Thursday, September 17, 2020

Điển tích - D Đ

D - Đ

DA MỒI

Tức là da trổ đồi mồi. Ý nói những người lớn tuổi da trên thân thể bắt đầu ửng hiện ra những điểm thâm tựa như da con đồi mồi.

Da mồi chỉ người sắp già như câu thành ngữ “Tóc bạc da mồi”.

Chốc là mười mấy năm trời,

Còn ra khi đã da mồi tóc sương.

(Truyện Kiều).



Chẳng còn yểu điệu hình mai,

Da mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.

(Nư Trung Tùng Phận).



DA NGỰA

Do chữ “Mã cách loã thi  ”, nghĩa da ngựa bọc thây.

Do điển: Mã Viện đời Đông Hán lãnh chức Phục Ba Tướng Quân có công dẹp bọn rợ Ngũ Man Khê lúc ông đã già hơn 80 tuổi. Ông đã từng nói: Làm trai nên chết chốn sa trường, biên ải, lấy da ngựa bọc thây. Sau ông quả thật chết trong quân và được phong làm Tân Tức Hầu. Nghĩa bóng: Chết giữa chiến trường.

Xem: Hồng mao.



Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,

Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng,

thương thay phép trọng để thần khinh,

phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.

(Văn Tế Trận Vong).



DA NGỰA BỌC THÂY

Bởi câu “Mã cách loã thi  ” tức là lấy da ngựa để bọc thi hài. Nghĩa bóng dùng để nói chiến sĩ chết nơi chốn chiến trường, trận địa.

Xem: Da ngựa.

Thà chẳng may một giấc chốn tràng sa,

da ngựa bọc thây mới phải.

(Văn Tế Trương Định).



Một chắc xa trường rằng chữ hạnh,

nào hay da ngựa bọc thây;

Trăm năm âm phủ ấy chữ quy,

xá đợi gươm hùm treo mộ.

(Văn Tế Nghĩa Sĩ).



DÃ HẠC 

: Đồng quê. Hạc: Chim hạc.

Chim hạc đồng (Hạc nội).

Hạc là một loài chim ở đồng nội, thích bay phóng túng, không chịu nhốt lồng, nên người ta còn gọi là hạc đồng, hay hạc nội. Dùng để ví với những người thích tự do, ở ẩn, không chịu ra làm quan.

Dã hạc còn là một cuốn sách dạy bói toán, gọi là “Quẻ dã hạc”.



Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối

đổ biển ta chẳng bỏ bèn.

Huyệt chấn long toan bán đất trời, ngôi mả

táng cha tìm còn chưa chỗ.

(Hàn Nho Phong Vị Phú).



Huỳnh kim, Dã hạc sách cao,

Lục nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay.

(Lục Vân Tiên).



DÃ MAN 

: Đồng quê. Man: Mọi, rợ.

Dã man dùng để chỉ những hạng người hung dữ, man rợ, chưa được khai hoá.

Dã man còn là tiếng dùng để mắng nhiếc.

Dầu khôn, mẹ cũng cho ngu,

Tài chi trong kiếp tội tù dã man.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Sao ta cứ dã man quen thói,

Đem mình nô mà luồn lỏi dưới cường quyền.

(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).



DÃ TÂM 

Tâm chưa thuần, còn phóng túng không kềm thúc được. Sau nầy người ta dùng chữ “Dã tâm” với nghĩa là lòng ham muốn lớn lao, không chịu an phận.

Hiện nay, chữ “Dã tâm” còn có nghĩa tâm xấu xa, muốn hãm hại người khác.

Tham lam học thói bưởi bồng,

Đặng chim bẻ ná, toan hòng dã tâm.

DÃ TƯỢNG 

Bồi tướng của Trần Hưng Đạo Vương.

Dã Tượng nổi tiếng là người có sức khoẻ khác thường. Lúc Hưng Đạo Vương thua quân ở Chi Lăng, Dã Tượng cùng với Yết Kiêu hết sức phò tá mới chạy thoát được về Vạn Kiếp.

Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,

Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Hưng Đạo nghe biết trước sau,

Yết kiêu Dã Tượng truyền vào trong cung.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



DẠ ĐÀI 

Dạ: Ban đêm. Đài: Đền đài.

Dạ đài có nghĩa (Nghĩa đen) là chỗ ở ban đêm, chỉ mộ phần, cõi Âm phủ. Nghĩa bóng: Chỉ Âm phủ.

Thơ Lý Bạch có câu: Dạ đài vô hiểu nhật, Cô tử dữ hà nhân?  ? Nghĩa là: Dạ đài không ánh sáng, Mua rượu uống cùng ai?

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rẩy xin chén nước cho người thác oan.

(Truyện Kiều).



Đã đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngành đá nát vàng phai,

Đã đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngành xuống chốn dạ đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngài gặp nhau?

(Lục Vân Tiên).



Chốn Dạ đài Thập Điện Từ Vương,

Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.

(Kinh Tận Độ).



Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,

Vậy bóng hình để tướng nơi nao?

(Kinh Thế Đạo).



Tình thâm một gánh còn dương thế,

Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.

(Đạo Sử).



DẠ SỞ BỤNG TẦN

Câu thành ngữ cho thấy bụng dạ khác nhau: Bụng thì Tần dạ thì Sở, ý muốn nói bụng dạ hay thay đổi, hay tráo trở, thâm hiểm.



Thẹn thay cho kẻ vô nghì.

Khi này dạ Sở, lúc kia bụng Tần.

(Nhị Độ Mai)



DẠ THAM SANG

Chỉ một nhân vật nước Tề vì tham tiếng sang mà phải lừa dối vợ.

Sách Mạnh Tử viết: Một người nước Tề có hai người vợ ở chung nhà. Người ấy cứ ngày ngày đi đâu về cũng thấy no say. Người vợ cả hỏi đi ăn uống với ai, thì người ấy nói đi ăn uống toàn là với người giàu sang quyền quý.

Người vợ cả bảo người vợ lẻ rằng: Chồng đi đâu thì cũng ăn uống no say rồi mới về. Hỏi thì nói rằng đi ăn uống với những người sang giàu.Thế mà ta chưa thấy ai là người sang trọng đến nhà ta. Ta sẽ dò xem chồng ta đi đâu.

Ngày hôm sau, sáng sớm, người vợ cả lẻn đi theo người chồng, đi khắp mọi nơi, không thấy ai đứng nói chuyện với chồng mình. Sau thấy chồng đi về xóm hướng đông, chỗ có người đang cúng mả, xin những đồ người ta cúng tế xong mà ăn, ăn chưa đủ, lại đi tìm những chỗ nào có cúng để xin ăn nữa. Ấy là cái cách của chồng làm cho được no say là thế. Người vợ cả về nói với người vợ lẻ rằng: Người chồng là người của ta trông cậy suốt đời, nay đê hạ như thế đấy. Người vợ cả kể cái xấu xa của chồng với người vợ lẻ, rồi cả hai người cùng khóc ở giữa sân. Người chồng về không biết, hớn hở đi từ ngoài vào, lên mặt với hai người vợ.

Uốn lưỡi vạy, ghét người nước Sở;

Dạ 
tham sang, ghét kẻ nước Tề.

(Sãi Vãi).



DẠ VŨ 

Hay “Dạ võ”.



Dạ: Ban đêm. : Trời mưa.

Dạ vũ tức là trời mưa ban đêm.



Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,

Gác thừa lương thức ngủ thu phong.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



DẠ XOA 

Tiếng Pali Yakkha.

- loài Thần (Thần dạ xoa) có sức mạnh khác thường.

- Một loại quỷ có hình thù cổ quái ở cõi Âm phủ để Diêm Vương sai khiến đi bắt và hành phạt các tội hồn.

Còn là một loài quỉ hay phá phách người tu hành bằng cách gây tiếng động ồn ào trong lúc họ thiền.

Theo Kinh Duy Ma, quỷ Dạ xoa, còn gọi là Dược xoa, dịch nghĩa là Tiệp tật quỷ (quỷ nhanh nhẹn). Có ba loại: Một ở mặt đất, hai ở hư không, ba là thiên dạ xoa.



Quỷ Dạ xoa quất bụi xuống chi đây,

Người bách nghệ đến đâu đề khổ não.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



Dạ xoa giữ việc gian tà,

Người nào mắc tội cho tra hành hình.

(Dương Từ Hà Mậu).



Nào là Địa ngục, Dạ xoa,

Nào là hao phá, sao sa cửa mình.

(Huấn Nữ Ca).



Cột trói ngược quá kinh rất lạ,

Quỷ Dạ xoa đánh vả kẹp cưa.

(Kinh Sám Hối).



DẢI ĐỒNG

Hay “Dải đồng tâm”.

Bởi chữ “Đồng tâm đái  ”. Theo Tuỳ thư: Tuỳ Dượng Đế sai lấy lụa ngũ sắc kết thành nút gọi là đồng tâm kết (Dải đồng tâm) để ban cho các vị quý phi trong cung để tỏ lòng yêu thương khắn khít.

“Dải đồng” hay “Dải đồng tâm” dùng để chỉ sự thương yêu bền chặt giữa vợ chồng.

Xem: Đồng tâm.

1.- Trong văn học:



Bấy lâu khắn khít “Dải đồng”,

Thân người, người cũng chia lòng riêng tây.

(Truyện Kiều).



Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,

Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.

(Cung Oán Ngâm Khúc).

2.- Trong kinh sách Cao Đài:

Phong ba dầu được dìu qua khỏi,

Nhớ bởi chung nhau kết dải đồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Nào khi ước giữ niềm son sắt,

Nào thề non nắm chặt dải đồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DẢI ĐỒNG TÂM

Bởi chữ “Đồng tâm kết  ” hay “Đồng tâm đái  ”.

Theo Tuỳ Thư: Tuỳ Dượng Đế sai lấy lụa ngũ sắc kết thành nút gọi là đồng tâm kết (Dải đồng tâm) để ban cho các vị quý phi trong cung để tỏ lòng yêu thương khắn khít.

“Dải đồng” hay “Dải đồng tâm” dùng để chỉ sự thương yêu bền chặt giữa vợ chồng.



Một dải đồng tâm bao thuở nối,

Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai.

(Đạo Sử).



Biết tình nghĩa biết mùi ân ái,

Chia đau thương cột dải đồng tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Giọt lệ thiếp vì phiền mà chảy,

Gẫm thương người chia dải đồng tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DẢI KẾT

Do chữ “Đồng tâm kết  ” là một sợi dây thắt lưng có hai giải lụa buộc lại với nhau, biểu hiện sự kết hợp vợ với chồng, cùng một lòng như nhau.

Do điển tích trong Tuỳ Thư: Vua Tuỳ Dượng Đế sai lấy lụa ngũ sắc kết lại với nhau gọi là “Đồng tâm kết” (Dải đồng tâm) để ban cho các quý phi, tỏ lòng yêu thương khắn khít.

Xem: Đồng tâm đái.



Ví sớm biết phận mình ra thế,

Dải kết điều ỏe ọe làm chi.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



DÃI NGUYỆT DẦU HOA

Dãi dầu: Trải chịu. Nguyệt hoa: Chỉ sự trăng hoa.

Dãi nguyệt dầu hoa tức là chịu đựng những nỗi vất vả đau đớn trong trường nguyệt hoa, chỉ tình cảnh khổ sở của gái lầu xanh.



Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,

Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.

(Truyện Kiều).



DÀY GIÓ DẠN SƯƠNG

Tức là dày dạn sương gió, ý nói tấm thân phải dầm sương trải gió, chịu nhiều nỗi gian nan, cực khổ.

Dày gió dạn sương còn dùng để chỉ những người có cuộc sống ê chề khổ não.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?

(Truyện Kiều).



DANH DƯƠNG 

Danh: Tiếng tăm. Dương: Nêu cao lên.

Danh dương là tên tuổi và tiếng tăm được nêu cao lên. Theo Khổng Tử người con hiếu nếu: Dương danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã  , , , tức là nêu danh hậu thế, làm rạng rỡ cha mẹ, đó là đạo hiếu rốt của con người.



Nệ gì định tỉnh lễ thường,

Làm cho thân hiển danh dương mới là.

(Hoa Tiên Truyện).



DANH GIÁ 

Danh: Tiếng tăm. Giá: Giá trị.

Danh giá là tiếng tăm và giá trị.



Phấn vua, lộc nước, ân trời,

Muôn nghìn danh giá năm mười nhân duyên,

(Hoa Tiên Truyện).



DANH HUYÊN LẠC ẤP 

Tên tuổi vang dội khắp Lạc Ấp.

Do câu: Lục Cơ, Lục Vân, danh cộng huyên ư Lạc Ấp  , , , nghĩa là ông Lục Cơ, Lục Vân, danh cùng dội đất Lạc Ấp.

Tấn Thư ghi: Hai anh em Lục Cơ và Lục Vân người huyện Hoà đình. Nhà Tấn diệt nhà Ngô, anh em đều ở đất Lạc Ấp, đều nhờ tài danh, vang rền một thuở.



DANH LỢI 

Danh: Tiếng tăm. Lợi: Quyền lợi hay lợi lộc.

Danh lợi tức là công danh mang đến tiếng tăm, lợi lộc và đem lại tiền tài, vật chất.



Gót danh lợi bùn pha sắc xám,

Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,

Đấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.

(Sám Hôi Kinh).



Ðã nhiều danh lợi bước đua tranh,

Nhọc xác lao tâm hỏi có thành?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Nẻo danh lợi vào ra ai cấm,

Mắt sáng soi cái dậm quan hà.

(Phương Tu Đại Đạo).



DANH SĨ 

Danh sĩ là người nổi tiếng, có đức hạnh, học thức tinh thông, không chịu ra làm quan.

Kinh Lễ có câu: Miễn chư hầu, sính danh sĩ  , , nghĩa là khích lệ chư hầu, mời rước danh sĩ.

Hẳn người danh sĩ cao tài,

Đi đâu đồ đệ lạc loài đến đây.

(Nữ Tú Tài).



DANH TIẾT 

Danh: Tiếng tăm, danh dự. Tiết: Khí tiết, tiết tháo.

Danh tiết có nghĩa danh dự và khí tiết của con người.



Thương tình mà ngậm ngùi cho,

Rằng: Danh tiết ấy thơm tho ai bì.

(Hoa Tiên Truyện).



DANH TÍNH 

Danh: Tên. Tính: Họ

Danh tính hay danh tánh là tên và họ.



Chẳng hay danh tính là chi?

Một mình mang gói ra đi việc gì?

(Lục Vân Tiên).



DANH VỌNG 

Danh là nổi tiếng. Vọng là ngưỡng mộ.

Danh vọng là nổi tiếng về tiền bạc, tài năng hay đức độ khiến người đời nhìn vào mà ngưỡng mộ.

Lo danh vọng hao mòn thân thể,

Ham làm giàu của để bằng non.

(Kinh Sám Hối).



DAO TRÌ 

Hay “Diêu Trì”.

Dao (Hay diêu): Một loại ngọc quý, đẹp. Trì: Cái ao. Dao Trì là một cái ao được làm thành toàn bằng ngọc dao. Ao Diêu trì nằm nơi Cung ngự của bà Tây Vương Mẫu, nên Cung này được gọi là Dao Trì Cung hay Diêu Trì Cung, và Phật Mẫu được gọi là Diêu Trì Phật Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu.

Xem: Dao Trì Cung.



Trai tài gái sắc ai bì,

Doanh châu ấy khách, "Dao trì" nọ tiên.

(Hoa Tiên Truyện).



Tạo Hóa Thiên Huyền vi Thiên Hậu

Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì

(Kinh Phật Mẫu).

DAO TRÌ CUNG 

Hay “Diêu trì” là một cái ao bằng ngọc dao.

Tương truyền, nơi cung điện bà Tây Vương Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu có một cái ao bằng ngọc dao, cho nên người ta gọi nơi đó là “Dao Trì cung”, hay “Diêu Trì cung”.

Quân đi lẫm liệt 
oai phong,

Dao trì cung khuyết, nhác trông gần gần.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,

Phép Lục Nương gìn giữ Chơn hồn.

(Kinh Tận Độ).



DẶM BĂNG

Dặm là chỉ một khoảng đường dài. Băng là đi tắt ngang qua. Dặm băng tức là đường đi tắt, đường đi xuyên ngang qua.



Trông chừng thấy một văn nhân,

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.

(Truyện Kiều).



DẶM HOA

Dặm chỉ đường đi. Hoa là bông hoa.

Dặm hoa là đường đi, hai bên có trồng nhiều loại hoa kiểng.

Thắng du tiện nẻo quan đăng,

Trông vời non Liễu, băng chừng dặm hoa.

(Mau Đình Mộng Ký).



DẶM HOÈ

Dặm là một khoảng đường đi. Hoè là cây hoè, một loại cây to, hoa màu vàng, thường hay trồng hai bên bờ lộ. Dặm hoè là con đường đi hai bên lộ có trồng cây hoè, dùng để gọi chung là đường đi.



Mến chúa dặm hoè xe lẩn quất,

Nhớ nhà đường hạnh ngựa giềnh giàng.

(Hồng Đức Quốc Âm).



DẶM HỒNG

Dặm là khoảng đường dài. Hồng tức hồng trần là bụi đỏ. Dặm hồng là chữ dùng để chỉ đường đi đầy gió bụi, đi một cách vất vả.



Dặm hồng bụi cuốn 
chinh an,

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.

(Truyện Kiêu).



DẶM LIỄU

Theo Hán thư: Ngày xưa bên Trung Quốc trên các con đường đều có trồng cây liễu, cứ năm dặm có một cái đình, gọi là “Đoản đình”, cứ mười dặm có một cái đình, gọi là “Trường đình” để khách bộ hành vào đó nghỉ chân, hay bẻ cành liễu để tiễn biệt nhau.

Xem: Trường đình.

1.- Chỉ nơi tiễn biệt:



Rượu đào mấy độ vơi đầy,

Trường đình dặm liễu phân tay vội vàng.

(Lưu Nữ Tướng).

2.- Chỉ nơi tha hương:

Nơi nơi tang giá bóng day,

Cày lui dặm liễu mục hoài đường lê.

(Dương Từ Hà Mậu).



Ngàn mai gió cuốn chim bay mõi,

Dặm liễu sương sa, khách bước dồn.

(Thơ Huyện Thanh quan).



DẶM NGÀN

Hay “Dặm nghìn”.

Bởi chữ “Thiên lý  ” là ngàn dặm. Dặm ngàn hay dặm nghìn dùng để chỉ đường xa thăm thẳm.

Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,

Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!

(Truyện Kiều).



Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,

Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



DẶM PHẦN

Phần: Tên một loài cây, cây phần thường trồng ở trong làng, nên người ta thường gọi chỗ quê hương, xứ sở là “Phần du 
”hoặc “Tử phần  ”.

Dặm phần là đường đi có trồng những cây phần, chỉ đường đi ở làng xóm, quê hương.

Nghĩa rộng chỉ nơi chôn nhau cắt rún.

Cửa trời rộng mở đường mây,

Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.

(Truyện Kiều).



DẶM TRƯỜNG

Dặm: Chỉ đường đi. Trường: Dài, xa.

Dặm trường tức là đường trường, chỉ đường dài, đường đi xa diệu vợi.



Roi câu vừa gióng dặm trường,

Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.

(Truyện Kiều).



DẶM XANH

Dặm xanh tức là đường đi hai bên có trồng cây và mặt đường có màu xanh của hoa cỏ.



Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

(Truyện Kiều).



DÂY CÁT ĐẰNG

Cát đằng 
: Dây sắn bìm và dây mây.

Dây cát đằng là hai loại dây leo chuyên sống bám nhờ vào gốc cây khác. Chữ cát đằng còn có nghĩa là vương vấn, vấn vít.

Cát đằng dùng để chỉ việc nương nhờ vào kẻ khác.

Dây cát đằng tỉ phận mỏng mành,

Cội tòng bá đã đành nương gởi phận.

(Phương Tu Đại Đạo).



DÂY HUÂN

Dây đàn gảy khúc “Nam phong ca”.

Bởi chữ “Huân phong  ” là ngọn gió mát mẽ.

Thuấn có câu thơ: Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề  , , nghĩa là gió nam thổi mát hề, khiến dân ta được khỏi nhọc nhằn hề.



Cầm giao sẵn gióng dây huân,

Nuôi tươi chậu chậu, cắm xuân cành cành.

(Hoa Tiên Truyện).



DÂY OAN

Tức dây oan nghiệt.

Dây oan tức những điều oan nghiệt và mầm ác mà con người sống ở thế gian đã gây ra, tạo thành những sợi dây vô hình ràng buộc lẫn nhau, trở thành oan gia trái chủ.

Dây oan xe chặt buộc mình,

Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

(Kinh Tận Độ).



Gởi hồn phách cho chàng định số,

Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.

(Kinh Thế Đạo).



Mừng nay Thanh Thủy giải dây oan,

Đường Đạo từ đây bước vững vàng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



DÂY UYÊN

Dây uyên là một trong hai sợi dây đàn giăng ngang nhau, ví như đôi chim uyên ương , một con chết thì con kia chết theo, chỉ vợ chồng.

Vợ chồng đôi bạn vắng nhau, cho nên không muốn đàn, vì một dây đã đứt thì ngại dây kia đứt theo.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



DÂY SẮN

Bởi chữ “Cát đằng  ” là dây sắn, dây bìm.

Dây sắn dây bìm là một loại dây leo chuyên quấn nhờ những cây thân to, được dùng để ví với người đàn bà sống nương nhờ bóng của ông chồng.

Quản bao tuyết đợi, sương chờ,

Xin đem dây sắn may nhờ bóng thung.

(Hoa Tiên Truyện).



DÂY THẮM

Cùng nghĩa với “Tơ thắm”, lấy ý từ chữ “Xích thằng  ” là sợi chỉ hồng, hay tơ hồng.

Do tích Nguyệt Lão xe tơ, tức là một ông già ngồi dưới trăng, dùng sợi tơ hồng để buộc chân hai người nam nữ có duyên nợ với nhau thành vợ chồng.

Dây thắm chỉ duyên đôi lứa hay duyên vợ chồng.

Xem: Chỉ thắm.

Ai ngờ trời chẳng cho làm,

Quyết đem dây thắm mà giam bông đào.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



DẤY PHỤNG RỜI GIAO

Dịch từ chữ “Khởi phụng đằng giao  ” là phượng dậy rồng bay.

Dấy phụng rời giao có ý nói văn chương hay, đẹp.

Xem: Đằng giao phụng múa.



Nói ra vàng đá chẳng xao,

Văn ra dấy phụngrời giao tưng bừng.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



DÂM BÔN 

Dâm: Chỉ ham mê nhục dục. Bôn: Chạy.

Dâm bôn có nghĩa vì sự ham muốn dâm dục mà chạy theo nhau, chứ không có cưới hỏi.



Cũng còn có lễ lệ bì,

Chê loài cẩu hợp răn bề dâm bôn.

(Truyện Trinh Thử).



DÂM Ô 

Dâm: Dâm dục. Ô: Nhơ nhuốc.

Dâm ô là dâm dục một cách xấu xa, nhơ nhuốc.



Lữ Gia truyền hịch bốn phương,

Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm ô.

(Quốc Sử Diễn Ca).



DÂM PHONG 

Dâm: Chỉ ham mê nhục dục. Phong: Phong tục, thói tục.

Dâm phong là quen thói dâm đãng.

Dâm phong còn có thể hiểu là thói tục hay phong tục dâm đãng. Ví dụ như nước Trịnh, Vệ của Trung Quốc thời xưa, theo sử sách còn truyền lại là nước “Dâm phong”.



Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,

Thói dâm phong rù quến nguyệt hoa.

(Giới Tâm Kinh).



DÂM PHỤ GIAN PHU 

Dâm phụ: Người đàn bà dâm đãng. Gian phu: Người đàn ông gian tà.

Dâm phụ gian phu là chỉ những người đàn bà dâm đãng, lấy chồng người và những kẻ đàn ông gian tà, lấy vợ kẻ khác.



Nơi Địa ngục gông kềm sẵn đủ,

Để răn loài dâm phụ 
gian phu,

(Giới Tâm Kinh).



DÂM THANH 

Dâm: Dâm dục. Thanh: Tiếng.

Dâm thanh là những tiếng hay những lời nói có tính khêu gợi lòng dâm dục.



Dâm thanh chớ để vào tai,

Ác ngôn chín chút bợn lời sam sưa.

(Gia Huấn Ca).



DÂN CON ĐỎ

Con đỏ do chữ xích tử là con mới đẻ thịt da còn đỏ. Ở đây dẫn câu: Nhược bảo xích tử  trong thiên Khang Cáo (Kinh Thư), nói ví thương dân như thương con đỏ còn nhỏ dại. Thương dân ngu mà phạm phép cũng như thương con đỏ, nhỏ dại sắp té giếng.

Nghĩa bóng: Quan trên thương xót dân lành.

Nước sông vàng leo lẻo dòng xanh,

Dân con đỏ hây hây nhà rạng.

(Sãi Vãi).



DÂN ĐEN

Bởi chữ “Lê dân  ” là dân đen. : Sắc đen. Dân: Dân chúng.

Dân đen dùng để chỉ những người dân thường không có chức vị, quyền hành gì.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

(Bình Ngô Đại Cáo).



DÂN MỤC 

Dân: Người dân. Mục: Chăn dắt.

Dân mục hay là mục dân tức là chăn dân, chỉ các quan lại trong hạt cai trị chăn dắt người dân.

Xem: Mục dân.

Đòi Giang tri phủ quở dồn:

Khen làm dân mục dung con bất tài.

(Nhị Độ Mai).



DÂN PHONG CẦN NOẠ 

Dân phong: Lề thói của dân. Cần noạ: Siêng năng hay lười biếng.

Dân phong cần noạ tức là lề thói của dân chúng siêng năng hay biếng nhác.

Người xưa hay nhìn việc cày cấy, làm lụng ở đồng ruộng của dân mà biết được dân sự có chăm chỉ cần cù làm ăn hay không.

Nhìn dã sắc, xét dân phong cần nọa,

Ngắm thuỷ quang, soi vật tính thanh ô.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



DÂN TRONG NƯỚC

Bỡi chữ “Quốc dân  ”, tức là dân của một nước. Hễ là dân của một nước thì phải chịu dưới quyền của vua và luật pháp của nước đó.

Do vậy, mới có câu chuyện sau: Hán Văn Đế rất mộ đạo, nghe tiếng vị tiên Quảng Thành Tử bèn sai sứ đến rước về triều. Quảng Thành Tử nói với sứ giả: Nếu trọng người, lẽ nào không đích thân tới rước, mà lại sai sứ tới rước? Sứ về tâu lại, Hán Văn Đế gặp Quảng Thành Tử, nhà vua nói: Ở trong nước là bề tôi của vua, Thầy tuy có đạo mặc dầu, song cũng là dân của trẫm, sao không chịu hạ mình xuống một chút mà lại kiêu như vậy? Hay trẫm không làm được hoạ phước cho Thầy chăng?

Quảng Thành Tử nghe vua nói như vậy, liền cất mình bay lên cao một trăm thước, ngồi trên thinh không ngó xuống nói với Văn Đế rằng: Nay, trên chẳng tới trời, dưới chẳng tới đất, Bệ hạ làm hoạ phước cho ta sao đặng. Vua Hán Văn Đế biết lỗi, liền xuống xe làm lễ xin thọ giáo.



DẪN ĐAO CÁT TỴ 

Lấy dao cắt mũi.

Con gái của ông Hạ Hầu Văn Ninh tên là Lịnh, gả cho Tào Văn Thúc, bị goá chồng sớm, không con, sợ người nhà đem gả mình, bèn cắt tóc, lắt lỗ tai để tự thề giữ trọn tiết. Về sau cha nàng rước về, khuyên nàng cải giá, nàng lấy dao cắt lỗ mũi, thề nguyền không đổi chí.

DẪN KHẤU NHẬP ĐÌNH 

Dẫn khấu: Dẫn dắt bọn trộm đạo. Nhập đình: Vào đình hay vào nhà.

Dẫn khấu nhập đình tức là dẫn trộm vào nhà. Theo lý thuyết y học, dẫn khấu nhập đình tức là đưa những thứ thuốc xấu vào cơ thể, gây bệnh nặng thêm.



Trong ngoài nhận chứng chăn tinh,

Mang câu dẫn khấu nhập đình tội to.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



DÂNG CANH

Tức dâng canh thịt cho mẹ.

Do tích thời Xuân Thu, có người tên là Dĩnh Khảo Thúc làm quan nước Trịnh. Có công lớn Trịnh Trang Công ban cho món canh thịt, ông để dành thịt đem về dâng cho mẹ. Trịnh Trang Công nghe chuyện có ý buồn và hối hận vì đã giam mẹ là Khương Thị ở ấp Dĩnh. Sau theo kế Dĩnh Khảo Thúc đón mẹ về cung đoàn tụ.

Kìa ai kế chí danh còn để,

Nọ kẻ dâng canh sự hãy còn.

(Hồng Đức Quốc Âm).



DÂNG CẦN

Bởi chữ “Hiến cần  ” tức là dâng rau cần, một lời tự khiêm, ý nói dâng chút lễ thành.

Sách Liệt Tử chép: Ngày xưa có người nông dân ăn rau cần thấy ngon, mới mời phú ông ăn. Phú ông ăn thử, thấy vị cay, sau lại đau bụng, bèn phiền vị nông phu kia. Rau cần đối với vị nông phu nghèo thì ăn ngon, nhưng đối với phú ông giàu có thì dở và có hại. Cho nên khi tặng ai vật gì ta đều phải nói khiêm là đồ không ngon, không tốt. Chữ “Hiến cần”(Dâng rau cần) là lời nói tự khiêm có nghĩa rau cần không ngon, không tốt. Xem: Hiến bộc hay cần bộc.

Giám từ vội vã sắm sanh,

Dâng cần chưa kịp phỉ tình tôi con.

(Hạnh Thục Ca).



DẬP LỬA VÙI HƯƠNG

Lửa hương bởi chữ hương hỏa, là do ngày xưa khi thề nguyền về nhân duyên dùng hương lửa, tức nhang đèn mà thề nguyền trước biển và núi (Thệ hải minh sơn), hay thần linh, chỉ nhân duyên.

Dập lửa vùi hương nghĩa là dập vùi hương lửa, ý nói lời thề bị phai lạt, tức nhân duyên bị vùi dập.

Ấy ai dập lửa vùi hương,

Để ai nát đá phai vàng với ai?

(Hoa Tiên Truyện).



DẬT LẠC 

Dật: Rảnh rang. Lạc: Vui vẻ.

Dật lạc có nghĩa là rảnh rang vui vẻ.



Chê sự đời phú quý 
vinh hoa,

muốn vui thú thanh nhàn dật lạc.

(Sãi Vãi).



DÂU BỂ

Bởi chữ “Tang hải  ”, tức biển dâu.

Theo Thần tiên truyện thì cứ ba chục năm lại có một lần thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu, ý nói sự thay đổi.

Nghĩa bóng: Một cuộc biến đổi lớn lao.

Xem: Tang hải thương điền.

Cơ trời dâu bể đa đoan,

Một nhà để chị riêng oan một mình.

(Truyện Kiều).



Trái đất vô tình lăn lộn mãi,

Cuộc đời dâu bể biết bao thôi.

(Thơ Tản Đà).



DÂU XANH BÃI BỂ

Bởi chữ “Tang điền thương hải  ” tức là ruộng dâu biển xanh.

Dâu xanh bãi bể dùng để nói sự biến hoá thay đổi của trời đất, vạn vật.

Xem: Tang thương.



Khúc sông bồi lấp nên cồn,

Dâu xanh bãi bể, đá mòn nước khe.

(Thơ Tản Đà).



DẤU BÈO

Dấu bèo là chữ dùng để nói nhún nhường, ví như cánh bèo trôi nổi linh đinh trên mặt nước, không biết nương nhờ vào đâu.



Nghĩ mình thô lậu bậc thường,

Dấu bèo biết có vào gương trang đài.

(Ngọc Kiều Lê).



Dấu bèo nhờ có đèn trời rạng,

Lượng bể dong cho sóng đất êm.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



DẤU GIẦY NON MÃ

Tức là dấu giầy của Dương Quý Phi ở Mã Ngôi.

Do tích An Lộc Sơn nổi lên làm loạn, Đường Huyền Tông cùng Dương Quý Phi phải chạy vào đất Thục, đến ghềnh Mã Ngôi, quân sĩ không chịu tiến bước, buộc Huyền Tông giết Dương Quý Phi. Vua đành phải nghe theo.

Bạch Cư Dị có câu: Mã Ngôi pha hạ nê thổ trung, bất kiến ngọc nhan không tử xứ  , , nghĩa là dưới chỗ bùn đất ở ghềnh Mã Ngôi, không thấy gương mặt ngọc, chỉ thấy nơi nàng chết.



Ải Vân oán điệu tỳ bà,

Giấu giày non Mã sương pha nên đồ.

(Hoa Tiên Truyện).



DẤU THỎ ĐƯỜNG DÊ

Dấu thỏ đường dê ý nói đường sá rậm rạp, xa xôi và vắng vẻ, không có người đi, chỉ toàn dấu chân thỏ và chân dê.



Trải qua dấu thỏ đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngường dê,

Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.

(Lục Vân Tiên).



DẦU SỐNG SÓT CŨNG ĐÀNG GỌI THÁC

Người đàn bà ngày xưa khi chồng đã chết rồi, thường tự xưng mình là “vị vong nhân  ”, là người chưa chết, ý muốn nói phận đàn bà buộc phải theo chồng, lẽ ra chồng chết phải chết theo, nếu còn sống sót là người đáng chết mà chưa chết vậy.

Dầu sống sót cũng đành gọi thác là người vợ tuy còn sống sót (vị vong nhân) nhưng xem như mình đã chết rồi, tức không còn tha thiết với cuộc đời nữa.

Dầu sống sót cũng đành gọi thác,

Vui chi còn man mác tơ duyên.

(Kinh Thế Đạo).



DỆT GẤM HỒI VĂN

Tức là “Chức cẩm hồi văn  ”, là một bài thơ của Tô Huệ dệt quanh lộn trên bức gấm, rồi dâng lên cho vua để xin cho chồng đang tòng quân ngoài chiến địa được tha trở về quê nhà.

Xem: Dệt văn Tô Huệ.

Dệt gấm Hồi văn chưa, đã mấy,

Hơn ngồi trươu nuốt tấm tình si.

(Thiên Thai Kiến Diện).



DỆT VĂN TÔ HUỆ

Tức là “Chức cẩm hồi văn  ”. Chức cẩm: Dệt gấm. Hồi văn: Một thể văn biệt thể, khởi từ ông Tô Bá Ngọc đời nhà Tấn.

Sách Tấn Thư Truyện Liệt Nữ chép: Vợ của Đậu Thao họ Tô tên Huệ, tự là Nhược Lan. Đậu Thao tùng chinh vùng lưu sa (Sa mạc), Tô Huệ dệt gấm, dệt thành bài thơ hồi văn, xin cho chồng về, dệt năm màu chỉ tươi đẹp, dọc ngang qua lại, lời rất bi thương.

Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,

Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DI CHIẾU 

Di: Người chết để lại. Chiếu: Tờ giấy ghi mệnh lệnh của vua.

Vua mất đi để lại mệnh lệnh trong một tờ giấy gọi là “Di chiếu”.



Một thiên di chiếu tỏ lòng,

Giữ sau răn trước đủ trong mấy lời.

(Hạnh Thục Ca).



DI DANH 

Di: Để lại. Danh: Tiếng tăm.

Di danh là để lại tiếng tăm tốt đẹp, đồng nghĩa với chữ “Lưu danh  ”.

Theo quan niệm về chữ hiếu của Đức Khổng Tử, là làm con phải “Lưu danh ư hậu thế dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã  , , , nghĩa là để lại tiếng tăm cho đời sau để làm rạng rỡ cha mẹ, đó là cái hiếu rốt vậy.

Lòng hiếu dưỡng trăm năm đã lỡ,

Lời di danh hai chữ còn mang.

(Tự Tình Khúc).



DI ĐÀ 

Tức Phật A Di Đà.

Một trong những vị Phật quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Ngài được thờ trong các ngôi chùa của phái Tịnh Độ Tông tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.

A Di Đà là một vị Phật làm Giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc. Ngài biểu hiện cho từ bi và trí tuệ. Ngài có phát 48 lời nguyện rộng lớn là cứu độ tất cả chúng sanh, trong đó có lời nguyện sẽ tiếp dẫn vãng sanh về cõi Tịnh độ, nếu chúng sanh nào hướng niệm đến Ngài.

Xem: A Di Đà.

Chắp tay niệm Phật Di Đà,

Kẻ ngồi người đứng, kẻ ra người vào.

(Hương Sơn Hành Trình).



Chẳng nề muôn dặm đường xa,

Chân đi miệng niệm Di Đà độ thân.

(Nữ Tú Tài).



Cái chốn đoạn trường trang trắng nợ,

Đành cam dưa muối với Di Đà.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



Giáng linh Hộ Pháp Di Đà,

Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.

(Kinh Tận Độ).



Tây phương Phật Tổ Di Đà,

Nam Hải Phổ Đà cứu khổ Quan Âm.

(Giới Tâm Kinh).



Thành tâm khả tụng kệ Di Ðà,

Bất vấn trì môn ngữ thậm đa.

(Đạo Sử).



DI ĐÀ SÁU CHỮ

Nghĩa từ câu “Lục tự Di Đà  ”.

Di Đà sáu chữ tức là nói đến câu niệm hồng danh của Đức A Di Đà Phật, giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc. Đó là câu: “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Di Đà sáu chữ mựa rời,

Chịu truyền năm giới, trọn đời tinh chuyên.

(Hứa Sử Tân Truyện).



DI ĐỊCH 

Di địch là mọi rợ, dùng để chỉ bọn giặc cướp, hay chỉ bọn chưa khai hoá.

Ngày xưa người Trung Hoa cho các dân tộc chưa được khai hoá ở phương đông gọi là Di, phương tây gọi là Nhung, phương nam gọi là Man, phương bắc gọi là Địch. Nên người ta thường dùng chữ “Di địch” để chỉ bọn mọi rợ.

Nước Nam ta có mối xung thù,

Cùng giặc Tây là loài Di địch.

(Cáo Thị Cần Vương).



DI HÀI 

Di: Để lại. Hài: Xương cốt hình thể con người.

Di hài tức là xác thân của người chết còn để lại.



Di hài nhặt gói về nhà,

Nào là khâm liệm nào là tang trai.

(Truyện Kiều).



DI HÌNH 

Di: Để lại. Hình: Hình hài, tức là cái xác, cái thây.

Di hình có nghĩa là người ta chết đi, sau khi hồn xuất để lại cái xác. Đồng nghĩa với chữ di hài.



Hồ công nghe nói thương tình,

Truyền cho cảo táng di hình bên sông.

(Truyện Kiều).



DI LUÂN 

Di: Đạo thường của người đời. Luân: Đạo lý.

Di luân là đạo rất bình thường mà ai cũng biết rõ đó là cương thường và ngũ luân.



Rằng cương thường nặng núi non,

Hãy còn trời đất, hãy còn di luân.

(Hoa Tiên Truyện).



Kể chi kẻ đạt người cùng,

Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



DI LƯU 

Di: Để lại. Lưu: Để lại về sau.

Người chết đi để lại về sau bất cứ sự việc gì cho con cháu đều gọi là “Di lưu”.



Mọi điều trước dặn biểu cho,

Di lưu chẳng sót, hãy lo việc đời.

(Hạnh Thục Ca).



DI MƯU 

Di: Để lại. Mưu: Tính toán.

Di mưu tức là sự tính toán có lợi ích để lại cho con cháu sau này.



Nội đình năm vị nữ quân,

Nặng tình kiêm ái, quên phần di mưu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



DI NGÔ 

Di Ngô là người nước Tề, thời Xuân Thu, họ Quản tên Trọng, diện mạo khôi ngô, học lực uyên bác, lại có tài kinh bang tế thế.

Di Ngô cùng Bảo Thúc Nha kết làm anh em sinh tử có nhau. Về sau, Di ngô làm tướng cho Tề Hoàn Công, được tôn là Trọng phụ, giúp Hoàn Công gầy nên nghiệp bá.

Thái công trí độ tác nhiều,

Di Ngô dám ví Vũ Hầu khá so.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



Dưới màn nhớ tư tưởng Di Ngô,

Trên ngựa những băn khoăn Bạch Khỉ.

(Hàn Vương Tôn Phú).



DI NGÔN 

Di: Để lại. Ngôn: Lời nói.

Lúc hấp hối những lời nói để lại cho người thân gọi là di ngôn.



Di ngôn cũng có lời này,

Cũng là niên thiếu em rày dám trao.

(Hạnh Thục Ca).



DI SƠN 

Dời núi.


Do tích “Ngu Công di sơn 
” như sau: Xưa có Ngu Công tuổi đã 90, muốn phá hai ngọn núi Thái Hành và Vương Ốc chắn ngang nhà ông. Có người thấy vậy cười. Ông nói: Ta chết đi còn có con, con chết đi còn có cháu, cháu chết đi còn có con của cháu, như vậy, lo gì không san bằng được hai ngọn núi ấy”.

Nghĩa bóng: Bền chí thì nên việc.



DI TỀ 

Viết tóm tên của hai nhân vật là Bá Di và Thúc Tề.

Bá Di, Thúc Tề là hai người con của vua Cô Trúc ở cuối đời Thương, đầu đời Châu. Bá Di là anh cả, Thúc Tề là em út. Vua Cô Trúc yêu Thúc Tề, lập di mệnh cho Thúc Tề nối ngôi. Quốc dân theo di mệnh lập Thúc Tề, Thúc Tề không chịu, nhường lại cho Bá Di cho phải lẽ. Bá Di cũng không chịu, nhường lại cho Thúc Tề để tuân lệnh cha. Không ai chịu nhận rồi cả hai trốn vào núi ở ẩn, quốc dân phải lập người con giữa.

Lúc đó Bá Di và Thúc Tề nghe tiếng Ông Tây Bá Xương khéo nuôi người già, muốn tới qui phục. Tới nơi thì Tây Bá đã mất. Vua Võ Vương chở thần chủ (Linh vị) của Tây Bá đem quân qua đông phạt Trụ. Bá Di Thúc Tề dập đầu trước ngựa mà can rằng: Cha mới chết (Tây Bá Xương) mà dấy động can qua thì có đáng gọi là hiếu không? Làm tôi đánh vua có đáng gọi là trung không? Kẻ tả hữu của nhà vua muốn giết, ông Thái Công bảo: Hai người đó là hiền sĩ, bèn đỡ dậy, rồi thả cho đi.

Khi Võ Vương đánh Trụ thắng, lên làm vua xưng hiệu nhà Châu, thiên hạ đều thần phục, chỉ Bá Di, Thúc Tề cho hành vi của Võ Vương là đáng xấu hổ, nên không thờ nhà Châu và giữ nghĩa khí, chẳng chịu ăn lúa nhà Châu, lên ở ẩn trên núi Thú Dương, hái rau vi mà nuôi sống. Có người gặp, chê rằng: Không ăn thóc nhà Châu, đi ăn rau để sống. Vậy chớ ngọn rau tấc đất không phải của nhà Châu là gì? Bá Di, Thúc Tề nghe được câu chuyện đó, bèn nhịn đói mà chết.

Sáng mai thức dậy trông quanh,

Treo trên thấy có bức tranh Di Tề.

(Nhị Độ Mai).



Di Tề chẳng khứng giúp Châu,

Ăn rau non Thú phải âu trọn mình.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Khiêm nhường ấy mới miều quân tử,

Ai thấy Di Tề có thửa tranh.

(Quốc Âm Thi Tập).



Lại cho cướp đặng báu trời,

Thẹn cùng Tử Ngữ, hổ ngươi Di Tề.

(Hoài Nam KHúc).

 

DI TỬ HÀ 

Tử Hà là người nước Vệ, đời Đông Châu, được vua Vệ Linh Công hết sức yêu mến. Một hôm, bà mẹ đau, Tử Hà trộm lịnh lấy xe vua về thăm, vua khen là người có hiếu. Ngày khác, đi dạo với vua trong vườn cây, gặp đào chín bèn hái trái ăn, thấy ngon còn lại nửa trái liền dâng lên nhà vua. Vua cũng khen: Tử Hà là tôi trung, biết thương quả nhân, ăn miếng ngon mà vẫn chia sớt cho quả nhân.

Sau có người gièm siễm, vua ghét rồi bắt tội Tử Hà phạm hai tội: Một, khinh mạng vua, lấy trộm xe vua về thăm mẹ. Hai, ăn thừa quả đào rồi dâng cho vua.

DI THỂ 

Di: Để lại. Thể: Thân thể.

Sở dĩ gọi là di thể là bởi vì tấm thân của ta do cha mẹ để lại cho ta.



Phù sinh một sợi tơ mành,

Giữ gìn di thể như hình thiên kim.

(Tự Tình Khúc).



Cô trung quyết giữ lời thề,

Để hồn di thể đi về cho an.

(Tự Tình Khúc).



Bấy lâu tin tức đã im,

Ai hay di thể còn tìm thấy đây?

(Quan Âm Thị Kính).



DI TRUYỀN KHUYẾN THIỆN 

Di truyền: Truyền để lại. Khuyến thiện: Khuyên làm việc lành.

Di truyền khuyến thiện là nói kinh sách truyền lại cho những người sau này để khuyên làm những việc thiện lành.



Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,

Câu văn từ luận biện thật thà.

(Kinh Sám Hối).



DÌ GIÓ

Do chữ “Phong di  ”, là dì gió, một vị Thần làm gió.

Theo Bác Dị Chí, Thần gió được gọi là Phong gia thập bát di  , tức là dì mười tám nhà họ Phong.

Nghĩa bóng: Người đưa tin.



Gặp Hương mới kể sự tình,

Xin nhờ Dì gió đệ trình trướng loan.

(Hoa Tiên Truyện).



Nước non một gánh nhẹ thay,

Lứa vui Dì gió bạn vầy ải trăng.

(Sơ Kính Tân Trang).



Phải rằng: Dì gió hay không?

Phong tình đem thói lạ lùng trêu ai?

(Thơ Tản Đà).



Cậy gió, hềm Dì gió đảo điên,

Mượn trăng, e ả trăng xao lãng.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



DĨ ĐỨC HÀNH NHÂN 

Dĩ đức: Lấy phước đức. Hành nhân: Làm nhơn.

Dĩ đức hành nhân nghĩa là lấy điều phước đức để thi hành lòng nhơn của mình.



Chẳng nhớ câu “Dĩ đức hành nhân”,

Lại lấy chữ “Báo ân dĩ óan”.

(Lục Súc Tranh Công).



DĨ HOÀ VI QUÝ 

Dĩ hoà: Lấy chữ “Hoà”. Vi quý: Làm điều quý.

Dĩ hoà vi quý là lấy chữ “Hoà” làm điều quý báu, tức là phải sống hoà hợp với mọi người.



Chữ rằng nhân dĩ hoà vi quý,

Vô sự thì hơn kẻo phải lo.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



DĨ MÃ DIỆT NGƯU 

Lấy ngựa diệt trâu, ý nói lấy người này tiêu diệt người kia, như trong sử Tàu có câu chuyện “Dĩ Lã diệt Dinh  ”, là lấy họ Lã làm tiêu mất họ Dinh.

Do chuyện Lã Bất Vi đời Chiến Quốc, đem vợ đang có thai hai tháng gả cho Dị Nhân, sau đẻ ra Tần Thuỷ Hoàng. Đúng ra, Tần Thuỷ Hoàng là họ Lã (Con Lã Bất Vi), chớ không phải họ Dinh.

Như vậy, khi Tần Thuỷ Hoàng lên ngôi thì họ Dinh, họ vua nhà Tần từ đó đã tiêu mất.



Nghĩ xưa buộc chính chuyên chẳng lạ,

Vì sợ đời dĩ Mã diệt Ngưu.

(Đạo Sử).



DỊ ĐOAN 

Dị: Khác, lạ. Đoan: Mối, ngay thẳng.

Trái với chính đạo gọi là dị đoan.

Những tin tưởng nhảm nhí không đúng sự thật. Ngày nay chữ “Dị đoan” thường được gắn liền với mê tín.

Luận ngữ có câu: Công hồ dị đoan  , tức là đánh tan những mối dị đoan.



Dị đoan mê hoặc khôn chừa,

Chùa tô phật tượng, đình thờ Thích Ca.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Bấy lâu chuộng thói dị đoan,

Đến nay mới biết lầm đường đi xa.

(Dương Từ Hà Mậu).



Hội xem cho rõ phép Thiên Hoàng,

Cầu lếu những điều của dị đoan.

(Đạo Sử).



DỊ NHÂN 

Tên cháu vua nước Tần, đem quân đánh với Triệu thua, bị bắt làm con tin ở đất Triệu, nhờ Lã Bất Vi đem vợ đang có thai hai tháng gả cho, rồi lập mưu cứu thoát, đưa về nước. Về sau, được lên ngôi, nhưng chẳng bao lâu thì mất.

Xem: Bất Vi

Người nay sao phải nhà Tần,

Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm.

(Lục Vân Tiên).



DỊ TƯỚNG 

Dị: Khác thường. Tướng: Trạng mạo, hình dáng con người.

Dị tướng là người có tướng khác thường, tức là có tướng lạ.



Vân Tiên biết kẻ chính tà,

Hễ người dị tướng ắt là tài cao.

(Lục Vân Tiên).



DỊCH ĐÌNH 驛亭

Dịch: Trạm nghỉ. Đình: Ngôi nhà nhỏ.

Dịch đình là những ngôi nhà nhỏ được cất dọc trên đường để các phu trạm ngày xưa mang thư tín, hay công văn của triều đình tạm nghỉ ngơi. Hành khách đi đường cũng nghỉ chân ở những ngôi nhà này.



Nhìn xem phong cảnh khác vời,

Mới dừng yên tạm trú nơi dịch đình.

(Lưu Nữ Tướng).



DỊCH KINH 

Kinh: Sách của Thánh hiền. Dịch: Thay đổi.

Dịch kinh hay kinh Dịch là quyển sách giải thích về sự thay đổi, biến hoá trong trời đất. Kinh dịch có thể đem áp dụng qua y học và lý số, nên sau này người dùng vào việc bói toán. Kinh dịch do vua Phục Hy đặt ra tám quẻ, gọi là bát quái, sau này Khổng Tử giải thích các quẻ ấy thành kinh dịch.



Muốn coi phép ấy 
cho tinh,

Đồ thư Hà Lạc, Dịch kinh rõ bàn.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



DỊCH LỄ 

Dịch là Kinh Dịch, một trong ngũ kinh của Nho gia. Dịch có tám quẻ chính, gọi là bát quái, mỗi quẻ có ba hào, tượng trưng bằng ba vạch ngang, sau chồng lên thành sáu hào, gọi là quẻ kép và có sáu mươi bốn quẻ kép. Xem: Châu Dịch.

Lễ là Kinh Lễ, một bộ sách chép về những lễ nghi, để nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp, để giữ trật tự phân minh và để tiết chế tình dục.

Thi Thư Dịch Lễ đều tinh,

Xuân Thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.

(Gia Huấn Ca).



DỊCH NHA 

Một người thợ nấu ăn giỏi cho vua Tề Hoàn Công đời Chiến Quốc. Hoàn Công thường nói đùa với Dịch Nha: “Các giống điểu thú trùng ngư, ta ăn gần đủ mùi, chỉ có thịt người thì chưa biết vị nó ra thế nào?”.

Dịch Nha là đứa cầu mỵ với vua, nghe vua nói bèn về bắt đứa con đầu lòng lên ba tuổi, làm món ăn dâng vua. Tề Hoàn Công ăn ngon, hỏi ra mới biết, cho là Dịch Nha yêu mình, có ý tin dùng.

Sau Dịch Nha mưu phản, bỏ vua Tề Hoàn Công trong hầm đá hơn nửa tháng, đói khát mà chết.



DỊCH ÔN 

Dịch: Bệnh dịch, một loại bệnh truyền nhiễm. Ôn: Bệnh ôn, cũng là loại bệnh nhiễm.

Dịch ôn là nói chung các loại bệnh dịch cõ tính truyền nhiễm.



Kẻ thì mắc phải dịch ôn,

Kẻ thì thuỷ hoả gian nan kia mà.

(Gia Huấn Ca).



DỊCH TÁNH BIẾN TÌNH 

Dịch tánh: Thay đổi tánh. Biến tình: Biến hoá tình.

Dịch tánh biến tình là thay đổi tánh tình.



Song chẳng can danh phạm ngãi;

cũng không dịch tánh biến tình.

(Sãi Vãi).



DỊCH XUÂN 

Gởi cành mai mùa xuân cho phu trạm.

Nghĩa bóng: Để chỉ tin tức.

Do bài thơ đời nhà Đường của Lục Khải gởi cành mai cho bạn. Bài thơ ấy như sau: Chiết mai phùng dịch sứ, Ký dữ Lũng Đầu nhân. Giang Nam vô sở hữu, Dao tặng nhất chi xuân  使, . , , Nghĩa là bẻ mai vừa gặp trạm, Lũng Đầu gởi cố nhân. Giang Nam gì chẳng có. Xa tặng một cành xuân.



Cầu sương dặm tuyết chờ ai,

Dịch xuân đành tỏ tin mai những mừng.

(Hoa Tiên Truyện).



DIÊM CUNG 

Diêm: Diêm Vương. Cung: Cung điện.

Diêm cung là cung điện của vua Diêm Vương, chỉ cõi Âm phủ.

Xem: Âm phủ.

Chốn Tây phương đường đi thong thả,

Cõi Diêm Cung tha quả vong căn.

(Kinh Thế Đạo).



Ðồng phồn đưa rước viếng Diêm Cung,

Ai đã trước đi hỏi nhắn cùng.

(Đạo Sử).



DIÊM ĐÀI 

Diêm: Diêm Vương. Đài: Đền đài.

Diêm đài là cung điện, đền đài của Diêm Vương, chỉ cõi Âm phủ.

Xem: Dạ đài.

Phút đâu Thiên sứ nan kỳ,

Mẫu từ mãn số dĩ quy Diêm đài.

(Tội Vợ Vợ Chịu).



DIÊM ĐÌNH 

Diêm: Diêm Vương. Đình: Triều đình.

Diêm đình tức là triều đình của vua Diêm Vương, chỉ cõi âm phủ.

Xem: Diêm quan.

Hỏi ta có sống thật tình,

Hay là giấc mộng Diêm Đình đưa nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Trời với Diêm Ðình đôi ngõ trở,

Muốn toan thoát tục liệu mà dùng.

(Đạo Sử).



DIÊM LA 

Tức Diêm La Vương, nói tắt là Diêm Vương, dịch từ chữ Phạn, nghĩa là buộc trói người có tội lỗi.

Diêm la dùng để chỉ cõi Địa ngục, Âm phủ.

Xem: Thập Điện Diêm Vương.



Trong chùa lại có 
hai hang,

Một đàng Bích lạc, một đàng Diêm la.

(Dương Từ Hà Mậu).



DIÊM PHONG 

Diêm: Diêm đình. Phong: Phong đô.

Diêm phong là Diêm đình, Phong đô, chỉ cõi Âm phủ. Xem: Phong đô.



Để sau xuống chốn Diêm phong,

Nghiệt đài chiếu kính có trong lời thề.

(Tội Vợ Vợ Chịu).



DIÊM PHÙ

Hay “Diêm phủ  ”.



Diêm: Diêm Vương. Phủ: Ngôi nhà, nơi dùng để làm việc quan.

Diêm phủ hay Diêm phù là nơi Diêm Vương ở, dùng để chỉ Địa ngục âm phủ.

Xem: Địa ngục.

Thịt xương gửi đám Diêm phù,

Sinh sinh hóa hóa trong lò hồng quân.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



DIÊM QUAN 

Diêm: Diêm Vương. Quan: Cửa cổng.

Diêm quan là cửa cổng dẫn đến đền đài của Diêm Vương, chỉ nơi Địa ngục, Âm phủ.

Xem: Địa ngục.

Tục kêu rằng chốn Diêm quan,

Ở miền âm phủ sửa sang việc đời.

(Dương Từ Hà Mậu).



Phút giây xuống tới Diêm quan,

Vào đền ngó thấy rõ ràng mười ông.

(Tội Vợ Vợ Chịu).



DIÊM VƯƠNG 

Diêm Vương tức là Diêm La Vương là vua coi cõi Địa ngục, Âm phủ. Có thuyết cho rằng Diêm Vương xưa là Quốc vương nước Sa Tỳ, nguyện lúc chết làm chúa coi ngục cõi Âm phủ.



Phép hay sái đậu thành binh,

Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương.

(Lục Vân Tiên).



Án tào quỷ sứ phụng chương,

Đặng dâng bệ ngọc, Diêm vương ngự rằng.

(Dương Từ Hà Mậu).



Ăn gian xớt bớt cho mình,

Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm vương.

(Kinh Sám Hối)



DIỄM TỬ 

Diễm Tử sinh vào đời nhà Chu, thờ cha mẹ rất có hiếu. Cha mẹ ông tuổi đã già, mắt bị loà, lại thèm uống sữa hươu. Diễm Tử phải giả làm hươu con, lấy da hươu khâu làm áo mặc, vào rừng lân la đến gần những con hươu mẹ để vắt lấy sữa.

Một hôm gặp bọn người đi săn, tưởng là hươu con, dương cung toan bắn, Diễm Tử la lên, vội bỏ lớp hươu con ra, và bày tỏ cho người đi săn biết, người thợ săn mới tha cho.

Chu, Diễm Tử làm con rất thảo,

Chiều hai thân tuổi lão niên cao.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



DIÊN LĂNG QUÝ TỬ 

Con vua nước Ngô thời Xuân Thu là Quý Trát, được phong ở đất Diên Lăng, nên người đương thời gọi là Diên Lăng Quý Tử. Vua Ngô phái Quý Trát đi sứ sang Tấn, khi đi ngang qua nước Từ, thấy vua Từ có ý muốn thanh bảo kiếm của mình thì định bụng sau khi đi sứ về sẽ tặng cho vua nước Từ.

Nhưng chẳng may! Chừng trở về, vua nước Từ đã mất. Quý Tử bèn đến mộ, đặt thanh kiếm trước mộ và nguyện rằng: Người Liêm sỉ dù hứa với lòng cũng không bao giờ quên được.

Sau Ngô vương muốn nhường ngôi lại cho Quý Tử, nhưng ông không nhận, rồi về ở ẩn xứ Diên Lăng.



DIÊN TRÌ 

Diên: Kéo dài. Trì: Chậm chạp.

Diên trì có nghĩa là chậm chạp, kéo dài thời gian.



Ba ngày trông chẳng thấy chi,

Hẳn là có ý diên trì mạn khinh.

(Hạnh Thục Ca).



Nếu diên trì Tạ tặc nhập cung,

Ắt Thứ Hậu vô phương tẩu thoát.

(Nhạc Hoa Linh).



DIỆT TRẦN TÌNH 

Diệt trần tình là diệt những tình cảm xấu xa của con người nơi cõi trần.

Theo Phật, trần gian là cõi uế trược, nên những thứ tình cảm của con người đối xử với nhau nơi cõi ấy cũng xấu xa ô trược.

Người ta chia tình cảm của con người ra làm bảy thứ, gọi là thất tình. Đó là: Hỷ (mừng), nộ (giận), ái (yêu), ố (ghét), ai (buồn), lạc (vui) và dục (muốn).



Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,

Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.

(Kinh Thế Đạo).



DIÊU NGUỴ 

Diêu Nguỵ là hai họ đã tìm ra hoa mẫu đơn.

Hoa mẫu đơn là một thứ hoa có nhiều màu sắc, thân cao, lá có năm chia, hoa lớn nhiều hương thơm. Hoa mẫu đơn là một loại hoa được tôn là “Hoa Vương” (Vua các loài hoa) hay “Phú quý hoa” hay “Quốc sắc thiên hương”

Họ Diêu đã tìm ra đầu tiên giống hoa mẫu đơn màu vàng, còn họ Nguỵ đã tìm ra được hoa mẫu đơn màu tím. Hoa mẫu đơn mà vàng gọi là “Diêu hoàng”, hoa mẫu đơn màu tím gọi là “Nguỵ tử”, còn hoa mẫu đơn màu vàng tím gọi là “Diêu Nguỵ” hoặc “Diêu hoàng Nguỵ Tử”, hoặc “Cành Diêu đoá Nguỵ”.



Xảy nhớ khi cành Diêu đoá Nguỵ,

Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



DIÊU TRÌ CUNG 

Diêu (Dao): Một loại ngọc. Trì: Ao.

Diêu Trì hay Dao Trì là một cái ao được làm bằng ngọc dao. Ao Diêu Trì nằm nơi cung ngự của Đức Phật Mẫu, nên cung này được gọi là Diêu Trì Cung. Đức Phật Mẫu ngự nơi Cung Diêu Trì, nên được gọi là Diêu Trì Phật Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu.



Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,

Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.

(Kinh Tận Độ).



DIỀU BAY CÁ NHẢY

Bởi chữ “Diên phi ngư dược  ” trong Kinh Thi: Diên phi lệ thiên, ngư dược vu uyên  , nghĩa là diều bay cao ngang trời, cá nhảy ở vực sâu.

Diều bay cá nhảy ý muốn nói loài vật được yên vui với sự sống và bay nhảy trong chốn tự nhiên.

Bành dược thường thua con tạo hoá,

Diều bay cá nhảy đạo tự nhiên.

(Quốc Âm Thi Tập).



DIỀU ĐỨT DÂY

Diều là một vật người ta dán bằng giấy, cột vào sợi chỉ, rồi nhờ gió mà thả bay cao trên trời.

Diều đứt dây tức là diều được thả bay cao, gió mạnh làm đứt sợi chỉ, diều rơi ra xa, chỉ người có tiền tài, danh vọng lên cao mà bị sụp đỗ như diều đứt dây.

Có tiền chưa dễ mà tiêu,

Ham danh lắm kẻ như diều đứt dây.

(Thơ Tản Đà).



DĨNH XUYÊN 

Hay Dĩnh thuỷ, tên một con sông phát nguyên ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, chảy qua tỉnh An Huy vào sông Hoài.

Sách Cao Sĩ truyện chép rằng: Hứa Do cày ruộng ở phía bắc sông Dĩnh Thuỷ, dưới núi Cơ Sơn, vua Nghiêu nghe tiếng, mời ông làm chức Cửu châu trưởng (Trưởng chín châu), Hứa Do không muốn nghe lời đó, đến rửa tai ở bến sông Dĩnh Thuỷ.

Bài “Hành Lộ Nan” của Lý Bạch có câu: Có tai, chớ nên rửa trên dòng sông Dĩnh: Hữu nhĩ mạc tẩy Dĩnh xuyên thuỷ  .



DOÃN A HÀNH

Tức là Y Doãn đời nhà Thương, được vua Thành Thang phong làm chức A Hành, giúp vua dựng nghiệp lớn và cai trị thiên hạ được thái bình.

Xem: Y Doãn.

Cơ chi có Doãn A Hành,

Làm chi đến nỗi rối mành nhà Thương.

(Hoài Nam Khúc).



DOÃN CHƯA THANG VỜI

Y Doãn chưa được vua Thành Thang mời về giúp nước, lúc ấy ông vẫn còn cày ruộng nơi đất Hữu Sằn.

Xem: Y Doãn.

Doãn chưa đặng lễ Thang vời,

Cày kia chưa dễ buông nơi nội Sằn.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



DOÃN DU 

Doãn: Bằng lòng cho. Du: Vui vẻ.

Doãn du nghĩa là vui vẻ chấp thuận, hay sẵn sàng bằng lòng cho.



Lượng trên người chẳng vui tình,

Dẫu nhiều hay lẽ chẳng đành doãn du.

(Hạnh Thục Ca).



DOÃN PHỦ 

Doãn phủ tức là Nghi Hành Phủ và Liên Doãn Tương Lão.

Do tích Hạ Cơ là người con gái rất đẹp,con gái Trịnh Mục Công, thời Xuân Thu, có tính đa dâm. Sau khi goá chồng, bà lấy rất nhiều người, trong đó có Khổng Ninh, Nghi Hành Phủ và vua nước Trần là Linh Công. Sau khi vua Trần chết, Hạ Cơ còn gá nghĩa với Liên Doãn Tương Lão, và nhiều người khác nữa, cuối cùng bà phải trốn sang qua nước Tấn.

Hạ Cơ lớn nhỏ cũng ưa,

Sớm đưa Doãn phủ, tối ngừa Trần Quân.

(Lục Vân Tiên).



DOANH CHÂU 

Một trong ba hòn đảo ở giửa biển Bột Hải. Tương truyền Doanh Châu là nơi có Tiên ở, nên chốn đó được dùng để chỉ cõi Tiên. Hai hòn đảo kia là Phương Trượng (Phương đảo) và Bồng Lai (Bồng đảo).

Xem: Bồng Lai.

Trai tài gái sắc ai bì,

Doanh Châu ấy khách, Dao Trì nọ Tiên.

(Hoa Tiên Truyện).



Ngỡ là bể Doanh Châu, non Bồng Đảo,

mình được hóa tiên,

Chẳng cốc quê hoàng nhưỡng, núi Bắc mang,

thân đà nên quỷ.

(Thập Giới Cô Hồn).



DOANH ĐẢO 

Hay “Dinh đảo”.

Tương truyền giữa biển Bột Hải có ba hòn đảo là nơi Tiên ở, đó là Doanh (Dinh) đảo, Bồng đảo và phương đảo.

Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,

Dinh đảo nghiêng vai Thánh khảy đờn.

(Đạo Sử).



DOANH HOÀN 

Doanh
Hay dinh, bể rộng to. Hoàn: Đất rộng lớn.

Doanh hoàn chỉ quả đất, hay nói cõi thế gian.



Doanh hoàn là cuộc đua chen,

Rồng Tiên phải giống ngu hèn mà cam.

(Thơ Tản Đà).



DOANH HƯ TIÊU TRƯỞNG 

Doanh hư: Lúc đầy đủ, lúc thiếu. Tiêu trưởng: Lúc nhỏ đi, lúc lớn lên.

Doanh hư tiêu trưởng tức là khi nhỏ khi lớn, hay lúc đầy lúc vơi.

Nghĩa rộng: Lúc vầy lúc khác.

Doanh hư tiêu trưởng có ngày,

Trước giàu sau khó, vận xây bỡi Trời.

(Huấn Nữ Ca).



DOANH LIỄU 

Hay “Dinh liễu”.

Doanh liễu, tức Dinh Tế Liễu, tên một nơi đóng quân ở đất Tế Liễu, Châu Á Phu đóng quân để chống cự với rợ Hồ ở tại đó.

Hán Thư chép: Hán Văn Đế đến Dinh Tế Liễu là đồn của tướng Châu Á Phu đóng quân chống rợ Hồ để thưởng quân sĩ, vua thấy phép quân rất nghiêm, bèn cho tướng Châu Á Phu một tướng quân xứng đáng của triều đình vậy. Doanh liễu dùng để chỉ nơi đóng quân.

Xem: Tế liễu dinh.

Quân trước đã gần ngoài Doanh liễu

Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng dương.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



DOANH PHÍ 

Hay “Dinh phí”.



Doanh: Lo tính để làm một công việc gì. Phí: Tổn phí. Doanh phí là phí tổn trong công việc.

Địa tàng đã sẵn kim ngân,

Đủ dùng doanh phí trăm phần chi lo.

(Hạnh Thục Ca).



DOANH TIỀN 

Hay “Dinh tiền”.



Doanh: Trại lính ở. Tiền: Trước.

Doanh tiền tức là trước doanh trại của lính.



Khiến quân đem bức thư mời,

Lục ông Vâng lệnh tới nơi dinh tiền.

(Lục Vân Tiên).



DOANH THÂU 

Hay đọc là ‘Doanh du”, “Dinh du”.



Doanh: Hơn, lời. Thâu: Thua, lỗ.

Doanh thâu tức hơn thua, thắng bại, hay lời lỗ.

1.- Doanh thâu:

Cuộc doanh thâu bàn bạc bắc nam chơi,

khúc lưu thủy gảy vài cung réo rắt;

(Phản Tây Hồ Tụng).



Doanh thâu một cuộc vừa rồi,

Bàng quan song đã có người Lạn Kha.

(Truyện Từ Thức).

2.- Doanh du:

Anh hùng mạc bả doanh du luận,

Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.

(Thơ Nguyễn Hữu Huân).



DOÀNH LA

Doành: Dòng sông. La: một thứ lụa trắng, mịn và mỏng. Đây ý nói mặt nước phẳng và trắng như lụa, do sự phản chiếu ánh sáng. Trong văn cổ, cũng thường dùng hình ảnh sóng gợn trên mặt nước như dòng lụa trắng.

Dã men vừa sánh giọng trà,

Nhà lan treo tháp, doành la xuống thuyền.

(Mai Đình Mộng Ký).



DOÀNH NGÂN

Doành: Vùng nước sâu. Ngân: Trắng như bạc.

Doành ngân là vùng nước sâu màu trắng như bạc.



Nàng bèn truyền gọi thổ nhân,

Đem hòm áo, phó doành ngân tức thì.

(Nhị Độ Mai).



Mảng vui sào cạy, mái phê,

Doành Ngân bóng thỏ đã xê ngang đầu.

(Mai Đình Mộng Ký).



Cáo kình im lặng tăm hơi,

Doành ngân rửa mác, non đoài treo cung.

(Truyện Phan Trần)



DOÀNH NHÂM

Doành nhâm chỉ dòng nước, còn có nghĩa là người chồng. Hàn Dũ có câu: Nữ Đinh phu Nhâm truyền thế hôn  , nghĩa là nữ Đinh là vợ Nhâm đời tương truyền là vợ chồng.



Doành Nhâm một dải nông nông,

Bóng dương bên ấy đứng trông bên này.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



DÒM BEO TRONG ỐNG

Bởi chữ “Quản trung khuy báo  ” nghĩa là nhìn con beo qua cái ống, chỉ thấy vằn chứ không thấy toàn bộ hình dáng con beo, ý muốn nói kiến thức hẹp hòi. Đồng nghĩa với câu: “Ếch ngồi đáy giếng”.



Bấy lâu ngồi giếng xem trời,

Dòm beo trong ống, đạo đời biết đâu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



DÒM HÀNH

Dòm hành tức là dòm ngó, nhìn hay theo dõi một cách tò mò.



Trời đâu cho sãi lên chơi,

Cho quân tả đạo tới nơi dòm hành!

(Dương Từ Hà Mậu).



DÒNG CÂU

Hay “Dòng ngự câu”.

Tức là dòng nước ở ngự câu, một dòng nước từ trong cung vua chảy ra.

Do tích Vu Hựu bắt được chiếc lá hồng từ dòng nước ngự câu chảy ra, trên lá có bài thơ. Vu Hựu bèn lấy chiếc lá thắm khác đề hai câu thơ, rồi thả nơi đầu ngòi nước cho chảy vào cung. Cung nữ Hàn Thị, người đề thơ trên lá ngày trước, bắt được. Sau Hàn Thị được thả và tình cơ kết duyên với Vu Hựu. Hai người sau khi thành hôn mới biết chiếc lá hồng đó làm mối.

Xem: Hồng diệp.

1.- Dòng câu:



Suối tần tuy hãy còn không,

Dòng câu trót thả lá hồng đôi nơi.

(Ngọc Kiều Lê).

2.- Dòng ngự câu:

Khôn hỏi Đào nguyên đâu tá?

Dòng ngự câu gieo lá tình thi,

May thay một hội tương kỳ.

Đã bên tình phận lại bề phong lưu.

(Sơ Kính Tân Trang).

 

DÒNG CHÂU

Dòng châu là nước mắt chảy thành dòng và lóng lánh như giọt châu.

Thơ Lý Bạch có câu: Tương tư yểu như mộng, châu lệ thấp la y  , , nghĩa là tương tư mơ màng như mộng, giọt châu thấm ướt áo là.

Theo lời càng chảy dòng châu,

Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.

(Truyện Kiều).



Đỗ nương ngó thấy thêm sầu,

Chạnh lòng nhớ bạn, dòng châu đượm nhuần.

(Dương Từ Hà Mậu).



Thế sao chẳng bớt cơn sầu,

Mình đi đã mỏi, dòng châu thêm nhuần.

(Lục Vân Tiên).



DÒNG ĐẬU ĐAN QUẾ

Dòng nhà họ Đậu là cành đan quế, ý nói những người con trai của Đậu Vũ Quân kế tiếp nhau thi đỗ, được người đời tặng câu: Linh xuân nhất châu lão, đan quế ngũ chi phương  , , nghĩa là cội xuân một gốc thọ, đan quế năm cành thơm.

Xem: Ngũ quế.

Thơm tho dòng Đậu cành đan quế,

Ấm áp sân Điền khóm tử kinh.

(Hồng Đức Quốc Âm).



DÒNG NGÂN

Bởi chữ “Ngân hà  ”.

Dòng Ngân tức là Ngân Hà, một con sông nơi cõi Thiêng Liêng. Tương truyền, Ngưu Lang, Chức Nữ bị phạt, chia cách tình yêu giữa sông Ngân, mỗi năm chỉ gặp nhau có một lần vào đêm thất tịch, mùng 7 tháng 7 âm lịch, nên đêm này, nước mắt của họ chứa chan, tạo thành những cơn mưa ngâu, vì bởi khóc than một cách đau khổ cho cảnh biệt ly. Vì thế, Ngân Hà được coi như một dòng sông đau khổ.

Thuyền khơi đợi gió lướt dòng Ngân,

Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

DÒNG TƯƠNG

Lấy dòng sông Tương ví với dòng nước mắt.

Do tích: Vua Thuấn đi tuần thú và chết ở phương Nam. Hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến bờ sông Tương ngồi khóc chồng thảm thiết.

Xem: Rèm tương, tương liêm.



Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,

Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DÒNG THU

Bởi chữ “Thu thuỷ  ” là dòng nước mùa thu. Nước mùa thu trong suốt thường được ví với mắt người đàn bà đẹp. Đồng nghĩa với “Sóng thu”.

Xem: Sóng thu.

Dòng thu như dội cơn sầu,

Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.

(Truyện Kiều).



DỐI NGƯỜI DỐI TRỜI

Tức là dối người, nào khác dối trời.

Bởi câu trong sách Trung Hiếu Lược nói: Khi nhân tất tự khi kỳ tâm, khi kỳ tâm tất tự khi kỳ Thiên, Thiên kỳ khả khi hồ?  , , ? nghĩa là mình dối người là tự dối lòng mình. Dối lòng mình là tự dối cả Trời, Trời có thể dối ru?

Dối người nào khác dối Trời,

Trời đâu dám dối ra đời ngỗ ngang.

(Kinh Sám Hối).



DU ĐÃNG 

Du: Đi chơi. Đãng: Phóng túng, không ai kềm chế.

Du đãng là đi chơi bời, phóng túng không biết chán và chẳng ai kềm chế được.

Thi Uyển có câu: Dâm hoang hỗn loạn du đãng vô độ yên  , nghĩa là hoang dâm hỗn loạn du đãng không cùng.

Nhờ nghĩa phương từ bé chút từng nghe,

dưới sân nghiêm mắt quở tai răn,

tính du đãng uốn lần cho nhập giáo,

(Tự Thuật Ký).



Gái xướng kỵ, trai thì du đãng,

Phá tan hoang gia sản suy vi.

(Kinh Sám Hối).



DU HỌC 

Du học là đi tìm thầy học ở phương xa. Chiến Quốc Sách có câu: Sở hữu Hoàng Yết giả du học bác văn  , nghĩa là ở nước Sở có Hoàng Yết đi du học, mở rộng kiến văn.

Ngày nay, du học tức là đi học ở nước ngoài.

Lấy điều du học hỏi thuê,

Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.

(Truyện Kiều).



DU NHẠC 

Đi chơi núi Ngũ Nhạc.

Do điển Hướng Tử Bình đời Đông Hán là người ở ẩn, không chịu ra làm quan. Sau khi con cái đã thành gia thất hết rồi thì bỏ nhà đi chơi núi Ngũ Nhạc (Du Nhạc).

Nghĩa bóng: Con cái thành gia thất.



Vòng trần hẳn đã không thèm,

Chút nguyền du Nhạc còn hiềm chửa nguôi.

(Hoa Tiên Truyện).



DU NHAI 

Du nhai tức là đi chơi ngoài phố.

Theo lệ ngày xưa, các ông tân khoa được vua ban ơn cho vào xem hoa tại vườn Thượng uyển và cỡi ngựa đi rong chơi các phố trong hoàng thành, gọi là du nhai.

Ba ngày thượng mã du nhai,

Lòng vua ưu hậu mắt người quan chiêm.

(Nhị Độ Mai).



DU PHƯƠNG 

Du phương là đi khắp mọi phương. Thầy thuốc đi khắp nơi trị bịnh, gọi là thầy du phương.

Du phương còn dùng cho các tăng ni đi đây đi đó để tham học với những bậc thầy có tài đức hoặc để truyền bá Phật pháp.

Cảm ơn kẻ sĩ du phương,

Dắt ta, điềm chỉ vào đường Y lâm.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Thiên sư lòng muốn du phương,

Đông nam phía ấy là đường đi lên.

(Dương Từ Hà Mậu).



DU QUAN 

Du: Đi chơi. Quan: Quan sát, xem.

Du quan cũng như du lãm, là đi chơi để xem các nơi danh lam thắng cảnh.



Ai hay trong lúc du quan,

Tiểu thư cùng với thúy hoàn ra chơi.

(Nhị Độ Mai).



DU SÁCH

Tức là Châu Du và Tôn Sách.

Châu Du tự là Công Cẩn, người nước Ngô thời Tam Quốc, có vợ là nàng Tiểu Kiều.

Tôn Sách là vua nước Đông Ngô, là một trong ba nước thời Tam Quốc. Tôn Sách có vợ là nàng Đại Kiều.

Xem: Châu Du.

Noi gương đức tánh Nhị Kiều,

Dở dang Du Sách, giữ điều tiết trinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DU TIÊN 

Du tiên là đi chơi nơi cõi tiên, dùng để chỉ người chết, có ý cầu mong linh hồn người chết khi lìa khỏi thể xác được đi lên cảnh tiên.



Khách du Tiên đời chẳng mấy người,

Cứ bốn điều tà gấm ghé chơi.

(Đạo Sử).



Bỗng tiếng sấm gần bên tai nổ,

Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DU TIÊN GỐI

Bởi chữ “Du tiên chẩm  ” là gối du tiên.

Theo sách “Khai Thiên Di Sự” thì nước Qui Tư có dâng cho vua Đường Minh Hoàng một cái gối kết bằng mã não, khi ngủ nằm gối đầu lên gối ấy, thì sẽ mộng thấy lên cảnh tiên. Gối ấy được vua Đường gọi là “Du Tiên Chẩm”.

Xem: Gối du tiên.



Luỹ nhung phấn biếc lục hồng,

Du tiên nửa gối lạnh lùng hai sương.

(Lưu Nữ Tướng).



DÙ NGỰA

Bởi chữ “Cái mã  ”, nghĩa là lọng dù và ngựa.

Dù ngựa tức là che dù lọng, cỡi ngựa, dùng để chỉ nhà quyền quý cao sang.

Trướng loan trò chuyện đàm hòa,

Đã gương dù ngựa lại nhà trâm anh.

(Hoa Tiên Truyện).



DŨ LĨNH 

Tên một cái núi ở phía nam huyện Đại Dũ tỉnh Giang Tây. Núi Dũ Lĩnh rất hiểm trở, đá mọc san sát, liền nhau, nước suối chảy không bao giờ cạn. Thời nhà Đường, Trương Cửu Linh trồng rất nhiều mai ở đây, nên núi này còn gọi là Mai Lĩnh.



Miền Dũ Lĩnh tin mai gắn bó,

Đỉnh Cô Sơn mối gió đợi chờ.

(Tự Tình Khúc).



DUẬT BẠNG 

Do chữ “Bạng duật tương trì  ”, nghĩa là con trai và con cò níu kéo nhau.

Con cò mổ vào ruột trai, trai liền ngậm lại, kẹp mỏ cò. Hai đàng giằng co với nhau thì có ông câu được lợi, bắt cả trai lẫn cò. Nên Nho có câu: Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi  , nghĩa là trai cò giằng co, ông câu được lợi. Ý nói hai đàng tranh nhau tự chuốc lấy họa.

Xem: Bạng duật.



Duật nọ mưu còn đua với bạng,

Lươn kia hầu dễ kém chi cò.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



DỤC ĐỨC 

Vua Dực Tông không có con, nuôi ba người cháu làm con nuôi: Trưởng là Dục Đức, phong làm Thuỵ Quốc Công, thứ là Chánh Mông, ba là Dưỡng Thiện. Khi Dực Tông sắp mất có di chiếu: Tính Dục Đức không đáng làm vua, ý ngài muốn lập Dưỡng Thiện, nhưng vì còn bé, cho nên phải lập con trưởng, tức là Dục Đức. Được ba ngày thì quan phụ chính Nguyễn Văn Tường Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ Dục Đức mà lập em vua Dực Tông là Hồng Dật lên làm vua, lấy niên hiệu là Hiệp Hoà, còn Dục Đức thì bị đem giam ở Dục Đức Giảng Đường.



Ra vừa tới chốn thành đầu,

Phủ ông Dục Đức, truyền hầu vào ngay.

(Hạnh Thục Ca).



Thương ông Dục Đức Hoàng trừ,

Đã yên thân phận chẳng nhờ khoan ân.

(Hạnh Thục Ca).



DỤC NHẬT 

Dục: Tắm. Nhật: Mặt trời.

Dục nhật là tắm cho mặt trời. Khi hạn hán rồng làm mưa, cho nên gọi rồng là giúp trời. Sau cơn mưa mặt trời lại sáng tỏ, cho nên gọi tắm cho mặt trời.



Long chức quản bổ thiên, dục nhật,

Lân quyền tư giúp thánh, phò thần.

(Lục Súc Tranh Công).



Quyết ra tài dục nhật bổ thiên,

Nguyện hết sức trùng quang nghiệp thánh.

(Nhạc Hoa Linh).



DỤC TÀI 

Dục: Nuôi nấng. Tài: Tài năng.

Dục tài là nuôi nấng cái tài năng cho phát triển.



Tinh thần cao thấp nhờ thi,

Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DUỀNH NGÂN

Duềnh: Vùng nước sâu. Ngân: Trắng như bạc.

Duềnh ngân là dòng nước sâu màu trắng như bạc.



Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,

Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.

(Truyện Kiều).



DÙI ĐÂM VẾ

Lấy dùi đâm vào vế, nói việc khổ công học tập.

Do tích Tô Tần, người đời Chiến Quốc, lúc còn đi học, đêm đọc sách, sợ buồn ngủ, để mũi dùi dưới bắp vế, hễ ngủ gật thì dùi đâm vào vế, thức dậy tiếp tục học nữa. Về sau đi du thuyết, làm tướng cho sáu nước chư hầu, rất vinh hiển.

Xem: Tô Tần.



Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,

Người Tô Tần chí thú đọc kinh.

(Gia Huấn Ca).



DUYÊN BÌNH 

Duyên: Mối liên lạc. Bình: Bèo.

Bởi chữ “Bình thuỷ tương phùng  ” hay “Bình thuỷ hữu duyên  ” là duyên bèo và nước gặp gỡ nhau.

Bèo trôi chẳng biết đi đâu, nước chảy không biết về đâu, nên bèo nước dùng để chỉ những kẻ không định mà trời xui khiến gặp gỡ nhau.

Duyên bình gặp gỡ khách phương xa.

(Thơ cổ)


DUYÊN BÌNH 

Duyên: Sự may mắn. Bình: Bức bình phong, một bức ngăn để chắn gió.

Ngày xưa mỗi lần Mạnh Thường Quân tiếp khách, thì có người thư ký ngồi bên trong bức bình phong để biên chép. Chữ "duyên bình" ý nói là dự vào hàng thư ký để biên chép.



Tôi nay vâng đẹp duyên bình,

Xin tường quí tính, đại danh, được nhờ.

(Nhị Độ Mai).



DUYÊN CANG LỆ 

Cang và lệ đều có nghĩa là sánh đôi.

Duyên cang lệ ý nói duyên đôi lứa, hay duyên kết nghĩa vợ chồng .

Đó muốn vầy duyên cang lệ,

Ta đâu khuất chữ cương thường.

(Nhạc Hoa Linh).



Phận đào thơ vui chữ vu quy,

Duyên cang lệ phỉ nguyền ngàn thuở.

(Nhạc Hoa Linh).



DUYÊN ĐẰNG 

Có duyên với Đằng Vương Các.

Con vua Đường Cao Tông làm Thứ Sử ở Hồng Châu được phong là Đằng Vương có xây tại đó một ngôi lầu các gọi là Đằng Vương Các.

Duyên Đằng có ý chỉ Vương Bột, một nhà thơ đời Đường có duyên gặp được ngọn gió đưa con thuyền đến Đằng Vương Các để làm một phú nổi tiếng vào thời bấy giờ. Tiếng “Duyên Đằng” hay “Các Đằng” đều dùng để chỉ vận thời, duyên may, tình cờ….gặp gỡ.

Xem: Đằng Vương Các.

Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,

Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.

(Truyện Kiều).



Duyên Đằng thuận gió đã êm thuyền,

Bốn biển năm hồ đã đậu yên.

(Đạo Sử).



DUYÊN HÀI 

Duyên: Tình duyên. Hài: Hoà hợp.

Duyên hài nghĩa là nhơn duyên hoà hợp. Xưa thường nói: Phu phụ duyên hài  , nghĩa là vợ chồng thuận duyên.



Lòng ta muốn kết duyên hài,

Song tên thì lại ở nơi tay người.

(Nữ Tú Tài).



Muốn trăm năm nghĩa kết duyên hài,

Phải hai nước giao hòa thần xỉ.

(Nhạc Hoa Linh).



Ðiểu mai mấy lúc đẹp duyên hài,

Chít mát là vì bởi tại ai.

(Đạo Sử).



Nhiều trai gái duyên hài lỡ dở,

Tại chim xanh dụng mở mối đường.

(Phương Tu Đại Đạo).



DUYÊN HƯƠNG LỬA

Duyên hương lửa có nghĩa là duyên số kết nên vợ chồng gắn bó với nhau đã định từ kiếp trước.

Xem: Hương lửa.

Phải duyên hương lửa cùng nhau,

Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



DUYÊN KIẾP 

Duyên: Mối dây liên lạc. Kiếp: Cuộc đời người.

Theo Phật, trong cuộc đời con người có duyên với nhau thì mới ràng buộc lẫn nhau được, tức là nhân duyên có từ kiếp trước.



Cho hay duyên kiếp bởi trời,

Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai.

(Truyện Trinh Thử).



DUYÊN KIM CẢI

Kim cải là cây kim và hạt cải ý nói hai vật đồng cảm thì tìm nhau.

Duyên kim cải là duyên trai gái, hay vợ chồng khắn khít nhau như nam châm hút cây kim, hổ phách hút hột cải.

Xem: Kim cải.



Cho hai họ vầy duyên kim cải,

Ngõ một nhà đôi sánh phụng loan.

(Nhạc Hoa Linh).



Lánh buồn lại lạc lối bi,

Rẻ duyên kim cải, đem bì phấn hương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Nghĩa keo sơn thoạt bén thoạt ưa,

Duyên kim cải càng quen càng thấm.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



DUYÊN NỢ BA SINH

Tức là duyên nợ ba kiếp sống gắn bó với nhau.

Do điển: Viên Trạch đời nhà Đường đi chơi với bạn là Lý Nguyên ở núi Tam Giáp, gặp một người đàn bà gánh nước giếng.Viên Trạch nói: Bà này có mang đã ba năm, đợi tôi vào làm con, tôi xin hẹn anh mười ba năm sau sẽ gặp nhau ở chùa Thiên Trúc, tỉnh Hàng Châu. Đêm đó Viên Trạch mất. Mười ba năm sau, Lý Nguyên tìm đến nơi đã hẹn, gặp một đứa bé chăn trâu, nghêu ngao hát rằng: Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn, Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân. Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng, Thử thân tuy dị tính trường tồn  , . . , nghĩa là ba sinh đá ấy cựu tinh hồn, Ngâm gió thưởng trăng khó nỗi bàn. Thẹn gặp người xưa thăm hỏi tớ, Thân này tuy khác, tính linh còn. Hát xong, đứa bé bèn quày quả đi. Lý Nguyên biết đứa bé đó chính là Viên Trạch.

Xem: Tam sinh.



Ví chăng duyên nợ ba sinh,

Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.

(Truyện Kiều).



Ví không duyên nợ ba sinh,

Nàng sao gặp nỗi bất bình tới đây.

(Truyện Trinh Thử).



DUYÊN NGƯ THUỶ

Duyên ngư thuỷ tức là duyên cá nước.

Trong văn chương, duyên cá gặp được nước ví vợ chồng yêu thương nhau gắn bó nhau, hay vua tôi tin cậy cùng nhau.

Xem: Cá nước.



Duyên ngư thuỷ hội long vân còn đó,

Miếng đỉnh chung cho biết người đời.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



DUYÊN TẦN TẤN 

Tần Tấn là hai nước vào thời Xuân Thu, có duyên làm thông gia với nhau từ đời nầy sang thời khác.

Ngày nay, chữ “Duyên Tần Tấn” người ta thường dùng để chỉ hôn nhân giửa trai gái.

Phải chi chàng sanh ở Yên gia,

Lòng cũng nguyện sánh duyên Tần Tấn.

(Nhạc Hoa Linh).



DUYÊN TRƯỚC

Do từ Hán Việt “Tiền duyên  ”, chỉ mối ràng buộc được định sẵn từ kiếp trước. Nếu duyên lành, tức là kiếp sống trước ta làm những điều lương thiện đạo đức, thì kiếp sống hiện tại được may mắn, giàu sang, hạnh phúc.



Đã không duyên trước chăng mà,

Thì chi chút ước gọi là duyên sau..

(Truyện Kiều).



Người sang cả là vì duyên trước,

Kẻ không phần luống ước cầu may.

(Sám Hôi Kinh).



DUNG MẠO 

Dung: Dáng bề ngoài con người. Mạo: Mặt mày.

Dung mạo là tiếng dùng để chỉ hình dáng, mặt mày con người.



Hỏi trong văn võ quần thần,

Rằng ai dung mạo hơn phần sắc thinh.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



DUNG NGHI 

Dung: Tướng mạo. Nghi: Phép tắc.

Dung nghi chỉ người có tướng mạo và dáng điệu nghiêm trang hợp với lễ nghĩa đạo đức.



Người hạnh nghị, khách dung nghi,

Làm cho trâm gãy gương lìa mới thôi.

(Hoa Tiên Truyện).



DUNG NHAN 

Dung: Tướng mạo. Nhan: Sắc mặt.

Dung nhan là gương mặt và tướng mạo.



Con ai vóc ngọc mình vàng,

Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng.

(Lục Vân Tiên).



Võ vàng đổi khác dung nhan,

Khuê ly mới biết tân toan dường này.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Dung nhan diện mạo vuông tròn,

Trăng vừa giữa tháng nhật quang nửa ngày.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



Máu mỡ anh em hòa cốt nhục,

Dạng hình cha mẹ giống dung nhan.

(Phương Tu Đại Đạo).



DUNG QUANG 容光

Dung: Tướng mạo. Quang: Sáng sủa.

Dung quang là nói người có dáng vẻ rất sáng sủa.



Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,

Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.

(Truyện Kiều).



Bóng người chợt thấy dung quang,

Lanh chanh bước tới sổ sàng hỏi ngay.

(Mai Đình Mộng Ký).



DƯ ĐỒ 輿

: Đất đai. Đồ: Bản đồ.

Dư đồ là tấm bản đồ vẽ đất đai. Nghĩa rộng dùng để chỉ lãnh thổ một nước.



Loạn Tần gặp lúc Ngư Hồ,

Trời nam riêng mở dư đồ một phương.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Dư đồ rách nước non tô lại,

Đồng bào xa trai gái kêu lên.

(Thơ Tản Đà).



DỮ ĐOẠ HIỀN THĂNG

Dữ hiền: Chỉ người hung ác hay hiền lương. Đoạ thăng: Rơi xuống, hay bay lên, chỉ hai cõi giới Địa ngục hay Thiên Đường.

Dữ đoạ hiền thăng là nói kẻ hung ác thì bị đoạ âm quang, người hiền lương thì siêu thăng Tiên cảnh.



Dữ đọa hiền thăng ấy luật Trời,

Lánh đường tà vạy hưởng an vui.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



DỮ QUÁ CỌP

Bởi chữ “Mãnh ư hổ  ” trong điển “Hà chính mãnh ư hổ ” tức là chính sách hà khắc còn mạnh bạo hơn cọp.

Do câu chuyện sau đây: Khổng Tử và học trò đi qua nước Tề, khi ngang núi Thái Sơn, thấy một người đàn bà ôm mộ khóc.

Khổng Tử bảo Tử Lộ đến hỏi nguyên do, thì người đàn bà ấy nói rằng: Trước đây ông già chồng tôi chết vì cọp ăn tại làng nầy, nay chồng tôi chết vì cọp cũng tại làng nầy. Tử Lộ thắc mắc hỏi: Nếu hai người thân bị cọp ăn tại làng nầy, sao bà không dời đi làng khác?. Người đàn bà ấy nói: Làng nầy bị đe doạ bởi cọp, nhưng chính sách không hà khắc.

Tử Lộ thưa lại với Đức Khổng Tử, Ngài bèn lấy việc đó dạy các đệ tử rằng: Các con thấy không, người ta sợ chính sách hà khắc còn hơn sợ cọp nữa.

Chánh ra dữ quá cọp vàng,

Lòng dùng độc quá hổ mang, thuồng luồng.

(Dương Từ Hà Mậu).



DỮ QUỐC ĐỒNG ƯU 

Dữ quốc: Cùng với nước. Đồng ưu: Đồng lo lắng.

Dữ quốc đồng ưu có nghĩa là cùng với nước nhà đồng lo lắng, tức gánh việc nước.



Câu “Dữ quốc đồng ưu”,

phải khăng khăng lòng ghi dạ tạc.

(Cáo Thị Cần Vương).



DỮ RĂN HIỀN THƯỞNG

Theo thuyết nhân quả của nhà Phật, kẻ làm dữ thì nhận những nghiệp dữ để trừng răn, người làm thiện thì nhận những quả lành ban thưởng.



Nếu quả dữ răn cùng hiền thưởng,

Mới hay minh chánh cái quyền Trời.

(Đạo Sử).



DỮ TẬN HIỀN THĂNG

Dữ tận: Kẻ hung ác thì tiêu hết. Hiền thăng: Người hiền lương thì siêu thăng.

Dữ tận hiền thăng là kẻ hung ác thì tiêu hết, người hiền lành thì được siêu thăng.

Xem: Dữ đoạ hiền thăng.

Mai tàn tuyết xủ đời thay đổi,

Dữ tận hiền thăng khách lọc lừa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



DỰ NHƯỢNG 

Người nước Tấn đời Chiến Quốc, trước thờ họ Phạm và họ Trung Hàng, sau về làm tôi Trí Bá, được Trí Bá rất kính yêu. Khi Trí Bá bị Triệu Tương Tử (tức Triệu Vô Tuất) giết chết thì Dự Nhượng quyết báo thù cho chủ.

Ba lần Dự Nhượng thích khách Triệu Tương Tử, ba lần đều bị bắt. Lần sau cuối, Tương Tử trách Dự Nhượng rằng: Nhà ngươi chả đã từng thờ họ Phạm và họ Trung Hàng đấy ư? Trí Bá diệt hết bọn họ mà sao người không báo thù, lại còn vác xác làm tôi Trí Bá. Trí Bá cũng chết tiêu rồi mà sao ngươi riêng nặng lòng báo thù cho Trí Bá như vậy?

Dự Nhượng đáp: Tôi thờ họ Phạm và họ Trung Hàng, họ đều coi tôi như người thường, cho nên tôi báo đáp họ như người thường. Còn Trí Bá thì đãi tôi như quốc sĩ cho nên tôi cũng lấy tư cách một trang quốc sĩ mà báo đáp cho ông ấy.

Triệu Tương Tử thở dài, sai lính bắt Dự Nhựng.

Dự Nhượng tâu rằng: Nay tôi có nghe kẻ trung thần không sợ chết, đấng minh quân không bỏ mất cái nghĩa của người. Tôi nay đáng tội chết, nhưng nhà vua đừng để lu mất cái trung nghĩa của tôi, xin cho tôi mượn cái áo cẩm bào, tôi đâm vào đó để tỏ bày cái ý báo thù và thể hiện sự trọng sĩ của nhà vua. Tôi chết cũng không ân hận.

Tương Tử cảm động liền cho, Dự Nhượng đâm vào áo cẩm bào ba nhát và nói: Ta có thể báo đáp cho Trí Bá ở nơi chín suối rồi. Bèn kề gươm vào cổ mà tự vẫn.

Mũi giáo Thi Toàn đâu để rét,

Lưỡi gươm Dự Nhượng phải toan chùi.

(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).



DƯA MUỐI

Dưa muối là hai loại thực phẩm đạm bạc, dùng để chỉ người tu hành, thọ chay lạt. Đồng nghĩa với chữ “Tương dưa”, chỉ sự cần kiệm, sự đơn giản, hay sự khổ hạnh của người tu hành.



Đã rằng dưa muối bả bô,

Lạp bình tương thuỷ, những đồ cao lương.

(Tư Dung Vãn).



Cái chốn đoạn trường trang trắng nợ,

Đành cam dưa muối với Di Đà.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



Thanh cao là biết ngon dưa muối,

Hơn ngự lầu yên ngó đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Tẻ vui đã hưởng mùi dưa muối,

Nơi thế dường như khách lạc loài.

(Đạo Sử).



DỰA CỘT

Do câu tục ngữ Việt Nam: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”.

Vì vậy, chữ “Dựa cột” dùng để nói người không biết gì cả.

Đừng ưa me chịu dốt chúng cười,

Người ghế giữa mình ngồi dựa cột.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

DỰA LÒNG TỪ BI

Từ bi là lòng thương yêu, lo lắng mong giúp đỡ cho chúng sanh được an lành và cứu vớt chúng sanh ra khỏi tai ương, khổ não.Từ bi là hạnh của Đức Phật.

Dựa lòng từ bi tức nương vào đức Phật, hay nói cách khác là quy y Phật.

Biết chăng cái thảm mất chồng,

Xin cho thiếp dựa nơi lòng từ bi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DỰA THÂN CỘI TỬ

Dựa thân: Nương thân. Cội tử: Cội cây thị, do Kinh Thi có câu: Duy tang hữu tử, tất cung kính chi  , , nghĩa là phải cung kính nơi trồng cây dâu cây thị. Cây dâu cây thị do cha mẹ trồng nên phải cung kính.

Dựa thân cội tử là sống nương dựa theo cha mẹ.

Phép xưa tùng phụ đã rằng,

Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DỰNG ĐỨNG CỘT ĐỒNG

Nói việc nhà Đông Hán sai Mã Viện làm Phục Ba Tướng Quân sang đánh Trưng Vương. Hai Bà không chống nổi, phải rút quân về xã Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc, nay là huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. Mã Viện đem binh tiếp đánh, thế bức quá, hai bà bèn gieo mình xuống sông Hát Giang mà tự tận.

Mã Viện dẹp xong Trưng Vương, đem đất Giao Chỉ nội thuộc nhà Hán, rồi sau đó dựng một cây cột đồng ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt  , , nghĩa là cây cột đồng mà gãy đổ thì người Giao Chỉ mất.

Dựng đứng cột đồng ai đã xướng,

Ðảnh Nam sừng sựng vững bền trào.

(Đạo Sử).



DƯỢC KHỔ LỢI BỆNH 

Thuốc đắng lợi cho bệnh.

Do câu “Lương dược khổ khẩu lợi ư bệnh  ”, nghĩa là thuốc hay tuy đắng mà lợi cho việc trị bịnh.

Thành ngữ nầy đồng nghĩa với câu tục ngữ của ta: “Thuốc đắng đả tật”.



DƯỚI BỘC TRONG DÂU

Nghĩa từ câu “Bộc thượng tang gian  ”.

Chỉ sự hẹn hò tình tự bất chính giữa trai gái. Theo Hán thư, con trai và con gái của nước Trịnh và nước Vệ thường hẹn hò nhau ra bãi sông Bộc, núp trong các ruộng dâu để tình tự nhau.

Xem: Trên Bộc trong dâu.



Nào khi đứng giữa đàng trông ngọc,

Nào khi ngồi dưới bọc trong dâu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Tại nơi mình dưới bộc trong dâu,

Ra đến thế nài cầu sao đáng giá.

(Phương Tu Đại Đạo).



DƯƠNG BỜ

Hay “Bờ dương”.

Bởi chữ “Dương bạn  ” trong câu “Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn  ” tức là chim phụng ngậm chiếc chiếu về bờ dương.

Theo Đạo Đức Chơn Kinh, cây dương không nhiễm trần, đạo là cây dương. (Dương vô trần nhiễm, đạo giả như dương  , ).

Do vậy, “Dương bờ” là tiếng dùng để chỉ nền đạo đức hay bờ giải thoát. Xem: Bờ dương.

May phước phải gìn cho mạnh trí,

Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.

(Đạo Sử).



DƯƠNG CHÂU 

Dương Châu là tên một vùng đất phồn hoa của Trung Quốc. Có ba người khách ngồi trò chuyện, mỗi người có đưa ra một điều ước. Người thứ nhứt, muốn làm Thứ sử ở Dương Châu. Người thứ hai, muốn có nhiều tiền bạc và được cỡi hạc bay cao. Người thứ ba, muốn lưng có mười vạn quan tiền, cỡi hạc bay lên Dương Châu. Ý chỉ lời ước muốn hoàn toàn.



Ngọn cờ mây rợp thôn dâu,

Bồng lai xe hạc, Dương Châu lưng tiền.

(Hoa Tiên Truyện).



Mang tiền cỡi hạc đến Dương Châu,

Chiếp miệng còn than nỗi buổi đầu.

(Đạo Sử).



DƯƠNG CHI 

Tức cành dương, một loại cây có cành cứng và thẳng dựng lên; còn liễu là cành mềm rủ xuống. Tuy hai cây khác nhau, nhưng người ta thường gọi chung là “Dương liễu”.

Trong phép của Phật thường dùng dương chi (Cành dương) nhúng vào nước Cam lộ (hay nước Ma ha) rảy vào người bệnh để giải trừ bịnh tật, hoặc tẩy trừ oan khiên nghiệt chướng.

Xem: Giọt nước dương chi.



Ngửa nhờ giọt nước dương chi,

Dẫu cho đã héo rồi thì lại tươi.

(Quan Âm Thị Kính).



Rửa không thế tục thường tình,

Một bình tĩnh thuỷ một cành dương chi.

(Truyện Phan Trần).



Câu Kinh bối diệp câu thơ hoạ,

Giọt nước dương chi giọt lệ pha.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



DƯƠNG CHU 

Dương Chu hay Tử Cư (Khoảng 400-360) trước Tây Lịch, người nước Vệ thời Chiến Quốc.

Một triết gia Trung Quốc, chủ trương thuyết vị kỷ hay vị ngã, tức là chỉ biết lo cho mình, vì mình mà thôi.

Theo lời Mạnh Tử, Dương có nói câu “Bạt nhất mao nhi lợi thiên hạ, bất vi dã  , nhổ một sợi lông vì thiên hạ, cũng không làm.

Dương Chu không có để lại sách vở gì cho hậu thế, tư tưởng của ông chỉ rải rác trong các tài liệu của những triết gia đồng thời khác.

Kìa như Mặc Địch Dương Chu,

Tu một việc vị nhơn, vị ngã.

(Sãi Vãi).



Dùi mõ Mặc, Dương thêm chộn rộn,

Tiếng chuông Phật, Lão rất vang ngầy.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



DƯƠNG DANH 

Dương: Đưa cao lên. Danh: Tiếng tăm.

Dương danh là nêu danh, tức làm cho tiếng tăm được rạng rỡ.



Dương danh chẳng phải tại trường quan,

Nước Ðạo là danh hưởng lạc nhàn.

(Đạo Sử).



DƯƠNG DANH HIỂN THÂN 

Dương danh: Làm rạng rỡ tiếng tăm. Hiển thân: Làm vinh hiển cho cha mẹ.

Làm nên tiếng tăm tốt đẹp để làm vinh hiển cho cha mẹ.

Theo Mạnh Tử, lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu hiếu chi chung giả  , , , , tức là lập thân hành đạo, làm nên tiếng tăm tốt đẹp để làm vinh hiển cho cha mẹ là hiếu tột bực vậy.

DƯƠNG ĐÀI 

Tên núi, ở huyện Vu Sơn, tỉnh Tứ Xuyên (có thuyết khác nói núi nầy ở huyện Hán Xuyên, tỉnh Hồ Bắc). Bài Cao Đường Phú của Tống Ngọc kể lại việc vua Sở Tương Vương nằm mơ thấy giao hoan với Thần nữ núi Vu sơn, sớm làm mưa, tối làm mây tại Dương Đài. Xem: Mây mưa.



Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,

Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Dương Đài dành sẵn mưa mây,

Mà xem chúa Sở vui vầy giấc tiên.

(Hoa Tiên Truyện).



DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ 

Có người cho là “Dương Diên Nghệ  ”.

Dương Diên Nghệ là tuỳ tướng của Tiết Độ Sứ Khúc Hạo. Khi Khúc Thừa Mỹ là con Khúc Hạo thua binh, bị Lý Khắc Chính bắt đem về Tàu, họ Dương nổi lên đánh được giặc Nam Hán, rồi tự xưng làm Tiết Độ Sứ năm Tân Mão 931.

Tại chức được sáu năm, Dương Diên Nghệ bị người nha tướng là Kiều Công Tiện hạ sát để cướp lấy quyền hành.



Dương Đình Nghệ lại báo thù,

Đuổi người Hán, lĩnh châu phù vừa xong.

(Quốc Sử Diễn Ca).



DƯƠNG GIAN 

Dương: Cõi Dương. Gian: Khoảng giữa.

Dương gian là cõi Dương, tức là cõi thế gian, cõi của người sống ở.



Dương gian nay chẳng đặng gần,

Âm cung biết có thành thân chăng là?

(Lục Vân Tiên).



Sanh, thời ở cảnh Dương gian,

Thác, về âm phủ là đàng xưa nay.

(Dương Từ Hà Mậu).



Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,

Liều mình tự vận không màng thảo ngay.

(Kinh Sám Hối).



Đếm ba vạn sáu ngàn ngày,

Cõi Dương gian với cõi Tuyền đài gần nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DƯƠNG HƯƠNG 

Dương Hương sinh vào đời nhà Tấn, mới 14 tuổi, rất có hiếu, cha đi đâu cũng đi theo hầu. Có một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng đường xa, giữa đường gặp con hổ nhảy xông đến định vồ cha, ông tay không, quyết vào đánh nhau với hổ, hổ phải bỏ chạy, cha con đều được vô sự.



Tấn Dương Hương mới mười chín tuổi,

Cha bước ra hằng ruổi theo cha.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



DƯƠNG LỄ LƯU BÌNH 

Dương Lễ và Lưu Bình là hai anh em kết nghĩa với nhau, Lưu Bình vốn là con nhà giàu có, còn Dương Lễ xuất thân kẻ nghèo hèn. Tuy hai người chênh lệch về gia thế, nhưng tính Lưu Bình phóng khoáng, xuất tiền nuôi Dương Lễ ăn học, nên tình bạn của hai người rất thắm thiết.

Đến khoá thi, hai người lên Kinh ứng thí, Dương Lễ thi đỗ được bổ làm quan, còn Lưu Bình vì ỷ lại có tiền bạc, khinh suất việc học hành, nên thi rớt. Sau đó mấy khoa liền, Lưu Bình đều không đỗ, sinh ra chán nản, ăn chơi phung phí, lại gặp cơn loạn lạc, tài sản bị mất hết, Lưu Bình đành phải tìm đến Dương Lễ nhờ giúp đỡ.

Dương Lễ là người hay trọng ân nghĩa, nhưng biết tính Lưu Bình thường ỷ lại, không chí cương quyết, nên ý định giúp Dương Lễ một cách khéo léo. Vì vậy, khi Lưu Bình đến tìm, Dương Lễ tỏ vẻ lơ là, lãnh đạm, tiếp đãi cơm nước đạm bạc sơ sài, khiến Lưu Bình phải tủi thân, cho Lễ là kẻ vong tình bội nghĩa mà bỏ ra về.

Lưu Bình sống lang thang thì may đâu gặp được một người đàn bà còn trẻ đẹp, ý muốn giúp đỡ tiền bạc để Bình ăn học và nếu Bình thi đậu thì nàng sẽ gá nghĩa trăm năm với Bình. Lưu Bình liền chấp nhận.

Nhờ sự chăm sóc và động viên của người đàn bà làm cho Lưu Bình hăng hái và kiên quyết học hành, không bao giờ để lãng phí thời gian nữa. Chẳng bao lâu, đến ngày thi cử, Lưu Bình khăn gói lên Kinh ứng thí. Chàng cương quyết thi đỗ khoa này để đem kết quả về tìm người đàn bà đã giúp chàng ăn học kết nghĩa trăm năm, nhưng đến nhà thì hỡi ơi người đàn bà đi đâu mất tăm dạng!

Hay được Lưu Bình thi đậu, Dương Lễ sai người đem lễ vật đến chúc mừng và có nhã ý mời chàng đến nhà chơi. Lưu Bình tức giận kẻ phản bạn, định bụng đến nhà Dương Lễ sẽ sỉ vả vào mặt cho hả giận. Nhưng khi đến nơi, Dương Lễ ra tận ngõ đón Lưu Bình một cách trịnh trọng, mời vào nhà ngồi, rồi cho mời người thiếp ra chào Lưu Bình. Người thiếp đó tên Châu Long, chính là người đàn bà đã cưu mang, chăm sóc và nhứt là động viên chàng cố công ăn học để được thành tài như ngày hôm nay. Lưu Bình lúc đó mới tỉnh ngộ: Thì ra do sự sắp xếp của Dương Lễ, khiến nàng Châu Long lo lắng giúp đỡ cho chàng. Thế là tình bạn tâm giao từ đó càng thêm thắm thiết.

Tôi nhớ xưa tích cũ,

có hai chàng Dương Lễ, Lưu Bình,

bạn đồng song đèn sách học hành,

ba thu lẻ kể cùng chăn gối.

(Lưu Bình Diễn Ca).



DƯƠNG LIỄU 

Dương và liễu cùng một loại nhưng hai cây khác nhau. Dương có cành cứng và thẳng lên, còn liễu thì cành mềm rủ xuống. Những về sau người ta thường gọi chung là dương liễu.

Vương Xương Linh đời Đường có bài “Khuê oán”, có hai câu như sau: Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc, Hối giao phu tế mịch phong hầu  , 婿 , nghĩa là chợt thấy sắc dương liễu tươi xinh nơi đầu đường. Hối hận sao khiến chồng đi tìm công danh hầu tước.

1.- Nhìn dương liễu nhớ chồng đi chinh thú xa:



Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu,

Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).

2.- Dương liễu được ví với lông mày của người phụ nữ đẹp, do câu thơ trong “Trường Hận Ca” của Bạch Cư Dị có câu: Phù dung như diện, liễu như mi  , , nghĩa là mặt như hoa phù dùng, mày như lá liễu.

Mày dương liễu mặt phù dung,

Ngắm hoa thêm nhắc tấm lòng sinh ly.

(Hoa Tiên Truyện).



DƯƠNG MẶC 

Dương chu và Mặc Địch, là hai triết gia Trung Quốc thời cổ.

Dương Chu chủ trương thuyết vị kỷ hay vị ngã, trái lại Mặc Địch chủ trương thuyết “kiêm ái” hay vi nhơn, nghĩa là gồm yêu, yêu thương mọi người như nhau, không phân biệt thân hay sơ.

Mặc Tử có truyền lại bộ sách gọi là Mặc Tử, lập thành một phái đạo Mặc gia.



Kìa như họ Lão, họ Trang,

Họ Dương, họ Mặc, họ Hàn họ Thân.

(Dương Từ Hà Mậu).



DƯƠNG NGHIỆP 

Dương Nghiệp là một Đại tướng quân tài giỏi đời Tống Thái Tông. Khi cầm quân đi đánh đất U, triều đình sợ trăm họ phải khổ nên đòi về.

Sau cầm quân đem binh đi đánh phía bắc, ông bị hơn mười vạn quân Khiết Đan bao vây, rồi bị bắt, nhịn đói ba ngày chết.

Hoặc là lo trăm họ hoành là,

hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.

(Văn Tế Trương Định).



Đá kêu rêu mọc bia Dương Nghiệp,

Cỏ úa hoa tàn Mã Lý Băng.

(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).



DƯƠNG PHÁP 

Dương pháp là luật pháp ở cõi thế gian, trái với Âm pháp là luật pháp nơi cõi Âm do quỷ thần xử phạt.

Người phạm pháp đều bị hình luật xử phạt, nếu ở thế gian thì bị phép vua luật nước, còn ở Âm phủ thì bị quỷ thần phạt răn. Minh Tâm Bửu Giám có câu: Âm vi quỷ thần sở hại, dương vi dương pháp sở tru  , .

Âm vi quỷ thần sở hại,

Dương vi dương pháp sở tru.

(Sãi Vãi).



DƯƠNG PHI 

Tức “Dương Quý Phi  ”, tên là Ngọc Hoàn, hiệu là Thái Chân, một vị phi sủng ái của vua Đường Huyền Tông, em của Dương Quốc Trung.

Khi loạn An Lộc Sơn, quân lính oán giận Dương Quý Phi, không chịu chống giặc, đòi Đường Huyền Tông phải xử Quý Phi tự tử tại Mã Ngôi..

Vị Thuỷ tắm đòi phen,

Dương Phi nọ độc hòa thiên hạ.

(Cung Trung Bảo Huấn).



DƯƠNG QUAN 

Dương Quan là tên một cửa ải thuộc tỉnh Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Quốc.

Thơ Vương Duy có câu: Tây xuất Dương Quan vô cố nhân 西 , nghĩa là đi về phía tây khỏi ải Dương Quan, không còn bạn cũ nữa. Ý câu thơ tả cảnh chia ly, tiễn biệt nhau.

Sông Tần một dải 
xanh xanh,

Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan.

(Truyện Kiều).



Vội vàng nào kịp hái hoa,

Dương quan bẻ liễu gọi là đưa nhau.

(Dương Từ Hà Mậu).



DƯƠNG QUAN TÂY  西

Tức là Dương Chấn người đất Quan Tây, đời nhà Hán, làm quan thái úy, tánh thanh liêm. Hồi làm thứ sử có tiến dẫn Vương Mật làm lệnh doãn tại huyện Xương Ấp. Nên khi ông đi ngang qua Xương Ấp, vì trời tối, có nghỉ tạm ở đó một đêm. Vương Mật mới lén đem mười lượng vàng đền ơn. Ông Dương Chấn mới trách: Ta biết tài ngươi mà ngươi không biết lòng ta.

Dương Mật nói: Đêm hôm khuya khoắc có ai hay mà ngài sợ.

Dương Chấn đáp: Sáng thì có trời biết, tối thì có thần soi biết; trong có ta biết, ngoài có ông biết. Chỗ biết có nhiều sao gọi rằng không ai biết.

Xem: Bốn hay.



Dương Quan Tây còn sợ có bốn hay,

Khổng Phu Tử những dạy ba điều sợ.

(Sãi Vãi).



DƯƠNG THANH LIỄU LỤC 

Dương thanh: Cây dương màu xanh. Liễu lục: Cây liễu màu lục.

Dương thanh liễu lục tức chỉ cây dương liễu màu xanh lục.



Ba xuân những chốn làm vui!

Dương thanh liễu lục những ai đó giờ!

(Hoa Tiên Truyện).



DƯƠNG THẾ 

Dương: Cõi Dương, tức là cõi của người sống ở. Thế: Trên đời.

Dương thế là cõi của người sống, tức chỉ cõi trần gian hay cõi thế gian mà nhơn loại đang sống.

Hai bên vai vác kể ra,

Các điều dương thế sổ đà tỏ biên.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Khi dương thế không phân phải quấy,

Nay Hư linh đã thấy hành tàng.

(Kinh Thế Đạo).



Sống dương thế hành thì căn bịnh,

Xui tai nàn dấp dính theo mình.

(Kinh Sám Hối).



Tình thâm một gánh còn dương thế,

Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.

(Đạo Sử).



DƯƠNG TRẦN 

Dương: Cõi Dương. Trần: Bụi bặm.

Dương trần nghĩa là cõi dương gian đầy bụi bặm, tức nói cõi đời nhiều uế trược.



Thỉnh trong khắp hết quỉ thần,

Cùng đều xuống chốn dương trần vui chơi.

(Lục Vân Tiên).



Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,

Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.

(Kinh Sám Hối).



Lòng cảm xót dương trần lận đận.

Ra oai linh tiếp dẫn nhơn cầm.

(Xưng Tụng Công Đức).



DƯƠNG TRƯỜNG 

Dương: Con dê. Trường: Ruột.

Dương trường là ruột dê. Ruột dê uốn khúc nên dương trường chỉ đường quanh co nhiều khúc.



Dương trường đường hiểm khúc cong queo.

Quê chợ bao nhiêu khách để xe.

(Thơ Nguyễn Trãi).



DƯƠNG XA 

Dương: Con dê. Xa: Chiếc xe. Dương xa là chiếc xe do dê kéo.

Đời nhà Tấn, vua Võ Đế có nhiều cung phi mỹ nữ, nên khi vua muốn ngự cung nào thì đi trên một chiếc xe khảm vàng ngọc có một bầy dê kéo. Hễ dê vào nơi cung nào thì vua sẽ nghỉ lại nơi cung đó.

Xem: Xe dê.

Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ

Dấu dương xa đám cỏ quanh co.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



DƯỠNG DỤC 

Dưỡng: Nuôi nấng. Dục: Nuôi cho lớn lên.

Dưỡng dục tức là nuôi dạy con trẻ.



Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,

Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,

(Phật Nói Vu Lan).



Nên hư chút phận chi sờn,

Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành.

(Lục Vân Tiên).



Sanh quang dưỡng dục quần nhi,

Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).



DƯỠNG NGHI 

Dưỡng: Nuôi nấng. Nghi: Khuôn mẫu, chỉ bà mẹ.

Dưỡng nghi là tiếng dùng để chỉ người mẹ nuôi. Đồng nghĩa với dưỡng mẫu.



Sợ đàn em dại u ơ,

Khổ thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



DƯỠNG NHI BẤT GIÁO 

Nuôi con chẳng dạy.

Người xưa cho rằng làm cha mẹ sinh con ra nuôi dưỡng con cái mà không dạy dỗ, ấy là lỗi của cha mẹ. Nên có câu: Dưỡng tử bất giáo, phụ chi quá  , , tức nuôi con chẳng day là lỗi ở cha mẹ.

Cha mẹ rủi sanh con hung bạo,

Tội dưỡng nhi bất giáo đã đành.

(Phương Tu Đại Đạo).



DƯỠNG SINH 

Sinh đẻ và nuôi nấng

Mẹ mang nặng để đau, cha nuôi nấng dạy dỗ, đó là hai nguồn ơn lớn, gọi là công dưỡng sinh của cha mẹ.

Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,

Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.

(Truyện Kiều).



Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,

Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.

(Thánh Thi HiệpTuyển).



Dưỡng sinh đã vẹn nợ đôi bên,

Có thiếu thì con cũng trả liền.

(Đạo Sử).



Nợ dưỡng sinh gắng trả cho rồi,

Khi hôm sớm dưỡng nuôi hết dạ.

(Phương Tu Đại Đạo).



DƯỠNG TÁNH

Hay “Dưỡng tính  ” theo nghĩa đen là nuôi dưỡng tính tình cho tốt đẹp.

Con người khi được sinh ra thì Trời đã ban cho một Thiên tính, nhưng lớn lên lại mang quá nhiều vọng tưởng và chấp trước, là cội gốc của mọi phiền não, nên dần dần mất Thiễn tính, và mãi chìm sâu trong vòng luân hồi sinh tử vô tận.

Theo Mạnh Tử, Nhân chi sơ, tnh bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn  , , , nghĩa là con người mới sinh ra, tánh vốn lành nhưng vì do tập nhiễm xã hội mà xa lần tánh lành đi. Vì thế, con người cần phải nuôi dưỡng cái Tánh của mình cho trở lại lành như xưa, tức là phục hồi cái Linh tánh hay Thiên tánh vậy.



Am mây kinh kệ hôm mai,

Lâm tuyền dưỡng tánh, khoan thai thanh nhàn.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,

Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.

(Đạo Sử).



DỨT DÂY ĐỘNG RỪNG

Dây mọc trong rừng leo quấn cây cao, nhiều năm bò lan đeo níu một vùng rộng lớn, nên khi dứt dây thì phải động cả vùng rừng. Ý muốn nói làm việc nhỏ sợ đụng chạm đến việc lớn, liên quan ảnh hưởng đến nhiều người khác.



Làm chi mặt vượt mặt lăng,

Dứt dây chẳng sợ động rừng kia ru.

(Truyện Trinh Thử).



DỨT ĐƯỜNG CHIM XANH

Chim xanh chỉ người đưa tin tức, do tích chim thanh loan của bà Tây Vương Mẫu báo tin.

Dứt đường chim xanh ý nói bặt tin tức.

Xem: Chim xanh.



Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

Cạn dòng lá thắm dứt đường 
chim xanh.

(Truyện Kiều).



DỨT HƠI BA TẤC

Tức là dứt ba tấc hơi.

Ba tấc hơi do chữ “Tam thốn khí  ” trong câu cổ ngữ: Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhất đán vô thường vạn sự hưu  , , nghĩa là ba tấc hơi còn thì ngàn việc dùng, một sáng vô thường (Tức chết) thì muôn việc điều buông bỏ.

Dứt hơi ba tấc tức chỉ sự chết.



Quyền là chi? Lợi là chi?

Dứt hơi ba tấc có gì gọi hay.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Đ

ĐA ĐOAN 

Đa: Nhiều. Đoan: Mối.

Đa đoan là nhiều mối lôi thôi, tức nhiều việc, nhiều chuyện rắc rối khó lường.



Mà lượng Thánh đa đoan kíp mấy,

Bỗng ra lòng run rẩy vì đâu.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Ông tơ thực nhẽ đa đoan!

Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?

(Truyện Kiều).



Chữ bạc mệnh ai ơi thấu với,

Câu đa đoan trời hỡi thấu chăng?

(Tự Tình Khúc).



ĐA MANG 

Đa: Nhiều. Mang: Bối rối.

Đa mang có nghĩa là nhiều việc đưa đến khiến lòng thêm bối rối.



Yêu vì nết, trọng vì người,

Phu nhân lại dạy đến lời đa mang.

(Hoa Tiên Truyện).



ĐA QUÁ ĐA NGÔN 

Đa quá: Nhiều lỗi lầm. Đa ngôn: Nhiều lời.

Đa quá đa ngôn hay đa ngôn đa quá là nhiều lời nhiều lỗi, nghĩa là càng nói nhiều càng có lỗi nhiều.



Lời ăn nết ở cho khôn,

Chớ nên đa quá đa ngôn chút nào.

(Gia Huấn Ca).



ĐÁ BIA DANH TẠC

Đá bia: Bia đá. Danh tạc: Khắc tên.

Đá bia danh tạc là khắc tên vào bia đá để ghi công nghiệp hầu bia tiếng thơm muôn đời.



Ðá bia danh tạc chẳng bền chi,

Cái khó tua lo kịp với thì.

(Đạo Sử).



ĐÁ GẬT ĐẦU

Do tích người đệ tử của sư La Thập ngồi giảng kinh Niết Bàn ở núi Hổ Khưu, rồi hỏi mấy hòn đá được xếp xung quanh, xem lời giảng có hợp với ý Phật không, thì thấy mấy hòn đá gật đầu.



Mưa hoa rảy khắp bên mình,

Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.

(Truyện Phan Trần).



Hoa thính kệ lao xao múa nhị,

Đá nghe kinh lố xố gật đầu.

(Nhạc Hoa Linh).



ĐÁ NÁT VÀNG PHAI

Đá vàng chỉ một lòng một dạ để giữ lời hẹn chắc.

Đá nát vàng phai ý nói lòng dạ thay đổi, không giữ lời ước hẹn như đá bị bể nát, vàng bị phai lợt.

Ai làm đá nát vàng phai,

Ủ ê nào thấy lâu đài như xưa.

(Hoài Nam Khúc).

 

ĐÁ VÀNG

Do chữ “Kim thạch  ” là vàng đá.

Đá vàng là hai loại vật chất cứng, chắc nên trong văn chương người ta dùng để ví với lòng trinh tiết của người đàn bà bền chặt, không bao giờ thay đổi.

Đường thi có câu: Duy hữu đồng tâm nhân, khả đương kim thạch luận  , , nghĩa là duy chỉ có một người một lòng mới có thể bàn đến chuyện đá vàng.



Sớm đào tối mận lân la,

Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.

(Truyện Kiều).



Đá vàng nghe cũng bền lòng.

Lẽ nào trống thủng bồng long đến điều.

(Quan Âm Thị Kính).



Son phấn thà cam dày gió bụi,

Đá vàng chi để thẹn non sông?

(Thơ Tôn Thọ Tường).



Nợ trần đã phủi lòng son sắt,

Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.

(Đạo Sử).



ĐÀ ĐAO 

Một thế võ giả vờ thua chạy, chờ kẻ địch đuổi theo, gần đến rồi thừa thế quay lại chém.

Đây là một ngón võ mà Quan Công (Quan Vân Trường) đời Tam Quốc thường dùng.

Nghĩa bóng: Mưu mẹo để lừa người.



Đà đào lập sẵn chước dùng,

Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!

(Truyện Kiều).



ĐẠC ĐỨC TRỌNG NI THIẾT GIÁO

Đạc: Tức mộc đạc, cái mõ gỗ, ngày xưa dùng để đánh hiệu vào học.Vì thế, người ta gọi thầy giáo là mộc đạc. Trọng Ni: tên tự đức Khổng Tử. Thiết giáo: Thi hành việc giáo hoá.

Đạc đức Trọng Ni thiết giáo là nói đức Khổng Tử đem đạo đức dạy người đời như cái mõ truyền rao cho thiên hạ nghe.

Trong Luận Ngữ có câu : Thiên hạ chi vô đạo giả cửu hỹ, Thiên tương dĩ Khổng Tử vi mộc đạc  , nghĩa là thiên hạ không Đạo đã lâu rồi, Trời cho Khổng Tử ra làm cái mõ khuya để cảnh tỉnh nhơn tâm.

Ngỡ là chuông vua Hạ Võ chiêu hiền;

Ngỡ là đạc đức Trọng Ni thiết giáo.

(Sãi Vãi).



ĐAI CÂN

Bởi chữ “Cân đới  ”, tức cái khăn và sợi dây đai, chỉ về phái quan chức mũ cao áo dài

Ngày xưa người đàn ông để tóc dài, nên khi làm quan, mặc triều phục, đầu phải bịt khăn, lưng phải buộc sợi dây đai. Do vậy, từ “Cân đai” dùng để chỉ quan lại.

Xem: Cân đai.



Nền thi lễ, nếp đai cân,

Giá nào dẫu nhắc đồng cân cũng già.

(Hoa Tiên Truyện).



Rày vâng thăng điệu 
lai Kinh,

Thỏa lòng hồ thỉ phỉ tình đai cân.

(Nhị Độ Mai).



Ðai cân mảng luyến chưa nên phận,

Danh lợi ham giành khó vẹn ngôi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Trọng thì lấy đai cân làm lịnh,

Khinh thì lo trừ nghịch làm duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Dạy trọn thờ hai chữ quân thần,

Rán nên mặt đai cân cùng thế sự.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐÁI LA NANG 

Mang túi lụa.

Đời nhà Đường, con của nhà thơ Đỗ Phủ là Tông Vũ, thường hay mang túi lụa đi ăn chơi, nên ông làm một bài thi khuyên con gắng học như sau: Mích cú tân tri luật, than thư giải mãn sàng, thí ngâm thanh ngọc án, mạc đới tử la nang  , 滿 , , , nghĩa là tìm câu biết luật mới, lục sách bỏ đầy giường, Thử ngâm bài thanh ngọc, Chớ sách túi lụa hường.

ĐÁI NGUYỆT 

Hay “Đới nguyệt”.



Đái: Đội trên đầu. Nguyệt: Mặt trăng.

Đái nguyệt tức là đầu đội trăng, ý muốn nói đi ban đêm. Chữ dùng để chỉ sự cực nhọc, vất vả.

Xem: Phụ tinh đái nguyệt.

Xuất gia quyết một gan liều,

Phụ tinh, đái nguyệt bước lên dặm đường.

(Quan Âm Thị Kính).



ĐÁI THIÊN 

Đái: Đội trên đầu. Thiên: Trời.

Đái thiên là đầu đội trời. Bởi câu: “Bất cộng đái thiên ” tức không đội chung một bầu trời.

Hai bên vì hận thù nhau ghê gớm, quyết không sống chung dưới bầu trời. Chỉ mối thù sâu.

Công tư luống bận hai bề,

Đái thiên lòng đã quyết thề chẳng dung.

(Lưu Nữ Tướng).



ĐÀI CÁC 

Đài các là cái phủ hay cái gác, nơi làm việc của quan, nên hai chữ nầy được dùng để gọi kẻ cao sang, quyền quý.



Rằng đây há khách tầm thường,

Đem thân đài các mà nương bóng chiền.

(Truyện Phan Trần).



Bùi ông đứng nhắm tướng nàng,

Chẳng phen đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngài các cũng phường trâm anh.

(Lục Vân Tiên).



Cớ chi nhà lối xa khơi,

Đem mình đài các, vào nơi lâm tuyền.

(Quan Âm Thị Kính).



ĐÀI DƯƠNG

Tức Dương đài , tên một ngọn núi, ở huyện Vu Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Chỉ việc trai gái gặp gỡ ái ân với nhau.

Theo Cao Đường Phú, vua Sở Tương Vương nằm mơ thấy giao hoan với Thần nữ núi Vu sơn, sớm làm mưa, tối làm mây tại Dương Đài.

Xem: Dương đài.



Kìa ai mê giấc Đài Dương,

Mây mưa là chuyện hoang đường biết đâu?

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Của đâu trêu ghẹo chi ai,

Ấy người cung Quảng, hay người Đài Dương.

(Nhị Độ Mai).



ĐÀI GƯƠNG

Bởi chữ “Kính đài  ”, nơi treo gương để người con gái trang điểm, cũng đồng nghĩa với đài trang.

Đài gương, chỉ nơi người đàn bà ở. Nghĩa rộng là nói tôn hạng phụ nữ giàu sang.

Tiện đây xin một hai điều,

Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng.

(Truyện Kiều).



Trăng tỏ đài gương người thẹn bóng,

Hoa đưa trướng gấm khách tô hồng.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



ĐÀI LÂN 

Đài: Cái nhà xây cao lên. Lân: Con kỳ lân.

Tức là Kỳ lân đài, một cái đài do vua Đường Tuyên Tông lập nên để vẽ tượng các vị công thần trong thời bấy giờ để ghi nhớ công nghiệp.



Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,

Tên ghi gác khói, tượng truyền đài lân.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



ĐÀI LIÊN

Tức “Liên đài  ”, dùng để chỉ Tòa sen, nơi ngự của chư Bồ Tát và chư Phật. Vì vậy, Đài liên chỉ quả vị của người tu hành khi chứng đắc.

Xem: Liên đài.

Anh tuấn đất gìn nung khí phách,

Uy linh Trời giữ tạc đài liên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐÀI MÂY

Bởi chữ “Vân đài  ”, tên một cái cung đời nhà Hán xây rất cao, nên được gọi là đài mây hay vân đài.

Đời vua Hiền Tông, vua nghĩ đến công ân của những kẻ đời trước mới truyền cho vẽ tượng của 28 công thần vào vách ở phía nam cung vân đài.

Xem: Vân đài.



Danh sáng đài mây đã mấy Đông,

Có nhân dường hãy sống hai ông.

(Hoài Nam Khúc).



Phận dù không gác khói đài mây,

Danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.

(Trận Vong Tướng Sĩ).



Hết buổi truân chuyên nên buổi sướng,

Ðài mây có lúc cũng đưa chân.

(Đạo Sử).



Tạo nên sự nghiệp thế ai màng,

Chưa đến đài mây đã đặng sang.

(Đạo Sử).



ĐÀI NGÂN

Bởi chữ “Ngân đài  ”.

Hậu Hán Thư có câu: Thỉnh Vương Mẫu ư Ngân Đài hề  , nghĩa là mời Vương Mẫu ở Ngân Đài chừ.

Do vậy, vân đài được dùng để chỉ nơi Tiên ở.



Trên thì chễm chệ đài Ngân,

Mấy lời dạy bảo mười phần đinh ninh.

(Thạch Sanh).



ĐÀI SEN

Đài sen là cái giá đèn dùng để cắm nến. Cái đài nầy làm thành hình bông sen.

Ngoài ra, “Đài sen” dịch nghĩa từ “Liên đài”, nên dùng để chỉ Toà sen, nơi ngự của chư Phật và Bồ tát.

Vội mừng làm lễ rước vào,

Đài sen nối sáp song đào thêm hương

(Truyện Kiều).



Đài sen vui nhánh trổ thêm hoa,

Một Đạo như con ở một nhà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,

Đem tấm tình để ngụ đài sen.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐÀI TRANG 

Tức trang đài, một chiếc bàn để đồ trang sức của phụ nữ. Ngoài ra cũng là tiếng xưng hô người con gái quý phái.



Đài trang còn những đâu đâu,

Hãy đem phong bác con hầu thử xem.

(Hoa Tiên Truyện).



Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,

Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.

(Truyện Kiều).



ĐÀI VÂN

Bởi chữ “Vân đài  ” là đài mây, một cái đài cất cao tận mây.

Đài vân hay Vân đài do vua nhà Hán là Minh Đế xây dựng rất cao, làm nơi thờ ảnh 28 vị công thần để ghi nhớ công đức.

Đối với Tôn giáo, Đài vân hay Vân đài dùng để chỉ nơi đạt phẩm vị cao trọng trên cõi thiêng liêng.

Xem: Vân đài.

Đài vân Quan Võ để phong Thần,

Còn của Thầy đây để nhắc cân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Phước gặp Tam Kỳ Trời cứu độ,

Gắng tu kiệp buổi lướt Đài Vân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Lời lẽ tuy Thầy chưa để dặn,

Nhưng tên tuổi trẻ ở Ðài Vân.

(Đạo Sử).



Mình muốn rảnh rang Nhơn đạo xử,

Xong xuôi rồi mới đến Ðài Vân.

(Đạo Sử).



ĐÀI XUÂN

“Xuân” hay “Thung” 椿 là một loại cây to, sống lâu, lấy 800 năm làm một mùa xuân, 800 năm làm một mùa thu, mượn để tượng trưng cho tuổi thọ. Tục mong cha được trường thọ, nên gọi cha là “Thung đường” (Xuân đường).

Đài xuân cũng như chữ “Xuân đường” dùng để chỉ người cha.

Xem: Thung đường.



Vào hầu lạy trước đài xuân,

Hương đưa chén chuốc gấm nhuần tiệc cao.

(Hoa Tiên Truyện).



ĐÃI NGỌC 待玉

Đãi ngọc tức là ngọc đợi giá.

Bởi câu “Mỹ ngọc đãi giá  ” trong thiên Tử Hãn, sách Luận Ngữ, tức là ngọc tốt chờ đợi được giá cao mới bán.

Đãi ngọc dùng để nói về người con gái chờ thời, kén chồng. Xem: Ngọc lành chờ giá.



Người khuê các khách thư cầm,

Ngoài đành đãi ngọc, trong đành tựa mai.

(Nhị Độ Mai).



ĐẠI BÀNG CHÍ CẢ

Đại bàng: Chim bằng, một loại chim có thân hình to lớn. Theo Trang Tử: Chim bằng lưng như núi Thái sơn, cánh như mây lớn trên trời, có thể bay một lần đến ba nghìn dặm. Người ta thường ví chim bằng với những kẻ có chí lớn. Chí cả: Chí lớn.

Đại bàng chí cả ý nói những người có chí hướng lớn lao như chim đại bàng.



Đại bàng chí cả tuyệt vời,

Đường mây vùng vẫy bên trời bay cao.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



ĐẠI CỔ 

Đại: To, lớn. Cổ: Đi buôn.

Đại cổ là những thương buôn lớn, tức là những người giàu có, mua bán khắp mọi nơi và nhiều loại hàng hoá.



Xe lừa dù có 
chen vai,

Kìa người đại cổ nọ người phú thương.

(Nhị Độ Mai).



ĐẠI ĐỒNG 

Đại đồng là hết thảy đều như nhau.

Đây chỉ một xã hội lý tưởng của Nho giáo, trong đó nhơn loại đều là anh em, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giai cấp. Mọi người đều sống bình đẳng, bác ái, chung nhau làm, chung nhau ăn, cuộc sống thanh bình, thánh đức.

Trong Kinh Lễ, thiên Lễ Vận chép rằng: Khổng Tử buồn bã, thở dài về việc Vua nước Lỗ cúng tế không đủ lễ, rồi nói với môn đệ là Tử Du rằng: Đại đạo chi hành dã, dữ Tam đại chi anh, Khâu vị chi đãi dã nhi hữu chí yên.



Đại đạo hành dã, thiên hạ vi công, tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mục. Cố nhân bất độc thân kỳ thân, bất độc tử kỳ tử, sử lão hữu sở chung, tráng hữu sở dụng, ấu hữu sở trưởng, căng quả cô độc phế tật giả giai hữu sở dưỡng, nam hữu phận, nữ hữu quy. Hóa ố kỳ khí vu địa dã, bất tất tàng vu kỷ; lực ố kỳ bất xuất ư thân dã, bất tất vị kỷ. Thị cố mưu bế nhi bất hưng, đạo thiết loạn tặc nhi bất tác, cố ngoại hộ nhi bất bế. Thị vị Đại đồng 
, , , .  , , , . , , 使 , , , , , . , , , . , , , . Nghĩa là thực hành đại đạo cùng với các bậc anh tuấn đời Tam đại thì Khâu này không làm được, nhưng vẫn có chí đó.

Ở thời Đại đạo thực hành thì thiên hạ là của chung, người ta chọn kẻ hiền năng, giảng điều tín thực, sửa điều hòa mục. cho nên người ta không riêng thân cha mẹ mình, không riêng yêu con mình, kẻ già được nuôi dưỡng trọn đời, trai tráng có chỗ dùng, trẻ con được săn sóc đến trưởng thành; người ta thương kẻ góa, con côi, người già cô độc; người tàn tật được chu cấp, con trai có phận, con gái có nơi chốn để nương cậy. Người ta ghét của bỏ phế trên đất mà lượm lên, chứ không chủ ý lo lợi riêng cho mình. Vì vậy những ngón cơ mưu không thi thố được, kẻ trộm cắp, người làm loạn, làm giặc không nổi lên, cho nên cửa ngõ không cần đóng. Đó là thời Đại đồng.



Muốn cho thiên hạ Đại đồng.

Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.

(Kinh Thế Đạo).



ĐẠI HẠN 

Giới hạn lớn của đời người là lúc chết.

Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: Phu thê bổn thị đồng lâm điểu, đại hạn lai thời các tự phi  , , nghĩa là vợ chồng vốn là chim cùng một rừng cây, đến khi đại hạn, mỗi con bay một ngả.

ĐẠI HỌC 

Đại học là tên một bộ sách của Nho gia, cùng với Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử hợp thành Tứ Thư. Nội dung quyển Đại học có ý nói học để làm sáng tỏ cái đức trong thiên hạ và đem học thức rộng rãi ra áp dụng về đường chính trị, tức là lấy việc học để trị nước.



Đọc cho đến Trung Dung, Đại Học,

Tứ Thư rồi lại đọc Ngũ Kinh.

(Gia Huấn Ca).



Đại học, Tăng Tử dò lưa,

Tu thân bình trị xếp vừa mười chương.

(Tam Tự Kinh).



ĐẠI KHOA 

Hay “Đại Đăng Khoa  ” nghĩa là đi thi đậu, được thành danh, làm rạng rỡ tông môn, đó là niềm vui lớn nhứt gọi là Đại Đăng Khoa.

Đại Đăng Khoa còn có nghĩa đậu khoa thi Hội, thi Đình.

Phu nhân lại dạy chuyện nhà,

Đại khoa nhân thể Tiểu khoa cũng vừa.

(Hoa Tiên Truyện).



Tiên rằng: Nhờ lượng nhạc gia,

Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì.

(Lục Vân Tiên).



Đại khoa, trước đặng nên mình,

Tiểu khoa sau lại phỉ tình bách niên.

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐẠI PHU TÙNG 

Cây tùng tức cây thông được phong chức Đại phu.

Do tích vua Tần Thuỷ Hoàng lên làm lễ phong thiện trên núi Thái Sơn, giữa đường gặp cơn mưa to, đành trú ẩn dưới gốc cây thông già, sau cơn mưa nhà vua bèn phong cho cây thông chức “Đại phu”.

Tiết cứng khá phen Quân tử trúc,

Thói cao chẳng nhượng Đại phu tùng.

(Hồng Đức Quốc Âm)



ĐẠI PHÚ DO THIÊN 

Đại phú: Giàu lớn. Do Thiên: Bởi Trời.

Thánh hiền xưa có dạy rằng: Đại phú do thiên, tiểu phú do cần  , , nghĩa là giàu to là bởi trời, giàu nhỏ là do sự siêng năng. Có người lại cho rằng: Tiểu phú do kiệm , tức là giầu nhỏ thì do sự tiện tặn.



Chữ rằng: Đại phú do Thiên,

Tiểu phú do kiệm, Thánh hiền còn ghi.

(Tội Vợ - Vợ Chịu).



Ðại phú do Thiên tuy đã vậy,

Ðủ no không thiếu bởi nên cần.

(Đạo Sử).



ĐẠI PHÚ DO THIÊN 

Đại phú: Giàu lớn. Do Thiên: Bởi Trời.

Thánh hiền xưa có dạy rằng: Đại phú do thiên, tiểu phú do cần  , , nghĩa là giàu to là bởi trời, giàu nhỏ là do sự siêng năng. Có người lại cho rằng: Tiểu phú do kiệm , tức là giầu nhỏ thì do sự tiện tặn.



Chữ rằng: Đại phú do Thiên,

Tiểu phú do kiệm, Thánh hiền còn ghi.

(Tội Vợ - Vợ Chịu).



Ðại phú do Thiên tuy đã vậy,

Ðủ no không thiếu bởi nên cần.

(Đạo Sử).



ĐẠI PHÚ BỞI TRỜI

Bởi chữ “Đại phú do thiên  ”.

Người xưa cho rằng người siêng năng làm ăn thì có thể làm giàu nhỏ được, còn người có vận số thì giàu to. Vì vậy, sách mới có câu: Đại phú do thiên, tiểu phú do cần, nghĩa là giàu to là bởi trời, giàu nhỏ là do sự siêng năng.

Xem: Đại phú do thiên.



Cho hay đại phú bởi trời,

Nhưng mà ở thế thì người hết chê.

(Gia Huấn Ca).



ĐẠI TRƯỢNG PHU 

Người đàn ông có chí khí hơn người.

Mạnh Tử đã định nghĩa chữ đại trượng phu như sau: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di,uy vũ bất năng khuất, thử chi vị Đại Trượng phu  , , , , nghĩa là giàu sang không làm cho say đắm, nghèo hèn không làm cho đổi dời, oai võ không làm cho khiếp sợ,ấy mới gọi là Đại Trượng phu.

Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt,

Đại trượng phu trước giặc vong thân.

(Nữ Trung Tùnh Phận).



ĐẠI VƯƠNG BỐ CÁI 

Khi quân Tàu còn đô hộ, quan Đô uý là Cao Chính Bình bắt dân ta đóng sưu thuế nặng, lòng người oán hận. Bấy giờ ở quận Đường Lâm, nay là huyện Phúc Thọ, có người tên là Phùng Hưng nổi lên, đem quân về phá phủ Đô Hộ. Cao Chính Bình lo sợ thành bịnh mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng thì mất. Quân sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên là Bố Cái Đại Vương  , tức là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ (Bố: Cha. Cái: Mẹ).



Đế hương phút trở xe biền,

Đại vương Bố Cái tiếng truyền muôn thu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐẠI XÁ 

Đại: Lớn. : Tha.

Đại xá là không thu thuế.

Chỉ cuộc tha tội lớn lao, tha một lần cho một số rất đông người phạm tội, hoặc còn có nghĩa là tha hết tất cả các tội lỗi tội nhân.

Cũng khi ơn đội quốc gia,

Cũng khi đại xá dân ta được mừng.

(Thanh Hoá Quan Phong).



ĐẢM PHÁ TÂM HÀN 

Vỡ mật lạnh tim, ý muốn nói người bị khiếp sợ.

Tống Thư chép: Ông Hàn Trĩ Khuê cùng ông Phạm Trọng Yêm rán sức thu phục nước Tây Hạ. Người đương thời có đặt bài hát rằng: Quân trung hữu nhất Hàn, Tây tặc văn chi tâm đảm hàn. Quân trung hữu nhất Phạm, Tây tặc văn chi kinh phá đảm  , 西 . , 西 , nghĩa là Trong quân có một ông Hàn, Tây tặc nghe qua lạnh tim mật. Trong quân có một ông Phạm, Tây tặc nghe qua sợ táng đởm.

ĐAN BIỀU 

Đan: Cái giỏ. Biều: Cái bầu.

Đan biều là một giỏ cơm, một bầu nước, ý chỉ Nhan Hồi, học trò của Đức Khổng Tử, là người thích sống cuộc đời giản tiện, không nề cực khổ, chỉ một giỏ cơm, một bầu nước (Đan thực biều ẩm) cũng đủ làm cho Nhan Hồi vui với Đạo.

Nghĩa bóng: Sống giản dị, không màng phú quý.

Năm ba kẻ thước người hèo,

Ngõ Nhan lôi cái đan biều đập tan.

(Tự Tình Khúc).

ĐAN ĐÌNH 

Đan (Hay đơn): Màu đỏ. Đình: Sân.

Ngày xưa nơi cung điện nhà vua đều lát gạch màu son đỏ, nên sân chầu được gọi là đan đình.



Nhà yên vừa dịp nước bình,

Hai sinh đều tấu đan đình vinh qui.

(Hoa Tiên Truyện).



Bút son vâng mệnh đan đình,

Gác lê lần giở sử xanh muôn đời.

(Quốc Sử Diễn Ca).

Theo giáo lý đạo Cao Đài, “Đan đình” hay “Đơn đình” là sân điện của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, ý chỉ cõi trở về của Chơn linh đắc đạo.

Xem: Đan trì.



Sanh dưỡng, dưỡng sanh rồi phải độ,

Ðộ cho trở bước lại đơn đình.

(Đạo Sử).



ĐAN QUẾ 

Hay “Đơn quế”.

Tên một loại cây quế có vỏ màu đỏ.

1.- Chỉ mặt trăng.

Theo tích Đường Minh Hoàng du nguyệt điện thấy nơi cung trăng có một cây quế rất to. Nên người xưa gọi đó là “Thiềm cung đan quế  ”, tức cây quế ở cung trăng.

Vén mây mở mặt trăng rằm,

Vành đan quế đã tối dầm tại trong.

(Truyện Trinh Thử).



Nguyệt rằng ta lại biết ta,

Có cây đơn quế ấy là nhà em.

(Nhân Nguyệt Vấn Đáp).

2.- Chỉ người có tài năng thi đổ.

Do tích Đậu Vũ Quân đời nhà Tống có năm người con học rất giỏi đều đổ đạt hết. Phùng Đạo tặng cho bài thơ trong đó có hai câu: Linh xuân nhất chu lão, Đan quế ngũ chi phương  椿 , , nghĩa là một cây linh xuân cỗi, năm cành đan quế thơm.



Công rằng đan quế đôi cành,

Bảng vàng thẻ bạc đã đành làm nên.

(Lục Vân Tiên).



Hỡi thương ôi,

hoè liễu thơ ngây, ân cần nhờ tay vợ chăn nuôi,

di phúc ấm sẵn chồi đan quế.

(Văn Tế Tướng Sĩ)



ĐAN TÂM 

Hay “Đơn tâm”.

Đan tâm là lòng son, tức là tấm lòng ngay thật như son đỏ, dùng để chỉ lòng ngay thẳng và chân thật.

Nghĩa bóng: Chỉ lòng trung thành.

Nguyễn Công Trứ có câu: Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh  ,  , nghĩa là xưa nay làm người ai không chết, Giữ tấm lòng son với sử xanh.

Đan tâm còn chút gọi là,

Giữ gìn băng ngọc đừng pha bụi trần.

(Tự Tình Khúc).



Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục,

Đơn tâm khó định lấy chi mong.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐAN THANH 

Đan: Màu son đỏ. Thanh: Màu xanh.

Đan thanh tức là màu đỏ và màu xanh, dùng để chỉ tranh ảnh, hội hoạ.



Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,

Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Lại còn một thứ ghê thay,

Bức đan thanh những mượn tay vẽ vời.

(Ngọc Kiều Lê).



ĐAN THÀNH 

Đan: Son đỏ. Thành: Ngay thật.

Đan thành như chữ đan tâm là tấm lòng son, tức là tấm lòng chân thành, son sắt.



Một là mở tấm đan thành,

Hai là rửa tấm nguyệt bình chê bai.

(Tự Tình Khúc).



ĐAN TRÌ 

Hay “Đơn trì”.



Đan (Hay đơn): Màu đỏ. Trì: Bực thềm.

Đan trì là thềm đỏ, tức thềm cung điện của nhà vua được lát gạch hay đá màu đỏ.

Còn dùng để chỉ nhà vua.

Xem: Đan đình.



Sao không tâu đến đan trì,

Hoạ là tinh biểu chút gì trả nhau.

(Hoa Tiên Truyện).



Tiếng thánh thót cung đàn thúy địch,

Giọng nỉ non ngón địch đan trì.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Phán rằng một cửa trung thần,

Truyền cho hai gã vào sân đan trì.

(Nhị Độ Mai).



Hay là tài dựa đơn trì,

Vào ra xúng xính thế thì phải chăng?

(Hứa Sử Tân Truyện).

ĐÀN BÁ NHA

Cây đàn của Bá Nha.

Bá Nha là người đời Tống, làm quan đến chức Thượng Đại Phu, biết đàn rất giỏi, kết bạn tri âm với Tử Kỳ, một người tiều phu nhưng biết âm luật và thưởng thức được tiếng đàn.

Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha buồn thảm, cho rằng không còn ai hiểu được tiếng đàn của mình nữa, bèn đập vỡ cây đàn, thề không bao giờ đàn nữa.



Đàn Bá Nha gãy khúc tính tình tang,

Cờ Đế Thích đi về xe pháo mã.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



ĐÀN GẢY TAI TRÂU

Trâu không biết nghe đàn, nên đem đàn đến gảy cho trâu nghe thì uổng phí công lao của mình.

Nghĩa bóng: Nói gì với người ngu cũng bằng thừa.

Uổng thay đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngàn gảy tai trâu,

Nước xao đầu vịt, nghĩ lâu nực cưòi.

(Lục Vân Tiên).



ĐÀN HỒ LŨ THỎ

Hồ là chồn cáo được ví với kẻ xảo quyệt, còn thỏ chỉ người nhút nhát khiếp nhược.

Đàn hồ lũ thỏ chỉ bọn quan lại xảo quyệt nhưng lại nhút nhát khiếp nhược trong triều đình.

May mà vua chứng lòng ngay,

Đàn hồ, lũ thỏ, một ngày quét thanh.

(Nhị Độ Mai).



ĐÀN NHA

Tức là tiếng đàn của Bá Nha, một vị quan Thượng Đại Phu, đời nhà Tống. Bá Nha là người đàn rất giỏi, chỉ có Tử Kỳ là một tiều phu, sành về âm luật, phân biệt được tiếng đàn mới thưởng thức được tài nghệ của Bá Nha. Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha cho rằng không còn người tri âm nữa, nên đập vỡ cây đàn.

Xem: Bá Nha Tử Kỳ.

Thơ Lý ngâm nga khi mở quyển,

Đàn Nha tình tính lúc lần dây.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



ĐÀN TAO

Bởi chữ “Tao đàn  ”. Tao có nghĩa là thi ca. Đàn là nơi để cúng tế, điễn giảng hay hội họp.

Đàn tao tức là tao đàn chỉ nơi hội họp của các văn sĩ, thi nhân.

Thốt chi bướm lũ ong bầy,

Đàn Tao nào mấy đua tay cắm vè.

(Mai Đình Mộng Ký).



ĐÀN THÔNG PHÁCH SUỐI

Đàn thông phách suối nghĩa là thông reo như tiếng đàn, suối chảy như nhịp phách, chỉ âm thanh hoà tấu của suối rừng thiên nhiên.



Đàn thông phách suối vang lừng,

Cá khe lắng kệ chim rừng nghe kinh.

(Truyện Phan Trần).



ĐÀN TRANH

Đàn tranh còn gọi là “Ngân tranh  ”, lấy ý trong câu Cổ Thi: Sầu lai dục tấu Tương tư khúc, Bảo đắc ngân tranh bất nhẫn đàn  , , nghĩa là khi buồn muốn đàn khúc Tương tư, nhưng ôm cây đàn tranh bạc không nỡ gảy.



Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng,

Ôm đàn tranh mấy phím rời tay.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



ĐÀN VIỆT 

Tiếng nhà Phật, còn gọi “Thí chủ”.

Đàn việt là người cho, giúp đỡ, hiến tặng những tư hữu vật chất hoặc tinh thần để làm lợi ích cho người, do phát khởi lòng thương.

Đàn việt còn có nghĩa là những người đi vãng cảnh chùa.



Gió quang mây tạnh thảnh thơi,

Có người đàn việt lên chơi cửa già.

(Truyện Kiều).



ĐÃNG BÌNH 

Đãng: Làm sạch hết. Bình: Yên ổn.

Đãng bình có nghĩa là quét sạch, dẹp sạch bọn gây rối, giặc cướp.



Văn thần ra sức đãng bình.

Dẹp yên khói giặc, quét thanh bụi Hồ.

(Nhị Độ Mai).



ĐÃNG ĐỊCH 

Đãng: Làm sạch. Địch: Rửa quét.

Đãng địch nghĩa là trừ khử những gì hung ác, ô uế.

Nghĩa bóng: Chỉ việc dẹp yên giặc giã.

Tới Mậu thân từ rỡ vẻ tường vân,

Sông núi khắp nhờ công đãng địch.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



ĐÁNH XA TẦN HOÀNG

Nói việc Trương Lương mưu trả thù cho nước Hàn, bèn thuê võ sĩ nằm mai phục ở Bác Lãng Sa, chờ xe của vua Tần Thuỷ Hoàng đến đó để dùng chuỳ đập vào xe thích khách. Nhưng việc không thành công, khiến Trương Lương phải ẩn trốn.

Xem: Trương Lương.

Làm cây chuỳ Bác Lãng sa,

Trương Lương vì chúa đánh xa Tần Hoàng.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



ĐẢNH NGHIỆP 

Đảnh hay đỉnh: Cái vạc có ba chân, tượng trưng cho nước. Nghiệp: Sự nghiệp.

Đảnh nghiệp là cơ nghiệp to lớn, cơ nghiệp của Triều đình, vua chúa.



Trụ tâm nâng đỡ quốc hồn,

Giữ bền đảnh nghiệp vĩnh tồn hậu lai.

(Kinh Thế Đạo).



ĐAO BINH 

Đao: Cây đao, nói chung các loại vũ khí thời xưa. Binh: Quân lính.

Binh đao là quân lính và vũ khí, dùng để chỉ chiến tranh, giặc giã.



Đã từng cơ khốn đao binh,

Mười phần cũng mới thăng bình hai ba.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Cõi trần trung giái 
thinh thinh,

Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.

(Xưng Tụng Công Đức).



Dân dưới phép tụng đình,

Nước dưới phép đao binh,

Nhà dưới phép luật hình,

Còn chi hai chữ thái bình.

Ngửa nghiêng chín bệ, gập ghình ba châu.

(Ngụ Đời).


ĐAO BÚT 

Đao bút là cây dao và cây viết. Ngày xưa khi còn viết vào thẻ tre, có chữ nào viết sai thì dùng dao cạo đi để viết lại chữ khác. Như vậy, đao bút dùng để chỉ bút viết nói chung.

Đao bút còn có nghĩa là ngòi viết như lưỡi đao, để chỉ ngọn bút đanh thép.

Trau giồi đao bút cho tươi,

Án sanh làm tử, cất mươi xàng xàng.

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐAO BÚT LẠI 

Những người giúp việc biên chép giấy tờ ở các cơ quan hành chánh thời xưa gọi là đao bút lại.

Cây bút có thể sắc bén như đao, giết người đặng, cho nên những kẻ hay làm đơn kiện tụng hay xúi người ta thưa kiện đều gọi là bọn đao bút lại.

Và đao bút lại bấy nhiêu lâu,

Xảy gặp Cao Hoàng phúc bởi đâu.

(Hồng Đức Quốc Âm).



ĐAO CUNG 

Cây đao và cây cung là hai món binh khí thời xưa dành cho võ tướng. Vì vậy, chữ đao cung dùng để chỉ nghề võ.



Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,

Xếp bút nghiên theo việc đao cung.

(Nhị Độ Mai).



ĐAO PHỦ 

Đao phủ là cây đao và cây búa, hai thứ khí giới để hành hình kẻ bị phạm tội chết.

Về sau, chữ “đao phủ” được dùng để chỉ người đứng ra chém đầu.

Kíp truyền đao phủ chỉnh hình,

Mới hay tấm dạ kiên trinh khác thường.

(Nhị Độ Mai).



ĐAO SƠN KIẾM THỤ 

Đao sơn kiếm thụ là đao dựng đứng như núi, gươm lởm chởm như cây, dùng để chỉ cảnh tượng đao kiếm dẫy đầy, khí giới la liệt.

Đao sơn kiếm thụ còn là một thứ hình phạt khốc liệt thời xưa, bắt tội nhân phải lên nằm trên hàng đao kiếm.

Đao sơn, kiếm thụ đầy thành,

Thủy lao bào lạc ngục hình gớm thay.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐÀO CÔNG 

Đào công có nghĩa là ông Đào, chỉ Phạm Lãi, một công thần của vua nước Việt thời Xuân Thu. Phạm Lãi có hiệu là Đào Chu, nên người ta còn gọi là Đào công.

Xem: Đào Chu.

Trái cân Yến Tử còn roi dấu,

Quyển sổ Đào Công chẳng mất tuồng.

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐÀO CHU 

Đào Chu tức là hiệu của Phạm Lãi. Sau khi giúp vua Việt Vương Câu Tiễn khôi phục đất nước xong, Phạm Lãi rong thuyền chơi Ngũ hồ, rồi đến đất Đào, tự hiệu là “Đào Chu Công”.

Nhờ tài kinh doanh mua bán, ông trở nên người giàu có. Tương truyền ông có viết cuốn “Đào Công Trí Phú”. Xem: Phạm Lãi.

Người đưa rượu hỏi thăm Bành Trạch,

Kẻ say trăng tìm khách Đào Chu.

(Tự Tình Khúc).



ĐÀO CHÚ 

Đào: Đúc đồ gốm. Chú: Đúc đồ kim khí.

Đào chú tức là nặn đúc đồ vật, được ví như Đấng Tạo hoá đã tạo dựng (đào chú) ra hình muôn vật.

Xem: Hồng quân.

Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,

Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐÀO ĐỘN 

Đào: Chạy trốn. Độn: Lẫn tránh.

Đào độn có nghĩa là trốn tránh,



Người trí thức, kẻ tài danh,

Nam sơn đào độn, Bắc đình câu lưu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐÀO ĐƯỜNG 

Đào Đường là tên triều đại của vua Nghiêu 2357 đến 2256 trước công nguyên.

Nghiêu là một vị Thánh Vương đời Thượng cổ, sau Phục Hy, Thần Nông và Huỳnh Đế. Ngài là vị vua rất hiếu thảo, nhân từ và minh chánh, trị vì được 72 năm nhân dân được thái bình thịnh trị, nên có câu phong dao nhắc vị vua ấy là: “Nghiêu thiên, Thuấn nhựt”.

Xem: Đường Nghiêu.



Kể từ Hùng Tổ trị dân,

Lên ngôi sánh với Thánh nhân Đào Đường.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



Tượng vì trên chúa Đào Đường,

Dưới tôi lại có những trang Cao Quỳ.

(Hoài Nam Khúc).



ĐÀO HOA 

Trong văn chương, người ta thường ví người con gái có nhan sắc là Hoa đào hay Đào hoa do ở Lệ Tình tập có kể lại câu chuyện như sau:

Thôi Hộ là một thi gia đời Đường, nhân ngày lễ thanh minh đi thăm mộ, ghé vào xin chén nước trà của người con gái đương đứng dưới cửa ngõ bên cây đào. Người con gái mời chén trà và có ý nhìn Thôi Hộ bằng một vẻ hữu tình. Năm sau đi lễ thanh minh, lại ghé thì không thấy người con gái ấy. Thôi Hộ bèn đề vào gốc đào một bài thơ: Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong  , . , . Dịch: Cửa này năm ngoái thấy bên trong, Vẻ thắm đào tươi ánh má hồng. Nay chẳng thấy người đâu đó tá? Hoa đào còn cợt với gió đông.

Qua năm thứ ba, Thôi Hộ đi thanh minh lại ghé lần nữa, cửa nhà đóng bên trong có tiếng khóc. Hỏi thăm mới được biết rằng người con gái ấy đã vì bài thơ của Hộ đề, mà đau tương tư, nay mới chết và chưa liệm. Hộ xin vào thăm, đến bên tử thi gọi to lên, người chết bèn sống lại.

Vì thế, người ta thường ví người con gái đẹp là Hoa đào hay Đào hoa.

Đào hoa còn là một ngôi sao trong khoa Tử vi, là vì sao ảnh hưởng đến tình duyên của con người: Nếu nam thì nhiều cô gái yêu thương, nếu nữ thì nhiều tình duyên vương vấn suốt đời.

1.- Chỉ phụ nữ đẹp:

Đào hoa, liễu yếu, 
song song,

Một vầng mây bạc bóng lồng phau tuôn.

(Dương Từ Hà Mậu).

2.- Chỉ sự ảnh hưởng sao Đào hoa:

Số mạng đào hoa sức gió dồi,

Tưởng thân đến thế nghĩ thì thôi.

(Đạo Sử).



Mượn kiếp đào hoa răn kiếp trước,

Không tu Thầy dặn khó thi hành.

(Đạo Sử).



ĐÀO YÊU 

Đào: Cây đào. Yêu: Đẹp và sum sê.

Đào yêu là cây đào vào lúc xinh đẹp và sum sê cành lá dùng để ví với người con gái đến tuổi lấy chồng.

Kinh Thi trong bài “Đào yêu” có viết: Đào chi yêu yêu, Chước chước kỳ hoa. Chi tử vu quy, Nghi kỳ thất gia  , . , , Dịch vần: Đào tơ mơn mởn xinh tươi, Hoa hồng đơm đặc dưới trời xuân trong. Hôm nay nàng đã theo chồng, Nên bề gia thất ấm nồng thuận vui (Tạ Quang Phát dịch).

Đào yêu choi chói màu hồng,

Ngọc trao chén dặn, hương xông áo nguyền.

(Quan Âm Thị Kính).



Nhớ nay Xuân Tuyết, Thu Băng,

Tuổi vừa hai bảy, vừa chừng đào yêu.

(Dương Từ Hà Mậu).



Đóng chặt cửa giữ nguyên trinh tiết,

Trọng thân danh bền nét đào yêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Chẳng như thiếp nhớ ơn giải cấu,

Mến từ khi mở nụ đào yêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐÀO KIỂN 

Đào Kiển tức là Đào Kiển phu nhân, tên riêng của nàng Qua Tiểu Nga.

Sử nhà Nguyên chép: Qua Tiểu Nga là một cung phi, được phong chức Thục Cơ, hàng nhứt phẩm phu nhân đời vua Thuận Đế nhà Nguyên. Thể chất và dung mạo của nàng rất lạ: Mỗi khi rửa mặt hoặc ra mồ hôi ướt da thì mặt có vẻ tươi như hoa đào ngậm sương, màu trắng ửng hồng, càng thêm vẻ yêu kiều. Vua Thuận Đế gọi nàng là Yêu đào nữ (Gái đào non), do vậy người trong cung gọi nàng là Đào Kiển phu nhân, tức là vị phu nhân có vẻ đẹp mềm mại, uốn vặn như cây đào non.

Áng đào kiển đâm bông não chúng,

Khoé thu ba dợn sóng khuynh thành.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐÀO LÃNG 

Đào, lãng đều có nghĩa là sóng nước. Cá muốn thành rồng phải vượt lên khỏi sóng, tức là lên cửa Võ môn. Như vậy, chữ “Đào lãng” đồng nghĩa với chữ “Võ môn”, chỉ sự thi cử đỗ đạt.



Bốn phương hồ thỉ dậy vang,

Nhảy từng đào lãng bắc thang vân cù.

(Sơ Kính Tân Trang).



ĐÀO LÝ 

Đào lý là đào và mận, chỉ chung nơi hội họp, những người tài ba lỗi lạc.

Tục Thông Chí chép: Địch Nhân Kiệt đời nhà Đường tiến cử lên vua ba mươi người đều là những người tài năng. Người đương thời khen: Thiên hạ đào lý tận tại công môn  , nghĩa là người hiền tài trong thiên hạ đều ở tại nhà Ngài (Chỉ nhà Địch Nhân Kiệt) mà ra. Xem: Mận đào.

Đào lý còn dùng để ví với người con gái, hay nói về tình yêu nam nữ.

1.- Chỉ người tài giỏi:

Sân đào lý mây lồng man mác,

Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Thời, xưa lão hỡi nhứt môn đào lý,

Nay vốn đà lưỡng quốc chủ tân.

(Nhạc Hoa Linh).

2.- Chỉ người con gái, tình yêu nam nữ:

Xót thay đào lý một cành,

Một phen mưa gió tan tành một phen.

(Truyện Kiều).



Dạy kế hay đào lý ngăn rào,

Đừng để trống bướm ong xao xuyến giỡn.

(Phương Tu Đại Đạo)



ĐÀO MẬN

Dịch nghĩa của chữ “Đào lý  ”.

Đào mận dùng để chỉ chốn quan trường, người có tài năng được tiến cử hay chốn hội ngộ của bậc tài ba lỗi lạc.

Đào mận còn dùng để ví với tình yêu trai gái.

Xem: Đào lý.

Đến trường đào mận ngặt chẳng thông,

Quê cũ ưa làm chủ cúc thông.

(Quốc Âm Thi Tập).



ĐÀO NON

Đào non là cây đào mơn mởn non xanh, dùng để chỉ người con gái đào tơ, đến tuổi lấy chồng.

Bởi chữ “Đào yêu  ” trong Kinh Thi: Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa. , , nghĩa là cây đào mơn mởn xanh non, hoa tươi nở rực rỡ.

Xem: Đào yêu.



Quả mai ba bảy đương vừa,

Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.

(Truyện Kiều).



Đào non sớm nghĩ thơ lành,

Vui vầy một hội nức danh muôn đời.

(Truyện Phan Trần).



ĐÀO NGUYÊN 

Đào nguyên tức là Nguồn đào, chỉ nơi Tiên ở.

Do bài “Đào hoa nguyên ký  ” của Đào Uyên Minh hay Đào Tiềm đời nhà Tấn, Trung Quốc. Bài Ký đó được kể lại một người quê ở Võ Lăng làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà chèo thuyền đi, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động trồng đầy hoa Đào. Trong động ấy, có một nhóm người đang sinh sống, mà trước đây tổ tiên của họ trốn loạn đời nhà Tần, đến đó ở biệt lập hẳn với người đời bên ngoài động đã từ lâu rồi.

Sau khi tìm cách ra khỏi động Đào nguyên, người đánh cá trở về quê có kể lại sự tình cho viên Thái thú. Viên Thái thú sai người đánh cá trở lại, tìm những chỗ trước đã đánh dấu, nhưng không tìm được lối vào nữa.

Do vậy, Động đàoNguồn đàoĐào nguyên, hay Suối hoa đào đều được dùng để chỉ nơi Tiên ở, hay động Tiên.

Rước mầng, đón hỏi dò la,

Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?

(Truyện Kiều).



Lại song, sầu bể, sầu non,

Nào hay là khách Đào nguyên đã về.

(Hoa Tiên Truyện).



Giữa dòng đáy nước lồng gương,

Mượn chèo ngư phủ đưa đường Đào nguyên.

(Hương Sơn Hành Trình).



Bến mê rước khách thuyền đương đợi

Đưa đến đào nguyên hưởng phước lành

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐÀO PHAI LIỄU Ủ

Đào liễu ví với người đàn bà con gái.

Đào phai liễu ủ là cây đào đã phai sắc, ngọn liễu đã héo ủ, ý chỉ đàn bà luống tuổi sắc diện đã phai tàn héo ủ.

Cá nhảy nhạn sa mừng mặt phấn,

Đào phai liễu ủ thẹn quần hồng.

(Truyện Vương Tường).



ĐÀO TIỀM 

Còn có tên là Đào Uyên Minh, tự là Nguyên Lượng, quê ở Sài Tang, Tầm Dương, nay thuộc tỉnh Giang Tây. Ông là người thanh cao, học rộng, thơ văn lỗi lạc, lại có hoài bão lớn, muốn cứu đời. Nhưng thời ông là thời loạn, nên càng thương dân lầm than bấy nhiêu, ông lại càng chán đời.

Nhân làm Huyện lệnh ở Bành Trạch, có viên Đốc Bưu (Một chức lại nhỏ đi thâu thuế) đến huyện, nha lại trình với ông nên đeo đai ra đón. Ông than: Ta có thể vì năm đấu gạo mà phải khom lưng ư?, rồi trả áo mão cho triều đình, bỏ về nhà, viết bài “Qui khứ lai từ  ” rất nổi tiếng. Về sau mấy lần ông được mời trở lại nhưng ông đều từ chối cả.

Chừ những ai hay tình thú ấy,

Có chăng Lý Bạch với Đào Tiềm.

(Thơ Nguyễn Công Trứ)



Đào Tiềm, Lữ Vọng tích đâu,

Thanh nhàn sánh với công hầu ai hơn.

(Nghĩ Lại Kẻo Già, Khuyết Danh).



ĐÀO TIÊN 

Đào trồng ở cõi tiên.

Tương truyền loại đào tiên này người phàm ăn được một quả sẽ thành tiên. Đào này có ở vườn đào của bà Tây Vương Mẫu. Theo Hán Võ Cố Sự: Đông Phương Sóc qua thỉnh bà Tây Vương Mẫu, bà giáng lâm ban cho vua Hán Võ Đế bốn quả đào tiên và cho biết rằng: Cây đào tiên ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm nữa mới kết quả, ăn được một quả thì sống đời đời.

Xem: Bàn đào.



Đào tiên đã bén tay phàm,

Thì vin cành quít cho cam sự đời!

(Truyện Kiều).



ĐÀO TƠ LIỄU YẾU

Hay “Đào thơ liễu yếu”.

Đào liễu ví với người con gái tơ non, thước tha mềm mại.

Đào tơ liễu yếu hay đào thơ liễu yếu nói dáng dấp của người phụ nữ trẻ đẹp, yếu ớt và mềm mại.

Xem: Đào non, bồ liễu.

1.- Đào tơ liễu yếu:



Bèo giạt mây trôi đành với phận,

Đào tơ liễu yếu ngán cho xuân.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).

2.- Đào thơ liễu yếu:

Bấy lâu những đợi long vân,

Đào thơ liễu yếu gửi thân anh hùng.

(Gia Huấn Ca).



ĐÀO THƠ

Hay “Đào thư”.

Đào là cây đào, thường ví với người con gái. Thư hay thơ là trẻ tuổi.

Đào thư hay đào thơ, đồng nghĩa với đào non (Đào yêu ) là nói người con gái non trẻ.

Xem: Đào non, Đào yêu.

Sáng tai họ, điếc tai cày,

Mà lòng ta tưởng đến người đào thơ.

(Truyện Trinh Thử).



Ba sinh đã nặng vì duyên,

Đem thân liễu yếu, kết nguyền đào thơ.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Nuôi con từ lúc đào thư,

Bao nhiêu máu thịt công chờ bấy nhiêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐÀO VIÊN 

Đào: Cây đào, trái đào. Viên: Vườn.

1.- Chỉ vườn đào của bà Tây Vương Mẫu:

Theo truyện thần tiên thì bà Tây Vương Mẫu ở Cung Diêu Trì có vườn đào tiên. Loại đào này cứ ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm mới đậu trái, và ba ngàn năm mới chín. Ăn loại đào này sẽ được thành tiên và trường sanh bất tử. Bà Tây Vương Mẫu thường mở hội đãi loại đào tiên, gọi là hội yến Bàn đào.

Xem: Vườn đào.



Nhớ xưa ở chốn Đào viên,

Bà Vương Mẫu mở thọ diên vui mừng.

(Hoa Điểu Tranh Năng).

2.- Chỉ vườn đào kết nghĩa:

Tức là Lưu Bị, Quan Võ và Trương Phi kết nghĩa anh em sống chết có nhau tại vườn đào nên người đời gọi là “Đào viên kết nghĩa”.



Dù ai hiển đạt biến đời,

Đào viên vì ước gươm trời đừng dong.

(Lưu Nữ Tướng).



ĐẢO CÁO 

Đảo: Cầu đảo hay cầu xin. Cáo: Nói cho biết.

Đảo cáo là cầu xin với các Đấng Thiêng Liêng về một việc gì. Ngày xưa, khi phạm tội với Trời người ta thường hay bày lễ để cầu đảo.

Tương truyền, Đức Khổng Tử bị đau nặng, học trò là thầy Tử Lộ xin Thầy bày lễ cầu nguyện để mau được khỏi bệnh. Nhưng Ngài lại nói rằng “Khâu chi đảo cửu hỹ  ” nghĩa là Ta cầu nguyện đã lâu rồi. Ý Ngài muốn nói chung thân Ngài làm điều nhơn nghĩa, như vậy lúc nào Ngài cũng đã cầu xin rồi. Theo Ngài nếu ai bất nhân bất nghĩa, làm điều trái đạo, mắc tội với Trời, dù có cầu xin cũng không có ích gì: Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo dã  nghĩa là phải tội với Trời còn cầu xin vào đâu được.

Lòng sở vọng gắn ghi đảo cáo,

Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.

(Kinh Cúng Tứ Thời).

ĐẢO ĐIÊN 

Đảo: Lật đổ. Điên: Ngã xuống.

Đảo điên là làm rối trật tự, đang xuôi bỗng nhiên lật ngược, chỉ sự thay đổi lung tung, tráo trở bất thường.



Chớ tắt mắt của người kém cỏi,

Đừng đảo điên có nói làm không,

(Gia Huấn Ca).



Chẳng qua con tạo đảo điên,

Sinh sinh hóa hóa, hiện truyền chi đây.

(Truyện Trê Cóc).



Cũng không ghé mắt coi dèo,

Chỗ giàu trân trọng, chỗ nghèo đảo điên.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Làm quan tính kế đảo điên,

Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.

(Kinh Sám Hối).



Chừa thói xấu đảo điên trong dạ

Muôn việc chi chẳng khá sai lời

(Kinh Sám Hối).



ĐẢO HUYỀN 

Đảo: Lật ngược. Huyền: Treo.

Đảo huyền là treo ngược.

Sách Mạnh Tử, thiên Công Tôn Sửu có câu: Dân chi duyệt như giải đảo huyền  , nghĩa là dân vui vẻ như đang bị treo ngược mà có kẻ mở dây.

Đảo huyền nghĩa bóng chỉ sự khốn khổ.



Biến chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,

Trả vay cho sạch vết oan khiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐẠO CÔ 

Đạo: Người có đạo giáo. : Chữ để gọi người phụ nữ.

Đạo cô là từ dùng để chỉ những người tu thuộc giới nữ hay nữ đạo sĩ.



Gặp bà Tam Hợp đạo cô,

Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng.

(Truyện Kiều).



ĐẠO CHÂN NHƯ

Chân như là trạng thái chân thật của vạn hữu trong vũ trụ. Tánh Phật là chân như, bởi vì tánh đó bất sanh bất diệt và bất biến.

Vậy đạo chân như tức đạo Phật.

Sư rằng: Này đạo chân như,

Mênh mông của bụt bi từ hẹp ai.

(Truyện Phan Trần).



ĐẠO CHÍCH 

Đạo: Ăn trộm. Chích: Tên một người ăn trộm có tài thời xưa.

Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, Đạo Chích là tên ăn trộm từ đời vua Hoàng Đế. Nhưng theo Hán Thư thời Xuân Thu ở tại nước Tần có người ăn trộm trâu bò khét tiếng, lại cướp đoạt tài sản đàn bà con gái, hoành hành trong thiên hạ, nên người đời mới đặt tên cho hắn là Đạo Chích.



Kìa ai thói tục chẳng răn,

Tiềm tâm Đạo Chích ẩn thân Di Đà.

(Tư Dung Vãn).



Bư như Ðạo Chích thế khen khôn,

Khôn giống ông Nhan gọi chẳng hồn.

(Đạo Sử).

 

ĐẠO ĐỨC 

Tức là “Đạo Đức Kinh  ”.

Theo “Lão Quân nội truyện” của Doãn Hỷ thì Lão Tử đi về xứ Tây Tạng, khi đến ải Hàm Cốc, gặp Doãn Hỷ, Ngài lưu lại ở đây để viết quyển Đạo Đức Kinh đưa cho ông rồi mới đi về phía tây Trung Quốc. Quyển Đạo Đức Kinh này, nội dung gồm 81 chương, chia làm hai thiên, hơn năm ngàn chữ viết, là một tác phẩm triết học siêu hình luận về Đạo và Đức.

Trong Đạo Đức kinh, Lão Tử đem cái thuyết vô vi (không làm) ra dạy đời, nhưng “không làm” không có nghĩa là chẳng làm chút nào. Câu: “Vi chi ư vị hữu, trị nhi ư vị loạn  , ”, nghĩa là “làm lúc việc chưa xảy ra, trị lúc nước chưa có loạn” của Lão Tử đã chứng thực điều đó. Như vậy, Ngài chủ trương vô vi thanh tĩnh. Ngài cho tính nước là cái nên theo, nó gần như Đạo: “Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư đạo  , , ”, nghĩa là nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh. Ở chỗ mà người người đều ghét, nên gần với Đạo.

Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử kịch liệt chống chiến tranh, chống bạo lực, chống sưu cao thuế nặng, chống mọi áp bức và ông đả kích các quan tham ô can thiệp vào đời sống nhân dân một cách thái quá.

Ngoài ra, trong Đạo Đức Kinh có một số chương nói về sự huyền bí và tính chất siêu hình của Đạo.



Tử khí đông lai,

Quảng truyền Đạo Đức.

Lưu sa tây độ,

Pháp hóa tướng tông.

(Kinh Cúng Tứ Thời).



ĐẠO GIÁO 

Đạo giáo trước tiên chỉ là một nền triết lý (Giáo pháp) vô vi, hay nói cách khác, là một triết lý ưa thích cái tự nhiên của Trời đất do Đức Lão Tử chủ xướng trong Đạo Đức Kinh. Về sau, thuyết vô vi của Ngài ảnh hưởng rất lớn ở Trung Hoa, các triết gia kế thừa có ông Liệt Tử đã dựa theo triết lý cao siêu của Ngài mà viết nên quyển Xung Hư Chơn Kinh. Và nhất là Trang Tử, là một nhà hùng biện, đem giáo thuyết vô vi của Ngài ra xiển dương trong quyển Nam Hoa Kinh.

Trong giai đoạn này Đạo giáo vẫn còn là triết lý, đến đời Hán, nhờ ông Trương Thiên Sư (Trương Đạo Lăng), Đạo giáo mới bắt đầu truyền bá rộng rãi trong nhơn gian. Đến đời Tấn, triết lý của các Đạo gia mới được ông Nguyễn Bá Đương chỉnh đốn lại hẳn hoi thành hệ thống một tôn giáo. Đạo giáo mới thực sự là một tôn giáo kể từ đó.

ĐẠO HẠNH 

Đạo hạnh là đức hạnh của người tu hành, tức những cử chỉ đoan chính, ngôn từ hiền lành, thanh nhã, phù hợp với tánh nết người chơn tu.

Vun nền đạo hạnh khá rèn lòng,

Gặp hội đành vui chữ sắc không.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

ĐẠO HẰNG

Tức là đạo thường hằng, một nền đạo lý tự nhiên của con người phải giữ, phải theo, tức là những phép tắc thường tình cần phải noi theo để cư xử với nhau cho phải phép.



Một lòng giữ mối đạo hằng.

Trau lời thế giáo, cằm dằn nhân luân.

(Dương Từ Hà Mậu).



Họ Dương cùng vợ nguyện rằng:

Trăm năm xin giữ đạo hằng cùng nhau.

(Dương Từ Hà Mậu).



Tống Hoằng chí trượng phu không đổi,

Giữ nhơn luân sợ lỗi đạo hằng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẠO HOẢ 

Đạo: Giẫm đạp. Hoả: Lửa.

Đạo hoả tức là giẫm đạp lên lửa mà đi, ý nói không sợ gian nan, nguy hiểm.



Phép hay đạo hỏa phó thang,

Ngồi gươm đứng giáo mở đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngàng thiên hoang.

(Lục Vân Tiên).



ĐẠO NHÂN LUÂN

Nhân luân là Đạo lý mà con người phải tuân theo để giữ phẩm giá của mình.

Đạo nhân luân tức là đường lối cư xử theo đạo lý bình thường giữa con người với nhau trong xã hội.

Đạo nhân luân còn dùng để chỉ đạo vợ chồng.



Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,

Đạo nhơn luân gầy sống của đời.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Lại e lỗi đạo nhơn luân,

Dỡ dang gia pháp, vương thần loạn ngôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẠO NHO

Đạo Nho, tức là Nho giáo , là một Đạo có từ trước khi Khổng Tử ra đời, nhưng phải nhờ đến Ngài, đạo Nho mới được phát huy để trở thành một học thuyết có hệ thống tư tưởng rõ ràng, biện giải các lẽ biến hóa của vũ trụ một cách khúc triết, qui định các nghi thức tế tự Trời đất quỉ Thần một cách minh bạch…Nho giáo còn được gọi là Khổng giáo.

Chữ “Nho ” gồm một chữ “Nhân ” là người, ghép với chữ “Nhu ” là cần dùng hay chờ đợi. Vậy Nho có nghĩa là người cần dùng đến để giúp ích xã hội, hay người học giỏi chờ đợi người ta biết đến tài mình để đem hết sở năng mình ra giúp ích cho đời. Người đi học đạo của Thánh hiền để thông suốt lẽ Trời, đất, con người để đem thực hành ở xã hội, làm lợi ích quốc gia, xã hội, gọi là Nho gia, hay Nho sĩ.

Đạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn,

Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.

(Xưng Tụng Công Đức).



ĐẠO PHU THÊ NHƯ ĐỦA NÊN ĐÔI

Tức là đạo vợ chồng ví như một đôi đủa, gồm hai chiếc bằng và giống nhau. Nếu thiếu một chiếc thì không thể làm được việc. Như vậy, hai chiếc đủa như nhau, phải cần đủ cả hai, hay nói khác đi, vợ chồng phải bình đẳng nhau.



Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,

Đạo phu thê như đũa nên đôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẠO PHỤ CƠ

Đạo: Đường lối phải theo để giao tiếp trong xã hội. Phụ cơ 
: Chỉ người phụ nữ.

Đạo phụ cơ là đạo lý của người đàn bà, tức đường lối mà người đàn bà phải theo để cư xử trong gia đình cho đúng phép tắc.



Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng,

Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẠO QUÂN THẦN

Tức “Quân thần đạo  ” là một trong năm giềng mối (Ngũ luân)của Nho giáo, gọi là quân thần cang. Xem: Đạo quân vương.



Lựa những mặt tài tình thọ giáo,

Học cho thông mối đạo quân thần.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẠO QUÂN VƯƠNG

Hay “Quân vương đạo  ” là đạo nghĩa của một bề tôi đối với vua, tức là những phép tắc giữa vua và bề tôi đối xử với nhau cho hợp đạo lý. Đạo này thuộc về một trong ngũ luân là Quân thần cang.



Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,

Đạo quân vương chữ dặn nơi lòng.

(Kinh Thế Đạo).



ĐẠO TAM TÒNG

Hay “Đạo tam tùng”, là ba điều mà người đàn bà con gái giữ theo lễ giáo ngày xưa phải theo, đó là: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử  , , , nghĩa là ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con.



Chuốc trau cho vẹn đạo Tam Tùng,

Chẳng quí phận chàng thiếp chịu chung.

(Đạo Sử).



ĐẠO TÒNG

Hay đạo tùng, tức là đạo “Tam tùng  ”.

Đao lý của người đàn bà, con gái thời xưa, theo Khổng Tử, thì có đạo Tam tùng, đó là: Tại gia tùng phụ xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử nghĩa là ở nhà theo cha, có chồng theo chồng, chồng chết theo con.

Xem: Đạo tam tòng.



Trăm năm kim cải cũng chồng,

Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Tập biết khôn chìu lụy nhà chồng,

Tập cho hiểu đạo tòng là đạo cả.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐẠO THANH 

Đạo: Đạp xuống đất. Thanh: Trong mát.

Đạo thanh là đi dạo cảnh cho mát mẽ.



Cho hay thanh khí tương cờ,

Cách tường sinh cũng khi vừa đạo thanh.

(Hoa Tiên Truyện).



ĐẠO THƯỜNG 

Đạo: Đường lộ. Thường: Tầm thường.

Đạo thường là ra đường nghe những chuyện tầm thường, tức chuyện ngoài đường lộ.

Nghĩa bóng: Chỉ lời nói không căn cứ.

Tiểu rằng: Xuân, hạ, thu, đông.

Bốn mùa dùng thuốc chưa thông đạo thường.

(Ngư Tiều Vấn Đáp)



ĐẠO TRỜI

Bởi chữ “Thiên Đạo 
” tức là Đạo Trời.

Đạo Trời có nhiều nghĩa:

A.- Đạo Trời là nói đạo lý tự nhiên của Trời đất.

B.- Đạo Trời, trái với Đạo người, bao gồm các mối đạo giải thoát, tức là đưa linh hồn con người thoát khỏi luân hồi sinh tử để đến cõi Cực Lạc Niết Bàn.



Buông trôi ví chẳng tròn nhơn đạo,

Còn có mong chi đến đạo Trời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

ĐẠO UẨN

Đạo Uẩn có chồng là Vương Ngưng Chi đời nhà Tấn, cháu của Tạ An. Nàng là một người thông minh học rộng, có tài biện bác. Em chồng của Đạo Uẩn là Vương Hiến Chi nói chuyện, hay tranh luận với khách thường lý lẽ không được thông suốt, lập luận kém cỏi, nàng bảo thị tỳ thưa với Hiến Chi làm một cái màng che lại, nàng ngồi sau màn nhắc cho em chồng. Nhờ có Đạo Uẩn mà Hiến Chi khuất phục được tân khách.

Xem: Tạ Đạo Uẩn.

Ví so khuê các đâu hai,

Chẳng hay Đạo Uẩn cũng tài Nhã Lâm.

(Song Tinh Bất Dạ).

ĐẠO VỊ 

Đạo: Chỉ chung các tôn giáo. Vị: Mùi vị.

Đạo vị tức là mùi đạo. Người ta cho rằng nếu có tín ngưỡng và theo một tôn giáo, khi đi hành đạo khiến cho lòng say mê ham thích, cái đó gọi là mùi đạo (Đạo vị).

Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng,

Đạo vị trau giồi bữa bữa no.

(Dương Từ Hà Mậu).

Ở theo một bậc thanh nhàn,

Lành trao đạo vị chẳng mang luỵ đời.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

Những mảng say sưa đạo vị,

Nên chưa gặp hội công danh.

(Nhạc Hoa Linh).



ĐẠO VỢ CHỒNG

Đạo vợ chồng là qui tắc cư xử cho hợp đạo lý của người vợ lẫn người chồng. Theo Nho giáo, đạo vợ chồng là Phu thê cang.

Đạo vợ chồng được Tào Đại gia dạy như sau: Phu phụ dĩ nghĩa vi thân, dĩ ân vi hiệp, nhược hành sở thát nghĩa dục hà vi? Xí mạ sất sá ân dục hà ân? Ân nghĩa ký tuyệt, tiển bất ly hĩ  , ; ? ? , , nghĩa là vợ chồng lấy nghĩa làm thân, lấy ơn để hòa hợp, nếu đánh đập nhau thì còn nghĩa gì nữa, chửi mắng quát tháo nhau thì còn ơn gì nữa. Ơn nghĩa đã tuyệt mà không lìa nhau thì thật hiếm có vậy.

Ở trước mặt Hồng Quân định phận.

Đạo vợ chồng đã xứng nợ duyên.

(Kinh Thế Đạo).



ĐẠP THANH 

Đạp lên đồng cỏ xanh.

Ngày xưa vào tiết thanh minh mỗi gia đình từng tốp người mang hoa quả đến nghĩa trang để tảo mộ cho người thân đều phải lội đi trên những bãi cỏ xanh như một ngày hội, gọi là “Hội đạp thanh”.

Thanh Minh là tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

(Truyện Kiều).

Màu xuân ai khéo vẽ nên tranh,

Nô nức đua nhau hội đạp thanh.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).

Kìa xóm rẫy nấm mồ lố xố,

Nơi đôi ta tảo mộ đạp thanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐÁT KỶ 

Con gái của Tô Hộ, được tiến cung cho vua Trụ làm ái phi.

Vua Trụ vì say mê Đát Kỷ nên xa lánh và giết hại tôi trung, bỏ phế triều chính đến nỗi mất nước. Đát Kỷ là người đàn bà gian ác, thường xúi giục nhà vua làm nhũng điều thất đức, nếu vị trung thần nào can gián nhà vua đều bị Đát Kỷ giết hại.

Theo Phong thần, Đát Kỷ bị con yêu Hồ ly tinh giết chết rồi nhập hồn vào thân xác Đát Kỷ phá hoại cơ nghiệp nhà Thương.

Đát Kỷ bày ra tửu trì là hồ chứa rượu, nhục lâm là rừng chả thịt để tha hồ uống rượu ăn thịt. Nghe lời Đát Kỷ, Trụ Vương cho xây lầu Trích Tinh, tàn hại biết bao nhiêu tài sản và xương máu của nhân dân.

Ngoài ra Đát Kỷ còn chế ra bào lạc, cột đồng, đốt lửa cho đỏ rực bắt kẻ nào chống lại triều đình ôm cột đồng cho đến chết. Đát Kỷ còn là những việc tàn ác khác như mổ bụng xem thai, chặt chân xem mỡ.

Sau khi vua Trụ bị Võ Vương và các chư hầu đánh thắng, Đát Kỷ bị bắt chém đầu và vua Trụ phải tự thiêu.

ĐẠT MA 

Tên một vị cao tăng Ấn Độ nổi tiếng, sống vào khoảng 470-543, nếu gọi đầy đủ tên Ngài là Bồ Đề Đạt Ma hay Đạt Ma Tổ Sư.

Ngài là một vị Tổ Sư thứ 28 sau Đức Phật Thích ca của dòng thiền Ấn Độ và là Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa.

Đời Lương Võ Đế, Bồ Đề Đạt Ma sang Trung Hoa, đến chùa Thiếu Lâm ở núi Tung Sơn tịnh tu, ở đó Ngài ngồi thiền quay mặt vào vách (Diện bích) suốt chín năm liền. Về sau, Ngài truyền tâm ấn cho đệ tử là Huệ Khả làm Tổ thứ hai của Thiền Tông Trung Hoa.



Đạt Ma chiếc dép về Tây,

Chúa Lương mất nước, biết thầy đâu ôi!

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Dầu những Thích Ca tu lại,

Cùng với Đạt Ma tu qua.

(Sãi Vãi).



ĐẮC TÁNG 

Đắc: Được. Táng: Mất.

Đắc táng là được và mất, ý muốn nói sự thịnh suy, hay cùng thông của cuộc đời. Đồng nghĩa với vinh khô.



Hãy cho vẹn tấm trung nghì,

Vinh, khô, đắc, táng, sá chi cuộc đời.

(Nhị Độ Mai).



ĐẮC TÂM ỨNG THỦ 

Tâm như một cái cơ xảo sẵn ở trong lòng con người, do đó tay chỉ theo tâm ứng mà làm việc.

Nghĩa bóng: Nói người có trí làm việc ít tốn công phu, người có tài làm văn không tốn bút mực.

Đắc tâm ứng thủ nhờ tài.

Không như kẻ dại nhiều tay chưa thành.

ĐĂNG CAO 

Lên cao.


Sách Tục Tề Hài Ký chép: Có người tên là Hoàn Cảnh nhà ở Nhữ Nam, theo học với Phí Trường Phòng. Trường Phòng báo cho Hoàn Cảnh biết vào ngày mồng chín tháng chín (Trùng cửu) ở Nhữ Nam sẽ xảy ra một tai ương lớn, gia đình người thân, ngày đó mỗi người nên cầm một nhánh thù du, leo lên núi cao mà uống rượu cúc thì tránh được tai hoạ này. Hoàn Cảnh nghe theo lời, chiều trở về nhà thì thấy gà, heo chó dê đều chết cả.

Về sau, trong dân gian có tục lệ vào ngày trùng cửu, tức mồng chín tháng chín cầm nhánh thù du, leo lên núi cao mà uống rượu cúc, tục gọi là “Đăng cao”.



ĐĂNG ĐỒ 

Đăng: Lên. Đồ: Đường đi.

Đăng đồ là lên đường, tức là bắt đầu một cuộc hành trình.



Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió,

Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



ĐĂNG KINH 

Đăng: Lên. Kinh: Chỉ Kinh đô, kinh thành.

Đăng Kinh tức là đi đến Kinh đô, hay kinh thành.



Phu nhân hỏi: Buổi đăng Kinh,

Phỏng cho mấy đứa tùy hành theo ông?

(Nhị Độ Mai).



ĐĂNG KHOA 

Ngày xưa, chế độ thi cử mỗi năm đều có xét chọn kẻ sĩ, gọi là khoa thi. Còn những người được tuyển chọn trong kỳ thi cử gọi là “Đăng Khoa”.



Lắm phen ứng cử, đăng khoa,

Thi văn chẳng đỗ, lòn ra cửa thiền.

(Dương Từ Hà Mậu).



Ðăng khoa thì có chức thì không,

Nghĩ đến thẹn cho mặt Tử Phòng.

(Đạo Sử).



ĐĂNG QUANG 

Đăng: Lên. Quang: Ánh sáng.

Đăng quang tức là một buổi lễ để vua lên ngôi vị.



Về Loa thành mới đăng quang,

Quan danh cải định, triều chương đặt bày.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Đem ấn rồng nạp tới long môn,

Cho Tạ thị đăng quang cửu ngũ,

(Nhạc Hoa Linh).



ĐĂNG TRÌNH 

Đăng: Lên. Trình: Con đường.

Đăng trình là lên đường, tức bắt đầu một cuộc hành trình.



Đặng cho rõ nỗi sự tình,

Ngỏ sau ngàn dặm đăng trình mới an.

(Lục Vân Tiên).



Họ Dương từ thuở đăng trình,

Trải chơi non nước sự tình biết bao.

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐẮNG NGỌT

Bởi chữ “Cam khổ  ”.

Cam là ngọt, chỉ sự sung sướng, khổ là đắng, nói sự cực nhọc. Đắng ngọt dùng để chỉ cảnh đời lúc khổ sở, khi sung sướng.

Dầu hư nên đến sự chơi bời,

Cũng cho hưởng đủ mùi đắng ngọt.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐẰNG CÁC 

Một cái gác được xây tại Hàng Châu, do Đằng Vương Lý nguyên Anh đã xây dựng, lấy hàm tước của vua phong để đặt tên gác.

Vương Bột, một thiếu niên đời nhà Đường, đi dự yến, nhờ thuận gió trong một đêm thuyền tới gác Đằng Vương, vừa kịp lúc vào dự yến và làm bài tự nổi tiếng vào thời bấy giờ.

Xem: Đằng Vương.



Tiên Dung gặp buổi đi chơi,

Gió đưa Đằng Các, buồm xuôi Nhị Hà.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐẰNG GIAO PHỤNG MÚA

Bởi chữ “Đằng giao khởi phụng  ”.



Đằng giao: Giao long (tức con rồng) bay lên. Phụng múa: Chim phượng nhảy múa.

Con rồng bay, con phượng múa, đồng nghĩa câu thành ngữ Việt nam “Rồng bay phụng múa” để nói về hoa mỹ, đẹp đẽ như văn chương, thư pháp.

Nghĩa bóng: Tài hoa xuất chúng.

Xem: Khởi phụng đằng giao.



Văn hay biết đằng giao phụng múa,

Võ hay tài bắn nhạn mây xanh.

(Nhạc Hoa Linh).



ĐẰNG LA 

Đằng: Loại dây leo. La: Lưới giăng.

Đằng la là dây sắn, dây bìm, những loại dây này chỉ sống nhờ vào những thân cây lớn, dùng để ví thân phận người vợ lẽ nương nhờ vào người vợ cả.



Thế trong dầu lớn hơn ngoài,

Trươc hàm sư tử gửi người đằng la.

(Truyện Kiều).



Hay đâu duyên sự bởi trời,

Bách tùng nhờ bóng gởi người đằng la.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



ĐẰNG QUỐC 

Thời Đông Châu liệt quốc có một nước Đằng là nước nhỏ nằm giữa hai nước lớn là Tề và Sở, nên Đằng Quốc không biết phải theo nước nào.



Đằng tiểu quốc dã, gián ư Tề Sở. Sự Tề hồ, sự Sở hồ? 
, . , ?, Đằng là một nước nhỏ nằm xen giữa hai nước Tề và Sở. Thờ nước Tề ư, thờ nước Sở ư?

Đằng quốc xưa nay vốn nhỏ nhen,

Lại thêm Tề Sở ép hai bên.

(Thơ Hồ Xuân Hương).



ĐẰNG VÂN 

Đằng: Nhảy lên cao. Vân: Mây.

Đằng vân là một pháp thuật của người đạt được thần thông, tức là cỡi mây bay trên trời cao.

Xem: Đằng vân giá võ.

Thời lai gió đẩy đến Ðằng Vân,

Thường biết mình tuy cũng kép bần.

(Đạo Sử).



ĐẰNG VÂN GIÁ VÕ 

Đằng vân: Đè lên mây, cỡi mây. Giá võ: Cỡi mưa.

Cỡi mây cỡi mưa bay trên không trung.

Đây là một pháp thuật thần thông mà các vị Thần Tiên dùng để phi hành.

Kíp sai ngũ bộ thiên lôi,

Đằng vân giá võ đến nơi lạ dường.

(Tây Sương).



ĐẰNG VƯƠNG 

Hay “Đằng Vương Các 

Một cái gác được xây tại Hàng Châu, nơi danh lam thắng cảnh ở Trung Hoa. Gác nầy do Đằng Vương Lý nguyên Anh đã xây dựng, lấy hàm tước của vua phong để đặt tên gác.

Đô đốc Diêm Bá Tự đặt tiệc tại Đằng Vương Các cho mời các nhà quyền quý cùng các văn sĩ xa gần đến dự yến và yêu cầu mỗi người làm bài tự ngay trong buổi tiệc.

Vương Bột mới 16 tuổi, đi thuyền nhờ thuận gió trong một đêm tới gác Đằng Vương, vừa kịp lúc vào dự yến và làm bài tự nổi tiếng vào thời bấy giờ.

Lưu rằng: Phong tống Đằng Vương,

Người phi thường sự, phi thường mới hay.

(Lưu Nữ Tướng).



Bến sông cao ngất Đằng Vương các,

Loan ngọc xa rồi, thôi múa hát.

(Thơ Lãng Nhân).



ĐẶNG BỮA CÀY BUÔNG BỮA GIỖ

Tâm lý con người thường có ý “Bắt cá hai tay”, tức là muốn làm chuyện này cùng với việc kia một lúc. Chính vì vậy, tục ngữ ta mới có lời khuyên “Hễ đặng bữa cày thì buông bữa giỗ”.



Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ,

Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.

(Đạo Sử).



ĐẶNG CHIM QUÊN NÁ

Do câu tục ngữ Việt Nam: “Đặng chim quên ná, đặng cá quên nôm”, dùng để nói người có tính bạc bẽo.

Đặng chim quên ná tức là bắt được chim rối quên đi công của chiếc ná, ý chỉ người vong ân bội nghĩa.

Ðặng chim trách kẻ toan quên ná,

Buồn bực cho đây vẫn một mình.

(Đạo Sử).



ĐẶNG DUNG 

Dũng tướng đời Hậu Trần.

Đặng Dung con của Quốc Công Đặng Tất, người huyện Thiên Lộc, xứ Nghệ An (Nay thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tỉnh).

Sau khi cha ông bị Giản Định Đế giết vì bị gièm pha, ông thờ Trần Quý Khoách lập lên làm vua, rồi tiếp tục đánh quân nhà Minh. Vì binh yếu thế cô, ông bị địch bắt nên sau phải tuẩn tiết, có bài thơ nổi tiếng như sau: Thế sự du du nại lào hà! Vô cùng thiên địa nhập hàm ca. Thời lai đồ điếu thành công dị, Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. Trí chúa hữu hoài phù địa trục, Tẩy binh vô lộ vãn thiên hạ. Quốc thù vị phục đầu tiên bạch Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma  , . , . , . , . Dịch vần: Việc đời bối rối tuổi già vay, Trời đất vô cùng một cuộc say. Bần tiện gặp thời lên cũng dễ, Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay. Vai khiêng trái đất mong phò chúa, Giáp gột sông trời khó vạch mây, Thù trả chưa xong đầu đã bạc, Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày. (Trần Trọng Kim dịch).



Tướng môn lại có con dòng,

Đặng Dung, Cảnh Dị mới cùng hợp mưu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐẮP CẠN THÀNH SẦU

Đắp cạn: Làm cho vơi bớt. Thành sầu: Nỗi sầu to lớn như bức thành trì.

Đắp cạn thành sầu là làm cho sự sầu thảm cạn đi dần dần. Xem: Thành sầu.



Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,

Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẦY THEN

Then là cái chốt gài cửa. Ở đây dùng để chỉ cái nhà. Đầy then có nghĩa là đầy nhà.



Tu lưỡi mềm lấy của cho đầy then;

tu mưu độc hại người cho đã giận.

(Sãi Vãi).



ĐẦM VÂN MỘNG

Tên một cái đầm, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, nước Trung Quốc.

Theo Sử Ký, Hán Cao Tổ nghi Sở Vương Hàn Tín làm phản, định giết đi để trừ hậu hoạn, bèn hỏi kế Trần Bình. Trần Bình khuyên không nên đem binh đi bắt Hàn Tín, mà giả chước đi chơi Đầm Vân Mộng, họp chư hầu ở đất Trần. Hàn Tín tưởng thật, ra ngoài cõi đến đón vua, Hán Cao Tổ bèn ra lịnh bắt trói đem về giết chết.

Đau đớn thay điểu tận cung tàn,

Đầm Vân Mộng phải mắc mưu con trẻ.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



ĐẬP NÁT CUNG CẦM

Cung cầm là cung bậc của cây đàn.

Cung bậc đàn cầm hoà điệu với nhau được ví với tình yêu nồng thắm và hoà thuận của đôi trai gái hay vợ chồng.

Đập nát cung đàn tức là đập bể cung cây đàn để nói lên ý phá vỡ tình yêu đằm thắm.



Nên toan đập nát cung cầm,

Vô duyên đành phận, sống làm chi đây.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẤT BÁI

Đất Bái tức là huyện Bái, quê hương của vua Hán Cao Tổ, cũng là nơi Lưu Bang (Tức Hán Cao Tổ) tụ họp hơn ba ngàn người, khởi binh dựng nghiệp để đánh Tần. Chính vì thế dân chúng mới tôn Lưu Bang là Hán Bái Công.



Ba ngàn con em đất Bái,

Cung tên ngang dọc chí nam nhi.

(Trận Vong Tướng Sĩ).

ĐẤT BẰNG NỔI SÓNG

Bởi câu “Bình địa ba đào  ”.

Đất bằng nổi sóng có nghĩa là đang yên lặng bỗng nổi phong ba, ý chỉ những tai biến xảy ra đột ngột, bất ngờ không thể nào lường được.

Xem: Bình địa ba đào.



Đất bằng nổi sóng đùng đùng,

Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.

(Truyện Kiều).



Vực hoá nên cồn,

Đất bằng nổi sóng.

(Gia Định Thất Thủ Phú).



ĐẤT BẰNG SẤM BAY

Bởi câu “Bình địa nhất lôi thanh  ” tức là đất bằng bỗng có tiếng sấm bay đến.

Đất bằng sấm bay ý chỉ việc thi đỗ, gây tiếng tăm lừng lẫy, ai cũng nghe tiếng tăm.

Người ta còn dùng những thành ngữ đồng nghĩa sau đây để chỉ sự thi đậu: Đất bằng sấm dậy, Đất bằng sấm vang.

1.- Đất bằng sấm bay:

Đất bằng một tiếng sấm bay,

Hai sinh đều dự một ngày nguy khoa.

(Hoa Tiên Truyện).

2.- Đất bằng sấm dậy:

Đất bằng sấm dậy vang trời,

Tõ ràng muôn họ bia hài cờ treo.

(Truyện Song Tinh).

3.- Đất bằng sấm vang:

Đất bằng một tiếng sấm vang,

Bảng hùm tỏ Phạm tháp nhàn diễn Trương.

(Sơ Kính Tân Trang).



ĐẤT CHIẾU TRỜI MÀN

Tức là lấy đất làm chiếu, lấy trời làm màn, dùng để chỉ những người gặp cảnh nghèo khổ, tai biến, sống không nhà không cửa, chỉ lấy trời đất làm màn và chiếu. Xem: Màn trời chiếu đất.



Nầy thân thiếp chịu 
gian nan,

Linh đinh đất chiếu, trời màn không nơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẤT CHỞ TRỜI CHE

Bởi chữ “Thiên phú địa tải  ” tức là trời che đất chở.

Con người sống nơi thế gian đều được trời đất che chở. Trời không che riêng ai mà đất cũng không chở riêng ai.

Cũng thời đất chở, cũng trời che,

Nồng nã làm chi mấy, hỡi hè!

(Hồng Đức Quốc Âm).



ĐẤT NGHĨA TRỜI KINH

Do câu chữ Hán trong sách Hiếu Kinh chép: Hiếu giả thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã  , , nghĩa là hiếu là đạo thường của trời, lẽ phải của đất.



Gương treo đất nghĩa trời kinh,

Ở sao cho xứng chút tình làm con.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



ĐẤT NHÀ KỶ SỢ TRỜI SẬP MÁI

Nước Kỷ, là một nước nhỏ, ở vào thời Xuân Thu, sau bị nước Sở diệt.

Sách Liệt Tử chép: Có một người nước Kỷ thường lo trời sập, rồi không biết nương tựa nơi đâu, đến nỗi bỏ cả việc ăn uống. Có người giải thích cho y biết: Trời là tinh khí tụ lại, làm sao mà sập được. Người nước Kỷ nói: Nếu trời chỉ là tinh khí, thế còn mặt trời, mặt trăng, các vì sao lại không rớt xuống à? Người kia giải thích: Mặt trăng, mặt trời, các vì sao cũng chỉ là tinh khí tụ lại, nếu sập cũng không sao. Người Kỷ nghe nói thế mới yên lòng.

Thuyền họ Trương ở khô,

còn sợ sóng tràn bờ;

đất nhà Kỷ vốn hẹp,

hãy sợ trời sập mái.

(Sãi Vãi).



ĐÂU SUẤT 

Tức là Đâu Suất Thiên Cung còn gọi Cung Đẩu Suất, hay Đẩu Tốt, một cung trên tầng trời Đâu Suất của Đức Thái Thượng Lão Quân.



Ngỡ là ba ngàn cung Đâu suất,

được thoát thai phàm,

Chẳng cốc mười hai cửa Phong Đô,

gây nên mộng họa.

(Cô Hồn Quốc Ngữ Văn).



Đạp Thái Sơn nhảy qua Đẩu Suất,

Vịn Kim Câu đến chực Thiên Môn.

(Kinh Tận Độ).



Cõi Tiên mở rộng cung Ðâu Suất,

Nước Phật sửa an cảnh Niết Bàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐÂU TỐT 

Tức cung Đẩu Tốt còn gọi là Đâu Suất Thiên Cung, một cái cung ở từng trời Đâu Suất. Cung Đâu Tốt là cung của Đức Thái Thượng Lão Quân.

Xem: Đâu Suất.



Cung Đẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc,

Đệ lịnh bài cánh hạc đưa linh.

(Kinh Tận Độ).



ĐẦU ẤP TAY GỐI

Đầu ấp tay gối nói vợ chồng ngủ đầu kề bên nhau, tay kê làm gối.

Đầu ấp tay gối dùng để chỉ cảnh vợ chồng thương yêu hoà thuận, quấn quít, không rời nhau.

Khi đầu ấp cùng khi tay gối,

Thân thiết nhau sớm tối quen hơi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẦU NGAO

Bởi chữ “Ngao đầu  ”.



Ngao: Loài rùa biển lớn. Đầu: Cái đầu.

Ngày xưa những người đậu Trạng nguyên vào triều kiến vua, được dẫn đến một bực đá đặt trước thềm điện, có chạm một con rồng bay và một con ngao lớn. Người đỗ Trạng được đứng trên đầu ngao, vì vậy người xưa thường nói: Độc chiếm ngao đầu  , tức là một mình chiếm được đầu con ngao, có nghĩa là đỗ Trạng nguyên.

Sách có câu: Ngao đầu trúng tuyển quý chân quý, nhạn tháp đề danh vinh cánh vinh  , , nghĩa là trúng tuyển được ngao đầu thật là quý giá, tháp nhạn được ghi tên thật là vinh.

Nghĩa bóng: Thi đỗ khôi nguyên hay đỗ đầu.



Trước đền đặng đứng đầu ngao,

Dương Trân Bảng nhãn, Bửu vào Thám hoa.

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐẦU NGÔ ĐUÔI SỞ

Bởi chữ “Ngô đầu Sở vỹ  ”.

Thành ngữ nầy dùng để chỉ đất Dự Chương, nay là đất Giang Tây, vì đầu nằm ở thượng du đất Ngô, đuôi nằm ở hạ du đất Sở.

Người ta thường dùng câu “Đầu Ngô đuôi Sở” để chỉ những sự việc chấp vá không cân xứng, đầu một nơi mình một nẻo, không ăn nhập nhau.

Đồng nghĩa với câu tục ngữ ta: Đầu voi đuôi chuột.

ĐẦU PHẬT XUẤT GIA 

Đầu Phật: Theo Phật. Xuất gia: Ra khỏi nhà.

Đầu Phật xuất gia là lìa khỏi nhà thân yêu để tự hiến dâng thân mình cho Phật pháp, tức là từ bỏ gia đình để đi tu.



Muốn khuyên đầu Phật xuất gia,

Lại e để hại nước nhà khuyết dân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẨU NGƯU 

Tên hai vì sao trong Nhị Thập Bát Tú.

Xưa Tấn Võ Đế thấy vào khoảng sao Ngưu sao Đẩu chiếu thẳng xuống, thường có ánh sáng ở dưới đất xông lên. Võ Đế hỏi Lôi Hoán, Hoán đáp: Đó là tinh hoa của thanh kiếm báu. Sau Hoán cho đào chỗ đất ấy lên, quả nhiên được hai thanh gươm, một thanh Mạc Da, một thanh Can Tương. Đây là của báu ở Hồng Châu.

Bao của báu, trời chung đúc lại,

Át Đẩu Ngưu, gươm ánh sáng ngời.

(Thơ Lãng Nhân).



ĐẨU TÚC XÍCH BỐ 

Một đấu lúa, một thước vải.

Hoài Nam Vương là em ruột của Hán Văn Đế, là người ương ngạnh, thường sống lêu lỏng phóng túng, không chịu tuân theo luật nước. Hán Văn Đế mới phế em, bắt đày đến đất Thục. Hoài Nam Vương giận anh, nhịn đói mà chết. Người đương thời có bài hát như sau: Nhất xích bố thượng khả phùng, nhất đẩu túc thượng khả thung, huynh đệ nhị nhân bất tương dung  , , , nghĩa là một thước vải còn có thể may mặc với nhau, một đấu thóc có thể nấu ăn với nhau. Anh em hai người lại không thể dung được nhau.

Nghĩa bóng: Anh em chẳng hoà thuận.



ĐẬU YÊN SƠN 

Tức là Đậu Võ Quân, người đời Ngũ đại, làm quan Gián Nghị Đại Phu. Vì nhà ông ở tại Yên Sơn, nên người ta còn gọi là “Đậu Yên Sơn”. Đậu Yên Sơn có năm người con kế tiếp nhau đỗ đạt hiển hách, nên người đương thời gọi là “Yên Sơn ngũ quế”

Xem: Ngũ quế.

Ðậu Yên Sơn để mấy giòng truyền,

Truyện tích xưa còn để tiếng khuyên.

(Đạo Sử).



ĐEN MỰC ĐỎ SON

Bởi câu “Cận chu giả xích, cận mặc giả hắc  , ”tức là gần son thì đỏ, gần mực thì đen.

Đen mực đỏ son dùng để nói ở gần thì chịu ảnh hưởng, nên tránh gần với cái xấu.

Ông Thái Công nói: Cận chu giả xích, cận mặc giả hắc, cận hiền giả minh, cận tài giả trí  , , , , nghĩa là gần son thì đỏ, gần mực thì đen, gần người hiền thì sáng, gần người tài thì trí.

Xem: Ông méo bầu tròn.

Cho hay đen mực đỏ son,

Lại thêm ống méo, bầu tròn những xưa.

(Huấn Nữ Ca).



ĐÈN HÀN TỬ

Đèn Hàn Tử tức cây đèn của Hàn Dũ, chỉ việc ngồi dưới ngọn đèn khổ công miệt mài học tập.

Hàn Dũ có câu: Phần cao du dĩ kế quỹ, hằng ngột ngột dĩ cùng niên  , , nghĩa là đốt đèn nối tiếp ánh sáng mặt trời, hằng khổ công học tập, miệt mài suốt năm tháng.

Đèn Hàn Tử, gối Ôn Công,

Thức nhắp chẳng lìa nhật dạ.

(Thập Giới Cô Hồn).



ĐÈN HẠNH

1.- Đèn đốt nơi các chùa chiền, thường đèn này đốt bằng dầu hạnh, tức dầu hột mận:



Khêu đèn hạnh thắp hương mầu,

Chắp tay lạy Phật khấu đầu quy sư.

(Truyện Phan Trần).

2.- Đèn dùng nơi bàn học, loại đèn lồng, tán bằng giấy trắng.

Lâm dâm đèn hạnh năm canh nguyệt,

Bối rối lòng tằm chín khúc tơ.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



ĐÈN HỌC BÓNG TUYẾT

Tức lấy ánh sáng của tuyết làm đèn để học tập. Nói tích Tôn Khang người đời Tấn, nhà nghèo mà ham học, không tiền mua dầu, phải nhờ ánh tuyết mà đọc sách. Chỉ sự miệt mài học tập.



Thủa dầu hết đèn học bóng tuyết,

Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông.

(Gia Huấn Ca).



ĐÈN HUỆ

Bởi chữ “Huệ đăng  ” là đèn trí huệ.

Trí huệ, ví như ánh sáng của ngọn đèn, soi sáng cho con người ra khỏi bóng tối vô minh.

Đèn huệ chực soi mau tiến bước,

Nơi miền Cực Lạc dễ đâu xa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐÈN MÔNG CHÍNH

Mông Chính họ Lữ, tự là Thánh Công, quê ở Hà Nam, người đời Tống. Nhà Mông Chính nghèo, nhưng lại chăm học, thường đốt đèn đọc sách đến nửa đêm, sau thi đỗ tiến sĩ làm quan đến chức Thái Tử Thái Sư, phong Hứa Quốc Công.



Đèn Mông Chính canh khuya một ngọn,

Màn Trọng Thư năm trọn nửa vây.

(Tự Tình Khúc).



ĐEO ĐAI

Đeo đai là từ dùng để chỉ cái tình cảm vấn vương, quyến luyến, không thể dứt rời ra được.



Bóng Nga thấp thoáng dưới mành,

Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai.

(Truyện Kiều).



Hiểm hóc cửa quyền chăng lọt lẫn,

Thanh nhàn án sách hãy đeo đai.

(Quốc Âm Thi Tập).



Biết người biết mặt lòng đâu biết,

Ðừng cứ đeo đai nỗi sắc tài.

(Đạo Sử).



Mảng đeo đai hai chữ vận thời,

Như bèo bọt nổi trôi giòng khổ thủy.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐEO ĐẲNG

Tức là bám dính, đeo mang vào mình, giữ lấy mãi, không thể bứt rời ra được. Ngoài ra còn có thể hiểu như theo đuổi mãi, chẳng dứt bỏ được.



Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,

Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!

(Truyện Kiều).



Bỗng dưng trăng dật gió dìu,

Làm sao lui tới cho đeo đẳng này.

(Mai Đình Mộng Ký).



Càng đeo đẳng nỗi phiền nỗi thảm,

Càng thương thân chích bạn lìa đôi.

(Nữ Trung Tùng Phận)



ĐÈO BÒNG

1.- Dan díu, vướng vít, ở tình trạng mong được sự âu yếm.



Quá thương chút nghĩa đèo bòng,

Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?

(Truyện Kiều).



Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,

Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.

(Truyện Kiều).

2.- Đèo bòng còn có nghĩa đua đòi, được cái này lại muốn cái khác.

Nực cười cho kẻ đèo bòng,

Cóc đòi đi guốc sao xong mà đòi.

(Ca Dao)


ĐẾ NGHIÊU 

Tức là vua Nghiêu, một ông vua cổ đại của Trung Quốc, được các Nho gia coi là vị vua hiền đức, mẫu mực, đem lại nền thái bình, thịnh trị cho đất nước.

Xem: Đường Nghiêu.

Vừa khi phong khí sơ khai,

Trinh nguyên xẩy đã gặp đời Đế Nghiêu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐẾ NGHIÊU TRUYỀN HIỀN

Tức là vua Nghiêu nhường ngôi lại cho kẻ hiền tài.

Theo lịch sử thời thượng cổ, vua Nghiêu đến cuối đời nghe tiếng ông Thuấn là người rất hiếu đễ, tìm đến gặp, mới biết Thuấn là một bậc hiền tài, bèn đem ngôi báu truyền lại cho.

Xem: Nghiêu Thuấn.



Đế Nghiêu tìm hiếu truyền hiền,

Nương nơi gương ấy vẫn bền đạo con.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐẾ THÍCH 

Đế Thích là một vị thần tiên, tục danh là Lý Chế. Truyền thuyết dân gian cho rằng Đế Thích đánh cờ rất cao và nổi tiếng về uống rượu, không ai sánh kịp.



Cờ tiên rượu thánh ai đang,

Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Đàn Bá Nha gẩy khúc tính tang tình,

Cờ Đế Thích đi về xe pháo mã.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



ĐỀ CHỮ GẤM

Tức là đề thơ rồi dệt vào gấm. Do tích nàng Tô Huệ đời nhà Tấn, có chồng là Đậu Thao đi lính thú xa, ở nhà dệt bài hồi văn trên gấm, gọi là “Chức cẩm hồi văn  ” gửi ra cho chồng.

Xem: Chữ gấm.

Ðề chữ gấm, phong thôi lại mở,

Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



ĐỀ HUỀ 

Đề: Nâng lên. Huề: Dẫn dắt.

Đề huề là dẫn dắt, dìu dắt, mang dắt.

Thiên Khúc Lễ chép: Trưởng giả dự chi đề huề tắc lưỡng thủ phụng trưởng giả chi thủ  , , nghĩa là dìu dắt bậc trưởng giả tấc hai tay nâng lấy tay của trưởng giả.

Lấy điều du học hỏi thuê,

Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.

(Truyện Kiều).



Vội vàng đến lúc lưu li,

Còn đem ái nữ đề huề sau yên

(Quốc Sử Diễn Ca).



Họ Hà trở lại hương quê,

Đay cơm, bầu nước, đề huề ra đi.

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐỀ KIỀU 

Đề chữ vào cột cây cầu.

Tư Mã Tương Như người đời Hán, lúc hàn vi, nhà thiếu đói, bỏ làng ra đi. Khi ông tới cây cầu ở cuối làng, đề trên cầu rằng: Làm trai không làm nên đại công danh, không chịu qua cầu nầy nữa.

Sau ông được làm quan, vua Võ Đế khiến đi sứ sang nưới Thục. Người làng lập bia ở chỗ cầu, gọi là Đề kiều bi.



ĐỀ OANH 

Theo Liệt Nữ Truyện, Thuần Vu Ý làm Thái sương lệnh đời Hán, không có con trai chỉ duy nhứt một gái là Đề Oanh. Khi ông bị tội, mới phàn nàn vì mình không có trai nên lúc gặp nạn không người giúp đỡ. Đề Oanh thấy vậy liền viết một lá sớ dâng cho Hán Văn Đế, trong đó có câu: “Kẻ thác rồi không sống lại được, vậy xin bệ hạ cho tiện nữ vào hậu cung, nguyện làm tôi mọi trọn đời để chuộc tội cho cha. Vua xem sớ, cảm động lòng hiếu thảo của Đề Oanh nên tha cho Thuần Vu Ý.



Rằng: Xưa có gái Đề Oanh,

Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ tài.

(Nữ Tú Tài).



Tích xưa nhắc đến Đề Oanh,

Thương cha nên phải bán mình kêu oan.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐỀ THI LÁ

Đề thơ trên lá cây thả theo dòng nước.

Một cung nữ đời Đường là Hàn Thị đề thơ trên lá thắm, thả trôi theo dòng nước từ trong cung chảy ra ngoài. Vu Hựu tình cờ bắt được, rồi cũng viết lại bài thơ trên một chiếc lá khác thả trôi vào cung, Hàn Thị cũng nhặt được. Sau hai người lấy nhau, cho rằng chiếc lá thắm đã làm mai.

Xem: Lá thắm.



Đừng đề thi lá thơ chim,

Cầu hôn để phụng đến tìm cung loan.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐỆ NHẤT ĐỘNG 

Một cái động ở Hương Tích (Chùa trong), trên cửa động có khắc năm chữ Nho: “  Nam Thiên Đệ Nhất Động” tức là động thứ nhứt ở trời nam.



Kìa non non nước nước mây mây,

Đệ Nhất Động hỏi là đây có phải?

(Hương Sơn Phong Cảnh).



ĐỆM HỒNG THUÝ

Thuý là chim “Phỉ thuý ”, một loại chim có lông rất đẹp. Phỉ có nghĩa sắc đỏ, thuý sắc xanh. Có người cho rằng chim đực có nhiều lông màu đỏ gọi là phỉ, chim mái có nhiều lông màu xanh gọi là thuý.

Đệm hồng thuý là đệm lấy lông chim phỉ thuý kết lại thành, có màu sắc đỏ nhiều hơn màu xanh, trông rực rỡ. Ý chỉ nơi vua chúa hay nơi quyền quý.

Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ,

Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐỆM THUÝ

Đệm thuý hay đệm hồng thuý là một loại đệm được kết bằng lông chim phỉ thuý, có màu sắc rực rỡ, màu lục tươi pha lẫn màu xanh đậm. Dùng riêng cho vua chúa hoặc người quyền quý.

Xem: Đệm hồng thuý.

Người đài nước, kẻ lò than,

Kẻ lồng đệm thuý, người dàn chiếu hoa.

(Hoa Tiên Truyện)



ĐỀN DAO

Bởi chữ “Dao điện  殿”, hay “Dao Trì Điện  殿”, là một cung điện của bà Tây Vương Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu, nơi đó có một cái ao bằng ngọc dao, cho nên người ta gọi nơi đó là “Cung Dao Trì” hay “Cung Diêu Trì”.

Xem: Dao Trì.

Gần xa tiên nữ đều vào,

Kinh thành đến trước đền Dao lạy mừng.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



ĐỀN LOAN GÁC PHƯỢNG

Đền loan gác phượng là đền gác thuộc cung điện nhà vua, dành cho các vị Hoàng hậu và phi tần.



Khuya sớm đền loan gác phượng,

Trước sau dãy quế phòng tiêu.

(Cung Trung Bảo Huấn).



ĐỀN PHONG

1.- Chỉ cung điện có trồng cây phong:

Đền phong tức là những cung điện có trồng cây phong. Cây phong là một loại cây giống cây bàng, mùa thu lá đỏ rất đẹp, thường được trồng nơi các cung điện, gọi là “Đền phong”, “Sân phong” hay “Bệ phong”.

Khen hỏi từ vâng lệnh cửu trùng,

Áo xiêm ra mặt trước đền Phong.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).

2.- Chỉ đền hóng gió.

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt,

Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐỀN QUẾ

Đền quế là tiếng dùng để chỉ cung điện nhà vua cho đẹp lời. Khác với cung quế, điện quế dùng để chỉ mặt trăng.



Xôn xao Đền quế khi sum hợp,

Có thấu tình chăng nỗi đắng cay.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



Đền quế xôn xao tươi vẻ nguyệt,

Phòng tiêu nòng nã nức mùi hương.

(Hồng Đức Quốc Âm).



ĐỀN VỊ ƯƠNG

Tên một cung điện của nhà vua ở trong thành Trường An, gọi là Vị Ương cung. Vị ương có nghĩa là chưa được nửa.

Trong Kinh Thi có câu: Dạ như hà cơ, dạ vị ương, đình liệu chi quang, quân tử chí chỉ, loan thanh tương tương  , , , , , nghĩa là đêm sớm muộn thế nào, đêm chưa hết, mà đuốc ở sân điện sáng rực, các quan đã đến đủ, tiếng chuông lanh canh.

Đền Vị Ương bóng đuốc bừng bừng,

Lòng cần mẫn vừa khi dóng dả.

(Văn Tế Quan Trung)



ĐỀN VU

Đền Vu tức đàn Vũ Vu, tên một cái đàn cao ở bên sông Nghi. Trong Luận Ngữ có chép việc Đức Khổng Tử hỏi về chí của các học trò, Tăng Điểm có ước rằng: Vào tiết cuối tháng mùa xuân, y phục xuân đã gọn gàng, cùng các bạn tuổi thành niên, năm sáu người, các em nhỏ sáu bảy người ra tắm ở sông Nghi và hóng mát ở đàn Vũ Vu, xong rồi ngâm hát mà trở về.

Khổng Tử nghe xong, ngậm ngùi than rằng: Ta cũng đồng với chí của Điểm vậy!

Nghĩa bóng: Vui về đường học tập tu dưỡng.

Xem: Nghi Vu.

Hiu hiu hóng mát đền Vu,

Gió xuân thay quạt trăng thu thế đèn.

(Tư Dung Vãn)



ĐI DÉP NƯƠNG DƯA

Lấy ý từ câu “Qua điền bất nạp lý  ” tức là đi ngang ruộng dưa không xỏ giầy để tránh sự hiềm nghi.

Đi dép nương dưa có nghĩa là đi ngang qua nương dưa đừng nên xỏ dép, ý chỉ sự cẩn thận, không để người nghi mình trộm dưa.

Đã vậy làm người cho biết lẽ,

Có đâu đi dép ở nương dưa.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



ĐỊA CỬU THIÊN TRƯỜNG 

Địa cửu: Đất lâu. Thiên trường: Trời dài.

Địa cửu thiên trường có nghĩa là trời đất dài lâu, ý muốn nói cuộc đời con người còn dài lâu.



Rằng thôi tạm cuốn quyển trường,

Hãy còn địa cửu thiên trường vội chi.

(Ngọc Kiều Lê).



ĐỊA HÃM THIÊN BĂNG 

Địa hãm: Đất sập. Thiên băng: Trời tan vỡ.

Địa hãm thiên băng tức là Trời long đất lở.

Nghĩa bóng: Tai ương hoạn nạn lớn xảy đến một cách bất ngờ.

Vân Tiên than khóc nằm lăn,

Có đâu địa hãm thiên băng thình lình.

(Lục Vân Tiên).



ĐỊA HOÀN 

Địa: Đất, vùng đất. Hoàn: Vùng đất lớn.

Địa hoàn, cũng như chữ “Địa giái” và “Trần hoàn”, dùng để chỉ cõi thế gian, cõi trần.



Day mặt Hồng Quân ngó địa hoàn,

Rưới chan vạn vật khối sinh quang.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐỊA HOÀN 

Địa: Đất, vùng đất. Hoàn: Vùng đất lớn.

Địa hoàn, cũng như chữ “Địa giái” và “Trần hoàn”, dùng để chỉ cõi thế gian, cõi trần.



Day mặt Hồng Quân ngó địa hoàn,

Rưới chan vạn vật khối sinh quang.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐỊA KỲ 

Địa: Đất. Kỳ: Thần.

Địa kỳ là Thần đất.



Thiên cung: Tinh Tú, Thánh, Tiên,

Địa kỳ: Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.

(Xưng Tụng Công Đức).



ĐỊA NGỤC 

Địa: Đất. Ngục: Nhà Giam.

1.- Địa ngục là nhà giam ở dưới Âm Phủ, nơi trị tội linh hồn những người chết mà lúc sinh tiền làm điều hung ác.



Nước trôi hoa rụng đã yên,

Hay đâu Địa ngục ở miền nhân gian.

(Truyện Kiều).



Nói rằng: Trời, Phật, sách in,

Tội về Địa ngục, phước lên thiên đàng.

(Dương Từ Hà Mậu).



Lưới vua thoát khỏi là may,

Còn e Địa ngục phân thây xẻ mình.

(Huấn Nữ Ca).

2.- Địa ngục theo Phật, còn là một trong sáu nẻo luân hồi, gọi là Lục đạo.

Hoặc đọa địa ngục, Tu la,

Làm thân ngạ quỉ cùng là bàng sinh.

(Hứa Sử Tân Truyện).



ĐỊA PHỦ 

Địa: Dưới đất. Phủ: Nhà cửa.

Theo phái Đạo gia, nơi người chết ở gọi là Địa phủ. Địa phủ đồng nghĩa với Âm phủ, Địa ngục…



Đạo san Địa phủ chữ vàng,

Bài dựng bên đàng ai thấy cũng kinh.

(Dương Từ Hà Mậu).



Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ,

Ðộ đời cố tạo phước nhơn gian.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐỊA TÀNG 

Địa: Đất. Tàng: Chôn giấu.

Những đồ vật quý giá đem chôn giấu ở dưới đất được gọi là “Địa tàng”.



Địa tàng đã sẵn kim ngân,

Đủ dùng doanh phí trăm phần chi lo.

(Hạnh Thục Ca).

 

ĐỊA TẠNG 

Hay “Địa Tạng Vương”.

Tên một vị Bồ Tát có bản nguyện cứu thoát chúng sanh ra khỏi cảnh giới Địa Ngục.

Tượng Đức Địa Tạng là một người xuất gia mặc áo ca sa, tay trái nắm hạt ngọc minh châu, tượng trưng cho trí tuệ, và tay phải cầm cây tích trượng, tượng trưng cho ý chí mạnh mẽ, hai điều kiện cần thiết cho sự thức tỉnh tự giác ngộ.

Ngài lập thệ độ tận chúng sanh trong lục đạo luân hồi, cứu vớt hết các thứ khổ nạn chúng sanh mới thành Phật, do đó Ngài còn có danh hiệu là Đại Nguyện Địa Tạng. Ngài thường hiện thân trong Địa ngục để cứu độ chúng sanh nên người đời thường gọi “U Minh Giáo Chủ”.

Kìa Địa Tạng, dốc lòng tu,

Độ thân cũng được khỏi tù đấng thân.

(Quan Âm Thị Kính).



Kìa Địa Tạng, nọ Mục Liên,

Độ thân dẫu xuống cửu tuyền cũng an.

(Truyện Phan Trần).



Nam Mô Địa Tạng thi ân,

Đưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.

(Kinh Tận Độ).



ĐỊA TẠNG VƯƠNG 

Địa Tạng Vương là vị Bồ Tát có bản nguyện lập thệ độ tận chúng sanh trong lục đạo luân hồi, cứu vớt hết các thứ khổ nạn chúng sanh mới thành Phật, Ngài thường hiện thân trong Địa ngục để cứu độ chúng sanh nên người đời thường gọi “U Minh Giáo Chủ”, “Địa Tạng Vương” hay “Địa Tạng Vương Bồ Tát”.

1.- Địa Tạng Vương:

Lại nghe phép Địa Tạng Vương,

Siêu hồn sãi vãi về phương tây trời.

(Dương Từ Hà Mậu).

2.- Địa Tạng Vương Bồ Tát:

Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Bố từ bi tế bạt vong hồn,

(Kinh Tận Độ).



ĐỊCH HOÀN 

Do hai chữ “Hoạch địch” và “Hùng hoàn”.

- Hoạch địch: Vạch cây lau, nghĩa là dùng cây lau để vạch chữ dưới đất.

Do tích Âu Dương Tu mồ côi cha lúc ông vừa mới bốn tuổi. Nhà nghèo không tiền mua giấy mực, bà mẹ phải lấy cây lau làm viết để vạch xuống đất thành chữ dạy con học.

- Hùng hoàn: Viên mật gấu.

Liễu Công Xước có người vợ họ Hàn, là người đàn bà rất giỏi giang, có tài dạy dỗ con cái. Hằng ngày, bà lấy mật gấu trộn với thuốc, vo thành viên rồi cho con là Trọng Sính uống. Nhờ vậy con bà tránh được nóng cảm, tinh thần sảng khoái, sáng suốt và khỏi buồn ngủ nên siêng năng học hành.

Chữ “Địch hoàn”, “Hoạch địch”và “Hùng hoàn” dùng để khen các bà mẹ khéo dạy con nên người.

Vườn xưa mấy độ,

địch hoàn khuya sớm khuyên răn.

(Văn Tế Cổ).



ĐỊCH KHÁI 

Địch: Chống lại. Khái: Giận, hờn giận.

Địch khái là cái tinh thần chống trả lại với người mình giận, ý chỉ căm thù bọn giặc, tức khí khái căn thù bọn giặc, chỉ sự đánh giặc.

Sách Tả Truyện chép: Chư hầu địch vương sở khái nhi hiến kỳ công  , nghĩa là chư hầu chống lại với kẻ nhà vua hận thù mà hiến dâng công lao của họ.

Lúc cuộc tan về ở Tân Hoà,

đắp lũy đồn binh,

giữ một góc bày lòng địch khái.

(Văn Tế Trương Định).



Viên đạn nghịch tần reo trước mặt,

Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay.

(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).



ĐỊCH NHÂN KIỆT

Người đời Đường, tự là Hoài Anh, làm quan Pháp Tào triều đại Võ Tắc Thiên ở xứ Tinh Châu. Cha mẹ thì ở Hà Dương.

Một buổi chiều, ông lên núi Thái hàng, đứng trông về quê cũ, thoạt thấy chòm mây bạc bay qua thì đau lòng, chỉ áng mây than rằng: Dưới chòm mây bạc đó là chỗ cha mẹ ta ở.

Sau khi mẹ mất, ông cất lều tranh nơi mộ đặng sớm thăm tối viếng. Tương truyền lòng hiếu thảo của ông động lòng trời khiến bầy quạ trắng lại gần làm ổ sớm trưa cho có bạn. Quả thật ông là người xứng đáng với lời khen của những người đương thời: Ông là người độc nhất vô nhị trong đời.



ĐỊCH THAN

Có hai điển tích:

1.- Tức là ông Mặc Địch than. Mặc Địch là một triết gia Trung Quốc thời cổ đại, chủ trương thuyết “Kiêm ái  ”.

Sách Trung Văn Đại Từ Điển có chép: Mặc Tử kiến luyện ty nhi khấp chi, vị kỳ khả dĩ hoàng, khả dĩ hắc  , , , nghĩa là Mặc Tử thấy tơ luyện trắng mà khóc, vì nó có thể bị nhuộm màu vàng hay màu đen. Cả câu có ý than cho con người có thể bị thay đổi, biến hoá, không còn giữ được bản chất nguyên thuỷ của nó.



Đường đi ba ngã người Châu khóc,

Tơ trắng hai màu gã Địch than.

(Dương Từ Hà Mậu).

2.- Lời than thở của Tổ Địch, người đời Tấn, một người rất yêu nước, trong lòng luôn luôn ôm ấp chí khí quyết phải đánh tan rợ Hồ để khôi phục Trung Nguyên.

Đừng cho thầy Địch thở than,

Chớ để họ Nhạc cay đắng.

(Cáo Thị Cần Vương).



ĐIẾM NGUYỆT 

Điếm: Cái quán. Nguyệt: Trăng.

Điếm nguyệt là quán có ánh trăng chiếu xuống, tức quán nhỏ dưới đêm trăng.



Dập dìu quý tử vương tôn,

Xe dừng điếm nguyệt ngựa bon dặm dài.

(Song Tinh Bất Dạ).



ĐIẾM NGUYỆT CẦU SƯƠNG

Điếm nguyệt: Quán dưới đêm trăng. Cầu sương: Cầu ướt sương đêm.

Điếm nguyệt cầu sương là một quán nhỏ dưới đêm trăng và cái cầu ván còn đẩm ướt sương đêm.



Mịt mù dặm cát đồi cây,

Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.

(Truyện Kiều).



ĐIẾM NHỤC 

Điếm: Viên ngọc bị tỳ vết. Nhục: Nhơ nhuốc.

Người bị nhục nhã cũng như viên ngọc bị tỳ vết.

Trong sách Hiếu Kinh có nói: Danh huỷ hạnh phế, điếm nhục tiên nhân  , , nghĩa là danh dự và hạnh đức bị phế bỏ thì làm nhục nhã đến cha ông.

Đừng làm điếm nhục 
gia phong,

Uổng công đèn sách, hổ dòng Nho gia.

ĐIỀM CÁT HUNG

Cát hay kiết là điều lành, tốt. Hung là điều dữ, xấu.

Điềm cát hung là điềm tốt xấu, điềm lành dữ.

Giựt mình bèn thức dậy ngay,

Ngồi bàn chưa rõ điềm nầy cát, hung.

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐIỀM HÙNG

Hùng 
: Gấu. Điềm hùng tức là điềm chiêm bao thấy gấu.

Người xưa cho rằng nằm chiêm bao mà thấy gấu là điềm sinh con trai. Do câu trong Kinh Thi: Duy hùng duy bi nam tử chi tường . , , nghĩa là nằm mơ thấy loài gấu là điềm sinh con trai.

Xem: Mộng hùng.

Nghĩ rằng cậu mợ hiếm hoi,

Điềm hùng chưa ứng chút trai muộn màng.

(Nhị Độ Mai).



ĐIỀM KHÍ ĐỎ

Có thai sắp sinh con chiêm bao thấy khí đỏ, tức hồng quang bao phủ quanh nhà là điềm sinh con quý, có tài ba.



Thuở Quyền mẹ mới 
thai sinh,

Có điềm khí đỏ nhiễu quanh khắp nhà.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



ĐIỀM LAN

Theo Tả Truyện, người thiếp của Trịnh Văn Công là Yến Cật, chiêm bao thấy sứ trời ban cho một cành hoa lan, giật mình tỉnh giấc, sau đó thụ thai, sinh ra Mục Công.

Do đó nằm mơ thấy hoa lan tức “Mộng lan” là ứng điềm có thai.

Xem: Mộng lan.



Sinh châu rực ứng điềm lan,

Phòng hương ngọc nữ quang nhan khác vời.

(Sơ Kính Tân Trang).



ĐIỀM LÀNH HÙNG HUỶ

Nằm chiêm bao thấy con “Hùng ” là loài gấu, và con “Huỷ ” là loài rắn thì có điềm lành, đó là điềm sinh con trai và con gái.

Kinh Thi cho biết chiêm bao thấy gấu tức hùng là điềm sinh trai, chiêm bao thấy rắn tức huỷ là điềm sinh gái. Xem: Mộng hùng, mộng xà.

Điềm lành hùng huỷ hiện thân,

Kể đã ba đời sinh được phu nhân.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



ĐIỀM NHIÊN 

Điềm: Yên tĩnh. Nhiên: Vậy.

Điềm nhiên là người có thái độ thờ ơ, không thèm quan tâm hay lưu ý tới công việc gì.



Ta nay không lẽ điềm nhiên,

Phải toan cự địch, hư nên nhờ trời.

(Hạnh Thục Ca).



ĐIỀM ỨNG GIÁP BINH

Tức là điềm trời ứng cho biết trước sẽ có chiến tranh, loạn lạc, giặc giã khắp nơi như nước sông tanh nồng và đỏ như màu máu.



Có phen điềm ứng giáp binh,

Nước sông dường máu đã tanh lại nồng.

(Hoài Nam Khúc).



ĐIỀM ỨNG HUỶ HÙNG

Chiêm bao thấy con “Huỷ ”, tức loài rắn, và “Hùng ”, tức loài gấu thì ứng điềm sinh con gái và con trai. Do Kinh Thi cho biết thấy hùng, bi điềm sinh con trai, thấy xà huỷ điền sinh con gái.

Xem: Hùng bi, Xà huỷ.

Mấy thu hương lửa loan phòng,

Điềm thiêng sớm ứng huỷ hùng mấy phen.

(Sơ Kính Tân Trang).



ĐIỀM ỨNG HÙNG BI

Nằm chiêm bao thấy hai con “Hùng ” và “bi ”, đều thuộc về loài gấu, ứng điềm sinh con trai.

Kinh Thi cho biết chiêm bao thấy gấu tức con hùng, con bi là điềm sinh trai, chiêm bao thấy rắn tức con xà, con huỷ là điềm sinh gái.

Nghĩa bóng: Điềm sinh con trai.

Xem: Hùng bi.

Lạc Long lại sánh Âu ky.

Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.

(Quốc Sử Diễn Ca)



ĐIỀM ỨNG HƯ KHÔNG

Tức là điềm ứng không còn gì hết, tức là có một sự biến đổi lớn trong trời đất, như núi lở thành vực sâu, sông thành gò đống.



Có phen điềm ứng hư không,

Lỡ non nên vực, cạn sông nên gò.

(Hoài Nam Ca Khúc).



ĐIỂM DANH 

Điểm: Kiểm điểm, xét. Danh: Tên.

Điểm danh nghĩa là kiểm tra tên họ người trong danh sách mà làm dấu xem có hay vắng mặt.



Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi,

Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.

(Truyện Kiều).



ĐIỂM ĐĂNG 

Điểm: Thắp lửa. Đăng: Cây đèn.

Điểm đăng nghĩa là lấy lửa mồi vào cây đèn, tức thắp đèn.



Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,

Gọi tiểu đồng vừa mới điểm đăng.

(Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm).



ĐIỂM PHẤN TRANG HỒNG

Điểm phấn trang hồng dùng để nói người phụ nữ lấy phấn son trang điểm mặt mày.



Nương song luống ngẩn ngơ lòng,

Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



ĐIỂM TÔ

Do chữ “Tô điểm”.

Điểm tô tức là tô vẻ, bồi đắp làm cho tốt đẹp thêm.

Lâm ly ngọc bút song hồ,

Văn chương một áng điểm tô tuyệt vời.

(Thơ Bùi Kỷ).



Gươm thư giúp sức gươm hùng,

Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐIỂM XUYẾT 

Điểm: Tô điểm. Xuyết: Trang sức.

Điểm xuyết là tô điểm cho thêm phần đẹp đẽ.



Mấy phen điểm xuyết sơn hà.

Cúc mười lăm khóm mai và bốn cây.

(Tự Tình Khúc).



ĐIÊN BÁI 

Gặp cảnh gian nan, khổ sở làm cho nghiêng ngửa gọi là điên bái.

Kinh Thi có câu: Điên bái chi yết, chi diệp vị hữu hại  , , nghĩa là cây bị trốc gốc bật lên, cành lá cũng chưa bị tổn thương.

Ý Kinh Thi nói: Điên bái là cây bị trốc gốc mà ngã thì cũng như con người gặp cảnh gian truân khốn khổ.



Đấng anh hùng vì nước quên mình,

Điên bái chẳng lay lòng trung nghĩa.

(Văn Tế Võ Tánh).



ĐIÊN ĐẢO 

Điên: Ngã xuống. Đảo: Lật đổ.

Điên đảo là lộn ngược trật tự, đang xuôi bỗng nhiên lật ngược, chỉ sự thay đổi lung tung, tráo trở, lừa đảo hay lật lọng.

Đảo điên còn dùng để chỉ sự xáo trộn lớn về trật tự, đạo đức, xã hội, như: Cuộc đời điên đảo.

Xem: Đảo điên.



Việc đời điên đảo, đảo điên,

Khác gì nước lục dưới trên lộn phèo.

(Thanh Hoá Quan Phong).



ĐIỀN ĐAN 

Điền Đan là người nước Tề đời Chiến Quốc. Khi nước Yên đánh chiếm hơn 70 thành của nước Tề, Điền Đan mới bày mưu dùng một ngàn con trâu cho mặc vải đỏ, vẽ rồng năm sắc, buộc sắt nhọn vào sừng trâu và bó cỏ khô tẩm dầu buộc vào đuôi trâu. Khi công thành, Điền Đan cho đốt cỏ khô sau đuôi trâu, trâu bị nóng nhảy lồng lên và chạy thẳng qua thành địch. Quân Tề theo sau lưng trâu, đột nhập vào thành địch và chém giết quân Yên vô số kể.

Nhờ vậy, quân Tề dần dần lấy lại được 70 thành đã mất, công lao của Điền Đan rất lớn, nên được vua Tề phong làm An Bình Quân.

Đuôi cùn biếng cột Điền Đan hoả,

Tai nặng buồng nghe Nịnh Tử ca.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



Dầu có Điền Đan ra kế xảo,

Nên ngòi ta cũng chẳng rằng hay.

(Tư Dung Vãn).



ĐIỀN HOÀNH 

Điền Hoành người đời Tần, thay anh là Tề Vương Điền Vinh cầm quân đánh Hạng Võ, lấy lại đất Tề, lập con Điền Vinh là Quảng lên làm vua, ông làm tướng quốc. Sau Tề Vương Quảng bị Hàn Tín bắt, Điền Hoành tự lập làm Tề Vương. Khi Hán Cao Tổ lên ngôi lập nên nhà Hán, Điền Hoành đem hơn năm trăm người chạy ra đảo giữa biển khơi. Hán Cao Tổ triệu Hoành về, nhưng Hoành thấy tủi nhục bèn tự sát mà chết. Hơn năm trăm người thuộc hạ của Hoành ở ngoài đảo nghe tin cũng đều tự sát chết theo Hoành.



Hổ vua thẹn mặt ở đời,

Sự Điền Hoành trước chẳng tôi Hán Hoàng.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



ĐIỀN TỊCH 

Điền: Ruộng đất. Tịch: Sổ sách.

Điền tịch tức là sổ đinh, sổ điền của một nước, nghĩa là cả đất đai dân sự của quốc gia. Cũng còn gọi là “Đồ tịch”.



Giang san cũ thâu về đất Việt;

Điền tịch xưa đem lại trời Nam.

(Sãi Vãi).



ĐIỀN TÔ 

Điền: Ruộng đất. : Thuế má.

Điền tô là thuế ruộng, tức là một khoản tiền mà người nông dân phải làm nghĩa vụ đóng cho nhà nước về việc thu hoa lợi của ruộng đất.



Qui mô cũng rắp hỗn đồng,

Điền tô, đinh ngạch đều cùng định nên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐIỀN TỬ 

Tức Điền Tử Phương .

Đời Chiến Quốc có một người tên là Điền Tử Phương, chăn nuôi loài vật rất kỹ lưỡng và rất thương yêu chúng. Ông thường nói: Lúc các con vật mạnh khoẻ giúp chúng ta lẽ nào khi chúng già yếu ta bỏ xó không săn sóc chúng. Ông dặn con cháu: Con vật hữu ích ta nên nuôi tới già, chớ đừng thấy chúng già đem đi bán.

Tưởng chừng sức mỏi tuổi già,

Cảm Điền Tử dạy con chớ bán.

(Lục Súc Tranh Công).



ĐIỀN THÔN 

Điền: Ruộng. Thôn: Làng xóm.

Điền thôn nghĩa là tất cả những mãnh ruộng thuộc trong làng.



Gọi là thủng thỉnh điền thôn,

Hồ sơn cũng giúp cầm tôn khi rồi.

(Hoa Tiên Truyện).



ĐIỀN VĂN 

Con của Điền Anh, hiệu là Mạnh Thường Quân, một nhà nghĩa hiệp của nước Tề đời Chiến Quốc. Ông nghĩ rằng cửa võ có tướng võ giỏi theo hầu, nhà văn có sĩ văn hay theo giúp, nên ông thường bỏ tiền của ra chiêu nạp hiền sĩ, trong nhà luôn luôn nuôi trên ba ngàn thực khách.

Mạnh thường quân giao du thân mật với Bình Nguyên Quân và Tín Lăng Quân.

Xem: Mạnh Thường.



ĐIỀN VIÊN 

Điền viên là Ruộng vườn.

Trong “Quy Khứ Lai Từ  ” của Đào Tiềm có câu: Quy khứ lai hề! Điền viên tương vu hồ bất quy?  ! ? Dịch nôm: Về đi sao chẳng về đi? Ruộng hoang vườn rậm, còn chi không về.

Đào Tiềm vốn là người ưa thích ruộng vườn, chứ không chịu bị ràng buộc trong quan trường.

Xem: Đào Tiềm.

Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt,

Nỡ đem thân thế hẹn tang bồng.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Điền viên vui thú nông gia,

Tiện con đèn sách ấy là lẽ nên!

(Nhị Độ Mai).



Thuế vua đã nạp thì yên,

Mua vui sẵn thú điền viên bốn mùa.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Điền viên đất nổi lên vàng,

Quằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu.

(Ngụ Đời).



ĐIỂN MÔ 

Điển: Phép tắc. : Khuôn mẫu để bắt chước theo. Điển mô là những điều khuôn mẫu, những lời khuyên bảo.

Liệu lời sinh mới dạy cho,

Lấy đường khuyên giải điển mô mọi lời.

(Truyện Trinh Thử).



ĐIỂN PHẦN 

Do chữ “Tam phần ngũ điển  ”.

Tam phần là sách của Tam Hoàng như Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế.

Ngũ điển là sách của Ngũ Đế tức Thiếu Hiệu, Xuyên Húc, Cao Tân, Đường, Ngu. Phần điển nghĩa rộng là chỉ kinh, sách.

Nam Sử chép: Khúc Cự Nguyên lúc nhỏ nhà nghèo nhưng rất hiếu học, ham kinh sách. Nhà Cự Nguyên bị dột, sợ ướt phần điển (Tức sách), nên phải lấy chăn trùm lại. Phần điển nhờ vậy mà được khô ráo, còn chăn thì bị ướt cả.

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích điển phần trước sau.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



ĐIỆN AN 

Điện: Cai trị. An: Yên ổn.

Điện an có nghĩa là đặt nền cai trị nhân dân cho được yên ổn và bền vững.



Sao cho xã tắc điện an,

Ấy là chẳng phụ Tiên hoàng thác cô.

(Hạnh Thục Ca).



ĐIỆN NGỌC

Điện: Cái đền. Ngọc: Ngọc.

Điện ngọc, hay Ngọc điện 殿, là cung điện bằng ngọc, nơi ngự triều của Đức Chí Tôn, gọi là Linh Tiêu Điện 殿, Ngọc Hư Cung .



Trên Điện Ngọc Vua Trời ngự giáng,

Trước đền vàng phán đoán phân minh.

(Xưng Tụng Công Đức).



ĐIỆN TÔ

Tức Cô Tô đài, một toà đài cao, cực kỳ tráng lệ do vua Ngô cho xây trên núi Cô Tô ở tỉnh Giang Tô, hơn năm năm mới xây dựng xong. Đền đài cao và rộng có thể trông suốt được hai trăm dặm. Điện Tô là nơi vua Ngô Phù Sai cùng với Tây Thi đàn địch rượu thơ, vui chơi suốt ngày, không lo gì tới triều chính, khiến phải mất nước.



Sênh ca mấy khúc vang lừng,

Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐIỆP LẠC QUY CĂN 

Hay “Diệp lạc quy căn”. Điệp lạc: Lá cây rơi rụng. Quy căn: Trở về gốc.

Điệp lạc quy căn tức là lá rụng về cội

Ðiệp lạc quy căn tiếng đã rằng,

Còn ngươi, ngươi có biết sao chăng?

(Đạo Sử).



ĐIỆP SỨ  使

Điệp: Bươm bướm. Sứ: Sứ giả, vị quan thay vua đi quan nước khác thương thuyết.

Điệp sứ tức là con bướm làm sứ giả, chỉ việc truyền thư tín, hay tin tức.



Xuân tín bỗng nhẻ cùng điệp sứ,

Phương tâm đành thẹn với long nhan.

(Tần Cung Nữ).



ĐIÊU ĐẨU 

Điêu đẩu là một dụng cụ dùng trong quân lính thời xưa, ban đêm đi tuần thường đánh lên để báo giờ cho binh sĩ biết, như trống canh vậy. Điêu đẩu bằng đồng, chứa được một đấu, ban ngày dùng để nấu cơm cho lính, ban đêm đi canh mà đánh.



Tình dài dễ ngắn canh dài,

Tiếng điêu đẩu trót, hiên cài bóng đông.

(Hoa Tiên Truyện).



Thành trì phó mặc chim làm tổ,

Điêu đẩu thay bằng tiếng quốc kêu.

(Thơ Cổ).



ĐIÊU LINH 

Điêu: Héo úa. Linh: Tàn tạ.

Điêu linh là nói quang cảnh tàn tạ héo úa.



Nước Lô hà chảy xuống Lương giang,

nghĩ mấy kẻ điêu linh những từ thuở nọ.

(Trận Vong Tướng Sĩ)



ĐIÊU THUYỀN 

Điêu Thuyền trước là đứa ca nhi, sau làm con nuôi của Vương Doãn đời Đông Hán. Trong triều đình, thái sư Đổng Trác chuyên quyền, lại nuôi Lữ Bố làm con để giúp ông cướp ngôi vua.

Vương Doãn lập mỹ nhân kế, trước hứa gả Điêu Thuyền cho Lữ Bố, rồi sau lại gả cho Đổng Trác, để gây sự bất hoà giữa hai cha con. Kết quả, hai cha con sinh thù hằn và giết hại lẫn nhau.

Điêu Thuyền há chính chuyên nào.

Khi ra Lữ Bố, khi vào Đổng Công

(Truyện Trinh Thử).



Trực rằng: Ai Lữ Phụng Tiên,

Phòng loan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi?

(Lục Vân Tiên).



ĐIẾU NGUYỆT 

Điếu: Câu cá. Nguyệt: Trăng.

Điếu nguyệt tức là nhân đêm trăng tỏ ngồi câu cá.



Khách điếu nguyệt biếng tìm tăm cá,

Chữ tam mô bàn với tiều phu.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



ĐIẾU PHẠT 

Do câu “Điếu dân phạt tội  ”.



Điếu dân: Vì thương dân nên thường thăm viếng để an uý dân. Phạt tội: Vì dân mà phạt những kẻ có tội.

Điếu phạt là nổi binh đánh phạt kẻ có tội để trừ hại cho nhân dân.

Mạnh Tử cho rằng: Võ Vương vì nhân dân mà đánh Trụ, là một kẻ phạm tội với dân, tức là thi hành việc “Điếu dân phạt tội”.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước vì khử bạo.

(Bình Ngô Đại Cáo).



Ngoài mượn lời cứu việc làm danh,

Dân kinh loạn ngữ binh điếu phạt.

(Hịch Tây Sơn).



Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu phạt,

phận thần dân đâu chẳng toan còn;

(Văn Tế Lục Tỉnh).



ĐIẾU TẾ 

Điếu: Viếng người chết. Tế: Cúng tế.

Điếu tế tức là sắm lễ vật đến bày trước linh cữu của người chết để cúng tế.



Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường.

(Thập Loại Chúng Sinh).



ĐIẾU VỊ CANH SẰN 

Điếu Vị: Ngồi câu trên sông Vị. Canh Sằn: Cày ruộng ở đất Sằn.

Điếu Vị canh Sằn là nói ông Lữ Vọng khi còn hàn vi, ngồi câu trên sông Vị, Y Doãn lúc chưa gặp vua Thang, cày ruộng ở đất Hữu Sằn. Ý nói người hiền tài chưa gặp thời còn ẩn dật.



Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,

Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn,

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



ĐIỀU HỘ 調

Điều: Hoà hợp. Hộ: Giúp đỡ.

Điều hộ là giúp đỡ, bảo vệ, làm cho hoà hợp, làm cho rập nhau.



Đường điều hộ tiền không dám tiết,

Mặc phu quân giữ việc thuốc thang.

(Gia Huấn Ca).



ĐIỀU TRONG LẼ ĐỤC

Trong đục là phải quấy.

Điều trong lẽ đục là nói điều phải lẽ trái, hay điều tốt xấu.

Phải dạy biết điều trong lẽ đục,

Hầu ngày sau em lúc thúc dạy con nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐIỂU TẬN CUNG TÀNG 

Khi chim đã hết, người ta sẽ đem cất cung, không dùng đến nữa.

Nghĩa bóng: Thiên hạ thái bình thì không quý kẻ công thần.

Đây là lời than của Hàn Tín khi bị bắt ở Vân Mộng: Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh, cao điểu tận, lương cung tàng, địch quốc phá, mưu thần tru  , , , , , , nghĩa là thỏ chồn chết, chó săn nấu, chim cao hết, cung tên cất, nước địch phá, mưu thần chết.



Đau đớn thay điểu tận cung tàng,

Đầm Vân Mộng phải mắc mưu con trẻ.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Nhớ câu điểu tận cung tàng.

Người tiên thèm thấy chàng Trương chớ cười.

(Hoài Nam Ca Khúc).

 

ĐINH BỘ LĨNH 

Người động Hoa Lư (Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, Bắc Phần). Con quan Thứ sử Hoan Châu dưới đời Tiền Ngô là Đinh Công Trứ.

Trong thời Thập Nhị Sứ Quân, Đinh Bộ Lĩnh có công dẹp loạn để thống nhứt đất nước và lên ngôi vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt.

Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,

Con quan Thứ sử ở thành Hoa lư.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐINH LAN 

Người đời Hán, mồ côi cha từ bé, đến khi lớn lên, nhớ ơn cha mẹ nên mới thuê người tạc tượng cha mẹ để thờ. Ngày thì dâng cơm, tối thì sửa soạn chăn giường, hầu hạ chăm nôm như lúc cha mẹ còn sống vậy.

Người vợ không lòng hiếu kỉnh, thấy chồng thờ phụng không ưa, nên lấy kim châm vào ngón tay tượng gỗ, tức thì có máu tươi chảy ra. Đến trưa, Đinh Lan bưng cơm vào cúng, thấy tượng gỗ rơm rớm nước mắt và máu ở ngón tay chảy ra. Ông hỏi ra mới biết vợ lấy kim châm vào tay tượng gỗ, ông bèn bỏ vợ, đuổi đi.

Hán Đinh Lan thuở còn thơ ấu,

Bóng xuân huyên khuất dấu non xanh.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



ĐINH NINH 

Nhắc đi nhắc lại nhiều lần, dặn dò một cách trịnh trọng. Đinh ninh còn có thể hiểu như nghĩa là yên trí.



Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai mặt một lời song song.

(Truyện Kiều).



Một cơn gió giật, mưa dào,

Lẽ này người quyết dạ nào đinh ninh.

(Hoa Tiên Truyện).



ĐINH NGẠCH 

Đinh: Người đến tuổi trưởng thành. Ngạch: Mức.

Đinh ngạch là mức những người đến tuổi trưởng thành trong địa phương.



Qui mô cũng rắp hỗn đồng,

Điền tô, đinh ngạch đều cùng định nên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐÍNH HÔN 

Đính: Bàn định với nhau. Hôn: Trai gái kết làm vợ chồng với nhau.

Đính hôn là lễ đôi bên họ nhà trai và họ nhà gái ước hẹn với nhau cho hai trẻ kết thành vợ chồng.



Nhân duyên đã chiếc trâm này,

Cửa Trần Công để cho mày đính hôn.

(Truyện Phan Trần).



ĐÌNH CAO

Tức là “Cao đình  ”, tên một cái núi ở Chiết Giang, nơi ngày xưa có nhiều bộ hành qua lại tấp nập, là chỗ tiễn đưa, chia biệt nhau.

Cổ thi có câu: Cao đình tương biệt xứ 皋亭 , nghĩa là chỗ tiễn biệt nhau ở Cao Đình.

Duyên ưa mai liễu một đoàn,

Nay ai đã vội giở màn đình Cao.

(Hoa Tiên Truyện).



ĐÌNH HOA 

“Hậu Đình Hoa” hay “Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa” là tên một bài hát của vua Trần hậu Chúa đặt cho các Cung nữ có văn học hát chơi ở gác Lâm Xuân làm bằng gỗ trầm hương.



Vườn Tây Uyển khúc trùng Thanh Dạ,

Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐÌNH HUẤN 

Lời dạy bảo của cha mẹ.

Do tích Khổng Tử thường ra trước sân nhà đứng một mình, mỗi khi con Ngài là Bá Ngư vừa đi qua, Ngài bèn kêu lại để dạy cho lễ nghĩa.

Vì thế, những lời cha mẹ dạy dỗ con cái được gọi là “Đình huấn”.



ĐÌNH LAN

Hay “Lan đình  ” là một ngôi đình ở bến Lan Chử, Triết Giang, nơi Vương Hy Chi đời Tấn hội họp bạn hữu vui chơi, sau đó có viết bài “Lan đình tập tự”.

Vương Hy Chi vốn là người viết chữ rất đẹp, nên những tờ thiếp ghi chép bài “Lan Đình Tập Tự” được người đời sau truyền tụng là “Thiếp Lan Đình”.

Xem: Lan đình.



Khe Đào, động Lý nhiều đoàn trốn,

Rừng Trúc, đình Lan lắm bạn say.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



ĐÌNH LIỆU 

Đình: Ngoài sân. Liệu: Cây đuốc.

Đình liệu là cây đuốc thắp sáng ngoài sân.

Đời nhà Châu, đầu canh năm vua ra thị triều, trước sân điện thắp hai dãy đèn “liệu” cho sáng để bá quan văn võ vào chầu vua.

Bên nước ta có tục thắp đèn liệu vào dịp lễ tế giao.



Rằng: Trâu nầy là cốt Phật xưa kia,

Phát đình liệu cho hồn thăng thiên giới.

(Lục Súc Tranh Công).



Ba bề chín cửa thênh thênh,

Cột huyền bảng thẳng, cây đình liệu cao.

(Nhị Độ Mai).



ĐÌNH TRẦM HƯƠNG

Hay “Trầm hương đình  ”, là một cái đình làm bằng gỗ trầm hương. Ngày xưa, vua Đường Minh Hoàng dựng lên cái đình này để Dương Quý Phi ở.

Vua và Dương Quý Phi thường ngồi ở đình Trầm Hương để thưởng thức hoa mẫu đơn.

Mây mưa mấy giọt chung tình,

Đình Trầm Hương khoá một cành mẫu đơn.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐÌNH TRƯỞNG 

Ngày xưa dưới đời nhà Hán, trên đường đi cứ mười dặm thì dựng lên một cái đình và đặt một ông đình trưởng để giữ trộm cướp.

Khi Sở Bá Vương Hạng Võ thua trận, muốn chạy sang phía đông, vượt sông Ô Giang, người đình trưởng sông Ô giang cắm thuyền đợi. Sau Hạng Võ quyết định không đi bèn tặng cho viên đình trưởng con ngựa chiến mà Sở Bá Vương đang cỡi, rồi tự đâm cổ mà chết.



Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,

Giúp người Hạng Võ qua miền Ô giang.

(Lục Vân Tiên).



Thuyền ai đỗ bên Ô Giang,

Hay thuyền Đình Trưởng đi rước Hạng Vương sang cùng.

(Thanh Hoá Quan Phong).



ĐÌNH VI 

Đình: Cái sân. Vi: Màn bên trong nhà.

Đình vi chỉ trong vòng sân nhà, nơi có treo bức màn, tức chỉ chỗ cha mẹ ở.

Đình vi cũng có thể chỉ cha mẹ.

Chốn đình vi gió thuỵ mưa xuân,

Trăm năm chúc số rùa thẻ hạc.

(Kính Thăm Cha Mẹ)



Lòng cầu khẩn thấu toà tinh tú,

Chữ bình an vui thú đình vi.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



ĐỈNH BỒNG

Hay “Đảnh Bồng”, tức đỉnh núi Bồng Lai , một nơi có tiên ở.

Núi Bồng Lai là một trong ba ngọn núi ở biển Bột Hải. Xem: Non Bồng, Bồng lai.

Đợi chờ hằng tưởng người cung lãng,

Thức nhắp nào khuây khách đỉnh Bồng.

(Hồng Đước Quốc Âm).



ĐỈNH CHUNG 

Đỉnh: Cái vạc. Chung: Cái chuông.

Ngày xưa, nhà quyền quý có nhiều thực khách, nên khi ăn thường nấu thức ăn bằng cái đỉnh, tức là vạc và đánh chuông để gọi khách.

Nghĩa bóng: Chỉ nhà sang trọng.

Khối tình mang nặng nghìn đời,

Đỉnh chung hầu dễ ăn ngồi được đâu.

(Hoa Tiên Truyện).



Sân đào lý mây lồng man mác,

Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Tham chi sự thế lắm đua tranh,

Cái miếng đỉnh chung xúm giựt giành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Trăm năm chưa hẳn ngoài căn số,

Ðịa vị đỉnh chung chớ giựt giành.

(Đạo Sử).



Coi lại thấy có chi gọi quý,

Ham đỉnh chung mà lụy tấm thân người.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐỈNH ĐANG 

Đỉnh: Vạc đồng, dùng để nấu thức ăn. Đang: Cái nồi có chân.

Đỉnh đang là vật dụng dành để nấu thức ăn của các nhà giàu sang quyền quý. Chỉ nhà phú quý.



Ta đây dẫu có hèn ngu,

Nhà ta cũng có cơ đồ đỉnh đang.

(Truyện Trê Cóc).



ĐỈNH GIÁP

Hay “Đảnh Giáp”, chỉ đỉnh núi Vu Sơn.

Do điển núi Vu Sơn, Vu Giáp, là hai hòn núi liên tiếp nhau. Dưới chân núi Vu Giáp có một miếu thờ Thần nữ.

Vua Sở Tương Vương nằm ngủ tại Cao Đường, mộng thấy mình chăn gối với Thần nữ núi Vu Sơn, Vu Giáp. Vị thần nữ có nhiệm vụ sáng làm mây, tối làm mưa (Triêu vân mộ võ). Do vậy, các chữ Đỉnh Giáp non Thần, mây mưa, Vu Sơn, Vu Giáp, Cao Đường đều chỉ trai gái chung chạ nhau.

Xem: Triêu vân mộ vũ.

Bâng khuâng đỉnh Giáp, non Thần,

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

(Truyện Kiều).



ĐỈNH HỒ 

Sử Ký chép: Vua Hoàng Đế truyền đúc một cái đỉnh ở dưới núi Kinh Sơn. Đỉnh đúc vừa xong, nhà vua cỡi rồng bay lên cõi Tiên. Về sau người ta đặt tên nơi đúc đỉnh là “Đỉnh hồ”.

Do chuyện vua cỡi rồng bay lên cõi Tiên nên người ta dùng chữ “Đỉnh hồ” để nói việc vua mất. Sau nầy, gọi chung cho tất cả mọi người chết.

Cổ thi có câu: Vân ám đỉnh hồ, long khứ viễn nguyệt minh hoa biểu hạc quy trì  , , nghĩa là mây phủ đỉnh hồ rồng bay khuất bóng, trăng soi trụ hoa, hạc trở lại muộn.



Ngùi trông mây tỏa Đỉnh hồ,

Chúa tôi đôi ngả bảo phò ấy ai.

(Hạnh Thục Ca).



Đỉnh hồ từ quạnh xe loan,

Điệu vong ngùi tả hai chương văn từ.

(Hoài Nam Khúc).



ĐỈNH SỞ

Tức đỉnh núi Vu Sơn mà vua Sở Tương Vương đến chơi, nằm mộng thấy cùng với một người đàn bà chăn gối. Hỏi thì nàng tự xưng là Thần nữ , có nhiệm vụ sáng làm mây, tối làm mưa ở chốn Dương Đài.

Xem: Đỉnh Giáp.

Vui vầy bể ái nguồn ân,

Mưa trên đỉnh Sở mây vần ngàn tương.

(Nư Tú Tài).



ĐỈNH TỘ 

Đỉnh: Cái đỉnh, cái vạc. Tộ: Vận mạng quốc gia.

Đỉnh tộ nghĩa thông thường là vận nước.



Dù khi đỉnh tộ suy mòn,

Cương trù chưa nát vẫn còn tôn Lê.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐỈNH VIỆT 

Hay “Đảnh Việt”.



Đỉnh: Cái vạc, tượng trưng cho quốc gia, dùng làm vật quan trọng để truyền quốc. Việt: Nước Việt.

Đảnh Việt chỉ đất nước Việt Nam.



Ðảnh Việt chờ qua cơn bão tố,

Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐỊNH BÁ 

Định Bá là sắp đặt, lo tính gây dựng nghiệp bá, tức là đánh dẹp và thần phục các nước chư hầu để làm bá chủ.

Nghiệp bá thì dùng bá đạo để trị nước. Bá đạo trọng hình pháp, binh quyền, tín thuật.

Trong thời Xuân Thu đã có năm vị vua dùng bá đạo mà hùng cường một thời, làm minh chủ các nước chư hầu khác, gọi là ngũ bá: Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Tống Tương Công,và Sở Trang Vương. Những vị vua này không phải là bậc tài đức cao, mà chỉ nhờ biết tin dùng người hiền, có chính sách khéo léo làm cho dân giàu, binh mạnh và làm chủ được những chư hầu khác.

Xem: Đồ vương.

Sống thì định bá đồ vương,

Qui Thiên dựng lại miếu đường thuở xưa.

(Kinh Thế Đạo)



ĐỊNH HỒN 

Định: Làm cho yên tĩnh. Hồn: Phần tâm linh của con người.

Định hồn có nghĩa làm cho tâm thần của con người được được yên tĩnh trở lại.



Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi,

Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao.

(Lục Vân Tiên).



ĐỊNH LOẠN 

Định: Yên ổn. Loạn: Lộn xộn, chỉ có biến.

Định loạn có nghĩa là dẹp yên loạn lạc, đem lại an bình cho đất nước.



Phạm Trương gắng sức trung cần,

Mãi bề định loạn chăm bề yên bang.

(Sơ Kính Tân Trang).



ĐỊNH PHẬN 

Định: Quyết chắc, không thay đổi. Phận: Số phần, chỉ số mạng phải nhận lấy.

Định phận tức là vận mệnh của con người đã được định sẵn từ trước.

Đỗ Phủ có câu: Phù thế hữu định phận, cơ ngạ khởi khả đào  , , nghĩa là cuộc đời đã định trước, đói lạnh há tránh được?

Nam giao là cõi ly minh,

Thiên thư định phận rành rành từ xưa.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐỊNH TÁNH 

Định: Yên ổn. Tánh 
: Theo Phật, tánh là một thực thể sẵn có nơi mọi chúng sanh, là tự thân của thực tại vạn hữu. Tánh là cái tướng thực của muôn pháp, mà cũng là cái tâm tánh thực của chúng sanh. Phật và chúng sanh không khác gì nhau, cùng một tánh, đó là Phật tánh. Nhưng Phật là bậc giác ngộ nên tánh sáng suốt trong lặng, còn chúng sanh vì bị vọng tưởng phiền não che lấp nên chưa thấy được tánh.

Theo Nho, điểm tánh là Trời phú cho con người, tánh là bản thể của tâm.Vậy tánh với tâm, tuy hai danh từ, song vốn một thể. Trong kinh sách có khi người ta gọi tánh, có lúc người ta gọi tâm. Như vậy chúng ta phải hiểu tâm với tánh chỉ là một thôi (theo Vương Dương Minh).

Định tánh, cũng như định tâm, tập trung tâm vào một nơi, không để cho tâm bị tán loạn. Định tánh hay định tâm là thu nhiếp tánh hay tâm vào một chỗ, chuyên chú vào một đối tượng, một cảnh, không để tâm tánh bị tán loạn. Tâm tánh có định thì mới giúp cho con người sáng suốt, sống tỉnh thức, không còn đeo đuổi vọng niệm.

Tiêu diêu định tánh nắm phan,

Do theo Cực Lạc đon đàng siêu thăng.

(Kinh Thế Đạo).



ĐỊNH TỈNH

A.- Định tỉnh , bởi câu “Hôn định thần tỉnh  ”, tức là nói về bổn phận làm con tối lo cho cha mẹ yên giấc ngủ, sáng chiều vào thăm hỏi cha mẹ.

Xem: Hôn định thần tỉnh.

Nệ gì định tỉnh lễ thường,

Làm cho thân hiển danh dương mới là.

(Hoa Tiên Truyện).

B.- Định tỉnh là tập trung tinh thần để nhận biết mọi sự việc.

Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh.

Phách anh linh ắt phải 
anh linh.

(Kinh Tận Độ).



ĐOÁ LÊ

Tức là đoá hoa lê, một loài hoa có sắc trắng buốt, trông đẹp như người con gái còn thơ, ví với mỹ nữ.

Bài Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị tả vẻ đẹp của Dương Quý Phi có câu: Lê hoa nhất chi xuân đới vũ  , nghĩa là một cành hoa lê đẩm ướt mưa xuân.

Đóa lê ngon mắt cửu trùng,

Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐOÁ NGỌC 

Đoá là chùm hoa, dùng để chỉ người đàn bà hay con gái. Ngọc là châu ngọc, chỉ sự quý phái.

Đoá ngọc chỉ người đàn bà đẹp và quý phái.

Hễ càng ngắm hao mòn đóa ngọc,

Càng riêng lo tơ tóc không bền.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐOẠ ĐÀY

Đoạ: Phạt xuống cõi thấp kém chịu hình phạt khổ sở. Đày: Làm cho khổ cực điêu đứng.

Đoạ đày như đày đoạ, là bắt phải chịu cảnh sống đau khổ, cực nhục.



Cái kiếp hồng nhan kiếp đọa đày,

Phải làm cho gái hóa ra trai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐOẠ LẠC 

Đoạ: Phạt xuống cõi thấp kém chịu hình phạt khổ sở. Lạc: Rơi xuống.

Đọa lạc là rơi xuống cõi thấp kém, ý nói phạt người có tội đày xuống cõi thấp kém khổ sở.



Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc,

(Kinh Tận Độ).



Ngày sau đọa lạc Âm ty,

Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.

(Kinh Sám Hối).



ĐOẠ LỆ BI 

Trông thấy tấm bia rơi nước mắt.

Do tích từ Tấn Thư, Dương Hồ là người hiền đức, sau khi ông mất, người dân trong làng dựng bia ở Nghiên Sơn, nơi ông thường đến đó du ngoạn để lập miếu thờ phụng cúng tế ông.

Khách qua đường mỗi khi trông thấy bia đều rơi lệ. nhân đó, Đỗ Dự mới đặt tên bia ấy là “Đoạ Lệ Bi” (Bia rơi nước mắt).



ĐOÀI PHƯƠNG 

Đoài: Một quẻ trong bát quái, thuộc về hướng Tây. Phương: Hướng, phía.

Đoài phương hay phương đoài tức thuộc về hướng Tây, chỉ phương tây.



Vậy có năm đất đoài phương,

cạnh trời nam quốc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



ĐOAN CHÁNH 

Đoan: Ngay ngắn. Chánh: Thẳng.

Đoan chánh là đứng đắn, tức là người có tánh thành thật, ngay thẳng, không gian ngoa.



Ðoan chánh khen ưa xử sự rành,

Nay ta cũng dụng cải khôn lanh.

(Đạo Sử).



Hạnh đoan chánh thì em kính phục,

Tập đàn em mỗi chút cậy nương mình.

(Phương Tu Đại Đạo).



Tánh đoan chánh dầu cho chẳng có,

Vợ nghi hoài cũng khó cho mình.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐOAN DƯƠNG 

Đoan dương là tên một cái tiết vào ngày mồng năm tháng năm.

Nguyên tiết này do tích Khuất Nguyên, một tôi trung của Sở Vương, nhảy xuống sông Mịch La mà chết vào ngày trùng ngũ (Tức mồng năm tháng năm). Để kỹ niệm một tôi trung thần trầm mình dưới sông chết, dân Trung Hoa tổ chức một lễ tiết, gọi là Đoan dương.

Xem: Khuất Nguyên.



Tam quang choi chói sắc chiêu minh,

Nay nảy đoan dương giữa tiết lành.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Tưởng buổi đoan dương quạt gió,

Lửa bầng bầng đun ấm rượu ngâm bồ.

(Phản Tây Hồ Tụng).



ĐOAN NGỌ 

Hay “Đoan ngũ  ”.

Ngọ, ngũ thuộc tháng năm. Đoan ngọ hay Đoan ngũ tức là ngày mồng năm tháng năm, còn gọi là Đoan dương. Ngày này do tích Khuất Nguyên nước Sở trầm mình xuống sông Mịch La chết. Người xưa lấy ngày này làm kỷ niệm gọi là tết Đoan ngọ hay Đoan ngũ.

Xem: Đoan dương.

1.- Đoan ngọ:

Đọt tre gạo lứt hốt liền,

Lá cây đoan ngọ ấy chuyên trị gì.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

2.- Đoan ngũ:

Tiết tới hạ thiên,

Tuần lâm đoan ngũ.

(Văn Tế Thuốc Phiện).



ĐOAN TRANG 

Đoan: Ngay ngắn. Trang: Dáng mạo nghiêm.

Đoan trang là người có tính tình, nét mặt hoặc cử chỉ ngay thẳng nghiêm trang, không lả lơi, sỗ sàng.



Xét nàng nết đủ mọi điều,

Đã niềm hiếu thảo, lại chiều đoan trang.

(Quan Âm Thị Kính).



Dầu là quần bố, trâm kinh,

Cũng cho tề chỉnh, giữ mình đoan trang.

(Huấn Nữ Ca).



Chín tầng cửa đóng then cài,

Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐOÀN LOAN 

Đoàn: Hình tròn, vây thành vòng tròn. Loan: Vầy.

Đoàn loan là sum vầy đông đủ, hay tụ họp không thiếu một ai.



Hoa đường tiệc mở đoàn loan,

Đuốc ngân thửa chói đèn lan bóng người.

(Song Tinh Bất Dạ).



ĐOÀN VIÊN 

Đoàn: Vây thành vòng tròn. Viên: Tròn.

Dùng theo nghĩa bóng là những người trong gia đình như vợ chồng con cái, bà con anh em cùng gặp gỡ, sum họp lại với nhau.



Một đoàn về đến 
quan nha,

Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.

(Truyện Kiều).



Ngày sau phu phụ đoàn viên,

Nay ta hãy cứu một phen mới là.

(Nhị Độ Mai).



Nguyệt Nga rày ở Tây phiên,

Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng.

(Lục Vân Tiên).



ĐOẢN ĐÌNH 

Trái với trường đình.

Ngày xưa cứ một đoạn đường ngắn cất một cái đình, gọi là đoản đình. Cách một đoạn đường dài thì dựng trường đình.Đoản đình và trường đình dùng làm nơi nghỉ chân cho khách bộ hành. Khi tiễn biệt, người ta thường làm tiệc tại nơi này.

Đoản đình thôi lại trường đình.

Bến xe Mai Bích Xuân Sinh hai chàng.

(Nhị Độ Mai).



ĐOẠN CƠ 

Hay Đoạn chức .

Do hai điển tích sau:

1.- Lúc Mạnh Tử còn nhỏ, đang học ở trường lại bỏ về nhà. Bà mẹ đang ngồi dệt, thấy con về tức giận lấy dao chặt khung cửi và nói: Con bỏ học giữa chừng chẳng khác mẹ chặt khung cửi chưa dệt xong. Mạnh Tử hối hận, từ đó không dám bỏ học nữa, chăm chỉ dồi mài, sau trở nên một bậc Á Thánh.

2.- Cắt đứt vải dệt trong khung cửi để nung việc học.

Bộ Kê Chích Tập ghi: Vợ của Lạc Dương Tử đời Chiến Quốc là người đàn bà siêng năng, lo cặm cụi dệt lụa để chồng đi học phương xa. Được một năm, người chồng bỏ học về nhà thăm vợ. Bà đang ngồi dệt lụa, bèn lấy dao cắt đứt tấm lụa đang dệt và nói: Tấm lụa nầy do thiếp dệt bấy lâu, nay cắt đứt đi thì bao nhiêu công phu của thiếp đều bỏ cả. Việc học của chàng cũng vậy, nếu giữa chừng bỏ dở thì chẳng khác gì tấm lụa bị cắt đứt.

Từ đó, Dương Tử bèn nỗ lực, để hết tinh thần vào việc học tập. Sau được thành danh.

ĐOẠN KIM 

Đoạn: Chặt đứt. Kim: Vàng bạc.

Đoạn kim là chặt vàng, chỉ tình bạn bè bền chặt.

Kinh Dịch có câu: Nhị nhân đồng tâm kỳ lợi đoạn kim  , nghĩa là hai người đồng lòng có thể bẻ gãy được vàng.

Nay dù quý tiện chẳng nề,

Gươm thiêng ta đã quyết bề đoạn kim.

(Lưu Nữ Tướng).



ĐOẠN KÌNH 

Đoạn: Chém đứt làm hai. Kình: Cá kình.

Kình ngạc thường được ví với bọn giặc cướp. Đoạn kình tức là chém cá kình, chỉ việc ra sức tiêu diệt bọn giặc cướp.



Nào đợi ai đòi ai hỏi,

phen này ra sức đoạn kình.

Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi,

Chuyến này quyết ra tay bộ hổ.

(Văn Tế Nghĩa Sĩ).



ĐOẠN TÝ ĐẦU ĐỊA 

Chặt cánh tay ném xuống đất.

Sách Ngũ Đại chép: Vương Ngưng làm quan Tư hộ đất Quát Châu, bị bịnh chết, vợ ông là bà Lý Thị dắt con, mang thi hài chồng về quê. Giữa đường vào xin nghỉ đêm, người chủ nhà không cho, kéo tay bà đuổi ra. Bà Lý Thị khóc rống, liền lấy búa chặt cánh tay đó. Quan Phủ doãn phủ Khai Phong nghe được, hậu đãi bà Lý Thị, và ra lịnh đánh đòn người chủ nhà đó.

ĐOẠN TRƯỜNG 

Đứt ruột.

Sách Sưu Thần Hậu Ký có viết: Có người bắt một con khỉ con làm thịt. Khỉ mẹ thấy đau lòng, kêu mãi cho tới chết. Mổ bụng ra thì thấy ruột khỉ mẹ đứt thành từng đoạn. Nghĩa bóng: Chỉ những việc đau đớn, thảm thiết.

1.- Đoạn trường dùng để chỉ việc hết sức bi thảm hay khổ cực khiến người ta đến nỗi tan lòng nát ruột.



Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh ấy người đây luống đoạn trường.

(Thơ Huyện Thanh Quan).



Lắng tai những tiếng đoạn trường,

Lửa tình dễ nguội, sông Tương khôn hàn.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).

2.- Ngoài ra, đoạn trường còn có nghĩa oan nghiệp của kẻ đa tình, tức là éo le oan trái trong tình trường, khiến phải chịu nhiều nỗi gian truân, bạc mệnh.

Ví đem vào tập đoạn trường,

Thì trao giải nhứt chi nhường cho ai.

(Truyện Kiều).



Nào những khách đoạn trường kim cổ,

Bởi trái duyên nên lỡ gót trần.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐOẠT CƠ THOÁT TỤC 

Đoạt cơ: Đoạt được máy mầu nhiệm. Thoát tục: Thoát khỏi cảnh phàm tục.

Đoạt cơ thoát tục là đoạt được cơ mầu nhiệm của bí pháp thì đắc Đạo. Mà đắc Đạo tức là thoát khỏi cảnh trần tục để được về cõi Thiêng Liêng.



Càn khôn để bước ta bà,

Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.

(Kinh Thế Đạo).



ĐOẠT QUYỀN VĨNH SANH 

Đoạt quyền: Đoạt được cái quyền. Vĩnh sanh: Sống mãi mãi, sống vĩnh viễn.

Đoạt quyền vĩnh sanh là đoạt được quyền hằng sống, tức đạt Đạo để về sống cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.



Nhớ ơn bảo mạng Huyền Thiên,

Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh.

(Kinh Thế Đạo).

 

ĐÓI ĐÀI THÀNH

Nói Lương Võ Đế, Thái Tổ nhà Lương hết sức sùng bái đạo Phật. Ông cho vời các bậc cao tăng ở Ấn Độ sang truyền bá đạo Phật ở Trung Hoa. Nhiều lần ông vào ở chùa, mặc nâu sòng, giữ trai giới.

Sau bị Hầu Cảnh nổi loạn vây ông ở Đài Thành, đến đỗi chết đói.

Nhục Mạc Bắc,

sao Tiên chẳng đến cứu về?

Đói Đài thành,

sao Phật không ra trợ nạn?

(Sãi Vãi).



ĐÒNG MÁC

Đòng, mác là hai thứ binh khí ngày xưa. Đòng giống như cái giáo, có cán dài, mũi nhọn; mác là dao có mũi nhọn. Chỉ chung các loại vũ khí.



Chễm chện áo dài, đai rộng,

Nghênh ngàng đòng cả, mác dài.

(Thập Giới Cô Hồn).



ĐÔ ĐỐC 

Đô đốc là tên một chức quan võ thời xưa.

Đời vua Nguỵ Văn Đế ở Trung Quốc đặt ra chức Đô Đốc coi việc quân ở các châu, có quyền hành rất lớn. Sau đó các triều đại cũng noi theo thể chế đó.

Con quan đô đốc quận công,

Lấy chồng cũng phải kêu chồng bằng anh.

(Ca Dao)


ĐÔ SÁT 

Tức Đô sát viện, hay toà Đô sát là một cơ quan coi về việc đàn hặc các quan, nghĩa là vạch tội, chỉ trích những tội lỗi của quan để trừng phạt. Người làm tại Đô sát viện được gọi là quan Đô sát.



Kìa Đảng Tiến, nọ Đông Sơ,

Kẻ toà Đô sát, người toà Hàn lâm.

(Nhị Độ Mai).



ĐỐ KỴ 

Đố: Ghen. Kỵ: Ghét.

Đố kỵ là có lòng ghen ghét, tức thấy người hơn thì ganh ghét.



Nàng rằng:Chàng dạy thế thì,

Phụ nhân đố kỵ xưa kia còn lời.

(Truyện Trinh Thử).



ĐỐ QUỐC 

Đố: Con mọt. Quốc: Nước.

Đố quốc là sâu mọt của đất nước. Sâu mọt là loài phá hại, không ích lợi gì cho con người, nên thường được ví với kẻ làm hại quốc gia, dân tộc.

Xem: Mọt nước hại dân.

Nỡ làm đố quốc hại dân,

Những phần ích kỷ nào phần ích ai?

(Truyện Trinh Thử).



Thiên uy nổi trận lôi đình,

Phán rằng: Đố quốc quyết tình chẳng tha.

(Lưu Nữ Tướng).



ĐỐ QUỐC HẠI DÂN 

Đố quốc: Mọt nước. Hại dân: Làm hại dân

Có hạng người sống không ích lợi cho xã hội, trái lại còn là giống sâu mọt cửa nước nhà, tên giặc cướp hại nhân dân, đó là những kẻ tham quan ô lại. Họ chỉ là phường sâu dân mọt nước mà thôi.



Nỡ làm đố quốc hại dân,

Những phần ích kỷ, nào phần ích ai?

(Truyện Trinh Thử).



ĐỒ ĐIẾU 

Đồ: Giết súc vật. Điếu: Câu cá.

Đồ điếu dùng để chỉ những hạng người hèn hạ trong xã hội.



Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

(Thơ Đặng Dung).



ĐỒ LƯU 

Đồ là bị đưa đi đày làm việc khổ sai, hoặc đày đi biệt xứ; lưu là phạt giam, sung làm tôi tớ.

Đồ lưu là một hình phạt đày tội phạm đi nơi xa, giam lại hoặc bắt hành dịch nặng nề.



Hễ bỏ qua bên đám nữ lưu,

Giống như hạng đồ lưu ra ngoại bộ.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐỒ LƯU TRẢM GIẢO 

Bốn loại hình phạt trong luật pháp ngày xưa: Đồ là bị đưa đi đày làm việc khổ sai, hoặc đày đi biệt xứ; lưu là phạt giam, sung làm tôi tớ; trảm là đem chém; giảo xử thắt cổ, treo cổ.



E mai tội lệ tới nơi,

Đồ, lưu, trảm, giảo muôn đời đục nhơ.

(Huấn Nữ Ca).



ĐỒ MI 

Tên một loại hoa leo giàn, cành lá có gai, đầu mùa hè nở hoa, sắc trắng pha vàng nhạt, hoa nở chậm sau các thứ hoa khác.

Nên Đường thi có câu: Khai đáo Đồ mi hoa sự liễu  , nghĩa là khi hoa Đồ mi nở , công việc hoa đã xong xuôi.

Ta thường đọc “Trà mi”, thường dùng để chỉ người con gái đẹp.

Xem: Trà mi.

Cái đêm hôm ấy hôm gì,

Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐỒ TỊCH 

Đồ: Bản đồ, chỉ bức vẻ về đất đai, sông ngòi của một địa phương hay một nước. Tịch: Sổ sách, chép dân đinh và ruộng đất.

Đồ tịch tức bản đồ và thư tịch là hai thứ quan trọng trong hành chánh của một nước.



Quan Tùy lại có Khâu Hòa,

Đem dâng đồ tịch nước ta về Đường.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐỒ TÔ 

Đồ tô là một thứ rượu tương truyền do Hoa Đà người đời Hán chế ra, người đời sau mới bắt chước theo. Rượu đồ tô dùng trong ngày tết để trừ độc và tránh được tà khí.

Vương An Thạch có câu: Xuân phong tống noãn nhập đồ tô  , nghĩa là gió xuân đưa hơi ấm vào chén rượu đồ tô.

Nước chảy xuống hàm rồng róc rách,

dáng xuân lang rót lại chén đồ tô.

(Phản Tây Hồ Tụng).



Bước qua năm cũ sang năm mới,

Chén rượu đồ tô hẳn ngọt ngào.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



ĐỒ THƯ HÀ LẠC

Đồ thư hà lạc  ”, tức là “Hà đồ” và “Lạc thư”.

Theo truyền thuyết, vào đời vua Phục Hy trên sông Hoàng Hà có xuất hiện con long mã, trên lưng mang bức hà đồ trong có chấm từ 1 đến 10, vua Phục Hy theo đó mà vạch ra bát quái.

Khi vua Võ trị thuỷ, nước lụt có con rùa nổi lên, trên lưng mai rùa có vằn số từ 1 đến 9, do đó mới vạch ra cửu trù hồng phạm.

Hệ Từ Thượng Truyện viết: Đồ xuất hiện ở sông Hà, Thư xuất hiện ở sông Lạc, Thánh nhân noi theo đó. Đến đời Tống, người ta mới vẽ ra hai bản hà đồ và lạc thư để hợp với thuyết ấy.

Muốn coi phép ấy 
cho tinh,

Đồ thư Hà Lạc, Dịch kinh rõ bàn.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



ĐỒ THƯ 

Hay “Đồ Thơ”. Đồ: Bản đồ. Thư: Sách.

Đồ thư chỉ các thứ đồ dùng của học trò hay của nhà văn. Đồ thư có nghĩa như thư viện.

Ngoài ra, đồ thư còn là sách dạy về bày binh bố trận, tức chỉ những cuốn binh thư.

1.- Chỉ về sách vở:

Túi "ôn", tráp "lý" nhẹ nhàng,

Đồ thư nửa mạn, phong quang một chèo.

(Hoa Tiên Truyện).



Ba quyển đồ thư thu nặng túi,

Một thuyền phong nguyệt chở đầy then.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



Trong vũ trụ hiệp hoà là mạnh,

Phận đồ thơ phải gánh non sông.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Trong võ trụ mình người sanh đứng đợt,

Ai hiểu mình phòng sang bớt gánh đồ thơ.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Chỉ về binh thư:

Việc binh đã tạ tạm nhàn,

Ngày truyền trận pháp tối bàn đồ thư.

(Lưu Nữ Tướng).



ĐỒ THƯ 

Đồ: Làm dơ bẩn. Thư (Thơ): Sách.

Đồ thư hay đồ thơ là làm lem luốc sách vở, tức bôi lọ sách vở, hay làm hoen ố lời Thánh hiền.



Tiên rằng: Ông quán cười ai?

Quán rằng: Cười kẻ bất tài đồ thơ.

(Lục Vân Tiên).



ĐỒ VƯƠNG 

Đồ vương là mưu tính tạo dựng nghiệp vương, tức dùng vương đạo để trị nước. Vương đạo áp dụng chính sách nhân trị, nghĩa là dùng đức nhân mà trị dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, đó là sự nghiệp của bậc vương giả. Bậc vương giả là người có đạo đức hoàn toàn, lấy điều công chính nhân nghĩa mà trị thiên hạ.

Mạnh Tử đã định nghĩa nghiệp vương bá như sau: Dĩ lực giả nhân giả bá; bá tất hữu đại quốc. Dĩ đức hành nhân giả vương; vương bất đãi đại  , . , nghĩa là người dùng sức mạnh mà mượn tiếng làm điều nhân, là bá; người làm bá tất phải có nước lớn. Người lấy đức làm điều nhân là vương; người làm vương không đợi có nước lớn.

Sống thì định bá đồ vương,

Qui Thiên dựng lại miếu đường thuở xưa.

(Kinh Thế Đạo)



Sài, Triệu, Trịnh cũng nguyền như thế,

Mà nên mưu đủ kế đồ vương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐỔ BÁC 

Đổ bác là cờ bạc.

Bàng Đức Công có câu: Phàm nhân bá nghệ hảo tuỳ thân, Đổ bác môn trung mạc khứ thân  , , nghĩa là phàm làm người trăm nghề đều mang theo mình được, chỉ riêng cửa cờ bạc thì không nên lại gần.

Trường đổ bác cũng đừng léo tới,

Phường trăng hoa hát bội khá từ.

(Giới Tâm Kinh).



Vui nơi đổ bác là vui khổ,

Vui thói tà gian luỵ trọn đời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐỖ LĂNG 

Đất Đỗ Lăng là nơi ở của Đỗ Phủ, một nhà thơ lớn, danh tiếng lừng lẫy đời nhà Đường. Ông xưng là “Đỗ Lăng bố y  ”, tức người áo vải đất Đỗ Lăng, hay “Thiếu Lăng dã lão  ”, tức ông già nhà quê đất Thiếu Lăng.

Do vậy, Đỗ Lăng hay Thiếu Lăng là chỉ Đỗ Phủ.

Xem: Đỗ Phủ.



Vui nhân quá chén Đỗ Lăng,

Vua cùng Thái tử nghỉ cong ngoài thềm.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



ĐỖ LÝ 

Tức Đỗ Phủ và Lý Thái Bạch, là hai nhà thơ lớn của đời nhà Đường.

Xem: Đỗ Phủ và Lý Bạch.

Thơ một túi gieo vần Đỗ Lý,

Rượu lưng bầu rót chén Lưu Linh.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



ĐỖ MỤC 

Đỗ Mục là một thi nhân đời nhà Đường, tự là Mục Chi, người ta thường quen gọi là Tiểu Đỗ để phân biệt với Lão Đỗ là Đỗ Phủ, cũng nhà thơ đời Đường.

Ông là người tài hoa và lãng mạn. Hồi còn là hàn sĩ, ông phải lòng với một người con gái đẹp khoảng 13 tuổi, và hứa với bà mẹ cô bé mười năm sau sẽ trở lại cưới. Bà mẹ cô bé bằng lòng và buộc trong vòng mười năm, nếu quá thì con bà có quyền lấy chồng. Mười lăm năm sau, Đỗ Mục mới được đổi lại nơi ấy thì cô bé kia, thấy quá hẹn đã đi lấy chồng rồi. Ông đành than thở: Tự thị tầm xuân khứ giảo trì, Bất tu trù trướng oán lao thì.  , , nghĩa là từ đó đi tìm cỏ thơm tương đối chậm trễ, vậy không nên buồn rầu oán trách mùa xuân.

ĐỖ PHỦ 

Đỗ Phủ là một nhà thơ đời Đường, một thời với Lý Bạch, Đỗ Mục, nhỏ hơn Lý Bạch 11 tuổi và lớn hơn Đỗ Mục, nên người đương thời gọi ông là Lão Đỗ.

Ông tự là Tử Mỹ, hiệu là Thiếu Lăng, gốc ở Tương Dương, sinh trong một gia đình nghèo khó, hồi tuổi trẻ lang thang ở Ngô, Việt, Tề, Lỗ, ba mươi năm không rời lưng lừa, mãi đến 39 tuổi mới lãnh một chức quan nhỏ.

Thời An Lộc Sơn làm loạn, Đỗ Phủ bị loạn quân bắt giam, rồi vài năm sau trốn ra được, lại lang thang trong cảnh cơ hàn, hoà mình vào nổi thống khổ dân Trung Hoa của một thời ly loạn triền miên. Đỗ Phủ chết 59 tuổi, cái chết của ông thật là chua sót, khi chạy giặc đến Lôi Dương gặp lụt lội nhịn đói hơn mười ngày. Sau có một huyện lệnh đem thuyền đón về vì ăn thịt uống rượu nhiều quá nên bị bội thực mà chết.



Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt,

Đỗ Phủ thơ nên bút có thần.

(Thơ Nguyễn Trãi).



Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ,

Tay còn lọ hái cúc Uyên Minh.

(Quốc Âm Thi Tập).



ĐỖ QUYÊN 

Tên một giống chim, còn gọi là “Tử qui” hay “Đỗ vũ”. Chim Đỗ quyên có miệng lớn đuôi dài, lông màu xám tro, bụng sắc trắng. Chim không tự làm tổ, đẻ trứng vào tổ chim oanh để chim oanh nuôi cho khôn lớn. Tiếng chim Đỗ quyên kêu réo rắt suốt đêm ngày, khiến khách lữ hành động lòng nhớ nhà. Chim Đỗ quyên còn gọi là chim Quốc.

Hoa Dương Quốc Chí chép: Vua nước Thục là Đỗ Vũ thấy vợ của người bề tôi là Biết Linh rất đẹp, nên thông dâm. Biết Linh bắt được, buộc Thục Đế nhường ngôi cho mình và cho phép vợ theo vua Thục. Nhưng vợ Biết Linh không theo Thục Đế, mà trở về với người xưa. Thục Đế buồn tủi, nhớ ngai vàng, nhớ người đẹp đành chịu chết trong rừng hoá thành chim Đỗ Quyên ngày đêm kêu quốc quốc rất não nuột, như hồn Thục Đế nhớ nước và oán hận người yêu.

Xem: Thục đế.



Khúc đâu êm ái xuân tình,

Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?

(Truyện Kiều).



Kẻo lòng tơ tưởng mơ mòng,

Khỏi hồn Thục Đế, khỏi lòng đỗ quyên.

(Truyện Trinh Thử).



Con quốc quốc chưa âu đổi bạn,

Máu đỗ quyên đợi mãn kiếp sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐỖ VŨ 

Tên một ông vua nước Thục, gọi là Thục Đế bị một vị bề tôi ép phải nhường ngôi, buồn rầu đến chết. Hồn Thục đế bèn hoá ra chim Đỗ quyên, hay chim Tử qui, ngày đêm kêu rất thảm não. Do vậy, người ta mới gọi chim Tử qui là Đỗ vũ. Tục nghe tiếng chim Đỗ vũ kêu quốc quốc, nên còn gọi chim quốc.

Xem: Con quốc quốc.

Kêu trị loạn đau lòng con đỗ vũ,

Gọi công tư mỏi niệng cái hà mô.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



ĐỘ LƯỢNG 

Độ: Đo. Lượng: Lường.

Độ lượng là đo lường, hoặc chỉ dụng cụ để đo lường. Nếu đo chiều dài bằng thước, trượng thì gọi là “Độ”, nếu đo khối lượng bằng đấu, hộc thì gọi là “Lượng”.

Ngoài ra, độ lượng còn có nghĩa rộng là bụng dạ con người.

Đạo cha mẹ phải cho độ lượng,

Hễ làm cha đừng tưởng độc quyền.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐỘ SINH 

Hay “Độ sanh”.



Độ: Vượt qua. Sinh: Sống.

Độ sinh là cứu giúp để vượt qua cuộc đời khổ sở, tức giúp đỡ để được sống ở đời.

Theo Phật, độ sinh là tế độ chúng sinh, tức là cứu giúp cho chúng sinh thoát khỏi vô minh, phiền não đến chỗ giác ngộ giải thoát bằng những phương tiện thiện xảo. Ví dụ như lấy giáo pháp để độ thì gọi là “Thuyết pháp độ sinh”.

Độ sinh nhờ đức cao dày,

Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.

(Truyện Kiều).



Huệ quang chiếu thấu chánh tà,

Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh.

(Kinh Tận Độ).



Nghiệp thành trước đã có Ơn Trên,

Công quả độ sanh khá vẹn đền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Rỡ ràng đặng thấy Ðạo khai thành,

Ðộ tử cũng còn tính độ sanh.

(Đạo Sử).



ĐỘ TRÌ 

Độ: Giúp đỡ để vượt qua. Trì: Giữ gìn.

Độ trì là chữ nhà Phật, có nghĩa tế độ và phù trì, tức giúp đỡ và giữ gìn cho.



Độ trì nhờ đức Thế Tôn.

Dở dang thủa trước, vuông tròn mai sau.

(Quan Âm Thị Kính)



ĐỘC DƯỢC 

Độc: Những gì có hại cơ thể. Dược: Thuốc.

Độc dược là thứ thuốc có chất độc làm hại cơ thể.



Bao giờ Độc dược có lành;

Mào gà, Phượng vĩ mượn danh dối người.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



ĐỘC LẬP 

Độc: Một mình. Lập: Đứng.

Độc lập là đứng một một mình, không phụ thuộc vào một ai. Nghĩa rộng độc lập là một quốc gia nắm trọn chủ quyền, không bị lệ thuộc vào một nước nào.



Ðộc lập gần ngày vui sắp đến,

Bỏ cơn đất Việt chịu tam phân.

(Đạo Sử).



ĐỘC LẬP SỨ QUÂN  使

Sách Chu Thư chép: Ông Bùi Hiệp làm quan Thái Thú tỉnh hà Bắc. Khi ông vào triều chầu vua, Chu Thái Tổ dạy ông Bùi Hiệp ra sân chầu đứng một mình. Vua phán: Ông Bùi Hiệp thanh liêm, cẩn thận, phụng sự phép công, là người rất cao trọng trong thiên hạ! Có ai bằng ông Hiệp, ra đứng cùng ông. Hết thảy đều làm thinh. Đương thời gọi ông Bùi Hiệp là “Độc lập Sứ Quân 使 ”.



ĐỘC MÃ ĐƠN ĐAO 

Tức là một ngựa và một đao.

Nói tích Quan Võ một mình cỡi con Xích thố, cầm Thanh long đao, phò nhị tẩu (Hai người chị dâu, vợ Lưu Bị) vượt qua năm ải, chém đầu sáu tướng, qua sông Hoàng Hà để đến Cổ Thành tìm Lưu Bị.

Xem: Bóng đuốc Vân Trường.



Dầu cơn độc mã đơn đao,

Tâm trung nghĩa khí, Ngô Tào cũng kiêng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐỘC NHẬT TRÙNG LUÂN 

Mặt trời có hai quầng.

Do câu: Trần Kiều dịch quân binh dục biến, độc nhật trùng luân, , , nghĩa là thành trạm Trần Kiều quân binh muốn biến, một mặt nhựt có hai quầng.

Theo Tống Thư: Nhà Hậu Châu sai Triệu Khuông Dẫn đem binh đi đánh nhà Hậu Hán, đêm nghỉ ở trạm Trần Kiều, bọn Thạch Thủ Tín cùng lập mưu tôn Triệu Khuông Dẫn lên làm vua. Quân sĩ bèn đem áo Huỳnh bào choàng vào Triệu Thái Tổ nhà Tống. Ngày ấy theo sách mặt trời có hai quầng.



ĐÔI NGỌC TRẮNG

Phạm Tăng vì muốn giúp Sở Bá Vương Hạng Võ lấy được thiên hạ, nên xúi giết Hán Bái Công. Nhưng Hạng Võ không nghe, tha chết cho Bái Công.

Mưu thần của Hán Bái Công là Trương Lương tới tạ Hạng Võ một đôi ngọc trắng, và dâng cho Phạm Tăng đôi chén ngọc. Phạm Tăng nổi giận nói: Tranh thiên hạ của Bá Vương chắc chắn là Bái Công, bèn cầm gượm chặt bể chén ngọc.

Chị dâu sợ em vì sáu cái ấn vàng;

Tôi hiền sợ giặc vì một đôi ngọc trắng.

(Sãi Vãi).



ĐỐI ẨM 

Đối: Hướng vào nhau. Ẩm: Uống.

Đối ẩm là cùng ngồi đối diện nhau mà uống trà hay uống rượu.



Liên ngâm đối ẩm đòi phen,

Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



ĐỔI PHƯỢNG THAY RỒNG

Phượng rồng ở đây dùng để chỉ con gái con trai.

Đổi phượng thay rồng ý muốn nói tráo nữ thay nam. Do ngày xưa, có tục trọng nam khinh nữ, nên lỡ sanh con gái mà muốn mình có địa vị trong gia đình thì tìm cách tráo đứa con trai.

Này là vắng mặt đàn ông,

Đẻ ra đổi phượng thay rồng biết đâu.

(Huấn Nữ Ca).



ĐỘI ÁO QUA CẦU

Đội áo qua cầu chỉ người làm ngược đời, không sợ nguy hiểm. Bởi lẽ qua cầu là khó khăn nguy hiểm, vì cầu ở quê ngày xưa gập ghềnh, được bắc bằng tre hoặc dừa, qua lại rất khó khăn. Thế mà đội áo, tức là bị che tầm nhìn để qua cầu thì thật là ngược đời.



Dễ ai đội áo qua cầu,

Sao không nghĩ trước nghĩ sau cho tày.

(Truyện Trinh Thử).



ĐỘI GẠO

Bởi chữ “Phụ mễ  ” là đội gạo.

Thầy Tử Lộ trước kia thờ hai thân (Cha mẹ) thường ăn rau lê hoắc và phụ mễ (Đội gạo) ngoài cả trăm dặm, nên Nhị Thập Tứ Hiếu có câu: Phụ mễ cung cam chỉ, Ninh từ bách lý lao. Thân hoàn thân dĩ một, Do niệm cựu cù lao  , . , , nghĩa là: Dốc lòng phụng dưỡng mẹ cha, Đường đi đội gạo dù xa cũng gần. Đến khi nhẹ bước thanh vân, Muốn mong báo đáp, hai thân đâu còn.

Thường khi đội gạo đi về.

Xa xôi trăm dặm nặng nề hai vai.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



ĐỘI MANG LÔNG SỪNG

Đội mang lông sừng có nghĩa là đội sừng mang lông, tức xác thân loài súc vật, ý muốn nói có tội lỗi phải bị đầu thai làm loài vật.



Chuyển thân trở lại trần gian,

Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.

(Kinh Sám Hối).



ĐỘI SAO

Bởi chữ “Đái tinh  ” là mang sao hay đội sao.

Đội sao dùng để chỉ người dung ruỗi dưới trời đêm, phải mang sao đội nguyệt.

Tốc về lấy bạc liền trao,

Vương Khanh bỏ túi đội sao đi liền.

(Ngọc Kiều Lê).



ĐỘI TRỜI ĐẠP ĐẤT

Bởi câu “Đái thiên lý địa  ”.

Đội trời đạp đất nói địa vị của một con người trong khoảng nhân gian đầu đội trời, chân đạp đất.

Ngoài ra, còn chỉ người có tính ngang tàng, không luồn cúi, đầu phục ai.



Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông.

(Truyện Kiều).



ĐÔNG BÍCH 

Đông: Hướng đông. Bích: Sao Bích, một ngôi sao trong nhị thập bát tú, chủ về văn chương, thi cử.

Nghĩa bóng: Chỉ thư tịch.



Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



ĐÔNG BÍCH LÂN GIA 

Đông bích: Tường bên phía đông. Lân gia: Láng giềng, làng xóm.

Đông bích lân gia tức là nhà láng giềng ở tường phía đông, dùng để chỉ vào nhà hàng xóm.



Kìa như đông bích lân gia,

Kẻ đã bốc phượng người đà mộng lan.

(Bần Nữ Thán).



ĐÔNG CUNG 

Sách Thần Dị Kinh chép: Ở ngoài biển Đông Hải, núi Đông Minh có một cung điện vách tường bằng đá xanh, ngoài cửa có tấm bảng bằng bạc đề: Thiên địa trưởng nam chi cung  , tức là cung con trai trưởng của trời đất.

Nhân đó người ta gọi Thái tử là Đông cung, tức cung ở Đông Hải.

Đông cung đã lập Duy Tường,

Bỗng không lại đổi Duy Phường cớ sao?

(Quốc Sử Diễn Ca).



Có châm để dạy Đông cung.

Thủy vân có tập vui cùng bút nghiên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐÔNG CHINH PHÁ PHỦ 

Kinh Thi viết: Ký phá ngã phủ, hựu khuyết ngã thương  , , tức là đã mẻ búa ta, lại khuyết rìu ta, Châu công đông chinh, tứ quốc thị hoàng  , , nghĩa là ông châu công đánh dẹp phía đông, bốn nước đều dòng họ vua.

Do tích Võ Vương khi đánh thắng nhà Thương cho em là Quản Thúc Tiên, Thái Thúc Độ giám sát quốc gia, được phong vua Vũ Canh là con vua Trụ. Sau Thúc Tiên và Thúc Độ mượn tay Vũ Canh làm phản, cho nên Châu Công phải đông chinh, ba năm mới bắt được Thúc Tiên, Thúc Độ mà giết chết.

Người sau khen ông: Đông chinh phá phủ, Châu công đại nghĩa diệt thân  , nghĩa là đông chinh giết kẻ tội, ông Châu công vì đại nghĩa dứt tình thân.



ĐÔNG HÀN 

Đông: Mùa đông. Hàn: Lạnh lẽo.

Đông hàn tức là mùa đông lạnh lẽo.



Trời đương tiết đông hàn lạnh lẻo.

Hai em thời kép áo dày bông.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



ĐÔNG HOÀNG 

Đông: Hướng đông, mùa xuân. Hoàng: Vua, ở đây ý chỉ vị Thần.

Đông hoàng tức là thần mùa xuân.

Thượng Thư Vĩ có câu: Xuân vi Đông hoàng hựu vi Thanh đế  , nghĩa là mùa xuân là thần đông phương lại là thần Thanh đế.

Già xin về trước gia hương,

Khoá vườn hoa đợi Đông hoàng rước xuân.

(Ngọc Kiều Lê).



Từ thuở Đông hoàng chịu lấy quyền,

Thiều quang lắm cảnh rạng xuân thiên.

(Hồng Đức Quốc Âm).



ĐÔNG LÂN 

Đông: Hướng đông. lân: Hàng xóm.

Đông lân là nhà láng giềng ở tường phía đông, ý muốn nói nhà láng giềng, hàng xóm.



Hải đường lả ngọn đông lân,

Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.

(Truyện Kiều).



ĐÔNG LY 

Đông: Phía đông. Ly: Hàng rào, hàng dậu.

Đông ly là hàng rào bên đông, nơi có trồng cúc và các thứ hoa.

Đời Tấn, ông Đào Uyên Minh, tức Đào Tiềm rất thích hoa cúc. Trong vườn cận rào phía đông ông đều trồng toàn hoa cúc, có câu thơ nói về sự việc này như sau: Thái cúc đông ly hạ  , là hái cúc nơi hàng rào phía đông. Người ta do đó thường gọi hoa cúc là “Đông ly quân tử  ”.

Mười năm theo việc vương kỳ,

Sân Đào mấy lớp, Đông ly bỏ rèm.

(Nhị Độ Mai).

 

ĐÔNG NHẠC ĐẾ QUÂN 

Đông Nhạc Đế Quân là một vị Thiên Thần, trấn ở Đông Nhạc thuộc núi Thái Sơn.

Đông Nhạc, một ngọn núi trong Ngũ nhạc . Ngũ Nhạc là năm ngọn núi cao làm tiêu biểu cho 5 hướng bên nước Trung Hoa. Đó là: Đông nhạc Thái sơn , Tây nhạc Hoa sơn 西 , Nam nhạc Hành sơn , Bắc nhạc Hằng sơn , Trung nhạc Tung sơn .

Trên năm ngọn núi này, tương truyền có năm vị Đế Quân trấn giữ, trong đó Đông Nhạc Đế Quân làm đầu thần Ngũ nhạc, có nhiệm vụ cai quản, sửa trị tất cả các hồn u uất tán loạn, cùng việc thăng giáng của quỉ thần bất kỳ ở Dương gian hay Âm phủ.

Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại.

Độ kẻ lành chế cải tai ương.

(Kinh Tận Độ).



ĐÔNG PHA 

Đông Pha tức Tô Thức, người Mi sơn, đời nhà Tống, tự là Tử Chiêm, học rộng, tinh thông kinh sử, đỗ tiến sĩ, cùng cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt đều nổi tiếng văn chương, người đương thời gọi là “Tam Tô”.

Lúc làm quan dưới thời Anh Tông, phê phán tân pháp của Vương An Thạch, ông bị đổi ra Hoàng Châu, tại đây ông làm nhà ở đất Đông Pha, nên lấy hiệu là Đông Pha Cư Sĩ. Đến đời vua Triết Tông, được gọi về làm quan đến Thượng Thư Bộ Hình.

Này này quế trạo lan tương,

Ví đua Xích bích, chi nhường Đông Pha

(Mai Đình Mộng Ký).



ĐÔNG PHONG 

Gió phương đông.

Do truyện đời Tam Quốc, Chu Du và Gia Cát Khổng Minh muốn dùng chước hoả công để đốt thuyền quân Tào Tháo, nhưng rủi vì vào lúc tháng mười không có gió đông. Sau Khổng Minh mới lập đàn cầu gió, được ba ngày có gió đông thổi mạnh, nhờ vậy mà đốt được thuyền quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích.

Nghĩa bóng: Gặp dịp may, có cơ hội.



Đông phong có ý bù trừ nữa,

Một phút xuân là nột động người.

(Quốc Âm Thi Tập



Hiên mai hây hẩy đông phong,

Hương đầm áo thuý hoa nồng trướng thanh.

(Sơ Kính Tân Trang).



ĐÔNG PHƯƠNG SÓC 

Đông Phương Sóc là người đời Hán, tự là Mạn Thiên, có tài khôi hài. Đời vua Võ Đế, giữ chức Kim Mã Môn Thị trung, thường lấy tài trào phúng, hoạt kê để chữa lỗi cho vua. Về sau Dương Hùng, Ban Cố đều có phỏng theo lối văn hài hước của Đông Phương Sóc.



Chuyện đâu ai khéo bày ra,

Lối Đông Phương Sóc rõ là hoạt kê!

(Thơ Lãng Nhân).



Người đâu kiếp trước Đông Phương Sóc,

Ăn trộm đào quen học thói ngày xưa.

(Thơ Tản Đà).



ĐÔNG QUÂN 

Như chữ “Đông hoàng  ”, chỉ vị thần mùa xuân hay thần mặt trời.

Mặt trời mọc phương đông, thuộc mùa xuân, nên dùng chữ “Đông quân” hay “Đông hoàng” để chỉ Thần mặt trời hay thần mùa xuân.

Vẻ chi một mảnh hồng-quần,

Chủ hoa đành đã Đông quân đấy rồi.

(Hoa Tiên Truyện).



Đông quân sao khéo bất tình,

Cành hoa tàn nguyệt, bực mình hoài xuân.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Trăm nghìn gửi lại Đông quân,

Hãy khoan khoan tới hãy dần dần lui.

(Thơ Tản Đà).



ĐÔNG QUÝ 

Đông: Mùa đông. Quý: Cuối, rốt.

Đông quý tức là cuối mùa đông.



Thoi đưa nấn ná ba đông,

Trải phần đông quí, sang chừng xuân qua.

(Nhị Độ Mai).



ĐÔNG SÀNG 

Đông: Phía đông. Sàng: Giường.

Đông sàng nghĩa là giường phía đông, dùng chỉ chàng rể.

Do tích Vương Đạo có dạy một số học trò, quan Thái uý Khước Giám muốn tìm một người để làm rể, bèn sai người qua chọn. Người này về báo với Khước Giám rằng: Học trò giỏi thì nhiều, nghe việc ông kén rể, người nào cũng ăn mặc đẹp đẽ để giành làm rể, duy chỉ có một người không thèm để ý đến, nằm tréo chân ở giường phía đông. Khước Giám nghe chuyện bèn nói: Người ấy mới đáng là rể của ta.

Người đó là Vương Hy Chi, một nhà thơ, một học trò giỏi và viết chữ đẹp nhứt trong thiên hạ.

Xem chữ: Lan Đình.

Xem đà đẹp đẽ hoà hai,

Kìa dâu Nam giản, nọ trai Đông sàng.

(Lục Vân Tiên).



Tòng quyền cho nghĩ nương nhờ,

Minh linh rồi sẽ đổi ra đông sàng.

(Nhị Độ Mai).



Lạ lùng quốc sắc thiên hương,

Suối nam chưa gặp đông sàng trao tơ.

(Ngọc Kiều Lê).



Trông gặp rể đông sàng biết phải,

Bên nhạc gia cũng lạy mà dâng.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐÔNG TƯỜNG 

Đông: Hướng đông. Tường: Bức tường.

Đông tường là bức tường bên phía đông, đồng nghĩa với đông lân là xóm nhà bên phía đông.

Sách Mạnh Tử viết: Du đông lân nhi lau kỳ xử tử 踰東 , Trèo sang láng giềng bên đông để dẫn dắt, ghẹo chọc con gái người.

Nghĩa bóng: Chỉ nơi có người con gái ở.



Nợ đông tường ong bướm xôn xao,

Đường lai vãng rộn người đưa mối lái.

(Phú Cổ).



Phượng bay bốn bể cầu hoàng,

Giai nhân chẳng ở đông tường thì đâu.

(Tây Sương).



ĐÔNG THI HIỆU TẦN 

Đông Thi bắt chước nàng Tây Thi chau mày.

Sách Trang Tử viết: Tây Thi là người con gái đời Xuân Thu đẹp tuyệt trần. Nàng có bịnh tim, mỗi lần lên cơn đau, nàng đều chau mày. Đông Thi (Tức người con gái hàng xóm phía đông của Tây Thi) thấy Tây Thi chau mày lại càng đẹp hơn, nên cũng bắt chước. Những người cùng xóm thấy Đông Thi chau mày tất cả đều bỏ trốn hết. Đông Thi biết chau mày đẹp nhưng không biết cách chau mày sao cho đẹp.

Nghĩa bóng: Bắt chước một cách vụng về.



ĐỐNG LƯƠNG 

Đống: Cây đòn dông, cây cột là hai bộ phận chính và quan trọng của ngôi nhà. Lương: Cái rường nhà.

Đống lương là cột rường, dùng để chỉ những người tài ba, giúp ích cho quốc gia dân tộc.

Xem: Lương đống.

Dốc lòng phò chúa giúp đời,

Xoay tay thủ đoạn, ra tài đống lương.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



ĐỐNG XƯƠNG VÔ ĐỊNH

Vô Định là tên một con sông ở tỉnh Thiểm Tây. Do trong Đường Thi có câu: Khả liên Vô Định hà biên cốt, Do thị thâm khuê mộng lý nhân  , , nghĩa là thương thay đống xương chồng chất bên bờ sông Vô Định, thế mà trong chốn khuê phòng, vợ còn mộng thấy chồng về.

Nghĩa bóng: Xương những kẻ chết không ai chôn.

Xem: Vô Định.



Đống xương Vô Định sương phau trắng,

Giọt máu vô thường cỏ nhuộm thâm.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



ĐỒNG BÀO 

Đồng: Cùng nhau. Bào: Cái nhau.

Đồng bào là những người cùng chung một bào thai sinh ra, chỉ anh em cùng cha cùng mẹ.

Ngoài ra, người trong một nước cũng gọi là đồng bào, vì thuộc dòng dõi của Lạc Long Quân và Âu Cơ, tức là thuộc giồng giống con rồng cháu tiên.

Phu nhân sang đất Sơn đông,

Có em lỵ đó cũng trong đồng bào.

(Nhị Độ Mai).



Cũng vì lòng dạ vô lương,

Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.

(Kinh Sám Hối).



Tuy là khác thửa đồng bào,

Mà trong sanh tử một màu sắt son.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Dầu đắn đo cũng nghĩa đồng bào,

Dầu ngọt dịu người sao hơn thủ túc.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐỒNG BÀO ĐỒNG TRẠCH 

Đồng bào: Cùng mặc chung áo ngoài. Đồng trạch: Cùng mặc chung áo lót.

Quân lính ở với nhau, mặc áo ngoài chung nhau, mặc áo lót cũng chung nhau, ý nói anh em thần thiết giúp đỡ nhau.

Xem: Bào Trạch.

Đồng bào đồng trạch tương liên,

Tử sinh đã quyết thề nguyền có nhau.

ĐỒNG BỆNH TƯƠNG LÂN 

Hay “Đồng bịnh tương liên”.

Cùng bịnh như nhau, nên cùng thương yêu nhau.

Nghĩa bóng: Cùng chung khổ sở, hoạn nạn thì thương yêu nhau.

Cổ thư có câu: Đồng bệnh tương lân, đồng ưu tương cứu  , , nghĩa là cùng bệnh thương yêu nhau, cùng một mối lo cùng giúp nhau.

Nghĩa tương phùng đồng bệnh phải tương liên.

(Hát Nói).



ĐỒNG CĂN TỊNH ĐẾ 

Đồng căn: Cùng sinh một gốc. Tịnh đế: Cùng chung một cuống.

Bất cứ sự việc gì giống như bông hoa cùng chung một gốc, một cuống sinh ra đều gọi là “Đồng căn tịnh đế”. Nghĩa bóng: Chỉ người cùng một giòng họ, một học phái hay một tôn giáo.



ĐỒNG CỐT

Hay ông đồng bà cốt là một xác đồng nam hoặc nữ, tức là người cho mượn xác để các vong linh, hoặc quỷ thần nhập vào mà tiếp xúc với con người.



Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,

Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?

(Truyện Kiều).



ĐỒNG ĐẠO 

Đồng: Cùng. Đạo: Đường, hay Đạo giáo.

Đồng đạo là chỉ cùng một đường lối học thuật, hay cùng một tôn giáo.



Trong đời mấy bực cố tri,

Mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm?

(Lục Vân Tiên).



Sai người tìm rước danh y,

Anh em đồng đạo, tên Kỳ họ Châu.

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐỒNG GIANG

Đồng Giang là một con sông, thuộc tỉnh Triết Giang Trung Quốc.

Sách có câu: Đồng Giang nhất ty, phù Hán cửu đỉnh  , , nghĩa là sông Đồng một cần câu, nâng chín vạc Hán. Ý nói ông Nghiêm Tử Lăng không ra làm quan, ẩn dật và đi câu nơi sông Đồng Giang ở huyện Đồng Lư, tỉnh Triết Giang.

Gẫm ấy ai phù vạc Hán,

Đồng Giang rủ một cần câu.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



Kham hạ Nghiêm Quang từ chẳng đến,

Đồng Giang được náu một đài câu.

(Quốc Âm Thi Tập).



ĐỒNG HỒ 

Một dụng cụ dùng để đo thời giời.

Ngày xưa người ta làm bằng một cái bầu đựng nước, dưới đáy soi một lỗ nhỏ cho nước chảy, trong bầu khắc dấu vạch để đo thời giờ theo giọt nước chảy cạn lần, đến mỗi dấu vạch làm một giờ. Bên bầu có cái giá cắm thẻ, hết một giờ cắm một thẻ.

Đồng hồ cũng gọi: Lậu hồ, Dạ lậu, Đồng long.



Nói cho rộng chước y phương,

Rọt đồng hồ, cũng về đường tứ tông.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Canh ba thánh thót đồng hồ,

Lạ nhà chưa ngủ hồ đồ xiết bao.

(Truyện Trinh Thử).



ĐỒNG HUYỆT ĐỒNG KHÂM 

Đồng huyệt: Cùng chôn chung nhau một huyệt. Đồng khâm: Cùng đắp chung một tấm chăn (mền).

Người xưa cho rằng tình nghĩa vợ chồng keo sơn gắn bó nhau, nên khi sống thì đồng khâm, lúc chết thì đồng huyệt, nghĩa là khi còn sống thì đắp chung một cái mền, khi chết thì chôn chung một huyệt.



Nào khi biển nguyện non ghi,

Thác thời đồng huyệt, sống thì đồng khâm.

(Hứa Sử Tân Truyện).



ĐỒNG HƯU 

Đồng: Cùng. Hưu: Vui.

Bởi câu “Dữ quốc đồng hưu thích  ”, nghĩa là cùng với nước nhà vui buồn. Ý muốn nói người cùng một nước phải chia xẻ với nhau, khi nước có điều vui mừng thì vui mừng, nước có điều lo lắng thì buồn lo theo.



Đồng hưu rờ rỡ thẻ khuyên,

Công ghi gác phượng, danh truyền đài lân.

(Truyện Phan Trần).



Nền huân tướng nên công rạng vẻ,

Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Đồng hưu rạng chép thẻ son,

Chàng nên danh giá thiếp còn trẻ trung.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



ĐỒNG KHOA 

Đồng: Cùng. Khoa: Khoa thi.

Đồng khoa tức cùng thi đỗ một khoa thi với nhau.



Hai ta đồng học đồng khoa,

Đồng niên đồng cán một nhà đồng sân.

(Truyện Phan Trần).



ĐỒNG LIÊU 

Đồng: Cùng nhau. Liêu: Làm quan.

Đồng liêu là người cùng làm quan chung với nhau, hoặc chỉ bạn làm việc với nhau cùng một chỗ.



Thì vừa thấy kẻ đồng liêu,

Vâng lời Thượng hiến cho theo tìm mời.

(Ngọc Kiều Lê).



ĐỒNG LOẠI 

Đồng: Cùng chung. Loại: Loài giống.

Đồng loại là cùng chung một loài với nhau. Như cùng chung một giống ngườivới nhau, gọi là nhơn loại.



Vật loài nhỏ hẹp côn trùng,

Cũng chẳng nên giết, huống đồng loại ta.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,

Thấy trên đường miểng bát, miểng chai,

(Kinh Sám Hối).



Lo lập nghĩa nhơn đồng loại giúp,

Đừng ham quyền thế một mình riêng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Thiếu thốn chi con còn bức xách,

Thương nhau đồng loại cội và nhành.

(Đạo Sử).



ĐỒNG MÔN 

Đồng môn nghĩa đen là cùng một cửa, dùng để chỉ:

1.- Anh em cùng cha mẹ.

Xem: Đồng môn đồng huyết mạch.



Dầu đến khi thân đã lớn khôn,

Nhớ sản xuất đồng môn đồng huyết mạch.

(Phương Tu Đại Đạo).

2.- Bạn bè cùng học một trường, học một Thầy, hay đồng môn phái, đồng đạo:

Buộc yêu thương bạn đồng môn,

Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm.

(Kinh Thế Đạo).



ĐỒNG MÔN ĐỒNG HUYẾT MẠCH 

Đồng môn: Cùng một cửa. Đồng huyết mạch: Cùng một dòng máu.

Đồng môn đồng huyết mạch là cùng một dòng máu, ý nói anh em ruột thịt, cùng cha cùng mẹ, cùng một dòng máu và cùng một chỗ sinh ra.

Xem: Huyết mạch đồng môn.

Dầu đến khi thân đã lớn khôn,

Nhớ sản xuất đồng môn đồng huyết mạch.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐỒNG NIÊN 

Đồng: Cùng. Niên: Năm.

Đồng niên là cùng một năm với nhau, như bạn cùng thi đỗ một khoa, hoặc bạn cùng một tuổi với nhau.



Mai công mấy độ quan ngoài,

Bạn bè nhờ có mấy người đồng niên.

(Nhị Độ Mai).



ĐỒNG QUY THÙ ĐỒ 

Những nghĩa lý đến lúc cuối cùng đi về một lẽ, gọi là đồng quy, nhưng hành vi xu hướng mỗi người theo nhiều đường khác nhau, gọi là thù đồ.

Nghĩa bóng: Đi về một điểm mà theo nhiều đường khác nhau.

ĐỒNG SÀNG DỊ MỘNG 

Tuy cùng nằm chung một giường nhưng mỗi người thấy chiêm bao khác nhau, cũng như vợ chồng sống chung nhưng không hoà hợp.

Nghĩa bóng: Cùng một địa vị như nhau mà tâm lý khác nhau.

ĐỒNG SANH ĐỒNG TỊCH 

Đồng sanh: Cùng sống chung với nhau. Đồng tịch: Cùng nằm trên một chiếc chiếu.

Đồng sanh đồng tịch do câu: “Sanh đồng tịch đồng sàng, tử đồng quan đồng quách  ; ” nghĩa là sống thì cùng ăn trên một chiếc chiếu, cùng ngủ trên một chiếc giường; chết thì chôn trong một chiếc hòm.



Giữa đền để một tấc thành,

Đồng sanh, đồng tịch đã đành nương nhau.

(Kinh Thế Đạo).



ĐỒNG SONG 

Đồng: Cùng. Song: Cửa sổ.

Đồng song là bạn cùng học với nhau bên song cửa sổ, hoặc bạn cùng đi thi với nhau.



Chung quanh vẫn đất nước nhà,

Với Vương Quan trước vẫn là đồng song.

(Truyện Kiều).



ĐỒNG SƠN 

Tên một ngọn núi có nhiều kim loại đồng.

Cổ ngữ có câu: Đồng sơn tây khuynh, Lạc chung đồng ứng 西 , , nghĩa là núi Đồng ở phía tây nghiêng, chuông ở đất Lạc Dương về phía đông tự nhiên có tiếng vang ứng theo. Đồng nghĩa với câu “Đồng thanh tương ứng”.

Nghĩa bóng: Cảm ứng nhau.

Nhị Thập Tứ Hiếu có câu: Cho hay từ hiếu tương quan, Non Đồng khi lở không hàn tiếng chuông.

Non Đồng được ví với tình người mẹ, chuông Lạc ví với hiếu của người con, cả hai có liên quan cảm ứng với nhau, như Tăng Tử ở trong rừng, bà mẹ ở nhà cắn ngón tay, mà Tăng Tử thấy đau lòng.

Xem: Non Đồng.

ĐỒNG TÂM 

Do chữ “Đồng tâm đái  ”, hay “Đồng tâm kết  ”, tức là “Dải đồng”, là sợi dây thắt lưng có hai dải lụa buộc lại với nhau, biểu hiệu sự kết hợp vợ với chồng cùng một lòng với nhau.

Xem: Dải đồng.

Đã đành hai chữ “Đồng tâm”,

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.

(Truyện Kiều).



ĐỒNG TÂN

Tức là Lữ Đồng Tân, tên Nham, hiệu Thuần Dương Tử, người đời Đường, làm quan giữ chức huyện lệnh. Khi ông gặp được một vị tiên là Hớn Chung Ly, chán mồi công danh phú quý, lui về núi Chung Nam tu tiên, đắc đạo, rồi đi biệt tích. Ông là một vị tiên trong bát tiên.



Nam song một gối Hy Hoàng,

Tỉnh say Lý Bạch mơ màng Đồng Tân.

(Truyện Từ Thức).



ĐỒNG TỊCH ĐỒNG SÀNG 

Đồng tịch: Cùng nằm chiếc chiếu. Đồng sàng: Chung chiếc giường.

Đồng tịch đồng sàng chỉ vợ chồng sống chung cùng nằm chung chiếc chiếu, chung giường.

Nghĩa bóng: Chỉ vợ chồng.

Cũng chưa đồng tịch đồng sàng,

Cũng chưa nên nghĩa tào khang đâu mà.

(Lục Vân Tiên).



ĐỒNG TƯỚC 

Đồng Tước là một cái đài do Nguỵ Vũ Đế, tức Tào Tháo xây dựng ở Chương Giang, tỉnh Hà Nam.

Khổng Minh vì muốn chọc tức Châu Du, nên nói rằng: Tào tháo xây đài Đồng Tước để bắt Nhị Kiều tức Tiểu Kiều và Đại Kiều, vợ Châu Du và Tôn Sách để vui thú tuổi già.

Đỗ Mục nhà thơ đời Đường có nói về đài Đồng Tước như sau: Đông phong bất dữ Châu Lang tiện, Đồng tước xuân thâm toả nhị Kiều  便, , nghĩa là gió đông chẳng giúp thuận chiều, trong đền Đồng Tước hai Kiều khoá xuân.



Vẫn nghe thơm nức hương lân,

Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.

(Truyện Kiều).



Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,

Ấy nền Đồng Tước, hay lầu Nhạc dương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



ĐỒNG THANH 

Đồng: Cùng. Thanh: Tiếng.

Đồng thanh là cùng cất tiếng nói hay cùng cất tiếng ca vang với nhau.



Giáp binh kéo đến quanh nhà,

Đồng thanh cùng gửi: nào là phu nhân?

(Truyện Kiều).



ĐỒNG THẤT 

Đồng: Cùng. Thất: Nhà.

Đồng thất có nghĩa cùng ở với nhau một nhà. Ngoài ra, vợ chồng được gọi là “đồng thất”.

Đồng thất thao qua  ” tức cùng ở một nhà mà vác giáo đánh nhau, để gọi anh em tranh nhau.

Người đồng thất, kẻ tha phương,

Hàng châu sùi sụt, bước đường chia đôi.

(Truyện Kiều).



ĐỔNG BINH 

Đổng: Đôn đốc. Binh: Quân lính.

Đổng binh tức là người điều hành, đôn đốc mọi việc trong quân binh.



Cho Đông Sơ với Lạc Thiên,

Kẻ quyền tham tán, người quyền Đổng binh.

(Nhị Độ Mai).



ĐỔNG CÔNG 

Tức Đổng Trác, người ở Lâm Thao, đời Đông Hán. Khi vua Hán Linh Đế mất, ông đem quân vào triều phế Thiếu Đế, giết Hà Thái Hậu. Ông có ý định cướp ngôi của nhà Hán, nên chọn Lữ Bố làm con nuôi. Bố là một người có sức mạnh phi thường, giỏi võ nghệ, nhưng thiếu mưu trí.

Xem: Đổng Trác.

Hán xưa có gã Đổng Công,

Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.

(Lục Vân Tiên).



ĐỔNG HỒ 

Hay “Ngòi viết Đổng Hồ”.

Đổng Hồ là một vị sử quan nghiêm chính nước Tấn đời Xuân Thu. Vua Tấn Linh Công làm nhiều điều bạo ngược, Triệu Thuẩn cầm quyền chính trong nước đứng ra can gián, vua giận toan giết. Thuẩn chay trốn qua nước khác, vừa qua khỏi thành thì nghe tin vua bị Triệu Xuyên giết, bèn trở về triều.

Đổng Hồ chép vào sử: Triệu Thuẩn giết vua. Thuẩn lấy làm xấu hổ, xin Đổng Hồ sửa lại, Đổng Hồ nói rằng: Ông làm quan đầu triều, không bảo vệ được vua, trốn đi chưa khỏi nước, thì vua bị ám sát. Lúc trở về triều lại không trị tội kẻ phản nghịch. Như thế há không phải là ông giết vua hay sao. Triệu Thuẩn dùng quyền cưỡng bức Đồng Hồ sửa, Đổng Hồ nói: Giết tôi thì được nhưng sửa bút tôi thì không được. Khổng Tử khen Đổng Hồ là người chép sử giỏi.



Cám vua nước Tấn vô cô,

Chính là ngòi viết Đổng Hồ biên ra.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Nhành vàng tuy chẳng đượm sân Ngô,

Cái miệng trung trinh giống Ðổng Hồ.

(Đạo Sử).



ĐỔNG NHUNG 

Đổng: Đôn đốc. Nhung: Binh lính.

Đổng nhung là đôn đốc, điều hành binh lính, tức là quản lý lãnh đạo việc quân.



Nghiêm đường vâng mệnh đổng nhung,

Trướng hùm muôn việc khôn thông tin nhàn.

(Lưu Nữ Tướng).



ĐỔNG TỬ 

Tức là Đổng Trọng Thư , người Quảng Xuyên đời Hán. Lúc tuổi trẻ chuyên học kinh Xuân Thu. Đời Cảnh Đế, ông làm chức Bác sĩ, buông màn ngồi đọc sách và giảng sách, học trò ngồi ngoài rèm học tập, có thể không bao giờ thấy mặt. Ông học rất tinh cần, có khi ba năm không ra ngắm cảnh vườn. Ông thực tiễn những điều lễ nghĩa. Vì vậy, học giả đương thời đều tôn kính ông là thầy.

Đời vua Vũ Đế ông có dâng ba bài đối sách, hậu thế gọi là “Thiên nhân tam sách”, được vua trọng dụng. Khi giúp tại Giang Đô ông bị cách chức làm Trung đại phu. Sau làm tướng giúp Giao Tây Vương được đãi rất trọng hậu.Nhưng ở lâu ông sợ bị tội, bèn cáo bịnh hưu về nhà.

Sách của Đổng Trọng Thư hiện chỉ còn lại quyển “Xuân Thu Phồn Lộ” và quyển Đổng Tử Văn Tập.



Thương thầy Đổng Tử cao xa,

Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

(Lục Vân Tiên).



ĐỔNG TRÁC 

Đổng Trác người Lâm Thao, đời Hán Linh Đế là Tiển Tướng Quân. Sau khi Linh Đế mất, Đổng Trác đem binh vào triều phế Thiếu Đế và giết Hà Thái Hậu, ông tập trung quyền hành và nuôi Lữ Bố làm con định cướp ngôi nhà Hán.

Viên Thiệu đem binh đánh phạt Đổng Trác, Trác phò vua vào Trường An và tự phong là Thái Sư, chuyên quyền làm nhiều việc hung bạo. Vương Doãn dùng Điêu Thuyền là mỹ nhân kế để ly gián giữa hai cha con Đổng Trác và Lữ Bố. Cuối cùng Trác bị giết chết.

Đổng Trác nọ vàng đầy kẻ hốc,

Nguyễn Tri kia kể hộc hồ tiêu.

(Côn Sơn Ca, Viên Dao dịch).



Khi Đổng Trác lung lăng nhà Hán,

Sãi giận chàng Hà Tấn vô mưu.

(Sãi vãi).



ĐỔNG VÂY MÀN

Tức Đổng Trọng Thư buông màn đọc sách.

Đổng Trọng Thư , tự Quảng Xuyên người đời Hán, lúc nhỏ rất chuyên cần học tập, buông màn ngồi đọc sách trong phòng, luôn ba năm không ra vườn ngắm hoa kiểng.

Xem: Đổng Tử.



Ôn đặt gối, Đổng vây màn,

Sớm nhuần kinh sử, tối bàn văn chương.

(Truyện Phan Trần).



ĐỔNG VĨNH 

Sinh vào đời Hậu Hán, nhà nghèo, rất có hiếu thảo. Cha chết không có tiền chôn cất, phải đến một người nhà giàu ở làng khác vay tiền, hẹn sau sẽ dệt ba trăm tấm lụa trả công.

Sau khi chôn cất cha xong, Đổng Vĩnh đến nhà ông nhà giàu để dệt trả công, giữa đường gặp một người con gái xin kết làm vợ chồng, nhưng giao hẹn đợi dệt xong số lụa để trả nợ, rồi sau đó cùng về nhà sum hợp. Khi hai người dệt xong cùng nhau ra về, giữa đường người con gái biến mất. Vì cảm lòng hiếu thảo của Đổng Vĩnh, trời sai người con gái xuống dệt giúp.

Đời Hậu Hán có người Đổng Vĩnh,

Nhà rất nghèo mà tính rất thành.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).

ĐỘNG BÍCH

A.- Hay “Bích Động  ”, chỉ động Tiên ở.

Động Bích, cũng như Động Đào là một cái động trên đó có các vị thần tiên ở, còn gọi là Động tía, hay Tử động.



Xe loan gió cuốn lưng trời,

Tiên về động bích, tình rơi cõi trần.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Ngựa anh tra khớp bạc,

Ngựa anh thắng kiệu vàng.

Chốn nguồn đào thẳng bước Lưu Lang,

Nơi động bích sánh vai cùng tiên nữ.

(Lộ Địch Diễn Ca).



B.- Động Bích tức là Động Bích Du, hay Bích Du Cung , là động của Thông Thiên tu luyện, Giáo Chủ phái Triệt Giáo, chỉ về Tà đạo.

Xem: Non Côn.



Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,

Lối mòn động Bích chớ lầm đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ĐỘNG ĐÀO 

Tức Đào Nguyên động, hay Đào hoa nguyên: Suối hoa đào. Chỉ nơi Tiên ở.

Do bài “Đào hoa nguyên ký” của Đào Uyên Minh hay Đào Tiềm đời nhà Tấn, Trung Quốc. Bài Ký đó được kể lại một người quê ở Võ Lăng làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà chèo thuyền đi, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động trồng đầy hoa Đào. Trong động ấy, có một nhóm người đang sinh sống, mà trước đây tổ tiên của họ trốn loạn đời nhà Tần, đến đó ở biệt lập hẳn với người đời bên ngoài động đã từ lâu rồi.

Sau khi tìm cách ra khỏi động Đào nguyên, người đánh cá trở về quê có kể lại sự tình cho viên Thái thú. Viên Thái thú sai người đánh cá trở lại, tìm những chỗ trước đã đánh dấu, nhưng không tìm được lối vào nữa.

Do vậy, Động đàoNguồn đàoĐào nguyên, hay Suối hoa đào đều được dùng để chỉ nơi Tiên ở, hay động Tiên.

Xắn tay mở khóa động đào,

Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai.

(Truyện Kiều).



Thà cam vui chốn động Đào,

Đừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian.

(Kinh Thế Đạo).



Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi,

Quên trần ai mong mỏi Động Đào.

(Kinh Tận Độ).



Lỡ lối cũ động đào lạc bước,

Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Ðã nên người trước đời trông cậy,

Gắng sửa nhà tranh hóa động đào.

(Đạo Sử).



ĐỘNG ĐỊA KINH THIÊN 

Động địa: Làm chuyển động đất. Kinh thiên: Làm kinh hoàng trời.

Động địa kinh thiên tức là làm một việc lớn lao, to tát có thể lay chuyển, kinh hoàng trời đất.



Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,

Làm cho động địa kinh thiên đùng đùng.

(Truyện Kiều).



ĐỘNG ĐÌNH 

Tên một trong năm cái hồ nổi tiếng của Trung Quốc. Hồ Động Đình ở tỉnh Hồ Nam, thông với sông Trường Giang, có nhiều núi nhỏ ở giữa hồ, nổi tiếng là ngọn Quân Sơn.



Động đình xa vượt bè tiên,

Trên trời dưới nước tấm nguyền sạch trong.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐỘNG KHẨU 

Động khẩu là cửa động.

Trong bài Thiên Thai nàng tiên tiễn Lưu, Nguyễn ra động có câu: Hoa dương động khẩu ưng trường tại  , nghĩa là bông hoa trong động nên còn mãi. Chữ động khẩu trỏ cửa động tiên.

Tưởng mình lạc lối nguồn Đào,

Khi ra Động khẩu, khi vào Bồng doanh.

(Mai Đình Mộng Ký).



ĐỘNG PHÒNG 

Động: Sâu kín. Phòng: Buồng.

Động phòng tức là cái phòng nơi kín đáo của đôi vợ chồng mới cưới, hay gọi phòng hoa chúc.

Động phòng còn là một lễ trong lễ cưới để hai vợ chồng vào hợp cẩn.

Động phòng dìu dặt chén mồi,

Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa.

(Truyện Kiều).



Đuốc hoa chén ngọc 
song song,

Trướng loan gối phụng động phòng thêm xuân.

(Dương Từ Hà Mậu).



Gái có chồng trước lúc động phòng,

Trai có vợ trước dâng lễ hỏi.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐỘNG TOẢ NGUYÊN PHONG 

Động toả: Cửa động đào nguyên khoá chặt. Nguyên phong: Nguồn suối hoa đào đống kín.

Theo Đào Hoa Nguyên Ký, người đánh cá đất Vũ Lăng lạc vào động Đào nguyên trở về, sau có tìm trở lại nhưng đã mất lối vào. Ý nói khó mong tìm lại cảnh tiên lần thứ hai.

Động toả nguyên phong tức cửa động đóng và nguồn đào khép kín, đồng nghĩa với “Cửa đóng then cài”, dùng để nói khó tìm đến chỗ ở của người đẹp.

Tấc gang động tỏa nguyên phong,

Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.

(Truyện Kiều).



ĐỘNG THÁNH NON TIÊN

Động Thánh non Tiên tức là non động của các vị Thánh Tiên. Ý nói nơi ở của các vị Thánh Tiên.



Khi động Thánh, lúc non Tiên,

Sớm thì Hải đảo, tối miền Thiên Thai.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐỐT ÁO CỪU

Bởi chữ “Phần cừu  ”.

Tấn Thư chép: Ông Hoàn Huyền có tặng cho bà La mẫu là mẹ của La Xí Sanh một chiếc áo lông cừu. Sau Hoàn Huyền phá đất Kinh, Châu, ông La Xí Sanh bị giết. Tin chết được báo về bà La mẫu, bà khóc con rằng: Trung thần thay! Chết lại hận gì? Khóc dứt, bà liền đem chiếc áo lông cừu ra đốt.

Thật đáng mặt là hiền phụ!



ĐỘT QUYẾT 

Đột Quyết là một giống người ở phía bắc các sa mạc Á Châu, tức giống người Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.



Kìa như Đột Quyết quấy Đường,

xe đi chật đất,

ngựa tế đầy đồng,

phá trấn Bắc, đốt trấn Đông,

chừng rõ đám Đột hoàn lại Đột.

(Cáo Thị Cần Vương).



ĐỜI NHƯ TRẬN GIẶC ĐUA TRANH

Bởi nghĩa của câu “Đời là một trường tranh đấu”, tức là mỗi con người sống trong đời phải đua tranh, giành giựt nhau để tìm lấy sự sống.



Đời như trận giặc đua tranh,

Dầu tài một ngựa một người khó nên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐỚI THIÊN BẤT CỘNG

Tức “Bất cộng đới thiên  ” nghĩa là không đội trời chung.

Đới thiên bất cộng ý nói hận thù nhau ghê gớm, quyết một sống một chết, chứ không chịu cùng đội một bầu trời sống chung.

Chữ “Đới thiên bất cộng”,

nghĩ căm căm ruột tím gan bầm;

(Cáo Thị Cần Vương).



ĐỜN TƯ Mà

Tức tiếng đờn của Tư Mã Tương Như.

Chính tiếng đàn nầy đã quyến rủ nàng Trác Văn Quân, một người đàn bà goá chồng, có sắc đẹp, vì say mê khúc “Phụng Cầu Hoàng” của Tư Mã Tương Như, nên không thủ tiết và bỏ nhà đi theo.

Xem: Tư Mã.



Đờn Tư Mã lên dây cao thấp,

Trác Văn Quân đường lấp cũng leo tường.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĐŨA NGỌC

Bởi chữ “Ngọc trở  ”.

Do điển: Bà Yên Hậu đời Nguỵ, người có nhan sắc đẹp đẽ, khi khóc nước mắt chảy thòng như đôi dũa ngọc. Thơ Lưu Hiếu Oai có câu: Thuỳ lân song ngọc trở, lưu diện phục lưu khâm  , , nghĩa là ai thương đôi đũa ngọc khi chảy trên mặt rồi lại chảy vào vạt áo.

Người nhớ vua nhìn sa đũa ngọc,

Kẻ trông chồng ngắm ruỗi mây xanh.

(Hồng Đức Quốc Âm)



ĐUỐC HOA

Do hai chữ “Hoa chúc  ” là một cây đuốc hình hoa sen, dùng để thị nữ cầm đưa cô dâu vào phòng trong đêm đầu tiên, tức là cập đuốc đêm tân hôn.

Xem: Hoa chúc.

Đêm xuân một giấc mơ màng,

Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ

(Truyện Kiều).



Đuốc hoa chén ngọc song song,

Trướng loan gối phụng động phòng thêm xuân.

(Dương Từ Hà Mậu).



Đuốc hoa nghĩ thẹn bóng hồng,

Sụt sùi tủi phận cô phòng thê lương.

(Mỹ Nữ Cống Hồ).



Khen cho gái biết tìm chồng,

Đuốc hoa lại đợi bảng rồng mới toan.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Đuốc hoa muốn vẹn tình băng tuyết,

Nào phải trăng hoa khéo ởm ờ.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



ĐUỐC LÒNG SON

Đuốc: Ngọn đuốc. Lòng son: Tấm lòng son sắt, không bao giờ phai lợt.

Đuốc lòng son tức là tấm lòng ngay thẳng trung thành, trước sau như một, như ngọn đuốc sáng rực rỡ.



Nhuộm sao đen rỡ rỡ đuốc lòng son,

Mài chi mỏng trơ trơ phơi gan sắt?

(Nhạc Hoa Linh).



ĐUỐC TUỆ

Bởi chữ “Tuệ hoả  ”.

Theo kinh Hoa Nghiêm, Phật nói nhờ lửa trí tuệ (Đuốc tuệ) để đem chúng sanh ra khỏi nơi luân hồi khổ não.

Chữ nhà Phật, cây đuốc của trí tuệ. Trí tuệ ví như ánh sáng cây đuốc, xoá tan bóng tối của si mê, vô minh và vọng tưởng.

Nghĩa bóng đuốc tuệ: Chỉ Phật pháp sáng chói.

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,

Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Sen vàng dưới bệ Thích Ca,

Những e đuốc tuệ còn xa hồn phàm.

(Thơ Học Canh).



Bỏ chốn trăng hoa tới cửa thiền,

Hoa đàm đuốc tuệ để làm duyên.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



ĐUỐC VÂN TRƯỜNG

Bởi tích Tào Tháo sắp xếp cho Quan Vân Trường và hai người chị dâu, vợ Lưu Bị ở chung một phòng, có ý để làm rối đạo luân thường. Vân Trường thắp đuốc đứng hầu hai người chị ở ngoài cửa phòng suốt đêm, để tỏ lòng chính trực quang minh của mình.



Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,

Nức danh ba nước, treo gương muôn nhà.

(Gia Huấn Ca).



ĐUỐC VƯƠNG GIẢ

Đuốc: Cây đuốc, dùng để nói tâm lượng của nhà vua như ngọn đuốc soi thấu trong bàn dân thiên hạ. Vương giả: Ông vua.

Đuốc vương giả đuốc của quân vương vốn công bằng, chỉ tâm lượng xem xét của đấng quân vương.



Đuốc vương giả chí công là thế,

Chẳng soi cho đến khóe âm nhai.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĐUỔI HƯƠU

Rượt bắt hươu, dùng để chỉ việc tranh giành thiên hạ, hay ngôi báu.

Sử Ký có câu: Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục chi. Ư thị cao tài tật túc giả tiên đắc yên  鹿, . , nghĩa là nhà Tần mất hươu, cả thiên hạ cùng đuổi bắt nó. Bấy giờ ai tài cao, nhanh chân thì sẽ bắt được trước. Hươu tượng trưng cho thiên hạ hay ngôi báu.

Thái tử ấu trùng biết gì,

Triều đình tướng tướng ý đè đuổi hươu.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



ĐÚT CƠM

Điển này lấy tích Tống Hoằng đút cơm cho người vợ mù ăn.



Sách Hậu Hán chép: Tống Hoằng có người vợ chẳng may bị mù lòa. Hằng ngày ông vừa phải làm việc quan, vừa phải lo đút cơm và chăm sóc cho vợ. Nghe tiếng, Hồ Dương Công chúa là chị của vua Quang Võ góa chồng muốn tái giá cùng Tống Hoằng. Vua triệu Tống Hoằng vào cung mà hỏi rằng: Giàu đổi bạn, sang đổi vợ, là thường tình không? Tống Hoằng thưa: Bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, người vợ lúc tấm mẳn có nhau, chớ khá bỏ. Vua biết Tống Hoằng từ duyên Công chúa. Xem: Tống Hoằng.

Đã cùng gánh chung tình hòa ái,

Tua đút cơm, sửa dải làm duyên.

(Kinh Thế Đạo).



Từ duyên công chúa giao thân,

Đút cơm vợ quáng ân cần dưỡng nuôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐƯA DUYÊN GÁC ĐẰNG

Do tích Vương Bột, nhà thơ đời Đường nhờ duyên của gió to đưa thuyền đến gác Đằng Vương ở đất Hồng Châu, mà làm bài tự rất nổi tiếng.

Xem: Gác Đằng Vương.

Đưa duyên nhờ có gác Đằng,

Đành hay con tạo nhắc bằng đồng cân.

(Truyện Trinh Thử).



ĐƯA THOI

Bởi câu “Nhật nguyệt như thoa  ” tức là ngày tháng qua mau như cái thoi dệt đưa qua đưa lại rất mau chóng. Ý chỉ thời gian qua mau.



Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

(Truyện Kiều).



Thì toan giữ vẹn chung tình,

Đưa thoi đừng để lỗi mình nữ trung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĐỨC HÁO SANH

Háo sanh hay hiếu sinh là ưa thích sự sống, thương yêu mạng sống.

Đức háo sanh là tánh đức từ bi của chư Phật, Tiên, hằng yêu thương sự sống của muôn loài trên cõi thế gian này.

Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,

Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.

(Kinh Sám Hối).



ĐỨC NGHĨA DƯỠNG SANH 

Đức nghĩa: Công đức và ân nghĩa. Dưỡng sinh: Sinh thành dưỡng dục.

Đức nghĩa dưỡng sinh là nói công đức và ân nghĩa của cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng.



Lộc trời tước nước hiển vinh,

Báo đền đức nghĩa dưỡng sinh bấy chầy.

(Gia Huấn Ca).



ĐỨC PHỤC NHƠN TÂM 

Đức phục nhơn tâm là lấy cái đức ra để chinh phục lòng người.

Mạnh Tử nói: Dĩ lực phục nhân giả, phi tâm phục dã, lực bất thiệm dã, dĩ đức phục nhân giả, trung tâm duyệt nhi thành phục dã  , , . , , nghĩa là lấy sức mạnh phục người, không phải là tâm phục, vì sức yếu hơn; lấy đức phục người, trong lòng vui vẻ mà thành thật phục vậy.

Hơn người chẳng phải dụng mưu hay,

Ðức phục nhơn tâm mới thiệt tài.

(Đạo Sử).



ĐỪNG DẠI MỘT GIỜ

Do câu tục ngữ “Khôn ba năm, dại một giờ” có ý khuyên người phụ nữ cẩn thận trong việc giữ gìn trinh tiết, chỉ cần dại đột một giờ một phút là hư cả cuộc đời của người con gái.



Đem người trước lấy mình ngắm lại.

Khôn ba năm đừng dại một giờ.

(Gia Huấn Ca).



ĐƯỢC THUA

Bởi chữ “Đắc thất  ”, được hay thua, chỉ thành công hay thất bại.

Được thua chỉ việc chưa biết rõ kết quả thế nào.

Được thua đương cuộc tỉnh mê,

Người hiền suy tính hai bề tới lui.

(Thanh Hoá Quan Phong).



ĐƯƠNG DƯƠNG VÌ CHÚA

Nói việc Triệu Tử Long, người đời Tam Quốc, là một trong năm tướng tài của Thục, đã vì chúa mà lập được công lớn trong trận đánh Đương Dương Trường Bản, phá tan quân Tào, phò ấu chúa, con của Lưu Bị là A Đẩu được an toàn.



Tỏ tỏ xưa sao một tiết bền,

Đương Dương vì chúa nỗi mình quên.

(Hồng Đức Quốc Âm).



ĐƯỜNG CA 

Đường: Cây cam đường, còn gọi là đường lê, cũng là tên một thiên Kinh Thi. Ca: Ca hát.

Thiên “Cam đường” trong Kinh thi nói về Thiệu Bá tuần hành các nước phương nam để ban bố chính trị hay tốt của vua Văn Vương. Ông Thiệu Bá có làm nhà dưới cây cam đường, sau người ta cảm ơn đức của Thiệu Bá nên làm thiên kinh thi trên để ca tụng.

Xem: Cam đường.

Đường ca lâu đã vắng lời,

Đến như Tô Định là người chí hung.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ĐƯỜNG CÙ

Đường: Con đường. : Con đường thông suốt bốn mặt.

Đường cù là một con đường có thể thông với mọi hướng đi. Chỉ đời thái bình thịnh trị.

Xem: Khang cù.

Có khi thừa hứng đường cù,

Kim phong hây hẩy là ngô lạ dường.

(Lưu Nữ Tướng).



ĐƯỜNG CHẲNG LƯỢM CỦA RƠI

Bởi câu “Lộ bất thập di  ”.

Sử chép rằng: Khổng Tử sau khi giết được Thiếu Chánh Mão là đại gian nịnh, bèn giúp vua Lỗ Định Công sửa trị việc nước. Được ba tháng thì biến cải phong tục, ngoài chợ người bán buôn không thách giá, đường đi thì đàn ông bên trái, đàn bà bên phải, phân biệt nhau, không hỗn loạn, thấy của rơi không phải của mình thì không ai thèm lượm.

Xem: Lộ bất thập di.



Chợ chưa ra giá bán;

Đường chẳng lượm của rơi.

(Sãi Vãi).



ĐƯỜNG CHIM DẤU THỎ

Đường chim dấu thỏ dùng để nói đường sá hẻo lánh, hiểm trở, không người qua lại, ở trên chỉ có đường cho chim bay lọt, dưới chỉ có dấu chân chim thỏ.



Độc trùng, ác thú, không kinh,

Đường chim, dấu thỏ, lộ trình xiết bao!

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐƯỜNG ĐỆ 

Đường đệ (Hay đường lệ) là một loại cây giống như cây bạch dương, quả như trái mận. Trong Kinh Thi có bài thơ “Đường đệ” nói về tình anh em vui vầy.



Ai ai lấy đó mà suy,

Có câu đường đệ trong Thi còn truyền.

(Thanh Hoá Quan Phong).



ĐƯỜNG HÀN TỬ XƯƠNG LÊ CHI THẦN

Tức là vị thần Hàn Tử (Hàn Dũ), hiệu là Xương Lê, đời nhà Đường.

Hàn Dũ người đất Xương Lê, đời Đường, năm 21 tuổi đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Hình bộ thị lang. Ông là người chủ trương bài xích đạo Phật, đạo Lão, tôn trọng đạo Nho. Vua Đường Hiển Tông mê đạo Phật, cho người đi rước xương Phật vào cung, Hàn Dũ dâng sớ bài xích đạo Phật và xin đốt xương Phật, bị vua giáng xuống làm Thứ sử Triều Châu.

Xem: Hàn Dũ.

Ngó lên trên biển ngạch đề,

Rằng: Đường Hàn tử Xương Lê chi thần.

(Dương Từ Hà Mậu).



ĐƯỜNG HẠNH

1.- Hạnh là một loại cây to và cao, lá nhọn, có hoa màu trắng hồng như hoa mai trổ vào mùa xuân, có quả ăn được

Đường hạnh là đường có trồng nhiều cây hạnh, chỉ đường trong thôn xóm.

Lân la đường hạnh ước chừng,

Trong chiền nhác thấy tiểu tăng một người.

(Lưu Nữ Tướng).

2.- Hạnh là đức hạnh. Đường hạnh là chỉ con đường của đạo hạnh.

Cõi hư vô nay gần phước Thánh,

Xin châu toàn đường hạnh môn sinh.

(Kinh Thế Đạo).



ĐƯỜNG LANG 

Đường lang tức là con bọ ngựa.

Sách Trang Tử có câu: Đường tý đương xa  , nghĩa là cánh tay con bọ ngựa chống xe. Đồng nghĩa với câu ca dao của ta: Nực cười châu chấu chống xe, tưởng là chấu ngã, ai dè xe nghiêng.

Nghĩa bóng: Nói việc không lượng sức. Hoặc chỉ về sức mạnh phi thường.



Thế bạng duật đương còn đối mặt,

Thói đường lang sao khéo lắng tai.

(Hịch Tây Sơn).



ĐƯỜNG MÂY

1.- Chỉ đường công danh do chữ “Vân trình  ” hay “Vân cù  ”.



Đường mây rộng thênh thang cử bộ,

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Cửa trời rộng mở đường mây,

Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.

(Truyện Kiều).



Đường mây cười tớ ham dong ruổi,

Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.

(Thơ Phan Thanh Giản).



Đường mây thẳng gió hồng trương cánh,

Bước Đạo êm chơn nguyệt rọi mày.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Lừa lọc lắm phen tìm cảnh quí,

Rộn ràng nhiều buổi kiếm đường mây.

(Đạo Sử).

2.- Chỉ con đường xa xôi, thăm thẳm.

Đường mây vó ký lần lần trải,

Ải tuyết cờ mao thức thức pha.

(Thơ Nguyễn Biểu).



Sứ trời sớm giục đường mây,

Phép công là trọng, niềm tây sá nào.

(Chinh Phụn Ngâm Khúc).



Một mình ngơ ngẩn đường mây,

Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.

(Lục Vân Tiên).



Tỏ cùng vì gió nhắn chim Hồng,

Ngán bước đường mây mỏi dạ trông.

(Đạo Sử).



ĐƯỜNG NGU 

Hai triều đại của vua Nghiêu và vua Thuấn: Đào Đường (Nghiêu), Hữu Ngu (Thuấn).Nghiêu Thuấn là hai vị Thánh Vương đời Thượng cổ, được coi là triều đại lý tưởng của nước Trung Hoa.

Xem: Đường Nghiêu và Ngu Thuấn.

Chúa sánh chúa Đường Ngu;

Tôi ví tôi Tắc Khiết.

(Sãi Vãi).



Vang chín bệ nổi tiêu thiều mấy chập,

Điểu thú đều vỗ đức Đường Ngu.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



Đường Ngu lấy đức trị dân,

Súng trời buông lửa sóng thần nép oai.

(Tư Dung Vãn)



ĐƯỜNG NGHIÊU 

Tên triều đại của vua Nghiêu là Đào Đường (2357-2256 trước D.T). Ngài họ Y Kỳ, tên Phóng Huân, con bà Khánh Đô, phi thứ tư vua Đế Cốc, đóng đô tại Bình Dương, trị vì 72 năm và 28 năm với vua Thuấn đắp đê bảo vệ đồng áng.



Vua có chín trai, hai gái mà phế thái tử Đan Châu, lựa ông Thuấn là người hiền đức để truyền ngôi và gả cho hai người gái là Nga Hoàng và Nữ Anh.

Trải xem sử cũ Hớn trào,

Cao Hoàng noi dấu Đường Nghiêu dựng nền.

(Trọng Tương Vấn Hớn).

Dấu cũ bò bằng nền Hạ Vũ,

Phép xưa khuôn trái luật Đường Nghiêu.

(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).

ĐƯỜNG SANH TỬ

Hay “Đường sinh tử”.

Bởi chữ “Sanh tử lộ  ”, là con đường luân hồi, tức là sinh ra rồi chết, chết rồi lại chuyển kiếp để được sinh ra...Cứ thế mà tạo thành con đường sinh tử ở cõi thế gian.

Bước đường sanh tử đã chồn

Oan oan nghiệt nghiệt dập đồn trái căn

(Kinh Tận Độ).



ĐƯỜNG THI 

Thơ đời nhà Đường.

Văn học đời Đường rất thịnh về thơ, theo “Toàn Đường Thi” thì số thi sĩ thời ấy có hơn hai nghìn hai trăm người và có gần năm mươi nghìn bài thơ.

Xã hội thời bấy giờ từ vua quan đến hàng dân giả đều ham thích thi ca, nhiều người nhờ có tài làm thơ mà được vua trọng dụng.

Thơ đời Đường có thể chia làm ba thời kỳ:

- Sơ Đường (618-712) có các thi gia nổi tiếng như: Thượng Quan Nghị, Vương Bột, Dương Quýnh, Lạc Tân Vương…

- Thịnh Đương (713-824) có nhiều thi sĩ nổi tiếng như: Vương Xương Linh, Sầm Tham, Vương Chi Hoán, Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy, Lý Bạch, Vi Ứng Vật, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị…

- Vãn Đường (825- 927) có các thi gia như: Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân, Đỗ Mục…



ĐƯỜNG THỊ 

Đường thị là vợ của một nhà họ Thôi, thờ mẹ chồng rất có hiếu. Mẹ chồng tuổi già răng rụng hết, không nhai cơm được, Đường thị hằng ngày phải tắm rửa sạch sẽ, rồi cho mẹ chồng bú, nhờ thế hằng mấy năm mẹ chồng không ăn cơm mà vẫn sống mạnh khoẻ.

Khi mẹ chồng sắp chết, có khấn nguyện với Trời Phật hộ trì cho các dâu con của Đường thị được hiếu thảo. Quả vậy, sau các dâu con đều noi gương Đường thị mà ăn ở hiếu kính.

Dâu họ Thôi ai bằng Đường thị,

Thương mẹ chồng niên kỷ đã cao.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



ĐƯỜNG THƯỢNG 

Cha mẹ còn sống và đang còn ở tại nhà thì gọi là “Phụ mẫu tại đường”. Vì vậy, hai chữ “Đường thượng” (Trên nhà) dùng để chỉ cha mẹ.

Ngoài ra, “Đường thượng” còn là một từ dùng để chỉ vị trưởng quan xét xử trên công đường.

Chốn đường thượng khi hầu bưng nước,

Giả làm điều ngã trước thềm hoa.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



ĐƯỜNG TRIỀU 

Hay “Đường trào”.

Triều đại nhà Đường.

Tuỳ Dạng Đế ham mê tửu sắc, tiêu phí xa xỉ, hiếu chiến, thường gây hấn chiến tranh với các nước lân bang, khiến nhân dân ta thán. Anh hùng hào kiệt khắp mọi nơi nổi lên chống lại nhà Tuỳ.

Lý Uyên và con là Lý Thế Dân đánh thắng nhà Tuỳ và dẹp yên các nhóm khác để lên ngôi hoàng đế, mở ra triều đại nhà Đường, truyền được 20 đời vua và trị vì được 290 năm, từ 610 đến 906.

Đoàn công vâng mệnh Đường triều.

Trước xe phủ dụ, giặc nào chẳng tan.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Đường trào hạ thế hưởng 
tam quan,

Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

ĐỨT DÂY

Bởi chữ “Đoạn huyền  ” là dây đàn đứt.

Vợ chồng được ví với dây hai cây đàn cầm và đàn sắt hoà tiếng với nhau. Nếu một dây đàn bị đứt thì hết hoà âm. Do vậy, “Đoạn huyền” là đàn đứt dây dùng để chỉ người đàn ông vợ chết.

Trái lại, đàn ông vợ chết lấy vợ khác được gọi là “Tục huyền” (Tức nối dây lại).



Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.

Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...