỏ nghĩa én anh,

Thêm lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,

Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.

(Đạo Sử).



TRỤC LỢI XU DANH 

Trục lợi: Đuổi theo mối lợi. Xu danh: Chạy theo công danh.

Trục lợi xu danh ý nói những người chỉ biết chạy đuổi theo lợi danh.



Xa những phường trục lợi xu danh,

Đến bợ đỡ đặng dành đi ngõ hậu.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRUY HOAN 

Truy: Đuổi theo. Hoan: Vui.

Truy hoan là theo đuổi những cuộc vui chơi, đắm chìm trong cuộc hoan lạc.

Truy hoan còn dùng để chỉ trai gái vui vầy nhau.

Đợi chi gặp tiểu thơ mặt lọ,

Mới dằn lòng chẳng ngó cuộc truy hoan.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRUY PHONG 

Truy: Đuổi theo. Phong: Gió.

Truy phong là đuổi theo gió, tức chạy vùn vụt theo gió. Ý chỉ chạy rất mau lẹ.



Rằng: Ta có ngựa truy phong,

Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi.

(Truyện Kiều).



TRUYỀN HỊCH 

Truyền: Trao cho. Hịch: Một thể văn dùng để hỏi tội, kêu gọi hay hiểu dụ.

Truyền hịch loan truyền bản hịch văn để nhân dân cùng biết. Ở nước ta, đời vua Hàm Nghi có ban hịch Cần Vương để kêu gọi sĩ phu giúp vua chống Pháp.



Chín tầng gươm báu trao tay,

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Lữ Gia truyền hịch bốn phương,

Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm ô.

(Quốc Sử Diễn Ca).



TRUYỀN HIỀN 

Truyền hiền là nói một vị vua đến cuối đời, đem ngôi báu truyền lại cho người hiền tài trong nước để cai trị muôn dân. Trái lại, truyền tử là đem ngôi báu truyền lại cho con trai.

Thời Thượng cổ nước Trung Quốc, vua Nghiêu nghe Thuấn là người hiếu đễ bèn đem ngôi vua truyền lại cho Thuấn. Sau vua Thuấn chọn Hạ Võ là vị hiền tài nhường ngôi cho lập nên nhà Hạ. Các Sử gia gọi đó là truyền hiền. Từ đó về sau, các vua chúa đều theo sự truyền tử.

Đế Nghiêu tìm hiếu truyền hiền,

Nương nơi gương ấy vẫn bền đạo con.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRUYỀN HƯƠNG 

Truyền hương là truyền kế lửa hương, tức là nối tiếp lại để thờ cúng tổ tiên ông bà.

Xem: Truyền kế lửa hương.

Đừng làm nhục tổ hổ tông,

Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRUYỀN KẾ LỬA HƯƠNG

Truyền kế  : Truyền lại cho đời sau kế tục. Lửa hương: Do chữ hương hỏa , tức nhang và đèn.

Truyền kế lửa hương chỉ sự nối tiếp để thờ cúng tổ tiên ông bà. Đồng nghĩa với câu: Truyền kế Tông môn.



Giọt máu mủ lưu truyền tại thế,

Con nhẫng mong truyền kế lửa hương.

(Kinh Thế Đạo).



TRUYỀN KẾ TÔNG MÔN 

Truyền kế: Truyền lại cho đời sau kế tục. Tông môn: Dòng họ.

Truyền kế tông môn nghĩa là dòng họ của tổ tiên được truyền lại cho đời sau kế tục.



Một câu sách nơi đây nên để,

Đặng làm phương truyền kế tông môn.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRUNG CAN 

Trung: Ngay với vua, với nước. Can: Gan.

Trung can là gan, lòng của người trung nghĩa.



Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết,

Ngọn quang minh hun mát tấm trung can.

(Văn Tế Võ Tánh).



Hớn trào Quan Thánh bia danh,

Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.

(Xưng Tụng Công Đức).



Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,

Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.

(Đạo Sử).



Tánh trung can đó chưa nên mặt,

Vì thuở cờ Mao chẳng phải hồi.

(Đạo Sử).



TRUNG CẦN 

Trung: Hết lòng với vua. Cần: Siêng năng.

Trung cần là làm bề tôi hết lòng với vua với nước, và siêng năng cần mẫn làm việc.



Trước sau trải mấy mươi lần,

Môn phong vẫn giữ trung cần dám sai.

(Tự Tình Khúc).



TRUNG DUNG 

Trung Dung là một quyển sách của Thầy Tử Tư (Khổng Cấp), cháu nội của Đức Khổng Tử, học trò của Tăng Tử gom góp những phần uyên áo của Khổng Giáo viết thành một học thuyết. Theo sách Hán Thư, thiên Trung Dung trước chép ở trong sách Lễ Ký, mãi đến đời Tống mới in riêng ra thành sách.

Tử Tư dẫn lời Đức Khổng Tử giảng về Đạo Trung Dung như sau: Trung Hòa là cái tính tình tự nhiên của trời đất, Trung Dung là cái đức hạnh của con người. Trung là giữa, không lệch bên nào, Dung là thường, nghĩa là dùng đạo trung làm đạo thường. Vậy Trung Dung là phải có một thái độ ngay chính, lúc nào cũng không nghiêng không lệch, mà lại có cái sáng suốt biết rõ sự thật và thi hành ra thì làm không thái quá không bất cập.

Luận như yêu đạo thì sãi yêu đạo 
Trung dung,

Suy như yêu lòng thì sãi yêu lòng nhơn ngỡi

(Sãi Vãi).

Đọc cho đến Trung Dung, Đại Học,

Tứ Thư rồi lại đọc Ngũ Kinh.

(Gia Huấn Ca).



Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành,

Từ bi Phật dặn: Lòng thành lòng nhơn.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

Trung dung khá giữ Ðạo từ đây,

Hễ chắc tớ hay gặp chánh Thầy.

(Đạo Sử).



TRUNG GIỚI 

Hay “Trung giái”.

Trung giái hay trung giới, là cõi ở giữa, trên Hạ giới tức là cõi trần và dưới Thượng giới tức là cõi Thiêng Liêng.

Cõi trần trung giái thinh thinh,

Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.

(Xưng Tụng Công Đức).



TRUNG HẬU 

Trung: Ngay thẳng, hết lòng với người nào. Hậu: Dày, thuỷ chung.

Trung hậu là người có lòng trung thành bền bỉ, tức là người ngay thẳng có lòng thuỷ chung.



Trung hậu thế thường đời ít có,

Ham chi kết bạc gọi là lân.

(Đạo Sử).



TRUNG HIẾU 

Trung: Hết lòng với vua với nước. Hiếu: Hết lòng thờ kính cha mẹ.

Trung hiếu là trung thành với Quốc gia dân tộc, và hiếu thảo với ông bà cha mẹ.



Trai thời trung hiếu làm đầu,

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

(Lục Vân Tiên).



Hai chữ "tín, thành" an các nước,

Một câu "trung hiếu" dựng muôn nhà,

(Dương Từ Hà Mậu).



Trai trung hiếu sửa trau ba mối,

Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng.

(Kinh Sám Hối).



Làu làu một tấm tợ đài gương,

Trung, hiếu, tiết, trinh vẹn mọi đường.

(Giới Tâm Kinh).



Nặng nghiệp phong trần buồn với phận,

Lo bề trung hiếu thẹn cho lòng.

(Đạo Sử).



TRUNG GIỚI 

Hay “Trung giái”.

Trung giái hay trung giới, là cõi ở giữa, trên Hạ giới tức là cõi trần và dưới Thượng giới tức là cõi Thiêng Liêng.

Cõi trần trung giái thinh thinh,

Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.

(Xưng Tụng Công Đức).



TRUNG HẬU 

Trung: Ngay thẳng, hết lòng với người nào. Hậu: Dày, thuỷ chung.

Trung hậu là người có lòng trung thành bền bỉ, tức là người ngay thẳng có lòng thuỷ chung.



Trung hậu thế thường đời ít có,

Ham chi kết bạc gọi là lân.

(Đạo Sử).



TRUNG HIẾU 

Trung: Hết lòng với vua với nước. Hiếu: Hết lòng thờ kính cha mẹ.

Trung hiếu là trung thành với Quốc gia dân tộc, và hiếu thảo với ông bà cha mẹ.



Trai thời trung hiếu làm đầu,

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

(Lục Vân Tiên).



Hai chữ "tín, thành" an các nước,

Một câu "trung hiếu" dựng muôn nhà,

(Dương Từ Hà Mậu).



Trai trung hiếu sửa trau ba mối,

Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng.

(Kinh Sám Hối).



Làu làu một tấm tợ đài gương,

Trung, hiếu, tiết, trinh vẹn mọi đường.

(Giới Tâm Kinh).



Nặng nghiệp phong trần buồn với phận,

Lo bề trung hiếu thẹn cho lòng.

(Đạo Sử).



TRUNG SƠN 

Hiệu của Tôn Văn, tự Dật Tiên, sinh tại tỉnh Quảng Đông, là nhà đại cách mạng dân chủ của nước Trung Hoa, người lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại phong kiến Mãn Thanh và khai sinh nước Trung Hoa dân quốc. Ông được người Trung Hoa gọi yêu mến là "Quốc phụ Trung Hoa".



Nọ Dân ước tưởng thầy Lư còn đấy,

Nầy Tam dân như thấy cụ Trung Sơn.

(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).



TRUNG TÍN 

Trung: Hết sức thành thật. Tín: Luôn giữ lời hứa.

Trung thành và tín nhiệm, tức là người ngay thật và biết giữ sự tín nhiệm.



Phận làm tớ thật thà trung tín,

Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.

(Kinh Sám Hối).



TRUNG TRINH 

Trung: Hết lòng với vua với nước. Trinh: Ngay thẳng. Đàn bà không thất tiết, hoặc con gái trong trắng.

Trung trinh là giữ tấm lòng ngay thẳng và trong trắng.



Trời nào phụ kẻ trung trinh,

Dù vương nạn ấy, ắt dành phúc kia.

(Nhị Độ Mai).



TRUNG TRỰC 

Trung: Hết lòng với vua, với nước. Trực: Thẳng.

Một lòng một dạ ngay thẳng cùng với vua, với nước, gọi là trung trực.



Người trung trực lo âu nợ nước,

Hưởng lộc vua tìm chước an bang.

(Kinh Sám Hối).



TRÙNG CỬU ĐĂNG CAO 

Trùng cửu: Ngày mồng chín tháng chín. Đăng cao: Lên chỗ cao.

Ngày trùng cửu lên cao. Do tích trong Tục Tề Hài Ký chép: Hoàn Cảnh ở huyện Nhữ Nam theo tiên Phí Trường Phòng ngao du. Trường Phòng nói: Ngày 9 tháng 9 gia đình ngươi sẽ có tai nạn, mau bảo người nhà kiếm cây thù du cầm nơi tay, lên núi uống rượu cúc sẽ được khỏi nạn. Ông Hoàn Cảnh làm y theo lời ấy, cả nhà lên núi, chiều về thấy gà, chó, trâu, dê chết hết.

Vì vậy, người ta nói: Trùng cửu đăng cao, hiệu Hoàn Cảnh chi tỵ tai  , , nghĩa là ngày trùng cửu lên núi cao, bắt chước ông Hoàn Cảnh tránh nạn tai.

TRÙNG DƯƠNG 


Trùng: Ngày tháng đều giống nhau, gọi là trùng. Dương: Khí dương.

Trùng dương là ngày mồng 9 tháng 9, vì số 9 là số dương, nên hai số 9 gọi là trùng dương.

Trùng dương đồng nghĩa với trùng cửu.

Tục xưa đến ngày trùng dương, người ta thường hay lên núi cao uống rượu là do tích ông Hoàn Cảnh nghe lời của vị Tiên là Phí Trường Phòng đem cả gia đình lên núi cao, uống rượu cúc mà tránh được tai nạn.

Xem: Trùng cửu đăng cao.

Người xưa gặp tiết trùng dương,

Đều lên chơi núi, lánh đường họa tai.

(Dương Từ Hà Mậu).



TRÙNG QUAN 

Trùng: Hai lần. Quan: Cửa ải.

Trùng quan là nhiều lớp cửa ải, nghĩa bóng dùng để chỉ sự xa xôi (Như qua nhiều lớp cửa ải).



Biếng trang điểm lòng người sầu tủi,

Xót nỗi chàng người cõi trùng quan.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



TRÙNG SINH 

Trùng: Lại một lần nữa. Sinh: Sống.

Trùng sinh là làm cho sống lại một lần nữa.



Trùng sinh ân nặng bể trời,

Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?

(Truyện Kiều).



TRUỒNG TRẦN NỖI CON

Tức con chịu cảnh trần truồng, ý nói tình cảnh của con chịu mọi thiếu thốn, đến nỗi không quần áo mặc, phải chịu cảnh trần truồng.



Còn thân thiếp chịu khốn nàn,

Tả tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRỪ KHIÊN 

Trừ: Dứt trừ. Khiên: Tội lỗi.

Trừ khiên là trừ diệt các tội lỗi trong kiếp trước gây ra.



Trương thẳng cánh con thuyền Bát Nhã,

Cổi đau thương giải quả trừ khiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRỪ MA ẾM QUỶ

Quỷ ma thường phá phách nhiễu hại con người, cho nên phải nhờ thầy bùa, thầy pháp để dùng phù phép ếm trừ.



Đồng rằng: Nghe tiếng thầy đây,

Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay.

(Lục Vân Tiên).



TRỪ NGHIỆT 

Trừ: Diệt trừ. Nghiệt: Cái mầm ác, nghiệp ác.

Trừ nghiệt tức là tiêu trừ cái mầm ác.



Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,

Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRỪ QUÂN 

Trừ: Để dành. Quân: Vua.

Trừ quân có nghĩa là người để dành, sẽ lên làm vua. Chữ dùng để gọi các vị Thái tử, tức người sắp nối nghiệp làm vua.



Trừ quân vì một nết tà,

Đổi sang Long Cán còn là ấu niên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



TRỪ TỊCH 

Trừ tịch là đêm cuối năm, tức là trừ bỏ lịch của năm cũ để thay năm mới vào.

Phong Thổ Ký chép: Trừ tịch đạt đán bất mân, vị chi thủ tuế  , , nghĩa là đêm trừ tịch suốt đến sáng vẫn không ngủ gọi là giữ năm.

Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo,

Nguyên tiêu cao ngất một gang nêu.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



TRỮ ĐỨC 

Trữ: Tích chứa. Đức: Phước đức.

Trữ đức tức là tích chứa phước đức. Muốn có phước đức người ta phải làm lành, làm thiện.



Bằng ta trữ đức làm lành,

Trời già kia phải thay cành đổi bông.

(Huấn Nữ Ca).



TRƯỚC CỬA TREO CUNG

Chỉ sinh con trai.

Theo phong tục ngày xưa, khi sinh được con trai, người ta thường lấy cung gỗ dâu, tên cỏ bồng treo trước cửa hay bắn ra bốn phương và trên dưới, ngụ ý nói đứa trẻ sau này có chí tung hoành ở bốn phương trời đất.

Xem: Tang bồng, hồ thỉ.



Gia tư thì cũng bậc trung,

Chỉ hiềm trước cửa treo cung còn chầy.

(Quan Âm Thị Kính).



TRƯỚC GIẶC XUA BINH

Trước giặc xua binh tức là đem binh tấn công trước đám quân giặc.



Cũng có kẻ gầy nên xã tắc,

Cũng có người trước giặc xua binh.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRƯỚC TỬ

Hay “Trúc tử  ”.

Trước tử là một loạt trúc có thân màu đỏ tía.

Kìa cuối xóm mấy hàng trước tử,

Nọ đầu làng chày lữ phơi sương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRƯỢC CHẤT BỤI HỒNG

Trược chất: Hay trọc chất , tức là các chất uế trược, dơ bẩn. Bụi hồng: Bụi đỏ. Người ta cho rằng nơi cõi trần này đầy bụi bặm màu đỏ, nên gọi cõi này là hồng trần .

Trược chất bụi hồng là nói cõi đời đầy ô trược và bụi bặm, chỉ cõi thế gian.



Lánh xa trược chất bụi hồng,

Cung Tiên sớm tối vui vòng thung dung.

(Kinh Thế Đạo).



TRƯƠNG HOA 

Trương Hoa đời Tấn, tự là Mậu Tiên, là người học rộng biết nhiều, giỏi về âm dương lý số. Thời Tấn Huệ Đế ông làm Thái tử Thiếu phó. Một hôm ông coi thiên văn thấy có luồng khí màu đỏ tía, mời Lôi Hoán đến xem, Hoán bảo đó là tinh khí của bửu kiếm ở đất Phong Thành xông lên. Sau Lôi Hoán cho đào nền nhà ngục, lấy được cái hòm đá, trong đó có hai cây gươm, một thanh có khắc chữ Long Tuyền, một thanh có khắc chữ Thái A.



Bà ngựa dầu lành nào Bá Nhạc,

Cái gươm nhẫn có thiếu Trương Hoa.

(Quốc Âm Thi Tập).



TRƯƠNG KHIÊN 

Theo Hán Thư: Trương Khiên, người đời Hán, là một tướng có tài quân sự và ngoại giao. Thời Hán Võ Đế, ông được vua đáp thuyền đi sứ Nhục Chi, qua đất Hung Nô, bị bắt giữ lại hơn mười năm. Sau ông cùng với Vệ Thanh đánh bại Hung Nô, lập nên công lớn, được phong Bác Vọng Hầu. Trương Khiên lại được đưa đi sứ thu phục các nước nhỏ miền tây bắc nước Trung Quốc theo về với Hán.



Đài Tử Lăng cao thu mát,

Bè Trương Khiên nhẹ khách sang.

(Quốc Âm Thi Tập).



Thuyền họ Trương ở khô, còn sợ sóng tràn bờ;

Đất nhà Kỷ vốn hẹp, hãy sợ trời sập mái.

(Sãi Vãi).



TRƯƠNG LÝ 

Họ Trương và họ Lý, dùng để chỉ chung người nào đó trong thiên hạ. Ví dụ như Trương tam Lý tứ tức là anh ba họ Trương, anh tư họ Lý.

Chữ dùng để nói chung cho một người nào đó.

Mấy người một ngựa một an,

Nay Trương mai  thế gian hiếm gì.

(Quan Âm Thị Kính).



TRƯƠNG LIÊU 

Trương Liêu, tự là Văn Viễn, làm quan nước Nguỵ thời Tam Quốc. Trước theo Lữ Bố, sau về với Tào Tháo, lập nhiều chiến công. Liêu được Tào Tháo sai đóng đồn giữ đất Hợp Phì ở Giang Nam, khi Tôn Quyền đem mười vạn quân vây đánh Hợp Phì, Trương Liêu dẫn tám trăm quân đánh phá vòng vây, rồi giả bỏ chạy, Tôn Quyền thúc quân đuổi theo, đến Tiêu Diêu thì bị quân mai phục của Trương Liêu đánh tan, Tôn Quyền phải chạy bán sống bán chết mới thoát nạn, mười vạn quân Ngô bị đánh rã, chết quá nửa. Trận đánh này, gây tiếng vang khắp vùng Giang Nam, ai nghe đến cũng đều kinh hồn, trẻ nghe nói đến Trương Liêu đều mất vía không dám khóc đêm.



Dường Trương Liêu thuở Tiêu Tân,

Cả chẳng dám gần trẻ chẳng khóc đêm.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



TRƯƠNG LƯƠNG 

Trương Lương người đời Hán, tự là Tử Phòng. Tổ tiên là người nước Hàn, đến ông là năm đời làm tướng.. Khi Hàn bị Tần diệt, Trương Lương quyết chí báo thù, tìm cách mưu sát Tần Thuỷ Hoàng, nhưng việc không thành.

Hán Cao Tổ khởi binh, Trương Lương theo phò tá, lập nhiều công lớn. Lúc đánh thắng Sở Bá Vương Hạng Võ rồi lên ngôi, Cao Tổ phong cho Trương Lương tước Lưu Hầu. Nhưng vì quan niệm theo Đạo gia là “Công thành thân thối  退”, nên Trương Lương rút lui đi tu tiên và không thiết gì đến công danh phú quý.

Làm cây chuỳ Bác Lãng sa,

Trương Lương vì chúa đánh xa Tần Hoàng.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Hạp tảo ngũ hồ song Phạm Lãi,

Khước giao tam kiệt độc Trương Lương.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).

 

TRƯƠNG LƯƠNG DÂNG DÉP BA LẦN

Bởi chữ “Tấn lý chi khiêm  ” tức là tỏ lòng kỉnh khi dâng dép.

Sử Ký chép: Trương Lương đi chơi vùng Hạ Bì, gặp một cụ già làm rớt chiếc dép của ông xuống dưới cầu. Ông ngó Trương Lương mà bảo: Thằng bé hãy lượm dép cho ta! Trương Lương ngạc nhiên, nhưng vẫn lẳng lặng xuống cầu lượm lấy. Ông già nói: Hãy mang cho ta. Trương Lương quỳ dâng dép cho ông. Hai lần sau, ông cũng làm rơi dép, Trương Lương vẫn nhẫn nhục lượm và mang vào cho ông. Ông nói: Thằng nhỏ này dạy được, năm ngày sau dậy thật sớm đến gặp ta tại nơi nầy. Đến ngày hẹn, Trương Lương vừa tới, thì ông lão giận nói: Hẹn với người già mà đến trễ, năm ngày sau thật sớm đến gặp ta. Sang ngày thứ năm, trời chưa sáng Trương Lương đã ra đi, đến nơi ông lão đã có mặt rồi. Ông lại hẹn năm ngày sau nữa. Lần này nửa đêm, Trương Lương đã đi rồi, đến nơi một lát sau ông lão mới đến. Ông trao cho Trương một cuốn sách, lại nói: Đọc sách nầy sẽ làm được thầy của các bậc Đế Vương.

Trương Lương dâng dép ba lần,

Chút công ấy định Hớn Tần nên hư.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRƯƠNG PHI 

Trương Phi tự là Dục Đức, người đời Tam Quốc. Lúc chưa gặp thời, kết nghĩa anh em với Lưu Bị và Quan Võ. Khi Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại ở Đương Dương, rút quân hết qua cầu Trường Bản, chỉ còn Trương Phi cùng hai mươi kỵ binh đứng chận cầu, khiến quân Tào Tháo không dám đến gần. Trương Phi là người hữu dõng vô mưu, tính tình lại nóng nảy, vì vậy sau này bị chết về tay kẻ bộ hạ.



Có người họ Hớn tên Minh,

Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.

(Lục Vân Tiên).



Chính làm đầu lão Nghiêm Nhan,

Thua thời chịu chém, chẳng hàng Trương Phi.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



TRƯƠNG TỬ 

Hay “Trương Tử Phòng  ”.

Tên tự của Trương Lương, người nước Hàn. Khi nhà Tần diệt nước Hàn, Trương Lương mưu giết Tần Thuỷ Hoàng để trả ơn cho Hàn, nhưng không thành, bèn sang giúp Lưu Bang (Nhà Hán) để diệt Tần.

Xem: Đánh xa Tần Hoàng.



Nhờ lộc nước phải lo cho nước,

Đòi phen Trương Tử trả ơn Hàn.

(Hịch Tây Sơn).



TRƯỚNG GẤM

Bởi chữ “Cẩm trướng  ”.

Trướng gấm là nơi vua ngự, vì nơi đó có treo màn trướng bằng gấm vóc thêu lộng lẫy.

Kẻ ra nương bánh xe mây,

Người vào trướng gấm vui vầy bạn loan.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,

Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Trên trướng gấm chí tôn vòi vọi,

Những khi nào gần gũi quân vương.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Trăng tỏ đài gương người thẹn bóng,

Hoa đưa trướng gấm khách tô hồng.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



TRƯỚNG HÙM

Dịch từ chữ “Hổ trướng  ”, tức là nơi làm việc của các tướng soái. Hùm hay hổ là biểu hiện con nhà võ, nên nơi vị tướng soái đóng quân gọi là trướng hùm hay hổ trướng.

Do tích Từ Tri Ngạc khi trấn đất Nhuận Châu, thường lên núi Mạt Sơn dọn đất trống, kết da hổ làm màn che, rồi cùng các thuộc hạ họp ở dưới gọi là Hổ trướng.

Trướng hùm mở giữa trung quân,

Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.

(Truyện Kiều).



TRƯỚNG HUỲNH 

Trướng: Màn trướng. Huỳnh: Đom đóm.

Ngày xưa Trác Dận nhà nghèo, không có đèn, bắt nhiều con đom đóm bỏ chung một cụm để làm đèn mà học, cho nên về sau người ta lấy chữ “Trướng huỳnh” là màn đom đóm mà gọi cái buồng học.



Nhặt thưa, gương giọi đầu cành,

Ngọn đèn trong lọt trướng huỳnh hắt hiu.

(Truyện Kiều).



TRƯỚNG LIỄU 

Trướng: Màn trướng, chỉ cái buồng. Liễu: Cây liễu, thường ví với người đàn bà con gái.

Trướng liễu chỉ buồng riêng của người đàn bà con gái ở.



Đường mây cười tớ ham rong ruổi,

Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.

(Thơ Phan Thanh Giản).



TRƯỚNG LOAN 

Trướng: Bức màn. Loan: Chim loan.

Trướng loan là bức màn có thêu chim loan, dùng để chỉ nơi đàn bà con gái ở.

Ngày xưa, Trương Di Chí làm một cái màn có thêu chim loan đem dâng cho bà Võ Hậu. Võ Hậu đem treo ở buồng ngủ, nên người ta sau này hay dùng trướng loan để chỉ buồng phụ nữ.

Giọng Kiều rền rỉ trướng loan,

Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì.

(Truyện Kiều).



Gặp Hương mới kể sự tình,

Xin nhờ dì gió đệ trình trướng loan.

(Hoa Tiên Truyện).



Đuốc hoa chén ngọc song song,

Trướng loan gối phụng động phòng thêm xuân.

(Dương Từ Hà Mậu).



Trướng loan lạnh lẽo hồn hồ vẩn,

Cầu thước bơ vơ chiếc nhạn bay.

(Truyện Vương Tường).



TRƯỚNG SA

Trướng: Cái màn. Sa: Lụa mỏng.

Trướng sa là nói nơi treo màn trướng bằng lụa mỏng, để chỉ chỗ ở của người quý hiển.



Gương loan phảng phất hồn cung quế,

Giấc bướm mơ màng khách trướng sa.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



TRƯỜNG AN 

Hay “Tràng An”.

Trường An là Kinh Đô nước Tàu về các đời nhà Chu, Tần, Hán, Đường thuộc huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây.

Người đời sau nhân đó mới gọi chung “Trường An” là Kinh Đô nhà vua.



Lần hồi ngày tháng tới gần,

Đem nhau cất gánh trông chừng Trường An.

(Dương Từ Hà Mậu).



Mấy tuần gióng giả vó câu,

Tràng An trông đã thoắt đâu tới gần.

(Nhị Độ Mai).



TRƯỜNG CANH 

Trường Canh là một tên khác của Kim Tinh, hay sao Thái Bạch Kim Tinh. Dùng để chỉ Đức Lý Đại Tiên, tức Lý Thái Bạch.



Nguyên Lý Đại Tiên Trưởng giáng linh nơi nước Trung Hoa là Lý Thái Bạch vào năm 702 đời vua Trần Huyền Tông nhà Đường. Mẹ Ngài nằm mộng thấy sao Trường Canh (Kim Tinh), hay sao Thái Bạch sa xuống mình Bà, nên đặt tên là Lý Thái Bạch, gọi tắt là Lý Bạch.

Xem: Kim Tinh.



Linh Tiêu Thái Bạch Trường Canh,

Truyền tâu Đế Khuyết dữ lành nhơn gian.

(Xưng Tụng Công Đức).



Trường Canh chói rạng lòa Kim Khuyết,

Xin ban ơn giải nghiệt cho đời.

(Giới Tâm Kinh).



Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,

Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.

(Đạo Sử).



TRƯỜNG ĐÌNH 

Theo sách Hán Thư Trung Quốc, trên các con đường, cứ năm dặm có cất một cái quán trạm, gọi là đoản đình, cứ mười dặm có một cái quán gọi là trường đình, để làm nơi nghỉ chân cho khách bộ hành.



Bề ngoài mười dặm trường đình,

Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.

(Truyện Kiều).



Đoản đình thôi lại trường đình,

Bến xe Mai Bích xuân Sinh hai chàng.

(Nhị Độ Mai).



Huyện dân chực sẵn tiễn hành.

Hương đăng bày án, trường đình dọn nơi.

(Nhị Độ Mai).



Chia gương căn dặn buổi trường đình,

Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.

(Đạo Sử).



Trường đình giục thảm canh thâu,

Gối còn nửa nguyệt đỡ đầu phòng thu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRƯỜNG MÔN 

Tên một cung trong thời nhà Hán.

Đời Hán Võ Đế, Hoàng Hậu họ Trần vì tính hay ghen, nên bị vua cho ở cung Trường Môn. Nghe tiếng Tư Mã Tương Như giỏi làm phú, bà Hoàng hậu họ Trần nhờ người đem 100 cân vàng đến tặng, Tương Như bèn làm bài phú “Trường Môn”, diễn tả nỗi u sầu của bà để dâng vua. Nhờ đó Hoàng hậu được trở lại nội cung.

TRƯỜNG PHONG NGUYỆT

Trường 
: Nơi tụ họp. Phong nguyệt  : Gió trăng, chỉ chơi bời.

Trường phong nguyệt tức là làng chơi, xóm điếm.



Liếc mắt ngó vào trường phong nguyệt,

Mua trận cười nào tiếc ngàn vàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



TRƯỜNG PHỔ TẾ

Phổ : Rộng, khắp. Tế : Đưa qua đò, cứu giúp.

Phổ tế là cứu giúp tất cả chúng sanh khắp mọi nơi, đồng nghĩa với Phổ độ .

Trường phổ tế: Hay cơ quan phổ tế hay cơ quan phổ độ là một cơ quan của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nhiệm vụ phổ hóa chúng sanh, lo phần Đạo của Đạo, hay nói cách khác là đem Đạo vào đời để dìu dắt sanh linh nương về với Đạo đặng siêu rỗi tội tình hầu tiến đến phẩm vị trọn lành.

Trường phổ tế khó khăn lắm nỗi,

Cậy Thánh tâm sửa đổi tánh phàm.

(Kinh Thế Đạo).



TRƯỜNG SANH

Hay “Trường sinh  ”.



Trường: Lâu dài. Sinh (Sanh): Sống.

Trường sanh là sống lâu dài, sống mãi mãi, không bao giờ chết.

Theo quy luật tự nhiên của Trời đất, hễ có sanh tất phải có diệt, có sống thì phải có chết, vì đó là luật tiến hoá của Càn khôn Vũ trụ. Còn nói trường sanh bất tử là với những Chơn linh nơi các cõi giới khác, không có hình hài xác thịt như cõi thế gian, bởi hữu hình tất hữu hoại, tức có thân xác hữu hình tất phải chết.

Phép giải oan độ hồn khỏi tội,

Phướn tiêu diêu nắm mối trường sanh.

(Kinh Tận Độ).



Trên đường Thánh đức lần dò,

Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hóa công.

(Kinh Thế Đạo).



Sương nồng nhánh liễu chim bay liệng,

Luyện đặng trường sanh thoát thế thường.

(Đạo Sử).



TRƯỜNG SANH ĐỊA 

Trường sanh: Sống lâu dài, sống mãi. Địa: Cõi.

Trường sanh địa là cõi mà con người đến đó được sống mãi, tức trường sanh bất tử. như vậy, Trường sanh địa chỉ cõi Thiêng liêng Hằng sống.



Muốn đi cho tận trường sanh địa,

Phải đổi giày sen lấy thảo hài.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



TRƯỜNG THÀNH 

Đời Chiến Quốc, các nước chư hầu ở tiếp giáp với rợ Hồ, sợ Hồ vào xâm lấn bờ cõi, mới đắp một cái thành dài để ngăn giữ. Đến đời Tần Thuỷ Hoàng, Mông Điềm được lệnh đem tám mươi muôn binh đắp thêm để nối bức thành nói trên dài từ Lâm Thao đến Liêu Đông, gọi là Vạn Lý Trường Thành.



Thần hôn luống những khát khao,

Trường Thành thiên lý âm hao khôn lường.

(Lưu Nữ Tướng).



Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



TRƯỢNG PHU 

1.- Chỉ người có chí khí, tài giỏi hơn người.

Mạnh Tử định nghĩa người trượng phu như sau: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất thử chi vị đại trượng phu  , , . , nghĩa là giàu sang không thể làm loạn tâm, nghèo hèn không thể làm đổi dời, oai võ không làm cho khiếp sợ, ấy mới gọi là trượng phu.

Thôi thì ta lại vì ta,

Nhẹ mình nặng nghĩa mới là trượng phu.

(Nhị Độ Mai).



Tiễn rồi lại dặn Mục Vinh:

Trượng phu xin chớ quản tình biệt ly.

(Nhị Độ Mai).

2.- Vợ gọi chồng là trượng phu.

Một năm một nhạt mùi son phấn,

Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Phép xưa tùng phụ đã rằng,

Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Tay trượng phu cầm mảnh má đào,

Tranh vai kép vai đào chi cho rộn.

(Phương Tu Đại Đạo).



TRỬU DỊCH 

Trửu: Khuỷu tay, cùi tây. Dịch: Nách.

Nách liền với vai và cánh tay, cho nên sự gì thiết cận gọi là trửu dịch.

Tấn thư có câu: Khấu phát tâm phúc, hại khởi trửu dịch  , , nghĩa là giặc nổi lên ở tim ruột, hại dấy lên từ trửu dịch.

Nghĩa bóng: Tai hoạ không phải từ ngoài mà từ trong ruột rà thân thích.



Biến đâu trửu dịch lạ đời!

Nửa đêm mở lũy cho người tiến sang.

(Quốc Sử Diễn Ca).

 

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...