D - Đ
DA MỒI
Tức là da trổ đồi mồi. Ý nói những người lớn tuổi da trên thân thể bắt đầu ửng hiện ra những điểm thâm tựa như da con đồi mồi.
Da mồi chỉ người sắp già
như câu thành ngữ “Tóc bạc da mồi”.
Chốc là mười mấy năm trời,
Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
(Truyện Kiều).
Chẳng còn yểu điệu hình mai,
Da mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.
(Nư Trung Tùng Phận).
DA NGỰA
Do chữ “Mã cách loã thi 馬 革 裸 屍”, nghĩa da ngựa bọc thây.
Do điển: Mã Viện đời Đông Hán lãnh chức Phục Ba Tướng Quân có công dẹp bọn rợ Ngũ Man Khê lúc ông đã già hơn 80 tuổi. Ông đã từng nói: Làm trai nên chết chốn sa trường, biên ải, lấy da ngựa bọc thây. Sau ông quả thật chết trong quân và được phong làm Tân Tức Hầu. Nghĩa bóng: Chết giữa chiến trường.
Xem: Hồng mao.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng,
thương thay phép trọng để thần khinh,
phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.
(Văn Tế Trận Vong).
DA NGỰA BỌC THÂY
Bởi câu “Mã cách loã thi 馬 革 裸 尸” tức là lấy da ngựa để bọc thi hài. Nghĩa bóng dùng để nói chiến sĩ chết nơi chốn chiến trường, trận địa.
Xem: Da ngựa.
Thà chẳng may một giấc chốn tràng sa,
da ngựa bọc thây mới phải.
(Văn Tế Trương Định).
Một chắc xa trường rằng chữ hạnh,
nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy,
xá đợi gươm hùm treo mộ.
(Văn Tế Nghĩa Sĩ).
DÃ HẠC 野 鶴
Dã: Đồng quê. Hạc: Chim hạc.
Chim hạc đồng (Hạc nội).
Hạc là một loài chim ở đồng nội, thích bay phóng túng, không chịu nhốt lồng, nên người ta còn gọi là hạc đồng, hay hạc nội. Dùng để ví với những người thích tự do, ở ẩn, không chịu ra làm quan.
Dã hạc còn là một cuốn sách dạy bói toán, gọi là “Quẻ dã hạc”.
Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối
đổ biển ta chẳng bỏ bèn.
Huyệt chấn long toan bán đất trời, ngôi mả
táng cha tìm còn chưa chỗ.
(Hàn Nho Phong Vị Phú).
Huỳnh kim, Dã hạc sách cao,
Lục nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay.
(Lục Vân Tiên).
DÃ MAN 野 蠻
Dã: Đồng quê. Man: Mọi, rợ.
Dã man dùng để chỉ những hạng người hung dữ, man rợ, chưa được khai hoá.
Dã man còn là tiếng dùng
để mắng nhiếc.
Dầu khôn, mẹ cũng cho ngu,
Tài chi trong kiếp tội tù dã man.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Sao ta cứ dã man quen thói,
Đem mình nô mà luồn lỏi dưới cường quyền.
(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).
DÃ TÂM 野 心
Tâm chưa thuần, còn phóng túng không kềm thúc được. Sau nầy người ta dùng chữ “Dã tâm” với nghĩa là lòng ham muốn lớn lao, không chịu an phận.
Hiện nay, chữ “Dã tâm” còn có nghĩa tâm xấu xa, muốn hãm hại người
khác.
Tham lam học thói bưởi bồng,
Đặng chim bẻ ná, toan hòng dã tâm.
DÃ TƯỢNG 野 象
Bồi tướng của Trần Hưng Đạo Vương.
Dã Tượng nổi tiếng là
người có sức khoẻ khác thường. Lúc Hưng Đạo Vương thua quân ở Chi Lăng, Dã
Tượng cùng với Yết Kiêu hết sức phò tá mới chạy thoát được về Vạn Kiếp.
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Hưng Đạo nghe biết trước sau,
Yết kiêu Dã Tượng truyền vào trong cung.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
DẠ ĐÀI 夜 臺
Dạ: Ban đêm. Đài: Đền đài.
Dạ đài có nghĩa (Nghĩa đen) là chỗ ở ban đêm, chỉ mộ phần, cõi Âm phủ. Nghĩa bóng: Chỉ Âm phủ.
Thơ Lý Bạch có
câu: Dạ đài vô hiểu nhật, Cô tử dữ hà nhân? 夜 臺 無 曉 日 沽 酒 與 何 人? Nghĩa là: Dạ
đài không ánh sáng, Mua rượu uống cùng ai?
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rẩy xin chén nước cho người thác oan.
(Truyện Kiều).
Đã đành đá nát vàng phai,
Đã đành xuống chốn dạ đ
ài gặp nhau?
(Lục Vân Tiên).
Chốn Dạ đài Thập Điện Từ Vương,
Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.
(Kinh Tận Độ).
Vói nhắn khách Dạ đài có tưởng,
Vậy bóng hình để tướng nơi nao?
(Kinh Thế Đạo).
Tình thâm một gánh còn dương thế,
Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.
(Đạo Sử).
DẠ SỞ BỤNG TẦN
Câu thành ngữ cho thấy bụng dạ khác nhau: Bụng thì Tần dạ thì Sở, ý muốn nói bụng dạ hay thay đổi, hay tráo trở, thâm hiểm.
Thẹn thay cho kẻ vô nghì.
Khi này dạ Sở, lúc kia bụng Tần.
(Nhị Độ Mai)
DẠ THAM SANG
Chỉ một nhân vật nước Tề vì tham tiếng sang mà phải lừa dối vợ.
Sách Mạnh Tử viết: Một người nước Tề có hai người vợ ở chung nhà. Người ấy cứ ngày ngày đi đâu về cũng thấy no say. Người vợ cả hỏi đi ăn uống với ai, thì người ấy nói đi ăn uống toàn là với người giàu sang quyền quý.
Người vợ cả bảo người vợ lẻ rằng: Chồng đi đâu thì cũng ăn uống no say rồi mới về. Hỏi thì nói rằng đi ăn uống với những người sang giàu.Thế mà ta chưa thấy ai là người sang trọng đến nhà ta. Ta sẽ dò xem chồng ta đi đâu.
Ngày hôm sau, sáng sớm,
người vợ cả lẻn đi theo người chồng, đi khắp mọi nơi, không thấy ai đứng nói
chuyện với chồng mình. Sau thấy chồng đi về xóm hướng đông, chỗ có người đang
cúng mả, xin những đồ người ta cúng tế xong mà ăn, ăn chưa đủ, lại đi tìm những
chỗ nào có cúng để xin ăn nữa. Ấy là cái cách của chồng làm cho được no say là thế.
Người vợ cả về nói với người vợ lẻ rằng: Người chồng là người của ta trông cậy
suốt đời, nay đê hạ như thế đấy. Người vợ cả kể cái xấu xa của chồng với người
vợ lẻ, rồi cả hai người cùng khóc ở giữa sân. Người chồng về không biết, hớn hở
đi từ ngoài vào, lên mặt với hai người vợ.
Uốn lưỡi vạy, ghét người nước Sở;
Dạ tham
sang, ghét kẻ nước Tề.
(Sãi Vãi).
DẠ VŨ 夜 雨
Hay “Dạ võ”.
Dạ: Ban đêm. Vũ: Trời mưa.
Dạ vũ tức là trời mưa ban đêm.
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
DẠ XOA 夜 叉
Tiếng Pali Yakkha.
- loài Thần (Thần dạ xoa) có sức mạnh khác thường.
- Một loại quỷ có hình thù cổ quái ở cõi Âm phủ để Diêm Vương sai khiến đi bắt và hành phạt các tội hồn.
Còn là một loài quỉ hay phá phách người tu hành bằng cách gây tiếng động ồn ào trong lúc họ thiền.
Theo Kinh Duy Ma, quỷ Dạ xoa, còn gọi là Dược xoa, dịch nghĩa là Tiệp tật quỷ (quỷ nhanh nhẹn). Có ba loại: Một ở mặt đất, hai ở hư không, ba là thiên dạ xoa.
Quỷ Dạ xoa quất bụi xuống chi đây,
Người bách nghệ đến đâu đề khổ não.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
Dạ xoa giữ việc gian tà,
Người nào mắc tội cho tra hành hình.
(Dương Từ Hà Mậu).
Nào là Địa ngục, Dạ xoa,
Nào là hao phá, sao sa cửa mình.
(Huấn Nữ Ca).
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỷ Dạ xoa đánh vả kẹp cưa.
(Kinh Sám Hối).
DẢI ĐỒNG
Hay “Dải đồng tâm”.
Bởi chữ “Đồng tâm đái 同 心 帶”. Theo Tuỳ thư: Tuỳ Dượng Đế sai lấy lụa ngũ sắc kết thành nút gọi là đồng tâm kết (Dải đồng tâm) để ban cho các vị quý phi trong cung để tỏ lòng yêu thương khắn khít.
“Dải đồng” hay “Dải đồng tâm” dùng để chỉ sự thương yêu bền chặt giữa vợ chồng.
Xem: Đồng tâm.
1.- Trong văn học:
Bấy lâu khắn khít “Dải đồng”,
Thân người, người cũng chia lòng riêng tây.
(Truyện Kiều).
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
2.- Trong kinh sách Cao
Đài:
Phong ba dầu được dìu qua khỏi,
Nhớ bởi chung nhau kết dải đồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nào khi ước giữ niềm son sắt,
Nào thề non nắm chặt dải đồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DẢI ĐỒNG TÂM
Bởi chữ “Đồng tâm kết 同 心 結” hay “Đồng tâm đái 同 心 帶”.
Theo Tuỳ Thư: Tuỳ Dượng Đế sai lấy lụa ngũ sắc kết thành nút gọi là đồng tâm kết (Dải đồng tâm) để ban cho các vị quý phi trong cung để tỏ lòng yêu thương khắn khít.
“Dải đồng” hay “Dải đồng tâm” dùng để chỉ sự thương yêu bền chặt giữa vợ chồng.
Một dải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai.
(Đạo Sử).
Biết tình nghĩa biết mùi ân ái,
Chia đau thương cột dải đồng tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Giọt lệ thiếp vì phiền mà chảy,
Gẫm thương người chia dải đồng tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DẢI KẾT
Do chữ “Đồng tâm kết 同 心 結” là một sợi dây thắt lưng có hai giải lụa buộc lại với nhau, biểu hiện sự kết hợp vợ với chồng, cùng một lòng như nhau.
Do điển tích trong Tuỳ Thư: Vua Tuỳ Dượng Đế sai lấy lụa ngũ sắc kết lại với nhau gọi là “Đồng tâm kết” (Dải đồng tâm) để ban cho các quý phi, tỏ lòng yêu thương khắn khít.
Xem: Đồng tâm đái.
Ví sớm biết phận mình ra thế,
Dải kết điều ỏe ọe làm chi.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
DÃI NGUYỆT DẦU HOA
Dãi dầu: Trải chịu. Nguyệt hoa: Chỉ sự trăng hoa.
Dãi nguyệt dầu hoa tức là chịu đựng những nỗi vất vả đau đớn trong trường nguyệt hoa, chỉ tình cảnh khổ sở của gái lầu xanh.
Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
(Truyện Kiều).
DÀY GIÓ DẠN SƯƠNG
Tức là dày dạn sương gió, ý nói tấm thân phải dầm sương trải gió, chịu nhiều nỗi gian nan, cực khổ.
Dày gió dạn sương còn
dùng để chỉ những người có cuộc sống ê chề khổ não.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
(Truyện Kiều).
DANH DƯƠNG 名 揚
Danh: Tiếng tăm. Dương: Nêu cao lên.
Danh dương là tên tuổi và tiếng tăm được nêu cao lên. Theo Khổng Tử người con hiếu nếu: Dương danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã 揚 名 於 後 世, 以 顯 父 母, 孝 之 終 也, tức là nêu danh hậu thế, làm rạng rỡ cha mẹ, đó là đạo hiếu rốt của con người.
Nệ gì định tỉnh lễ thường,
Làm cho thân hiển danh dương mới là.
(Hoa Tiên Truyện).
DANH GIÁ 名 價
Danh: Tiếng tăm. Giá: Giá trị.
Danh giá là tiếng tăm và giá trị.
Phấn vua, lộc nước, ân trời,
Muôn nghìn danh giá năm mười nhân duyên,
(Hoa Tiên Truyện).
DANH HUYÊN LẠC ẤP 名 喧 洛 邑
Tên tuổi vang dội khắp Lạc Ấp.
Do câu: Lục Cơ, Lục Vân, danh cộng huyên ư Lạc Ấp 陸 機, 陸 雲, 名 共 喧 於 洛 邑, nghĩa là ông Lục Cơ, Lục Vân, danh cùng dội đất Lạc Ấp.
Tấn Thư ghi: Hai anh em Lục Cơ và Lục Vân người huyện Hoà đình. Nhà Tấn diệt nhà Ngô, anh em đều ở đất Lạc Ấp, đều nhờ tài danh, vang rền một thuở.
DANH LỢI 名 利
Danh: Tiếng tăm. Lợi: Quyền lợi hay lợi lộc.
Danh lợi tức là công danh mang đến tiếng tăm, lợi lộc và đem lại tiền tài, vật chất.
Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Đấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
(Sám Hôi Kinh).
Ðã nhiều danh lợi bước đua tranh,
Nhọc xác lao tâm hỏi có thành?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nẻo danh lợi vào ra ai cấm,
Mắt sáng soi cái dậm quan hà.
(Phương Tu Đại Đạo).
DANH SĨ 名 士
Danh sĩ là người nổi tiếng, có đức hạnh, học thức tinh thông, không chịu ra làm quan.
Kinh Lễ có câu: Miễn
chư hầu, sính danh sĩ 勉 諸 侯, 聘 名 士, nghĩa là khích lệ chư
hầu, mời rước danh sĩ.
Hẳn người danh sĩ cao tài,
Đi đâu đồ đệ lạc loài đến đây.
(Nữ Tú Tài).
DANH TIẾT 名 節
Danh: Tiếng tăm, danh dự. Tiết: Khí tiết, tiết tháo.
Danh tiết có nghĩa danh dự và khí tiết của con người.
Thương tình mà ngậm ngùi cho,
Rằng: Danh tiết ấy thơm tho ai bì.
(Hoa Tiên Truyện).
DANH TÍNH 名 姓
Danh: Tên. Tính: Họ
Danh tính hay danh tánh là tên và họ.
Chẳng hay danh tính là chi?
Một mình mang gói ra đi việc gì?
(Lục Vân Tiên).
DANH VỌNG 名 望
Danh là nổi tiếng. Vọng là ngưỡng mộ.
Danh vọng là nổi tiếng về tiền bạc, tài năng hay đức độ khiến người
đời nhìn vào mà ngưỡng mộ.
Lo danh vọng hao mòn thân thể,
Ham làm giàu của để bằng non.
(Kinh Sám Hối).
DAO TRÌ 瑤 池
Hay “Diêu Trì”.
Dao (Hay diêu): Một loại ngọc quý, đẹp. Trì: Cái ao. Dao Trì là một cái ao được làm thành toàn bằng ngọc dao. Ao Diêu trì nằm nơi Cung ngự của bà Tây Vương Mẫu, nên Cung này được gọi là Dao Trì Cung hay Diêu Trì Cung, và Phật Mẫu được gọi là Diêu Trì Phật Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu.
Xem: Dao Trì Cung.
Trai tài gái sắc ai bì,
Doanh châu ấy khách, "Dao trì" nọ tiên.
(Hoa Tiên Truyện).
Tạo Hóa Thiên Huyền vi Thiên Hậu
Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì
(Kinh Phật Mẫu).
DAO TRÌ CUNG 瑤 池 宮
Hay “Diêu trì” là một cái ao bằng ngọc dao.
Tương truyền, nơi cung
điện bà Tây Vương Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu có một cái ao bằng ngọc dao, cho nên
người ta gọi nơi đó là “Dao Trì cung”, hay “Diêu Trì cung”.
Quân đi lẫm liệt oai phong,
Dao trì cung khuyết, nhác trông gần gần.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
Phép Lục Nương gìn giữ Chơn hồn.
(Kinh Tận Độ).
DẶM BĂNG
Dặm là chỉ một khoảng đường dài. Băng là đi tắt ngang qua. Dặm băng tức là đường đi tắt, đường đi xuyên ngang qua.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
(Truyện Kiều).
DẶM HOA
Dặm chỉ đường đi. Hoa là bông hoa.
Dặm hoa là đường đi, hai
bên có trồng nhiều loại hoa kiểng.
Thắng du tiện nẻo quan đăng,
Trông vời non Liễu, băng chừng dặm hoa.
(Mau Đình Mộng Ký).
DẶM HOÈ
Dặm là một khoảng đường đi. Hoè là cây hoè, một loại cây to, hoa màu vàng, thường hay trồng hai bên bờ lộ. Dặm hoè là con đường đi hai bên lộ có trồng cây hoè, dùng để gọi chung là đường đi.
Mến chúa dặm hoè xe lẩn quất,
Nhớ nhà đường hạnh ngựa giềnh giàng.
(Hồng Đức Quốc Âm).
DẶM HỒNG
Dặm là khoảng đường dài. Hồng tức hồng trần là bụi đỏ. Dặm hồng là chữ dùng để chỉ đường đi đầy gió bụi, đi một cách vất vả.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
(Truyện Kiêu).
DẶM LIỄU
Theo Hán thư: Ngày xưa bên Trung Quốc trên các con đường đều có trồng cây liễu, cứ năm dặm có một cái đình, gọi là “Đoản đình”, cứ mười dặm có một cái đình, gọi là “Trường đình” để khách bộ hành vào đó nghỉ chân, hay bẻ cành liễu để tiễn biệt nhau.
Xem: Trường đình.
1.- Chỉ nơi tiễn biệt:
Rượu đào mấy độ vơi đầy,
Trường đình dặm liễu phân tay vội vàng.
(Lưu Nữ Tướng).
2.- Chỉ nơi tha hương:
Nơi nơi tang giá bóng day,
Cày lui dặm liễu mục hoài đường lê.
(Dương Từ Hà Mậu).
Ngàn mai gió cuốn chim bay mõi,
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn.
(Thơ Huyện Thanh quan).
DẶM NGÀN
Hay “Dặm nghìn”.
Bởi chữ “Thiên lý 千 里” là ngàn dặm. Dặm ngàn hay dặm nghìn dùng để chỉ đường xa thăm
thẳm.
Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
(Truyện Kiều).
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
DẶM PHẦN
Phần: Tên một loài cây, cây phần thường trồng ở trong làng, nên người ta
thường gọi chỗ quê hương, xứ sở là “Phần du 枌 榆”hoặc “Tử phần 梓
枌”.
Dặm phần là đường đi có trồng những cây phần, chỉ đường đi ở làng xóm, quê hương.
Nghĩa rộng chỉ nơi chôn
nhau cắt rún.
Cửa trời rộng mở đường mây,
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
(Truyện Kiều).
DẶM TRƯỜNG
Dặm: Chỉ đường đi. Trường: Dài, xa.
Dặm trường tức là đường trường, chỉ đường dài, đường đi xa diệu vợi.
Roi câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
(Truyện Kiều).
DẶM XANH
Dặm xanh tức là đường đi hai bên có trồng cây và mặt đường có màu xanh của hoa cỏ.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
(Truyện Kiều).
DÂY CÁT ĐẰNG
Cát đằng 葛 藤: Dây sắn bìm và dây
mây.
Dây cát đằng là hai loại dây leo chuyên sống bám nhờ vào gốc cây khác. Chữ cát đằng còn có nghĩa là vương vấn, vấn vít.
Cát đằng dùng để chỉ
việc nương nhờ vào kẻ khác.
Dây cát đằng tỉ phận mỏng mành,
Cội tòng bá đã đành nương gởi phận.
(Phương Tu Đại Đạo).
DÂY HUÂN
Dây đàn gảy khúc “Nam phong ca”.
Bởi chữ “Huân phong 薰 風” là ngọn gió mát mẽ.
Thuấn có câu thơ: Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề 南 風 之 薰 兮, 可 以 解 吾 民 之 慍 兮, nghĩa là gió nam thổi mát hề, khiến dân ta được khỏi nhọc nhằn hề.
Cầm giao sẵn gióng dây huân,
Nuôi tươi chậu chậu, cắm xuân cành cành.
(Hoa Tiên Truyện).
DÂY OAN
Tức dây oan nghiệt.
Dây oan tức những điều oan nghiệt và mầm ác mà con người sống ở thế
gian đã gây ra, tạo thành những sợi dây vô hình ràng buộc lẫn nhau, trở thành
oan gia trái chủ.
Dây oan xe chặt buộc mình,
Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.
(Kinh Tận Độ).
Gởi hồn phách cho chàng định số,
Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.
(Kinh Thế Đạo).
Mừng nay Thanh Thủy giải dây oan,
Đường Đạo từ đây bước vững vàng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
DÂY UYÊN
Dây uyên là một trong hai sợi dây đàn giăng ngang nhau, ví như đôi chim uyên ương 鴛 鴦, một con chết thì con kia chết theo, chỉ vợ chồng.
Vợ chồng đôi bạn vắng
nhau, cho nên không muốn đàn, vì một dây đã đứt thì ngại dây kia đứt theo.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
DÂY SẮN
Bởi chữ “Cát đằng 葛 藤” là dây sắn, dây bìm.
Dây sắn dây bìm là một
loại dây leo chuyên quấn nhờ những cây thân to, được dùng để ví với người đàn
bà sống nương nhờ bóng của ông chồng.
Quản bao tuyết đợi, sương chờ,
Xin đem dây sắn may nhờ bóng thung.
(Hoa Tiên Truyện).
DÂY THẮM
Cùng nghĩa với “Tơ thắm”, lấy ý từ chữ “Xích thằng 赤 繩” là sợi chỉ hồng, hay tơ hồng.
Do tích Nguyệt Lão xe tơ, tức là một ông già ngồi dưới trăng, dùng sợi tơ hồng để buộc chân hai người nam nữ có duyên nợ với nhau thành vợ chồng.
Dây thắm chỉ duyên đôi lứa hay duyên vợ chồng.
Xem: Chỉ thắm.
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
Quyết đem dây thắm mà giam bông đào.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
DẤY PHỤNG RỜI GIAO
Dịch từ chữ “Khởi phụng đằng giao 起 鳳 滕 蛟” là phượng dậy rồng bay.
Dấy phụng rời giao có ý nói văn chương hay, đẹp.
Xem: Đằng giao phụng múa.
Nói ra vàng đá chẳng xao,
Văn ra dấy phụng, rời giao tưng bừng.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
DÂM BÔN 淫 奔
Dâm: Chỉ ham mê nhục dục. Bôn: Chạy.
Dâm bôn có nghĩa vì sự ham muốn dâm dục mà chạy theo nhau, chứ không có cưới hỏi.
Cũng còn có lễ lệ bì,
Chê loài cẩu hợp răn bề dâm bôn.
(Truyện Trinh Thử).
DÂM Ô 淫 污
Dâm: Dâm dục. Ô: Nhơ nhuốc.
Dâm ô là dâm dục một cách xấu xa, nhơ nhuốc.
Lữ Gia truyền hịch bốn phương,
Nỗi Hưng thơ dại, nỗi nàng dâm ô.
(Quốc Sử Diễn Ca).
DÂM PHONG 淫 風
Dâm: Chỉ ham mê nhục dục. Phong: Phong tục, thói tục.
Dâm phong là quen thói dâm đãng.
Dâm phong còn có thể hiểu là thói tục hay phong tục dâm đãng. Ví dụ như nước Trịnh, Vệ của Trung Quốc thời xưa, theo sử sách còn truyền lại là nước “Dâm phong”.
Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,
Thói dâm phong rù quến nguyệt hoa.
(Giới Tâm Kinh).
DÂM PHỤ GIAN PHU 淫 婦 奸 夫
Dâm phụ: Người đàn bà dâm đãng. Gian phu: Người đàn ông gian
tà.
Dâm phụ gian phu là chỉ những người đàn bà dâm đãng, lấy chồng người và những kẻ đàn ông gian tà, lấy vợ kẻ khác.
Nơi Địa ngục gông kềm sẵn đủ,
Để răn loài dâm phụ gian phu,
(Giới Tâm Kinh).
DÂM THANH 淫 聲
Dâm: Dâm dục. Thanh: Tiếng.
Dâm thanh là những tiếng hay những lời nói có tính khêu gợi lòng dâm dục.
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chín chút bợn lời sam sưa.
(Gia Huấn Ca).
DÂN CON ĐỎ
Con đỏ do chữ xích tử là con mới đẻ thịt da còn đỏ. Ở đây dẫn câu: Nhược bảo xích tử 若 保 赤 子 trong thiên Khang Cáo (Kinh Thư), nói ví thương dân như thương con đỏ còn nhỏ dại. Thương dân ngu mà phạm phép cũng như thương con đỏ, nhỏ dại sắp té giếng.
Nghĩa bóng: Quan trên
thương xót dân lành.
Nước sông vàng leo lẻo dòng xanh,
Dân con đỏ hây hây nhà rạng.
(Sãi Vãi).
DÂN ĐEN
Bởi chữ “Lê dân 黎 民” là dân đen. Lê: Sắc đen. Dân: Dân chúng.
Dân đen dùng để chỉ
những người dân thường không có chức vị, quyền hành gì.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
(Bình Ngô Đại Cáo).
DÂN MỤC 民 牧
Dân: Người dân. Mục: Chăn dắt.
Dân mục hay là mục dân tức là chăn dân, chỉ các quan lại trong hạt cai trị chăn dắt người dân.
Xem: Mục dân.
Đòi Giang tri phủ quở dồn:
Khen làm dân mục dung con bất tài.
(Nhị Độ Mai).
DÂN PHONG CẦN NOẠ 民 風 勤 惰
Dân phong: Lề thói của dân. Cần noạ: Siêng năng hay lười
biếng.
Dân phong cần noạ tức là lề thói của dân chúng siêng năng hay biếng nhác.
Người xưa hay nhìn việc
cày cấy, làm lụng ở đồng ruộng của dân mà biết được dân sự có chăm chỉ cần cù
làm ăn hay không.
Nhìn dã sắc, xét dân phong cần nọa,
Ngắm thuỷ quang, soi vật tính thanh ô.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
DÂN TRONG NƯỚC
Bỡi chữ “Quốc dân 國 民”, tức là dân của một nước. Hễ là dân của một nước thì phải chịu dưới quyền của vua và luật pháp của nước đó.
Do vậy, mới có câu chuyện sau: Hán Văn Đế rất mộ đạo, nghe tiếng vị tiên Quảng Thành Tử bèn sai sứ đến rước về triều. Quảng Thành Tử nói với sứ giả: Nếu trọng người, lẽ nào không đích thân tới rước, mà lại sai sứ tới rước? Sứ về tâu lại, Hán Văn Đế gặp Quảng Thành Tử, nhà vua nói: Ở trong nước là bề tôi của vua, Thầy tuy có đạo mặc dầu, song cũng là dân của trẫm, sao không chịu hạ mình xuống một chút mà lại kiêu như vậy? Hay trẫm không làm được hoạ phước cho Thầy chăng?
Quảng Thành Tử nghe vua nói như vậy, liền cất mình bay lên cao một trăm thước, ngồi trên thinh không ngó xuống nói với Văn Đế rằng: Nay, trên chẳng tới trời, dưới chẳng tới đất, Bệ hạ làm hoạ phước cho ta sao đặng. Vua Hán Văn Đế biết lỗi, liền xuống xe làm lễ xin thọ giáo.
DẪN ĐAO CÁT TỴ 引 刀 割 鼻
Lấy dao cắt mũi.
Con gái của ông Hạ Hầu Văn Ninh tên là Lịnh, gả cho Tào Văn Thúc,
bị goá chồng sớm, không con, sợ người nhà đem gả mình, bèn cắt tóc, lắt lỗ tai
để tự thề giữ trọn tiết. Về sau cha nàng rước về, khuyên nàng cải giá, nàng lấy
dao cắt lỗ mũi, thề nguyền không đổi chí.
DẪN KHẤU NHẬP ĐÌNH 引 寇 入 亭
Dẫn khấu: Dẫn dắt bọn trộm đạo. Nhập đình: Vào đình hay vào
nhà.
Dẫn khấu nhập đình tức là dẫn trộm vào nhà. Theo lý thuyết y học, dẫn khấu nhập đình tức là đưa những thứ thuốc xấu vào cơ thể, gây bệnh nặng thêm.
Trong ngoài nhận chứng chăn tinh,
Mang câu dẫn khấu nhập đình tội to.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
DÂNG CANH
Tức dâng canh thịt cho mẹ.
Do tích thời Xuân Thu,
có người tên là Dĩnh Khảo Thúc làm quan nước Trịnh. Có công lớn Trịnh Trang
Công ban cho món canh thịt, ông để dành thịt đem về dâng cho mẹ. Trịnh Trang
Công nghe chuyện có ý buồn và hối hận vì đã giam mẹ là Khương Thị ở ấp Dĩnh.
Sau theo kế Dĩnh Khảo Thúc đón mẹ về cung đoàn tụ.
Kìa ai kế chí danh còn để,
Nọ kẻ dâng canh sự hãy còn.
(Hồng Đức Quốc Âm).
DÂNG CẦN
Bởi chữ “Hiến cần 獻 芹” tức là dâng rau cần, một lời tự khiêm, ý nói dâng chút lễ thành.
Sách Liệt Tử chép: Ngày
xưa có người nông dân ăn rau cần thấy ngon, mới mời phú ông ăn. Phú ông ăn thử,
thấy vị cay, sau lại đau bụng, bèn phiền vị nông phu kia. Rau cần đối với vị
nông phu nghèo thì ăn ngon, nhưng đối với phú ông giàu có thì dở và có hại. Cho
nên khi tặng ai vật gì ta đều phải nói khiêm là đồ không ngon, không tốt. Chữ
“Hiến cần”(Dâng rau cần) là lời nói tự khiêm có nghĩa rau cần không ngon, không
tốt. Xem: Hiến bộc hay cần bộc.
Giám từ vội vã sắm sanh,
Dâng cần chưa kịp phỉ tình tôi con.
(Hạnh Thục Ca).
DẬP LỬA VÙI HƯƠNG
Lửa hương bởi chữ hương hỏa, là do ngày xưa khi thề nguyền về nhân duyên dùng hương lửa, tức nhang đèn mà thề nguyền trước biển và núi (Thệ hải minh sơn), hay thần linh, chỉ nhân duyên.
Dập lửa vùi hương nghĩa
là dập vùi hương lửa, ý nói lời thề bị phai lạt, tức nhân duyên bị vùi dập.
Ấy ai dập lửa vùi hương,
Để ai nát đá phai vàng với ai?
(Hoa Tiên Truyện).
DẬT LẠC 逸 樂
Dật: Rảnh rang. Lạc: Vui vẻ.
Dật lạc có nghĩa là rảnh rang vui vẻ.
Chê sự đời phú quý vinh hoa,
muốn vui thú thanh nhàn dật lạc.
(Sãi Vãi).
DÂU BỂ
Bởi chữ “Tang hải 桑 海”, tức biển dâu.
Theo Thần tiên truyện thì cứ ba chục năm lại có một lần thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu, ý nói sự thay đổi.
Nghĩa bóng: Một cuộc biến đổi lớn lao.
Xem: Tang hải thương
điền.
Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình.
(Truyện Kiều).
Trái đất vô tình lăn lộn mãi,
Cuộc đời dâu bể biết bao thôi.
(Thơ Tản Đà).
DÂU XANH BÃI BỂ
Bởi chữ “Tang điền thương hải 桑 田 蒼 海” tức là ruộng dâu biển xanh.
Dâu xanh bãi bể dùng để nói sự biến hoá thay đổi của trời đất, vạn vật.
Xem: Tang thương.
Khúc sông bồi lấp nên cồn,
Dâu xanh bãi bể, đá mòn nước khe.
(Thơ Tản Đà).
DẤU BÈO
Dấu bèo là chữ dùng để nói nhún nhường, ví như cánh bèo trôi nổi linh đinh trên mặt nước, không biết nương nhờ vào đâu.
Nghĩ mình thô lậu bậc thường,
Dấu bèo biết có vào gương trang đài.
(Ngọc Kiều Lê).
Dấu bèo nhờ có đèn trời rạng,
Lượng bể dong cho sóng đất êm.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
DẤU GIẦY NON MÃ
Tức là dấu giầy của Dương Quý Phi ở Mã Ngôi.
Do tích An Lộc Sơn nổi lên làm loạn, Đường Huyền Tông cùng Dương Quý Phi phải chạy vào đất Thục, đến ghềnh Mã Ngôi, quân sĩ không chịu tiến bước, buộc Huyền Tông giết Dương Quý Phi. Vua đành phải nghe theo.
Bạch Cư Dị có câu: Mã Ngôi pha hạ nê thổ trung, bất kiến ngọc nhan không tử xứ 馬 嵬 坡 下 泥 土 中, 不 見 玉 顏 空 死 處, nghĩa là dưới chỗ bùn đất ở ghềnh Mã Ngôi, không thấy gương mặt ngọc, chỉ thấy nơi nàng chết.
Ải Vân oán điệu tỳ bà,
Giấu giày non Mã sương pha nên đồ.
(Hoa Tiên Truyện).
DẤU THỎ ĐƯỜNG DÊ
Dấu thỏ đường dê ý nói đường sá rậm rạp, xa xôi và vắng vẻ, không có người đi, chỉ toàn dấu chân thỏ và chân dê.
Trải qua dấu thỏ đường dê,
Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
(Lục Vân Tiên).
DẦU SỐNG SÓT CŨNG ĐÀNG
GỌI THÁC
Người đàn bà ngày xưa khi chồng đã chết rồi, thường tự xưng mình là “vị vong nhân 未 亡 人”, là người chưa chết, ý muốn nói phận đàn bà buộc phải theo chồng, lẽ ra chồng chết phải chết theo, nếu còn sống sót là người đáng chết mà chưa chết vậy.
Dầu sống sót cũng đành
gọi thác là người vợ tuy còn sống sót (vị vong nhân) nhưng xem như mình đã chết
rồi, tức không còn tha thiết với cuộc đời nữa.
Dầu sống sót cũng đành gọi thác,
Vui chi còn man mác tơ duyên.
(Kinh Thế Đạo).
DỆT GẤM HỒI VĂN
Tức là “Chức cẩm hồi văn 織 錦 回 文”, là một bài thơ của Tô Huệ dệt quanh lộn trên bức gấm, rồi dâng lên cho vua để xin cho chồng đang tòng quân ngoài chiến địa được tha trở về quê nhà.
Xem: Dệt văn Tô Huệ.
Dệt gấm Hồi văn chưa, đã mấy,
Hơn ngồi trươu nuốt tấm tình si.
(Thiên Thai Kiến Diện).
DỆT VĂN TÔ HUỆ
Tức là “Chức cẩm hồi văn 織 錦 回 文”. Chức cẩm: Dệt gấm. Hồi văn: Một thể văn biệt thể, khởi từ ông Tô Bá Ngọc đời nhà Tấn.
Sách Tấn Thư Truyện Liệt
Nữ chép: Vợ của Đậu Thao họ Tô tên Huệ, tự là Nhược Lan. Đậu Thao tùng chinh
vùng lưu sa (Sa mạc), Tô Huệ dệt gấm, dệt thành bài thơ hồi văn, xin cho chồng
về, dệt năm màu chỉ tươi đẹp, dọc ngang qua lại, lời rất bi thương.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DI CHIẾU 遺 詔
Di: Người chết để lại. Chiếu: Tờ giấy ghi mệnh lệnh của vua.
Vua mất đi để lại mệnh lệnh trong một tờ giấy gọi là “Di chiếu”.
Một thiên di chiếu tỏ lòng,
Giữ sau răn trước đủ trong mấy lời.
(Hạnh Thục Ca).
DI DANH 遺 名
Di: Để lại. Danh: Tiếng tăm.
Di danh là để lại tiếng tăm tốt đẹp, đồng nghĩa với chữ “Lưu danh 流 名”.
Theo quan niệm về chữ
hiếu của Đức Khổng Tử, là làm con phải “Lưu danh ư hậu thế dĩ hiển phụ mẫu,
hiếu chi chung dã 流 名 於 後 世, 以 顯 父 母, 孝 之 終 也, nghĩa là để lại tiếng
tăm cho đời sau để làm rạng rỡ cha mẹ, đó là cái hiếu rốt vậy.
Lòng hiếu dưỡng trăm năm đã lỡ,
Lời di danh hai chữ còn mang.
(Tự Tình Khúc).
DI ĐÀ 彌 陀
Tức Phật A Di Đà.
Một trong những vị Phật quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Ngài được thờ trong các ngôi chùa của phái Tịnh Độ Tông tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
A Di Đà là một vị Phật làm Giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc. Ngài biểu hiện cho từ bi và trí tuệ. Ngài có phát 48 lời nguyện rộng lớn là cứu độ tất cả chúng sanh, trong đó có lời nguyện sẽ tiếp dẫn vãng sanh về cõi Tịnh độ, nếu chúng sanh nào hướng niệm đến Ngài.
Xem: A Di Đà.
Chắp tay niệm Phật Di Đà,
Kẻ ngồi người đứng, kẻ ra người vào.
(Hương Sơn Hành Trình).
Chẳng nề muôn dặm đường xa,
Chân đi miệng niệm Di Đà độ thân.
(Nữ Tú Tài).
Cái chốn đoạn trường trang trắng nợ,
Đành cam dưa muối với Di Đà.
(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).
Giáng linh Hộ Pháp Di Đà,
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.
(Kinh Tận Độ).
Tây phương Phật Tổ Di Đà,
Nam Hải Phổ Đà cứu khổ Quan Âm.
(Giới Tâm Kinh).
Thành tâm khả tụng kệ Di Ðà,
Bất vấn trì môn ngữ thậm đa.
(Đạo Sử).
DI ĐÀ SÁU CHỮ
Nghĩa từ câu “Lục tự Di Đà 六 字 彌 陀”.
Di Đà sáu chữ tức là nói
đến câu niệm hồng danh của Đức A Di Đà Phật, giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc.
Đó là câu: “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Di Đà sáu chữ mựa rời,
Chịu truyền năm giới, trọn đời tinh chuyên.
(Hứa Sử Tân Truyện).
DI ĐỊCH 夷 狄
Di địch là mọi rợ, dùng để chỉ bọn giặc cướp, hay chỉ bọn chưa khai hoá.
Ngày xưa người Trung Hoa
cho các dân tộc chưa được khai hoá ở phương đông gọi là Di, phương tây gọi là
Nhung, phương nam gọi là Man, phương bắc gọi là Địch. Nên người ta thường dùng
chữ “Di địch” để chỉ bọn mọi rợ.
Nước Nam ta có mối xung thù,
Cùng giặc Tây là loài Di địch.
(Cáo Thị Cần Vương).
DI HÀI 遺 骸
Di: Để lại. Hài: Xương cốt hình thể con người.
Di hài tức là xác thân của người chết còn để lại.
Di hài nhặt gói về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
(Truyện Kiều).
DI HÌNH 遺 形
Di: Để lại. Hình: Hình hài, tức là cái xác, cái thây.
Di hình có nghĩa là người ta chết đi, sau khi hồn xuất để lại cái xác. Đồng nghĩa với chữ di hài.
Hồ công nghe nói thương tình,
Truyền cho cảo táng di hình bên sông.
(Truyện Kiều).
DI LUÂN 彝 倫
Di: Đạo thường của người đời. Luân: Đạo lý.
Di luân là đạo rất bình thường mà ai cũng biết rõ đó là cương thường và ngũ luân.
Rằng cương thường nặng núi non,
Hãy còn trời đất, hãy còn di luân.
(Hoa Tiên Truyện).
Kể chi kẻ đạt người cùng,
Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
DI LƯU 遺 留
Di: Để lại. Lưu: Để lại về sau.
Người chết đi để lại về sau bất cứ sự việc gì cho con cháu đều gọi là “Di lưu”.
Mọi điều trước dặn biểu cho,
Di lưu chẳng sót, hãy lo việc đời.
(Hạnh Thục Ca).
DI MƯU 遺 謀
Di: Để lại. Mưu: Tính toán.
Di mưu tức là sự tính toán có lợi ích để lại cho con cháu sau này.
Nội đình năm vị nữ quân,
Nặng tình kiêm ái, quên phần di mưu.
(Quốc Sử Diễn Ca).
DI NGÔ 夷 吾
Di Ngô là người nước Tề, thời Xuân Thu, họ Quản tên Trọng, diện mạo khôi ngô, học lực uyên bác, lại có tài kinh bang tế thế.
Di Ngô cùng Bảo Thúc Nha
kết làm anh em sinh tử có nhau. Về sau, Di ngô làm tướng cho Tề Hoàn Công, được
tôn là Trọng phụ, giúp Hoàn Công gầy nên nghiệp bá.
Thái công trí độ tác nhiều,
Di Ngô dám ví Vũ Hầu khá so.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
Dưới màn nhớ tư tưởng Di Ngô,
Trên ngựa những băn khoăn Bạch Khỉ.
(Hàn Vương Tôn Phú).
DI NGÔN 遺 言
Di: Để lại. Ngôn: Lời nói.
Lúc hấp hối những lời nói để lại cho người thân gọi là di ngôn.
Di ngôn cũng có lời này,
Cũng là niên thiếu em rày dám trao.
(Hạnh Thục Ca).
DI SƠN 移 山
Dời núi.
Do tích “Ngu Công di sơn 愚 公 移 山” như sau: Xưa có Ngu Công tuổi đã 90, muốn phá
hai ngọn núi Thái Hành và Vương Ốc chắn ngang nhà ông. Có người thấy vậy cười.
Ông nói: Ta chết đi còn có con, con chết đi còn có cháu, cháu chết đi còn có
con của cháu, như vậy, lo gì không san bằng được hai ngọn núi ấy”.
Nghĩa bóng: Bền chí thì nên việc.
DI TỀ 夷 齊
Viết tóm tên của hai nhân vật là Bá Di và Thúc Tề.
Bá Di, Thúc Tề là hai người con của vua Cô Trúc ở cuối đời Thương, đầu đời Châu. Bá Di là anh cả, Thúc Tề là em út. Vua Cô Trúc yêu Thúc Tề, lập di mệnh cho Thúc Tề nối ngôi. Quốc dân theo di mệnh lập Thúc Tề, Thúc Tề không chịu, nhường lại cho Bá Di cho phải lẽ. Bá Di cũng không chịu, nhường lại cho Thúc Tề để tuân lệnh cha. Không ai chịu nhận rồi cả hai trốn vào núi ở ẩn, quốc dân phải lập người con giữa.
Lúc đó Bá Di và Thúc Tề nghe tiếng Ông Tây Bá Xương khéo nuôi người già, muốn tới qui phục. Tới nơi thì Tây Bá đã mất. Vua Võ Vương chở thần chủ (Linh vị) của Tây Bá đem quân qua đông phạt Trụ. Bá Di Thúc Tề dập đầu trước ngựa mà can rằng: Cha mới chết (Tây Bá Xương) mà dấy động can qua thì có đáng gọi là hiếu không? Làm tôi đánh vua có đáng gọi là trung không? Kẻ tả hữu của nhà vua muốn giết, ông Thái Công bảo: Hai người đó là hiền sĩ, bèn đỡ dậy, rồi thả cho đi.
Khi Võ Vương đánh Trụ
thắng, lên làm vua xưng hiệu nhà Châu, thiên hạ đều thần phục, chỉ Bá Di, Thúc
Tề cho hành vi của Võ Vương là đáng xấu hổ, nên không thờ nhà Châu và giữ nghĩa
khí, chẳng chịu ăn lúa nhà Châu, lên ở ẩn trên núi Thú Dương, hái rau vi mà
nuôi sống. Có người gặp, chê rằng: Không ăn thóc nhà Châu, đi ăn rau để sống.
Vậy chớ ngọn rau tấc đất không phải của nhà Châu là gì? Bá Di, Thúc Tề nghe
được câu chuyện đó, bèn nhịn đói mà chết.
Sáng mai thức dậy trông quanh,
Treo trên thấy có bức tranh Di Tề.
(Nhị Độ Mai).
Di Tề chẳng khứng giúp Châu,
Ăn rau non Thú phải âu trọn mình.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Khiêm nhường ấy mới miều quân tử,
Ai thấy Di Tề có thửa tranh.
(Quốc Âm Thi Tập).
Lại cho cướp đặng báu trời,
Thẹn cùng Tử Ngữ, hổ ngươi Di Tề.
(Hoài Nam KHúc).
DI TỬ HÀ 彌 子 瑕
Tử Hà là người nước Vệ, đời Đông Châu, được vua Vệ Linh Công hết sức yêu mến. Một hôm, bà mẹ đau, Tử Hà trộm lịnh lấy xe vua về thăm, vua khen là người có hiếu. Ngày khác, đi dạo với vua trong vườn cây, gặp đào chín bèn hái trái ăn, thấy ngon còn lại nửa trái liền dâng lên nhà vua. Vua cũng khen: Tử Hà là tôi trung, biết thương quả nhân, ăn miếng ngon mà vẫn chia sớt cho quả nhân.
Sau có người gièm siễm, vua ghét rồi bắt tội Tử Hà phạm hai tội:
Một, khinh mạng vua, lấy trộm xe vua về thăm mẹ. Hai, ăn thừa quả đào rồi dâng
cho vua.
DI THỂ 遺 體
Di: Để lại. Thể: Thân thể.
Sở dĩ gọi là di thể là bởi vì tấm thân của ta do cha mẹ để lại cho ta.
Phù sinh một sợi tơ mành,
Giữ gìn di thể như hình thiên kim.
(Tự Tình Khúc).
Cô trung quyết giữ lời thề,
Để hồn di thể đi về cho an.
(Tự Tình Khúc).
Bấy lâu tin tức đã im,
Ai hay di thể còn tìm thấy đây?
(Quan Âm Thị Kính).
DI TRUYỀN KHUYẾN
THIỆN 遺 傳 勸 善
Di truyền: Truyền để lại. Khuyến thiện: Khuyên làm việc
lành.
Di truyền khuyến thiện là nói kinh sách truyền lại cho những người sau này để khuyên làm những việc thiện lành.
Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
(Kinh Sám Hối).
DÌ GIÓ
Do chữ “Phong di 風 姨”, là dì gió, một vị Thần làm gió.
Theo Bác Dị Chí, Thần gió được gọi là Phong gia thập bát di 風 家 十 八 姨, tức là dì mười tám nhà họ Phong.
Nghĩa bóng: Người đưa tin.
Gặp Hương mới kể sự tình,
Xin nhờ Dì gió đệ trình trướng loan.
(Hoa Tiên Truyện).
Nước non một gánh nhẹ thay,
Lứa vui Dì gió bạn vầy ải trăng.
(Sơ Kính Tân Trang).
Phải rằng: Dì gió hay không?
Phong tình đem thói lạ lùng trêu ai?
(Thơ Tản Đà).
Cậy gió, hềm Dì gió đảo điên,
Mượn trăng, e ả trăng xao lãng.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
DĨ ĐỨC HÀNH NHÂN 以 德 行 仁
Dĩ đức: Lấy phước đức. Hành nhân: Làm nhơn.
Dĩ đức hành nhân nghĩa là lấy điều phước đức để thi hành lòng nhơn của mình.
Chẳng nhớ câu “Dĩ đức hành nhân”,
Lại lấy chữ “Báo ân dĩ óan”.
(Lục Súc Tranh Công).
DĨ HOÀ VI QUÝ 以 和 為 貴
Dĩ hoà: Lấy chữ “Hoà”. Vi quý: Làm điều quý.
Dĩ hoà vi quý là lấy chữ “Hoà” làm điều quý báu, tức là phải sống hoà hợp với mọi người.
Chữ rằng nhân dĩ hoà vi quý,
Vô sự thì hơn kẻo phải lo.
(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).
DĨ MÃ DIỆT NGƯU 以 馬 滅 牛
Lấy ngựa diệt trâu, ý nói lấy người này tiêu diệt người kia, như trong sử Tàu có câu chuyện “Dĩ Lã diệt Dinh 以 呂 滅 贏”, là lấy họ Lã làm tiêu mất họ Dinh.
Do chuyện Lã Bất Vi đời Chiến Quốc, đem vợ đang có thai hai tháng gả cho Dị Nhân, sau đẻ ra Tần Thuỷ Hoàng. Đúng ra, Tần Thuỷ Hoàng là họ Lã (Con Lã Bất Vi), chớ không phải họ Dinh.
Như vậy, khi Tần Thuỷ Hoàng lên ngôi thì họ Dinh, họ vua nhà Tần từ đó đã tiêu mất.
Nghĩ xưa buộc chính chuyên chẳng lạ,
Vì sợ đời dĩ Mã diệt Ngưu.
(Đạo Sử).
DỊ ĐOAN 異 端
Dị: Khác, lạ. Đoan: Mối, ngay thẳng.
Trái với chính đạo gọi là dị đoan.
Những tin tưởng nhảm nhí không đúng sự thật. Ngày nay chữ “Dị đoan” thường được gắn liền với mê tín.
Luận ngữ có câu: Công hồ dị đoan 功 乎 異 端, tức là đánh tan những mối dị đoan.
Dị đoan mê hoặc khôn chừa,
Chùa tô phật tượng, đình thờ Thích Ca.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Bấy lâu chuộng thói dị đoan,
Đến nay mới biết lầm đường đi xa.
(Dương Từ Hà Mậu).
Hội xem cho rõ phép Thiên Hoàng,
Cầu lếu những điều của dị đoan.
(Đạo Sử).
DỊ NHÂN 異 人
Tên cháu vua nước Tần, đem quân đánh với Triệu thua, bị bắt làm con tin ở đất Triệu, nhờ Lã Bất Vi đem vợ đang có thai hai tháng gả cho, rồi lập mưu cứu thoát, đưa về nước. Về sau, được lên ngôi, nhưng chẳng bao lâu thì mất.
Xem: Bất Vi
Người nay sao phải nhà Tần,
Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm.
(Lục Vân Tiên).
DỊ TƯỚNG 異 相
Dị: Khác thường. Tướng: Trạng mạo, hình dáng con người.
Dị tướng là người có tướng khác thường, tức là có tướng lạ.
Vân Tiên biết kẻ chính tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
(Lục Vân Tiên).
DỊCH ĐÌNH 驛亭
Dịch: Trạm nghỉ. Đình: Ngôi nhà nhỏ.
Dịch đình là những ngôi nhà nhỏ được cất dọc trên đường để các phu trạm ngày xưa mang thư tín, hay công văn của triều đình tạm nghỉ ngơi. Hành khách đi đường cũng nghỉ chân ở những ngôi nhà này.
Nhìn xem phong cảnh khác vời,
Mới dừng yên tạm trú nơi dịch đình.
(Lưu Nữ Tướng).
DỊCH KINH 易 經
Kinh: Sách của Thánh hiền. Dịch: Thay đổi.
Dịch kinh hay kinh Dịch là quyển sách giải thích về sự thay đổi, biến hoá trong trời đất. Kinh dịch có thể đem áp dụng qua y học và lý số, nên sau này người dùng vào việc bói toán. Kinh dịch do vua Phục Hy đặt ra tám quẻ, gọi là bát quái, sau này Khổng Tử giải thích các quẻ ấy thành kinh dịch.
Muốn coi phép ấy cho tinh,
Đồ thư Hà Lạc, Dịch kinh rõ bàn.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
DỊCH LỄ 易 禮
Dịch là Kinh Dịch, một trong ngũ kinh của Nho gia. Dịch có tám quẻ chính, gọi là bát quái, mỗi quẻ có ba hào, tượng trưng bằng ba vạch ngang, sau chồng lên thành sáu hào, gọi là quẻ kép và có sáu mươi bốn quẻ kép. Xem: Châu Dịch.
Lễ là Kinh Lễ, một bộ
sách chép về những lễ nghi, để nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp, để giữ trật
tự phân minh và để tiết chế tình dục.
Thi Thư Dịch Lễ đều tinh,
Xuân Thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
(Gia Huấn Ca).
DỊCH NHA 易 牙
Một người thợ nấu ăn giỏi cho vua Tề Hoàn Công đời Chiến Quốc. Hoàn Công thường nói đùa với Dịch Nha: “Các giống điểu thú trùng ngư, ta ăn gần đủ mùi, chỉ có thịt người thì chưa biết vị nó ra thế nào?”.
Dịch Nha là đứa cầu mỵ với vua, nghe vua nói bèn về bắt đứa con đầu lòng lên ba tuổi, làm món ăn dâng vua. Tề Hoàn Công ăn ngon, hỏi ra mới biết, cho là Dịch Nha yêu mình, có ý tin dùng.
Sau Dịch Nha mưu phản, bỏ vua Tề Hoàn Công trong hầm đá hơn nửa tháng, đói khát mà chết.
DỊCH ÔN 疫 瘟
Dịch: Bệnh dịch, một loại bệnh truyền nhiễm. Ôn: Bệnh ôn,
cũng là loại bệnh nhiễm.
Dịch ôn là nói chung các loại bệnh dịch cõ tính truyền nhiễm.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thì thuỷ hoả gian nan kia mà.
(Gia Huấn Ca).
DỊCH TÁNH BIẾN TÌNH 易 性 變 情
Dịch tánh: Thay đổi tánh. Biến tình: Biến hoá tình.
Dịch tánh biến tình là thay đổi tánh tình.
Song chẳng can danh phạm ngãi;
cũng không dịch tánh biến tình.
(Sãi Vãi).
DỊCH XUÂN 驛 春
Gởi cành mai mùa xuân cho phu trạm.
Nghĩa bóng: Để chỉ tin tức.
Do bài thơ đời nhà Đường của Lục Khải gởi cành mai cho bạn. Bài thơ ấy như sau: Chiết mai phùng dịch sứ, Ký dữ Lũng Đầu nhân. Giang Nam vô sở hữu, Dao tặng nhất chi xuân 折 梅 逢 驛 使, 既 與 隴 頭 人. 江 南 無 所 有, 遙 贈 一 枝 春, Nghĩa là bẻ mai vừa gặp trạm, Lũng Đầu gởi cố nhân. Giang Nam gì chẳng có. Xa tặng một cành xuân.
Cầu sương dặm tuyết chờ ai,
Dịch xuân đành tỏ tin mai những mừng.
(Hoa Tiên Truyện).
DIÊM CUNG 閻 宮
Diêm: Diêm Vương. Cung: Cung điện.
Diêm cung là cung điện của vua Diêm Vương, chỉ cõi Âm phủ.
Xem: Âm phủ.
Chốn Tây phương đường đi thong thả,
Cõi Diêm Cung tha quả vong căn.
(Kinh Thế Đạo).
Ðồng phồn đưa rước viếng Diêm Cung,
Ai đã trước đi hỏi nhắn cùng.
(Đạo Sử).
DIÊM ĐÀI 閻 臺
Diêm: Diêm Vương. Đài: Đền đài.
Diêm đài là cung điện, đền đài của Diêm Vương, chỉ cõi Âm phủ.
Xem: Dạ đài.
Phút đâu Thiên sứ nan kỳ,
Mẫu từ mãn số dĩ quy Diêm đài.
(Tội Vợ Vợ Chịu).
DIÊM ĐÌNH 閻 廷
Diêm: Diêm Vương. Đình: Triều đình.
Diêm đình tức là triều đình của vua Diêm Vương, chỉ cõi âm phủ.
Xem: Diêm quan.
Hỏi ta có sống thật tình,
Hay là giấc mộng Diêm Đình đưa nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Trời với Diêm Ðình đôi ngõ trở,
Muốn toan thoát tục liệu mà dùng.
(Đạo Sử).
DIÊM LA 閻 羅
Tức Diêm La Vương, nói tắt là Diêm Vương, dịch từ chữ Phạn, nghĩa là buộc trói người có tội lỗi.
Diêm la dùng để chỉ cõi Địa ngục, Âm phủ.
Xem: Thập Điện Diêm Vương.
Trong chùa lại có hai hang,
Một đàng Bích lạc, một đàng Diêm la.
(Dương Từ Hà Mậu).
DIÊM PHONG 閻 酆
Diêm: Diêm đình. Phong: Phong đô.
Diêm phong là Diêm đình, Phong đô, chỉ cõi Âm phủ. Xem: Phong đô.
Để sau xuống chốn Diêm phong,
Nghiệt đài chiếu kính có trong lời thề.
(Tội Vợ Vợ Chịu).
DIÊM PHÙ
Hay “Diêm phủ 閻 府”.
Diêm: Diêm Vương. Phủ: Ngôi nhà, nơi dùng để làm việc quan.
Diêm phủ hay Diêm phù là nơi Diêm Vương ở, dùng để chỉ Địa ngục âm phủ.
Xem: Địa ngục.
Thịt xương gửi đám Diêm phù,
Sinh sinh hóa hóa trong lò hồng quân.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
DIÊM QUAN 閻 關
Diêm: Diêm Vương. Quan: Cửa cổng.
Diêm quan là cửa cổng dẫn đến đền đài của Diêm Vương, chỉ nơi Địa ngục, Âm phủ.
Xem: Địa ngục.
Tục kêu rằng chốn Diêm quan,
Ở miền âm phủ sửa sang việc đời.
(Dương Từ Hà Mậu).
Phút giây xuống tới Diêm quan,
Vào đền ngó thấy rõ ràng mười ông.
(Tội Vợ Vợ Chịu).
DIÊM VƯƠNG 閻 王
Diêm Vương tức là Diêm La Vương là vua coi cõi Địa ngục, Âm phủ. Có thuyết cho rằng Diêm Vương xưa là Quốc vương nước Sa Tỳ, nguyện lúc chết làm chúa coi ngục cõi Âm phủ.
Phép hay sái đậu thành binh,
Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương.
(Lục Vân Tiên).
Án tào quỷ sứ phụng chương,
Đặng dâng bệ ngọc, Diêm vương ngự rằng.
(Dương Từ Hà Mậu).
Ăn gian xớt bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm vương.
(Kinh Sám Hối)
DIỄM TỬ 豔 子
Diễm Tử sinh vào đời nhà Chu, thờ cha mẹ rất có hiếu. Cha mẹ ông tuổi đã già, mắt bị loà, lại thèm uống sữa hươu. Diễm Tử phải giả làm hươu con, lấy da hươu khâu làm áo mặc, vào rừng lân la đến gần những con hươu mẹ để vắt lấy sữa.
Một hôm gặp bọn người đi
săn, tưởng là hươu con, dương cung toan bắn, Diễm Tử la lên, vội bỏ lớp hươu
con ra, và bày tỏ cho người đi săn biết, người thợ săn mới tha cho.
Chu, Diễm Tử làm con rất thảo,
Chiều hai thân tuổi lão niên cao.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
DIÊN LĂNG QUÝ TỬ 筵 陵 季 子
Con vua nước Ngô thời Xuân Thu là Quý Trát, được phong ở đất Diên Lăng, nên người đương thời gọi là Diên Lăng Quý Tử. Vua Ngô phái Quý Trát đi sứ sang Tấn, khi đi ngang qua nước Từ, thấy vua Từ có ý muốn thanh bảo kiếm của mình thì định bụng sau khi đi sứ về sẽ tặng cho vua nước Từ.
Nhưng chẳng may! Chừng trở về, vua nước Từ đã mất. Quý Tử bèn đến mộ, đặt thanh kiếm trước mộ và nguyện rằng: Người Liêm sỉ dù hứa với lòng cũng không bao giờ quên được.
Sau Ngô vương muốn nhường ngôi lại cho Quý Tử, nhưng ông không nhận, rồi về ở ẩn xứ Diên Lăng.
DIÊN TRÌ 延 遲
Diên: Kéo dài. Trì: Chậm chạp.
Diên trì có nghĩa là chậm chạp, kéo dài thời gian.
Ba ngày trông chẳng thấy chi,
Hẳn là có ý diên trì mạn khinh.
(Hạnh Thục Ca).
Nếu diên trì Tạ tặc nhập cung,
Ắt Thứ Hậu vô phương tẩu thoát.
(Nhạc Hoa Linh).
DIỆT TRẦN TÌNH 滅 塵 情
Diệt trần tình là diệt những tình cảm xấu xa của con người nơi cõi trần.
Theo Phật, trần gian là cõi uế trược, nên những thứ tình cảm của con người đối xử với nhau nơi cõi ấy cũng xấu xa ô trược.
Người ta chia tình cảm của con người ra làm bảy thứ, gọi là thất tình. Đó là: Hỷ (mừng), nộ (giận), ái (yêu), ố (ghét), ai (buồn), lạc (vui) và dục (muốn).
Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,
Diệt trần tình Cam Lộ tẩy nhơ.
(Kinh Thế Đạo).
DIÊU NGUỴ 姚 魏
Diêu Nguỵ là hai họ đã tìm ra hoa mẫu đơn.
Hoa mẫu đơn là một thứ hoa có nhiều màu sắc, thân cao, lá có năm chia, hoa lớn nhiều hương thơm. Hoa mẫu đơn là một loại hoa được tôn là “Hoa Vương” (Vua các loài hoa) hay “Phú quý hoa” hay “Quốc sắc thiên hương”
Họ Diêu đã tìm ra đầu tiên giống hoa mẫu đơn màu vàng, còn họ Nguỵ đã tìm ra được hoa mẫu đơn màu tím. Hoa mẫu đơn mà vàng gọi là “Diêu hoàng”, hoa mẫu đơn màu tím gọi là “Nguỵ tử”, còn hoa mẫu đơn màu vàng tím gọi là “Diêu Nguỵ” hoặc “Diêu hoàng Nguỵ Tử”, hoặc “Cành Diêu đoá Nguỵ”.
Xảy nhớ khi cành Diêu đoá Nguỵ,
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
DIÊU TRÌ CUNG 瑤 池 宮
Diêu (Dao): Một loại ngọc. Trì: Ao.
Diêu Trì hay Dao Trì là một cái ao được làm bằng ngọc dao. Ao Diêu Trì nằm nơi cung ngự của Đức Phật Mẫu, nên cung này được gọi là Diêu Trì Cung. Đức Phật Mẫu ngự nơi Cung Diêu Trì, nên được gọi là Diêu Trì Phật Mẫu hay Diêu Trì Kim Mẫu.
Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.
(Kinh Tận Độ).
DIỀU BAY CÁ NHẢY
Bởi chữ “Diên phi ngư dược 鳶 飛 魚 躍” trong Kinh Thi: Diên phi lệ thiên, ngư dược vu uyên 鳶 飛 戾 天 魚 躍 于 淵, nghĩa là diều bay cao ngang trời, cá nhảy ở vực sâu.
Diều bay cá nhảy ý muốn
nói loài vật được yên vui với sự sống và bay nhảy trong chốn tự nhiên.
Bành dược thường thua con tạo hoá,
Diều bay cá nhảy đạo tự nhiên.
(Quốc Âm Thi Tập).
DIỀU ĐỨT DÂY
Diều là một vật người ta dán bằng giấy, cột vào sợi chỉ, rồi nhờ gió mà thả bay cao trên trời.
Diều đứt dây tức là diều
được thả bay cao, gió mạnh làm đứt sợi chỉ, diều rơi ra xa, chỉ người có tiền
tài, danh vọng lên cao mà bị sụp đỗ như diều đứt dây.
Có tiền chưa dễ mà tiêu,
Ham danh lắm kẻ như diều đứt dây.
(Thơ Tản Đà).
DĨNH XUYÊN 穎 川
Hay Dĩnh thuỷ, tên một con sông phát nguyên ở huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, chảy qua tỉnh An Huy vào sông Hoài.
Sách Cao Sĩ truyện chép rằng: Hứa Do cày ruộng ở phía bắc sông Dĩnh Thuỷ, dưới núi Cơ Sơn, vua Nghiêu nghe tiếng, mời ông làm chức Cửu châu trưởng (Trưởng chín châu), Hứa Do không muốn nghe lời đó, đến rửa tai ở bến sông Dĩnh Thuỷ.
Bài “Hành Lộ Nan” của Lý Bạch có câu: Có tai, chớ nên rửa trên dòng sông Dĩnh: Hữu nhĩ mạc tẩy Dĩnh xuyên thuỷ 有 耳 莫 洗 穎 川 水.
DOÃN A HÀNH
Tức là Y Doãn đời nhà Thương, được vua Thành Thang phong làm chức A Hành, giúp vua dựng nghiệp lớn và cai trị thiên hạ được thái bình.
Xem: Y Doãn.
Cơ chi có Doãn A Hành,
Làm chi đến nỗi rối mành nhà Thương.
(Hoài Nam Khúc).
DOÃN CHƯA THANG VỜI
Y Doãn chưa được vua Thành Thang mời về giúp nước, lúc ấy ông vẫn còn cày ruộng nơi đất Hữu Sằn.
Xem: Y Doãn.
Doãn chưa đặng lễ Thang vời,
Cày kia chưa dễ buông nơi nội Sằn.
(Ngoạ Long Cương Vãn).
DOÃN DU 允 愉
Doãn: Bằng lòng cho. Du: Vui vẻ.
Doãn du nghĩa là vui vẻ chấp thuận, hay sẵn sàng bằng lòng cho.
Lượng trên người chẳng vui tình,
Dẫu nhiều hay lẽ chẳng đành doãn du.
(Hạnh Thục Ca).
DOÃN PHỦ 尹 府
Doãn phủ tức là Nghi Hành Phủ và Liên Doãn Tương Lão.
Do tích Hạ Cơ là người
con gái rất đẹp,con gái Trịnh Mục Công, thời Xuân Thu, có tính đa dâm. Sau khi
goá chồng, bà lấy rất nhiều người, trong đó có Khổng Ninh, Nghi Hành Phủ và vua
nước Trần là Linh Công. Sau khi vua Trần chết, Hạ Cơ còn gá nghĩa với Liên Doãn
Tương Lão, và nhiều người khác nữa, cuối cùng bà phải trốn sang qua nước Tấn.
Hạ Cơ lớn nhỏ cũng ưa,
Sớm đưa Doãn phủ, tối ngừa Trần Quân.
(Lục Vân Tiên).
DOANH CHÂU 瀛 洲
Một trong ba hòn đảo ở giửa biển Bột Hải. Tương truyền Doanh Châu là nơi có Tiên ở, nên chốn đó được dùng để chỉ cõi Tiên. Hai hòn đảo kia là Phương Trượng (Phương đảo) và Bồng Lai (Bồng đảo).
Xem: Bồng Lai.
Trai tài gái sắc ai bì,
Doanh Châu ấy khách, Dao Trì nọ Tiên.
(Hoa Tiên Truyện).
Ngỡ là bể Doanh Châu, non Bồng Đảo,
mình được hóa tiên,
Chẳng cốc quê hoàng nhưỡng, núi Bắc mang,
thân đà nên quỷ.
(Thập Giới Cô Hồn).
DOANH ĐẢO 瀛 島
Hay “Dinh đảo”.
Tương truyền giữa biển
Bột Hải có ba hòn đảo là nơi Tiên ở, đó là Doanh (Dinh) đảo, Bồng đảo và phương
đảo.
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng vai Thánh khảy đờn.
(Đạo Sử).
DOANH HOÀN 瀛 寰
Doanh: Hay dinh, bể rộng to. Hoàn: Đất rộng lớn.
Doanh hoàn chỉ quả đất, hay nói cõi thế gian.
Doanh hoàn là cuộc đua chen,
Rồng Tiên phải giống ngu hèn mà cam.
(Thơ Tản Đà).
DOANH HƯ TIÊU TRƯỞNG 盈 虛 消 長
Doanh hư: Lúc đầy đủ, lúc thiếu. Tiêu trưởng: Lúc nhỏ đi,
lúc lớn lên.
Doanh hư tiêu trưởng tức là khi nhỏ khi lớn, hay lúc đầy lúc vơi.
Nghĩa rộng: Lúc vầy lúc
khác.
Doanh hư tiêu trưởng có ngày,
Trước giàu sau khó, vận xây bỡi Trời.
(Huấn Nữ Ca).
DOANH LIỄU 營 柳
Hay “Dinh liễu”.
Doanh liễu, tức Dinh Tế Liễu, tên một nơi đóng quân ở đất Tế Liễu, Châu Á Phu đóng quân để chống cự với rợ Hồ ở tại đó.
Hán Thư chép: Hán Văn Đế đến Dinh Tế Liễu là đồn của tướng Châu Á Phu đóng quân chống rợ Hồ để thưởng quân sĩ, vua thấy phép quân rất nghiêm, bèn cho tướng Châu Á Phu một tướng quân xứng đáng của triều đình vậy. Doanh liễu dùng để chỉ nơi đóng quân.
Xem: Tế liễu dinh.
Quân trước đã gần ngoài Doanh liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng dương.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
DOANH PHÍ 營 費
Hay “Dinh phí”.
Doanh: Lo tính để làm một công việc gì. Phí: Tổn phí. Doanh
phí là phí tổn trong công việc.
Địa tàng đã sẵn kim ngân,
Đủ dùng doanh phí trăm phần chi lo.
(Hạnh Thục Ca).
DOANH TIỀN 營 前
Hay “Dinh tiền”.
Doanh: Trại lính ở. Tiền: Trước.
Doanh tiền tức là trước doanh trại của lính.
Khiến quân đem bức thư mời,
Lục ông Vâng lệnh tới nơi dinh tiền.
(Lục Vân Tiên).
DOANH THÂU 嬴 輸
Hay đọc là ‘Doanh du”, “Dinh du”.
Doanh: Hơn, lời. Thâu: Thua, lỗ.
Doanh thâu tức hơn thua, thắng bại, hay lời lỗ.
1.- Doanh thâu:
Cuộc doanh thâu bàn bạc bắc nam chơi,
khúc lưu thủy gảy vài cung réo rắt;
(Phản Tây Hồ Tụng).
Doanh thâu một cuộc vừa rồi,
Bàng quan song đã có người Lạn Kha.
(Truyện Từ Thức).
2.- Doanh du:
Anh hùng mạc bả doanh du luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.
(Thơ Nguyễn Hữu Huân).
DOÀNH LA
Doành: Dòng sông. La: một thứ lụa trắng, mịn và mỏng. Đây ý
nói mặt nước phẳng và trắng như lụa, do sự phản chiếu ánh sáng. Trong văn cổ,
cũng thường dùng hình ảnh sóng gợn trên mặt nước như dòng lụa trắng.
Dã men vừa sánh giọng trà,
Nhà lan treo tháp, doành la xuống thuyền.
(Mai Đình Mộng Ký).
DOÀNH NGÂN
Doành: Vùng nước sâu. Ngân: Trắng như bạc.
Doành ngân là vùng nước sâu màu trắng như bạc.
Nàng bèn truyền gọi thổ nhân,
Đem hòm áo, phó doành ngân tức thì.
(Nhị Độ Mai).
Mảng vui sào cạy, mái phê,
Doành Ngân bóng thỏ đã xê ngang đầu.
(Mai Đình Mộng Ký).
Cáo kình im lặng tăm hơi,
Doành ngân rửa mác, non đoài treo cung.
(Truyện Phan Trần)
DOÀNH NHÂM
Doành nhâm chỉ dòng nước, còn có nghĩa là người chồng. Hàn Dũ có câu: Nữ Đinh phu Nhâm truyền thế hôn 女 丁 夫 壬 傳 世 婚, nghĩa là nữ Đinh là vợ Nhâm đời tương truyền là vợ chồng.
Doành Nhâm một dải nông nông,
Bóng dương bên ấy đứng trông bên này.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
DÒM BEO TRONG ỐNG
Bởi chữ “Quản trung khuy báo 管 中 窺 豹” nghĩa là nhìn con beo qua cái ống, chỉ thấy vằn chứ không thấy toàn bộ hình dáng con beo, ý muốn nói kiến thức hẹp hòi. Đồng nghĩa với câu: “Ếch ngồi đáy giếng”.
Bấy lâu ngồi giếng xem trời,
Dòm beo trong ống, đạo đời biết đâu.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
DÒM HÀNH
Dòm hành tức là dòm ngó, nhìn hay theo dõi một cách tò mò.
Trời đâu cho sãi lên chơi,
Cho quân tả đạo tới nơi dòm hành!
(Dương Từ Hà Mậu).
DÒNG CÂU
Hay “Dòng ngự câu”.
Tức là dòng nước ở ngự câu, một dòng nước từ trong cung vua chảy ra.
Do tích Vu Hựu bắt được chiếc lá hồng từ dòng nước ngự câu chảy ra, trên lá có bài thơ. Vu Hựu bèn lấy chiếc lá thắm khác đề hai câu thơ, rồi thả nơi đầu ngòi nước cho chảy vào cung. Cung nữ Hàn Thị, người đề thơ trên lá ngày trước, bắt được. Sau Hàn Thị được thả và tình cơ kết duyên với Vu Hựu. Hai người sau khi thành hôn mới biết chiếc lá hồng đó làm mối.
Xem: Hồng diệp.
1.- Dòng câu:
Suối tần tuy hãy còn không,
Dòng câu trót thả lá hồng đôi nơi.
(Ngọc Kiều Lê).
2.- Dòng ngự câu:
Khôn hỏi Đào nguyên đâu tá?
Dòng ngự câu gieo lá tình thi,
May thay một hội tương kỳ.
Đã bên tình phận lại bề phong lưu.
(Sơ Kính Tân Trang).
DÒNG CHÂU
Dòng châu là nước mắt chảy thành dòng và lóng lánh như giọt châu.
Thơ Lý Bạch có
câu: Tương tư yểu như mộng, châu lệ thấp la y 相 思 杳 如 夢, 珠 淚 濕 羅 衣, nghĩa là tương tư mơ màng như mộng, giọt châu
thấm ướt áo là.
Theo lời càng chảy dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
(Truyện Kiều).
Đỗ nương ngó thấy thêm sầu,
Chạnh lòng nhớ bạn, dòng châu đượm nhuần.
(Dương Từ Hà Mậu).
Thế sao chẳng bớt cơn sầu,
Mình đi đã mỏi, dòng châu thêm nhuần.
(Lục Vân Tiên).
DÒNG ĐẬU ĐAN QUẾ
Dòng nhà họ Đậu là cành đan quế, ý nói những người con trai của Đậu Vũ Quân kế tiếp nhau thi đỗ, được người đời tặng câu: Linh xuân nhất châu lão, đan quế ngũ chi phương 靈 春 一 株 老, 丹 桂 五 枝 芳, nghĩa là cội xuân một gốc thọ, đan quế năm cành thơm.
Xem: Ngũ quế.
Thơm tho dòng Đậu cành đan quế,
Ấm áp sân Điền khóm tử kinh.
(Hồng Đức Quốc Âm).
DÒNG NGÂN
Bởi chữ “Ngân hà 銀 河”.
Dòng Ngân tức là Ngân
Hà, một con sông nơi cõi Thiêng Liêng. Tương truyền, Ngưu Lang, Chức Nữ bị
phạt, chia cách tình yêu giữa sông Ngân, mỗi năm chỉ gặp nhau có một lần vào
đêm thất tịch, mùng 7 tháng 7 âm lịch, nên đêm này, nước mắt của họ chứa chan,
tạo thành những cơn mưa ngâu, vì bởi khóc than một cách đau khổ cho cảnh biệt
ly. Vì thế, Ngân Hà được coi như một dòng sông đau khổ.
Thuyền khơi đợi gió lướt dòng Ngân,
Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
DÒNG TƯƠNG
Lấy dòng sông Tương ví với dòng nước mắt.
Do tích: Vua Thuấn đi tuần thú và chết ở phương Nam. Hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến bờ sông Tương ngồi khóc chồng thảm thiết.
Xem: Rèm tương, tương liêm.
Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DÒNG THU
Bởi chữ “Thu thuỷ 秋 水” là dòng nước mùa thu. Nước mùa thu trong suốt thường được ví với mắt người đàn bà đẹp. Đồng nghĩa với “Sóng thu”.
Xem: Sóng thu.
Dòng thu như dội cơn sầu,
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
(Truyện Kiều).
DỐI NGƯỜI DỐI TRỜI
Tức là dối người, nào khác dối trời.
Bởi câu trong sách Trung
Hiếu Lược nói: Khi nhân tất tự khi kỳ tâm, khi kỳ tâm tất tự khi kỳ
Thiên, Thiên kỳ khả khi hồ? 欺 人 必 自 欺 其 心, 欺 其 心 必 自 欺 天, 天 其 可 欺 乎? nghĩa là mình dối
người là tự dối lòng mình. Dối lòng mình là tự dối cả Trời, Trời có thể dối ru?
Dối người nào khác dối Trời,
Trời đâu dám dối ra đời ngỗ ngang.
(Kinh Sám Hối).
DU ĐÃNG 游 蕩
Du: Đi chơi. Đãng: Phóng túng, không ai kềm chế.
Du đãng là đi chơi bời, phóng túng không biết chán và chẳng ai kềm chế được.
Thi Uyển có câu: Dâm
hoang hỗn loạn du đãng vô độ yên 荒
淫 混 亂 游 蕩 無 度 焉, nghĩa là hoang dâm hỗn loạn du đãng không cùng.
Nhờ nghĩa phương từ bé chút từng nghe,
dưới sân nghiêm mắt quở tai răn,
tính du đãng uốn lần cho nhập giáo,
(Tự Thuật Ký).
Gái xướng kỵ, trai thì du đãng,
Phá tan hoang gia sản suy vi.
(Kinh Sám Hối).
DU HỌC 游 學
Du học là đi tìm thầy học ở phương xa. Chiến Quốc Sách có câu: Sở hữu Hoàng Yết giả du học bác văn 楚 有 黃 謁 者 游 學 博 文, nghĩa là ở nước Sở có Hoàng Yết đi du học, mở rộng kiến văn.
Ngày nay, du học tức là
đi học ở nước ngoài.
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
(Truyện Kiều).
DU NHẠC 遊 嶽
Đi chơi núi Ngũ Nhạc.
Do điển Hướng Tử Bình đời Đông Hán là người ở ẩn, không chịu ra làm quan. Sau khi con cái đã thành gia thất hết rồi thì bỏ nhà đi chơi núi Ngũ Nhạc (Du Nhạc).
Nghĩa bóng: Con cái thành gia thất.
Vòng trần hẳn đã không thèm,
Chút nguyền du Nhạc còn hiềm chửa nguôi.
(Hoa Tiên Truyện).
DU NHAI 遊 街
Du nhai tức là đi chơi ngoài phố.
Theo lệ ngày xưa, các
ông tân khoa được vua ban ơn cho vào xem hoa tại vườn Thượng uyển và cỡi ngựa
đi rong chơi các phố trong hoàng thành, gọi là du nhai.
Ba ngày thượng mã du nhai,
Lòng vua ưu hậu mắt người quan chiêm.
(Nhị Độ Mai).
DU PHƯƠNG 游 方
Du phương là đi khắp mọi phương. Thầy thuốc đi khắp nơi trị bịnh, gọi là thầy du phương.
Du phương còn dùng cho
các tăng ni đi đây đi đó để tham học với những bậc thầy có tài đức hoặc để
truyền bá Phật pháp.
Cảm ơn kẻ sĩ du phương,
Dắt ta, điềm chỉ vào đường Y lâm.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Thiên sư lòng muốn du phương,
Đông nam phía ấy là đường đi lên.
(Dương Từ Hà Mậu).
DU QUAN 游 觀
Du: Đi chơi. Quan: Quan sát, xem.
Du quan cũng như du lãm, là đi chơi để xem các nơi danh lam thắng cảnh.
Ai hay trong lúc du quan,
Tiểu thư cùng với thúy hoàn ra chơi.
(Nhị Độ Mai).
DU SÁCH
Tức là Châu Du và Tôn Sách.
Châu Du tự là Công Cẩn, người nước Ngô thời Tam Quốc, có vợ là nàng Tiểu Kiều.
Tôn Sách là vua nước Đông Ngô, là một trong ba nước thời Tam Quốc. Tôn Sách có vợ là nàng Đại Kiều.
Xem: Châu Du.
Noi gương đức tánh Nhị Kiều,
Dở dang Du Sách, giữ điều tiết trinh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DU TIÊN 遊 仙
Du tiên là đi chơi nơi cõi tiên, dùng để chỉ người chết, có ý cầu mong linh hồn người chết khi lìa khỏi thể xác được đi lên cảnh tiên.
Khách du Tiên đời chẳng mấy người,
Cứ bốn điều tà gấm ghé chơi.
(Đạo Sử).
Bỗng tiếng sấm gần bên tai nổ,
Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DU TIÊN GỐI
Bởi chữ “Du tiên chẩm 遊 仙 枕” là gối du tiên.
Theo sách “Khai Thiên Di Sự” thì nước Qui Tư có dâng cho vua Đường Minh Hoàng một cái gối kết bằng mã não, khi ngủ nằm gối đầu lên gối ấy, thì sẽ mộng thấy lên cảnh tiên. Gối ấy được vua Đường gọi là “Du Tiên Chẩm”.
Xem: Gối du tiên.
Luỹ nhung phấn biếc lục hồng,
Du tiên nửa gối lạnh lùng hai sương.
(Lưu Nữ Tướng).
DÙ NGỰA
Bởi chữ “Cái mã 蓋 馬”, nghĩa là lọng dù và ngựa.
Dù ngựa tức là che dù
lọng, cỡi ngựa, dùng để chỉ nhà quyền quý cao sang.
Trướng loan trò chuyện đàm hòa,
Đã gương dù ngựa lại nhà trâm anh.
(Hoa Tiên Truyện).
DŨ LĨNH 愈 嶺
Tên một cái núi ở phía nam huyện Đại Dũ tỉnh Giang Tây. Núi Dũ Lĩnh rất hiểm trở, đá mọc san sát, liền nhau, nước suối chảy không bao giờ cạn. Thời nhà Đường, Trương Cửu Linh trồng rất nhiều mai ở đây, nên núi này còn gọi là Mai Lĩnh.
Miền Dũ Lĩnh tin mai gắn bó,
Đỉnh Cô Sơn mối gió đợi chờ.
(Tự Tình Khúc).
DUẬT BẠNG 鷸 蚌
Do chữ “Bạng duật tương trì 蚌 鷸 相 持”, nghĩa là con trai và con cò níu kéo nhau.
Con cò mổ vào ruột trai, trai liền ngậm lại, kẹp mỏ cò. Hai đàng giằng co với nhau thì có ông câu được lợi, bắt cả trai lẫn cò. Nên Nho có câu: Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi 蚌 鷸 相 持, 漁 翁 得 利 nghĩa là trai cò giằng co, ông câu được lợi. Ý nói hai đàng tranh nhau tự chuốc lấy họa.
Xem: Bạng duật.
Duật nọ mưu còn đua với bạng,
Lươn kia hầu dễ kém chi cò.
(Bạch Vân Quốc Ngữ).
DỤC ĐỨC 育 德
Vua Dực Tông không có con, nuôi ba người cháu làm con nuôi: Trưởng là Dục Đức, phong làm Thuỵ Quốc Công, thứ là Chánh Mông, ba là Dưỡng Thiện. Khi Dực Tông sắp mất có di chiếu: Tính Dục Đức không đáng làm vua, ý ngài muốn lập Dưỡng Thiện, nhưng vì còn bé, cho nên phải lập con trưởng, tức là Dục Đức. Được ba ngày thì quan phụ chính Nguyễn Văn Tường Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ Dục Đức mà lập em vua Dực Tông là Hồng Dật lên làm vua, lấy niên hiệu là Hiệp Hoà, còn Dục Đức thì bị đem giam ở Dục Đức Giảng Đường.
Ra vừa tới chốn thành đầu,
Phủ ông Dục Đức, truyền hầu vào ngay.
(Hạnh Thục Ca).
Thương ông Dục Đức Hoàng trừ,
Đã yên thân phận chẳng nhờ khoan ân.
(Hạnh Thục Ca).
DỤC NHẬT 浴 日
Dục: Tắm. Nhật: Mặt trời.
Dục nhật là tắm cho mặt trời. Khi hạn hán rồng làm mưa, cho nên gọi rồng là giúp trời. Sau cơn mưa mặt trời lại sáng tỏ, cho nên gọi tắm cho mặt trời.
Long chức quản bổ thiên, dục nhật,
Lân quyền tư giúp thánh, phò thần.
(Lục Súc Tranh Công).
Quyết ra tài dục nhật bổ thiên,
Nguyện hết sức trùng quang nghiệp thánh.
(Nhạc Hoa Linh).
DỤC TÀI 育 才
Dục: Nuôi nấng. Tài: Tài năng.
Dục tài là nuôi nấng cái tài năng cho phát triển.
Tinh thần cao thấp nhờ thi,
Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DUỀNH NGÂN
Duềnh: Vùng nước sâu. Ngân: Trắng như bạc.
Duềnh ngân là dòng nước sâu màu trắng như bạc.
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
(Truyện Kiều).
DÙI ĐÂM VẾ
Lấy dùi đâm vào vế, nói việc khổ công học tập.
Do tích Tô Tần, người đời Chiến Quốc, lúc còn đi học, đêm đọc sách, sợ buồn ngủ, để mũi dùi dưới bắp vế, hễ ngủ gật thì dùi đâm vào vế, thức dậy tiếp tục học nữa. Về sau đi du thuyết, làm tướng cho sáu nước chư hầu, rất vinh hiển.
Xem: Tô Tần.
Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Người Tô Tần chí thú đọc kinh.
(Gia Huấn Ca).
DUYÊN BÌNH 緣 萍
Duyên: Mối liên lạc. Bình: Bèo.
Bởi chữ “Bình thuỷ tương phùng 萍 水 相 逢” hay “Bình thuỷ hữu duyên 萍 水 有 緣” là duyên bèo và nước gặp gỡ nhau.
Bèo trôi chẳng biết đi
đâu, nước chảy không biết về đâu, nên bèo nước dùng để chỉ những kẻ không định
mà trời xui khiến gặp gỡ nhau.
Duyên bình gặp gỡ khách phương xa.
(Thơ cổ)
DUYÊN BÌNH 緣 屏
Duyên: Sự may mắn. Bình: Bức bình phong, một bức ngăn để
chắn gió.
Ngày xưa mỗi lần Mạnh Thường Quân tiếp khách, thì có người thư ký ngồi bên trong bức bình phong để biên chép. Chữ "duyên bình" ý nói là dự vào hàng thư ký để biên chép.
Tôi nay vâng đẹp duyên bình,
Xin tường quí tính, đại danh, được nhờ.
(Nhị Độ Mai).
DUYÊN CANG LỆ 緣 亢 儷
Cang và lệ đều có nghĩa là sánh đôi.
Duyên cang lệ ý nói
duyên đôi lứa, hay duyên kết nghĩa vợ chồng .
Đó muốn vầy duyên cang lệ,
Ta đâu khuất chữ cương thường.
(Nhạc Hoa Linh).
Phận đào thơ vui chữ vu quy,
Duyên cang lệ phỉ nguyền ngàn thuở.
(Nhạc Hoa Linh).
DUYÊN ĐẰNG 緣 滕
Có duyên với Đằng Vương Các.
Con vua Đường Cao Tông làm Thứ Sử ở Hồng Châu được phong là Đằng Vương có xây tại đó một ngôi lầu các gọi là Đằng Vương Các.
Duyên Đằng có ý chỉ Vương Bột, một nhà thơ đời Đường có duyên gặp được ngọn gió đưa con thuyền đến Đằng Vương Các để làm một phú nổi tiếng vào thời bấy giờ. Tiếng “Duyên Đằng” hay “Các Đằng” đều dùng để chỉ vận thời, duyên may, tình cờ….gặp gỡ.
Xem: Đằng Vương Các.
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
(Truyện Kiều).
Duyên Đằng thuận gió đã êm thuyền,
Bốn biển năm hồ đã đậu yên.
(Đạo Sử).
DUYÊN HÀI 緣 諧
Duyên: Tình duyên. Hài: Hoà hợp.
Duyên hài nghĩa là nhơn duyên hoà hợp. Xưa thường nói: Phu phụ duyên hài 夫 婦 緣 諧, nghĩa là vợ chồng thuận duyên.
Lòng ta muốn kết duyên hài,
Song tên thì lại ở nơi tay người.
(Nữ Tú Tài).
Muốn trăm năm nghĩa kết duyên hài,
Phải hai nước giao hòa thần xỉ.
(Nhạc Hoa Linh).
Ðiểu mai mấy lúc đẹp duyên hài,
Chít mát là vì bởi tại ai.
(Đạo Sử).
Nhiều trai gái duyên hài lỡ dở,
Tại chim xanh dụng mở mối đường.
(Phương Tu Đại Đạo).
DUYÊN HƯƠNG LỬA
Duyên hương lửa có nghĩa là duyên số kết nên vợ chồng gắn bó với nhau đã định từ kiếp trước.
Xem: Hương lửa.
Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
DUYÊN KIẾP 緣 劫
Duyên: Mối dây liên lạc. Kiếp: Cuộc đời người.
Theo Phật, trong cuộc đời con người có duyên với nhau thì mới ràng buộc lẫn nhau được, tức là nhân duyên có từ kiếp trước.
Cho hay duyên kiếp bởi trời,
Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai.
(Truyện Trinh Thử).
DUYÊN KIM CẢI
Kim cải là cây kim và hạt cải ý nói hai vật đồng cảm thì tìm nhau.
Duyên kim cải là duyên trai gái, hay vợ chồng khắn khít nhau như nam châm hút cây kim, hổ phách hút hột cải.
Xem: Kim cải.
Cho hai họ vầy duyên kim cải,
Ngõ một nhà đôi sánh phụng loan.
(Nhạc Hoa Linh).
Lánh buồn lại lạc lối bi,
Rẻ duyên kim cải, đem bì phấn hương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nghĩa keo sơn thoạt bén thoạt ưa,
Duyên kim cải càng quen càng thấm.
(Tuý Sơn Vân Mộng).
DUYÊN NỢ BA SINH
Tức là duyên nợ ba kiếp sống gắn bó với nhau.
Do điển: Viên Trạch đời nhà Đường đi chơi với bạn là Lý Nguyên ở núi Tam Giáp, gặp một người đàn bà gánh nước giếng.Viên Trạch nói: Bà này có mang đã ba năm, đợi tôi vào làm con, tôi xin hẹn anh mười ba năm sau sẽ gặp nhau ở chùa Thiên Trúc, tỉnh Hàng Châu. Đêm đó Viên Trạch mất. Mười ba năm sau, Lý Nguyên tìm đến nơi đã hẹn, gặp một đứa bé chăn trâu, nghêu ngao hát rằng: Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn, Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân. Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng, Thử thân tuy dị tính trường tồn 三 生 石 上 舊 精 魂, 賞 月 吟 風 不 要 論. 慚 愧 情 人 遠 相 訪. 此 身 雖 異 性 長 存, nghĩa là ba sinh đá ấy cựu tinh hồn, Ngâm gió thưởng trăng khó nỗi bàn. Thẹn gặp người xưa thăm hỏi tớ, Thân này tuy khác, tính linh còn. Hát xong, đứa bé bèn quày quả đi. Lý Nguyên biết đứa bé đó chính là Viên Trạch.
Xem: Tam sinh.
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
(Truyện Kiều).
Ví không duyên nợ ba sinh,
Nàng sao gặp nỗi bất bình tới đây.
(Truyện Trinh Thử).
DUYÊN NGƯ THUỶ
Duyên ngư thuỷ 魚 水 tức là duyên cá nước.
Trong văn chương, duyên cá gặp được nước ví vợ chồng yêu thương nhau gắn bó nhau, hay vua tôi tin cậy cùng nhau.
Xem: Cá nước.
Duyên ngư thuỷ hội long vân còn đó,
Miếng đỉnh chung cho biết người đời.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
DUYÊN TẦN TẤN 緣 秦 晉
Tần Tấn là hai nước vào thời Xuân Thu, có duyên làm thông gia với nhau từ đời nầy sang thời khác.
Ngày nay, chữ “Duyên Tần
Tấn” người ta thường dùng để chỉ hôn nhân giửa trai gái.
Phải chi chàng sanh ở Yên gia,
Lòng cũng nguyện sánh duyên Tần Tấn.
(Nhạc Hoa Linh).
DUYÊN TRƯỚC
Do từ Hán Việt “Tiền duyên 前 緣”, chỉ mối ràng buộc được định sẵn từ kiếp trước. Nếu duyên lành, tức là kiếp sống trước ta làm những điều lương thiện đạo đức, thì kiếp sống hiện tại được may mắn, giàu sang, hạnh phúc.
Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau..
(Truyện Kiều).
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may.
(Sám Hôi Kinh).
DUNG MẠO 容 藐
Dung: Dáng bề ngoài con người. Mạo: Mặt mày.
Dung mạo là tiếng dùng để chỉ hình dáng, mặt mày con người.
Hỏi trong văn võ quần thần,
Rằng ai dung mạo hơn phần sắc thinh.
(Trọng Tương Vấn Hớn).
DUNG NGHI 容 儀
Dung: Tướng mạo. Nghi: Phép tắc.
Dung nghi chỉ người có tướng mạo và dáng điệu nghiêm trang hợp với lễ nghĩa đạo đức.
Người hạnh nghị, khách dung nghi,
Làm cho trâm gãy gương lìa mới thôi.
(Hoa Tiên Truyện).
DUNG NHAN 容 顏
Dung: Tướng mạo. Nhan: Sắc mặt.
Dung nhan là gương mặt và tướng mạo.
Con ai vóc ngọc mình vàng,
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng.
(Lục Vân Tiên).
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Dung nhan diện mạo vuông tròn,
Trăng vừa giữa tháng nhật quang nửa ngày.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
Máu mỡ anh em hòa cốt nhục,
Dạng hình cha mẹ giống dung nhan.
(Phương Tu Đại Đạo).
DUNG QUANG 容光
Dung: Tướng mạo. Quang: Sáng sủa.
Dung quang là nói người có dáng vẻ rất sáng sủa.
Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,
Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.
(Truyện Kiều).
Bóng người chợt thấy dung quang,
Lanh chanh bước tới sổ sàng hỏi ngay.
(Mai Đình Mộng Ký).
DƯ ĐỒ 輿 圖
Dư: Đất đai. Đồ: Bản đồ.
Dư đồ là tấm bản đồ vẽ đất đai. Nghĩa rộng dùng để chỉ lãnh thổ một nước.
Loạn Tần gặp lúc Ngư Hồ,
Trời nam riêng mở dư đồ một phương.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Dư đồ rách nước non tô lại,
Đồng bào xa trai gái kêu lên.
(Thơ Tản Đà).
DỮ ĐOẠ HIỀN THĂNG
Dữ hiền: Chỉ người hung ác hay hiền lương. Đoạ thăng: Rơi
xuống, hay bay lên, chỉ hai cõi giới Địa ngục hay Thiên Đường.
Dữ đoạ hiền thăng là nói kẻ hung ác thì bị đoạ âm quang, người hiền lương thì siêu thăng Tiên cảnh.
Dữ đọa hiền thăng ấy luật Trời,
Lánh đường tà vạy hưởng an vui.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
DỮ QUÁ CỌP
Bởi chữ “Mãnh ư hổ 猛 於 虎” trong điển “Hà chính mãnh ư hổ 苛 政 猛 於 虎” tức là chính sách hà khắc còn mạnh bạo hơn cọp.
Do câu chuyện sau đây: Khổng Tử và học trò đi qua nước Tề, khi ngang núi Thái Sơn, thấy một người đàn bà ôm mộ khóc.
Khổng Tử bảo Tử Lộ đến hỏi nguyên do, thì người đàn bà ấy nói rằng: Trước đây ông già chồng tôi chết vì cọp ăn tại làng nầy, nay chồng tôi chết vì cọp cũng tại làng nầy. Tử Lộ thắc mắc hỏi: Nếu hai người thân bị cọp ăn tại làng nầy, sao bà không dời đi làng khác?. Người đàn bà ấy nói: Làng nầy bị đe doạ bởi cọp, nhưng chính sách không hà khắc.
Tử Lộ thưa lại với Đức
Khổng Tử, Ngài bèn lấy việc đó dạy các đệ tử rằng: Các con thấy không, người ta
sợ chính sách hà khắc còn hơn sợ cọp nữa.
Chánh ra dữ quá cọp vàng,
Lòng dùng độc quá hổ mang, thuồng luồng.
(Dương Từ Hà Mậu).
DỮ QUỐC ĐỒNG ƯU 與 國 同 憂
Dữ quốc: Cùng với nước. Đồng ưu: Đồng lo lắng.
Dữ quốc đồng ưu có nghĩa là cùng với nước nhà đồng lo lắng, tức gánh việc nước.
Câu “Dữ quốc đồng ưu”,
phải khăng khăng lòng ghi dạ tạc.
(Cáo Thị Cần Vương).
DỮ RĂN HIỀN THƯỞNG
Theo thuyết nhân quả của nhà Phật, kẻ làm dữ thì nhận những nghiệp dữ để trừng răn, người làm thiện thì nhận những quả lành ban thưởng.
Nếu quả dữ răn cùng hiền thưởng,
Mới hay minh chánh cái quyền Trời.
(Đạo Sử).
DỮ TẬN HIỀN THĂNG
Dữ tận: Kẻ hung ác thì tiêu hết. Hiền thăng: Người hiền
lương thì siêu thăng.
Dữ tận hiền thăng là kẻ hung ác thì tiêu hết, người hiền lành thì được siêu thăng.
Xem: Dữ đoạ hiền thăng.
Mai tàn tuyết xủ đời thay đổi,
Dữ tận hiền thăng khách lọc lừa.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
DỰ NHƯỢNG 豫 讓
Người nước Tấn đời Chiến Quốc, trước thờ họ Phạm và họ Trung Hàng, sau về làm tôi Trí Bá, được Trí Bá rất kính yêu. Khi Trí Bá bị Triệu Tương Tử (tức Triệu Vô Tuất) giết chết thì Dự Nhượng quyết báo thù cho chủ.
Ba lần Dự Nhượng thích khách Triệu Tương Tử, ba lần đều bị bắt. Lần sau cuối, Tương Tử trách Dự Nhượng rằng: Nhà ngươi chả đã từng thờ họ Phạm và họ Trung Hàng đấy ư? Trí Bá diệt hết bọn họ mà sao người không báo thù, lại còn vác xác làm tôi Trí Bá. Trí Bá cũng chết tiêu rồi mà sao ngươi riêng nặng lòng báo thù cho Trí Bá như vậy?
Dự Nhượng đáp: Tôi thờ họ Phạm và họ Trung Hàng, họ đều coi tôi như người thường, cho nên tôi báo đáp họ như người thường. Còn Trí Bá thì đãi tôi như quốc sĩ cho nên tôi cũng lấy tư cách một trang quốc sĩ mà báo đáp cho ông ấy.
Triệu Tương Tử thở dài, sai lính bắt Dự Nhựng.
Dự Nhượng tâu rằng: Nay tôi có nghe kẻ trung thần không sợ chết, đấng minh quân không bỏ mất cái nghĩa của người. Tôi nay đáng tội chết, nhưng nhà vua đừng để lu mất cái trung nghĩa của tôi, xin cho tôi mượn cái áo cẩm bào, tôi đâm vào đó để tỏ bày cái ý báo thù và thể hiện sự trọng sĩ của nhà vua. Tôi chết cũng không ân hận.
Tương Tử cảm động liền
cho, Dự Nhượng đâm vào áo cẩm bào ba nhát và nói: Ta có thể báo đáp cho Trí Bá
ở nơi chín suối rồi. Bèn kề gươm vào cổ mà tự vẫn.
Mũi giáo Thi Toàn đâu để rét,
Lưỡi gươm Dự Nhượng phải toan chùi.
(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).
DƯA MUỐI
Dưa muối là hai loại thực phẩm đạm bạc, dùng để chỉ người tu hành, thọ chay lạt. Đồng nghĩa với chữ “Tương dưa”, chỉ sự cần kiệm, sự đơn giản, hay sự khổ hạnh của người tu hành.
Đã rằng dưa muối bả bô,
Lạp bình tương thuỷ, những đồ cao lương.
(Tư Dung Vãn).
Cái chốn đoạn trường trang trắng nợ,
Đành cam dưa muối với Di Đà.
(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).
Thanh cao là biết ngon dưa muối,
Hơn ngự lầu yên ngó đảnh Tần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tẻ vui đã hưởng mùi dưa muối,
Nơi thế dường như khách lạc loài.
(Đạo Sử).
DỰA CỘT
Do câu tục ngữ Việt Nam: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”.
Vì vậy, chữ “Dựa cột”
dùng để nói người không biết gì cả.
Đừng ưa me chịu dốt chúng cười,
Người ghế giữa mình ngồi dựa cột.
(Phương Tu Đại Đạo).
DỰA LÒNG TỪ BI
Từ bi là lòng thương yêu, lo lắng mong giúp đỡ cho chúng sanh được an lành và cứu vớt chúng sanh ra khỏi tai ương, khổ não.Từ bi là hạnh của Đức Phật.
Dựa lòng từ bi tức nương
vào đức Phật, hay nói cách khác là quy y Phật.
Biết chăng cái thảm mất chồng,
Xin cho thiếp dựa nơi lòng từ bi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DỰA THÂN CỘI TỬ
Dựa thân: Nương thân. Cội tử: Cội cây thị, do Kinh Thi có câu: Duy tang hữu tử, tất cung kính chi 維 桑 與 梓, 必 恭 敬 之, nghĩa là phải cung kính nơi trồng cây dâu cây thị. Cây dâu cây thị do cha mẹ trồng nên phải cung kính.
Dựa thân cội tử là sống
nương dựa theo cha mẹ.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DỰNG ĐỨNG CỘT ĐỒNG
Nói việc nhà Đông Hán sai Mã Viện làm Phục Ba Tướng Quân sang đánh Trưng Vương. Hai Bà không chống nổi, phải rút quân về xã Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc, nay là huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. Mã Viện đem binh tiếp đánh, thế bức quá, hai bà bèn gieo mình xuống sông Hát Giang mà tự tận.
Mã Viện dẹp xong Trưng
Vương, đem đất Giao Chỉ nội thuộc nhà Hán, rồi sau đó dựng một cây cột đồng ở
chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt 銅 柱 折, 交 趾 滅, nghĩa là cây cột đồng mà gãy đổ thì người Giao Chỉ mất.
Dựng đứng cột đồng ai đã xướng,
Ðảnh Nam sừng sựng vững bền trào.
(Đạo Sử).
DƯỢC KHỔ LỢI BỆNH 藥 苦 利 病
Thuốc đắng lợi cho bệnh.
Do câu “Lương dược khổ khẩu lợi ư bệnh 良 藥 苦 口 利 於 病”, nghĩa là thuốc hay tuy đắng mà lợi cho việc trị bịnh.
Thành ngữ nầy đồng nghĩa với câu tục ngữ của ta: “Thuốc đắng đả tật”.
DƯỚI BỘC TRONG DÂU
Nghĩa từ câu “Bộc thượng tang gian 濮 上 桑 間”.
Chỉ sự hẹn hò tình tự bất chính giữa trai gái. Theo Hán thư, con trai và con gái của nước Trịnh và nước Vệ thường hẹn hò nhau ra bãi sông Bộc, núp trong các ruộng dâu để tình tự nhau.
Xem: Trên Bộc trong dâu.
Nào khi đứng giữa đàng trông ngọc,
Nào khi ngồi dưới bọc trong dâu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tại nơi mình dưới bộc trong dâu,
Ra đến thế nài cầu sao đáng giá.
(Phương Tu Đại Đạo).
DƯƠNG BỜ
Hay “Bờ dương”.
Bởi chữ “Dương bạn 楊 畔” trong câu “Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn 鳳 含 單 詔 啼 楊 畔” tức là chim phụng ngậm chiếc chiếu về bờ dương.
Theo Đạo Đức Chơn Kinh, cây dương không nhiễm trần, đạo là cây dương. (Dương vô trần nhiễm, đạo giả như dương 楊 無 塵 染, 道 者 如 楊).
Do vậy, “Dương bờ” là
tiếng dùng để chỉ nền đạo đức hay bờ giải thoát. Xem: Bờ dương.
May phước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.
(Đạo Sử).
DƯƠNG CHÂU 楊 州
Dương Châu là tên một vùng đất phồn hoa của Trung Quốc. Có ba người khách ngồi trò chuyện, mỗi người có đưa ra một điều ước. Người thứ nhứt, muốn làm Thứ sử ở Dương Châu. Người thứ hai, muốn có nhiều tiền bạc và được cỡi hạc bay cao. Người thứ ba, muốn lưng có mười vạn quan tiền, cỡi hạc bay lên Dương Châu. Ý chỉ lời ước muốn hoàn toàn.
Ngọn cờ mây rợp thôn dâu,
Bồng lai xe hạc, Dương Châu lưng tiền.
(Hoa Tiên Truyện).
Mang tiền cỡi hạc đến Dương Châu,
Chiếp miệng còn than nỗi buổi đầu.
(Đạo Sử).
DƯƠNG CHI 楊 枝
Tức cành dương, một loại cây có cành cứng và thẳng dựng lên; còn liễu là cành mềm rủ xuống. Tuy hai cây khác nhau, nhưng người ta thường gọi chung là “Dương liễu”.
Trong phép của Phật thường dùng dương chi (Cành dương) nhúng vào nước Cam lộ (hay nước Ma ha) rảy vào người bệnh để giải trừ bịnh tật, hoặc tẩy trừ oan khiên nghiệt chướng.
Xem: Giọt nước dương chi.
Ngửa nhờ giọt nước dương chi,
Dẫu cho đã héo rồi thì lại tươi.
(Quan Âm Thị Kính).
Rửa không thế tục thường tình,
Một bình tĩnh thuỷ một cành dương chi.
(Truyện Phan Trần).
Câu Kinh bối diệp câu thơ hoạ,
Giọt nước dương chi giọt lệ pha.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
DƯƠNG CHU 楊 朱
Dương Chu hay Tử Cư (Khoảng 400-360) trước Tây Lịch, người nước Vệ thời Chiến Quốc.
Một triết gia Trung Quốc, chủ trương thuyết vị kỷ hay vị ngã, tức là chỉ biết lo cho mình, vì mình mà thôi.
Theo lời Mạnh Tử, Dương có nói câu “Bạt nhất mao nhi lợi thiên hạ, bất vi dã 拔 一 毛 而 利 天 下 不 為 也, nhổ một sợi lông vì thiên hạ, cũng không làm.
Dương Chu không có để lại
sách vở gì cho hậu thế, tư tưởng của ông chỉ rải rác trong các tài liệu của
những triết gia đồng thời khác.
Kìa như Mặc Địch Dương Chu,
Tu một việc vị nhơn, vị ngã.
(Sãi Vãi).
Dùi mõ Mặc, Dương thêm chộn rộn,
Tiếng chuông Phật, Lão rất vang ngầy.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
DƯƠNG DANH 揚 名
Dương: Đưa cao lên. Danh: Tiếng tăm.
Dương danh là nêu danh, tức làm cho tiếng tăm được rạng rỡ.
Dương danh chẳng phải tại trường quan,
Nước Ðạo là danh hưởng lạc nhàn.
(Đạo Sử).
DƯƠNG DANH HIỂN THÂN 揚 名 顯 親
Dương danh: Làm rạng rỡ tiếng tăm. Hiển thân: Làm vinh hiển
cho cha mẹ.
Làm nên tiếng tăm tốt đẹp để làm vinh hiển cho cha mẹ.
Theo Mạnh Tử, lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế, dĩ
hiển phụ mẫu hiếu chi chung giả 立
身 行 道, 揚 名 於 後 世, 以 顯 父 母, 孝 之 終 也, tức là lập thân hành
đạo, làm nên tiếng tăm tốt đẹp để làm vinh hiển cho cha mẹ là hiếu tột bực vậy.
DƯƠNG ĐÀI 陽 臺
Tên núi, ở huyện Vu Sơn, tỉnh Tứ Xuyên (có thuyết khác nói núi nầy ở huyện Hán Xuyên, tỉnh Hồ Bắc). Bài Cao Đường Phú của Tống Ngọc kể lại việc vua Sở Tương Vương nằm mơ thấy giao hoan với Thần nữ núi Vu sơn, sớm làm mưa, tối làm mây tại Dương Đài. Xem: Mây mưa.
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Dương Đài dành sẵn mưa mây,
Mà xem chúa Sở vui vầy giấc tiên.
(Hoa Tiên Truyện).
DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ 楊 廷 藝
Có người cho là “Dương Diên Nghệ 楊 延 藝”.
Dương Diên Nghệ là tuỳ tướng của Tiết Độ Sứ Khúc Hạo. Khi Khúc Thừa Mỹ là con Khúc Hạo thua binh, bị Lý Khắc Chính bắt đem về Tàu, họ Dương nổi lên đánh được giặc Nam Hán, rồi tự xưng làm Tiết Độ Sứ năm Tân Mão 931.
Tại chức được sáu năm, Dương Diên Nghệ bị người nha tướng là Kiều Công Tiện hạ sát để cướp lấy quyền hành.
Dương Đình Nghệ lại báo thù,
Đuổi người Hán, lĩnh châu phù vừa xong.
(Quốc Sử Diễn Ca).
DƯƠNG GIAN 陽 間
Dương: Cõi Dương. Gian: Khoảng giữa.
Dương gian là cõi Dương, tức là cõi thế gian, cõi của người sống ở.
Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là?
(Lục Vân Tiên).
Sanh, thời ở cảnh Dương gian,
Thác, về âm phủ là đàng xưa nay.
(Dương Từ Hà Mậu).
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận không màng thảo ngay.
(Kinh Sám Hối).
Đếm ba vạn sáu ngàn ngày,
Cõi Dương gian với cõi Tuyền đài gần nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DƯƠNG HƯƠNG 楊 香
Dương Hương sinh vào đời nhà Tấn, mới 14 tuổi, rất có hiếu, cha đi đâu cũng đi theo hầu. Có một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng đường xa, giữa đường gặp con hổ nhảy xông đến định vồ cha, ông tay không, quyết vào đánh nhau với hổ, hổ phải bỏ chạy, cha con đều được vô sự.
Tấn Dương Hương mới mười chín tuổi,
Cha bước ra hằng ruổi theo cha.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
DƯƠNG LỄ LƯU BÌNH 楊 禮 劉 平
Dương Lễ và Lưu Bình là hai anh em kết nghĩa với nhau, Lưu Bình vốn là con nhà giàu có, còn Dương Lễ xuất thân kẻ nghèo hèn. Tuy hai người chênh lệch về gia thế, nhưng tính Lưu Bình phóng khoáng, xuất tiền nuôi Dương Lễ ăn học, nên tình bạn của hai người rất thắm thiết.
Đến khoá thi, hai người lên Kinh ứng thí, Dương Lễ thi đỗ được bổ làm quan, còn Lưu Bình vì ỷ lại có tiền bạc, khinh suất việc học hành, nên thi rớt. Sau đó mấy khoa liền, Lưu Bình đều không đỗ, sinh ra chán nản, ăn chơi phung phí, lại gặp cơn loạn lạc, tài sản bị mất hết, Lưu Bình đành phải tìm đến Dương Lễ nhờ giúp đỡ.
Dương Lễ là người hay trọng ân nghĩa, nhưng biết tính Lưu Bình thường ỷ lại, không chí cương quyết, nên ý định giúp Dương Lễ một cách khéo léo. Vì vậy, khi Lưu Bình đến tìm, Dương Lễ tỏ vẻ lơ là, lãnh đạm, tiếp đãi cơm nước đạm bạc sơ sài, khiến Lưu Bình phải tủi thân, cho Lễ là kẻ vong tình bội nghĩa mà bỏ ra về.
Lưu Bình sống lang thang thì may đâu gặp được một người đàn bà còn trẻ đẹp, ý muốn giúp đỡ tiền bạc để Bình ăn học và nếu Bình thi đậu thì nàng sẽ gá nghĩa trăm năm với Bình. Lưu Bình liền chấp nhận.
Nhờ sự chăm sóc và động viên của người đàn bà làm cho Lưu Bình hăng hái và kiên quyết học hành, không bao giờ để lãng phí thời gian nữa. Chẳng bao lâu, đến ngày thi cử, Lưu Bình khăn gói lên Kinh ứng thí. Chàng cương quyết thi đỗ khoa này để đem kết quả về tìm người đàn bà đã giúp chàng ăn học kết nghĩa trăm năm, nhưng đến nhà thì hỡi ơi người đàn bà đi đâu mất tăm dạng!
Hay được Lưu Bình thi
đậu, Dương Lễ sai người đem lễ vật đến chúc mừng và có nhã ý mời chàng đến nhà
chơi. Lưu Bình tức giận kẻ phản bạn, định bụng đến nhà Dương Lễ sẽ sỉ vả vào
mặt cho hả giận. Nhưng khi đến nơi, Dương Lễ ra tận ngõ đón Lưu Bình một cách
trịnh trọng, mời vào nhà ngồi, rồi cho mời người thiếp ra chào Lưu Bình. Người
thiếp đó tên Châu Long, chính là người đàn bà đã cưu mang, chăm sóc và nhứt là
động viên chàng cố công ăn học để được thành tài như ngày hôm nay. Lưu Bình lúc
đó mới tỉnh ngộ: Thì ra do sự sắp xếp của Dương Lễ, khiến nàng Châu Long lo
lắng giúp đỡ cho chàng. Thế là tình bạn tâm giao từ đó càng thêm thắm thiết.
Tôi nhớ xưa tích cũ,
có hai chàng Dương Lễ, Lưu Bình,
bạn đồng song đèn sách học hành,
ba thu lẻ kể cùng chăn gối.
(Lưu Bình Diễn Ca).
DƯƠNG LIỄU 楊 柳
Dương và liễu cùng một loại nhưng hai cây khác nhau. Dương có cành cứng và thẳng lên, còn liễu thì cành mềm rủ xuống. Những về sau người ta thường gọi chung là dương liễu.
Vương Xương Linh đời Đường có bài “Khuê oán”, có hai câu như sau: Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc, Hối giao phu tế mịch phong hầu 忽 見 陌 頭 楊 柳 色, 悔 教 夫 婿 覓 封 侯, nghĩa là chợt thấy sắc dương liễu tươi xinh nơi đầu đường. Hối hận sao khiến chồng đi tìm công danh hầu tước.
1.- Nhìn dương liễu nhớ chồng đi chinh thú xa:
Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
2.- Dương liễu được ví
với lông mày của người phụ nữ đẹp, do câu thơ trong “Trường Hận Ca” của
Bạch Cư Dị có câu: Phù dung như diện, liễu như mi 芙 蓉 如 面, 柳 如 眉, nghĩa là mặt như hoa phù dùng, mày như lá
liễu.
Mày dương liễu mặt phù dung,
Ngắm hoa thêm nhắc tấm lòng sinh ly.
(Hoa Tiên Truyện).
DƯƠNG MẶC 楊 墨
Dương chu và Mặc Địch, là hai triết gia Trung Quốc thời cổ.
Dương Chu chủ trương thuyết vị kỷ hay vị ngã, trái lại Mặc Địch chủ trương thuyết “kiêm ái” hay vi nhơn, nghĩa là gồm yêu, yêu thương mọi người như nhau, không phân biệt thân hay sơ.
Mặc Tử có truyền lại bộ sách gọi là Mặc Tử, lập thành một phái đạo Mặc gia.
Kìa như họ Lão, họ Trang,
Họ Dương, họ Mặc, họ Hàn họ Thân.
(Dương Từ Hà Mậu).
DƯƠNG NGHIỆP 楊 業
Dương Nghiệp là một Đại tướng quân tài giỏi đời Tống Thái Tông. Khi cầm quân đi đánh đất U, triều đình sợ trăm họ phải khổ nên đòi về.
Sau cầm quân đem binh đi
đánh phía bắc, ông bị hơn mười vạn quân Khiết Đan bao vây, rồi bị bắt, nhịn đói
ba ngày chết.
Hoặc là lo trăm họ hoành là,
hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.
(Văn Tế Trương Định).
Đá kêu rêu mọc bia Dương Nghiệp,
Cỏ úa hoa tàn Mã Lý Băng.
(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).
DƯƠNG PHÁP 陽 法
Dương pháp là luật pháp ở cõi thế gian, trái với Âm pháp là luật pháp nơi cõi Âm do quỷ thần xử phạt.
Người phạm pháp đều bị
hình luật xử phạt, nếu ở thế gian thì bị phép vua luật nước, còn ở Âm phủ thì
bị quỷ thần phạt răn. Minh Tâm Bửu Giám có câu: Âm vi quỷ thần sở hại,
dương vi dương pháp sở tru 陰 為 鬼 神 所 害, 陽 為 陽 法 所 誅.
Âm vi quỷ thần sở hại,
Dương vi dương pháp sở tru.
(Sãi Vãi).
DƯƠNG PHI 楊 妃
Tức “Dương Quý Phi 楊 貴 妃”, tên là Ngọc Hoàn, hiệu là Thái Chân, một vị phi sủng ái của vua Đường Huyền Tông, em của Dương Quốc Trung.
Khi loạn An Lộc Sơn,
quân lính oán giận Dương Quý Phi, không chịu chống giặc, đòi Đường Huyền Tông
phải xử Quý Phi tự tử tại Mã Ngôi..
Vị Thuỷ tắm đòi phen,
Dương Phi nọ độc hòa thiên hạ.
(Cung Trung Bảo Huấn).
DƯƠNG QUAN 楊 關
Dương Quan là tên một cửa ải thuộc tỉnh Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Quốc.
Thơ Vương Duy có
câu: Tây xuất Dương Quan vô cố nhân 西
出 楊 關 無 故 人, nghĩa là đi về phía tây khỏi ải Dương Quan,
không còn bạn cũ nữa. Ý câu thơ tả cảnh chia ly, tiễn biệt nhau.
Sông Tần một dải xanh xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan.
(Truyện Kiều).
Vội vàng nào kịp hái hoa,
Dương quan bẻ liễu gọi là đưa nhau.
(Dương Từ Hà Mậu).
DƯƠNG QUAN TÂY 楊 關 西
Tức là Dương Chấn người đất Quan Tây, đời nhà Hán, làm quan thái úy, tánh
thanh liêm. Hồi làm thứ sử có tiến dẫn Vương Mật làm lệnh doãn tại huyện Xương
Ấp. Nên khi ông đi ngang qua Xương Ấp, vì trời tối, có nghỉ tạm ở đó một đêm.
Vương Mật mới lén đem mười lượng vàng đền ơn. Ông Dương Chấn mới trách: Ta biết
tài ngươi mà ngươi không biết lòng ta.
Dương Mật nói: Đêm hôm khuya khoắc có ai hay mà ngài sợ.
Dương Chấn đáp: Sáng thì có trời biết, tối thì có thần soi biết; trong có ta biết, ngoài có ông biết. Chỗ biết có nhiều sao gọi rằng không ai biết.
Xem: Bốn hay.
Dương Quan Tây còn sợ có bốn hay,
Khổng Phu Tử những dạy ba điều sợ.
(Sãi Vãi).
DƯƠNG THANH LIỄU LỤC 楊 青 柳 綠
Dương thanh: Cây dương màu xanh. Liễu lục: Cây liễu màu lục.
Dương thanh liễu lục tức chỉ cây dương liễu màu xanh lục.
Ba xuân những chốn làm vui!
Dương thanh liễu lục những ai đó giờ!
(Hoa Tiên Truyện).
DƯƠNG THẾ 陽 世
Dương: Cõi Dương, tức là cõi của người sống ở. Thế: Trên
đời.
Dương thế là cõi của người sống, tức chỉ cõi trần gian hay cõi thế gian mà nhơn
loại đang sống.
Hai bên vai vác kể ra,
Các điều dương thế sổ đà tỏ biên.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Khi dương thế không phân phải quấy,
Nay Hư linh đã thấy hành tàng.
(Kinh Thế Đạo).
Sống dương thế hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
(Kinh Sám Hối).
Tình thâm một gánh còn dương thế,
Oan nặng ngàn thu xuống dạ đài.
(Đạo Sử).
DƯƠNG TRẦN 陽 塵
Dương: Cõi Dương. Trần: Bụi bặm.
Dương trần nghĩa là cõi dương gian đầy bụi bặm, tức nói cõi đời nhiều uế trược.
Thỉnh trong khắp hết quỉ thần,
Cùng đều xuống chốn dương trần vui chơi.
(Lục Vân Tiên).
Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
(Kinh Sám Hối).
Lòng cảm xót dương trần lận đận.
Ra oai linh tiếp dẫn nhơn cầm.
(Xưng Tụng Công Đức).
DƯƠNG TRƯỜNG 羊 腸
Dương: Con dê. Trường: Ruột.
Dương trường là ruột dê. Ruột dê uốn khúc nên dương trường chỉ đường quanh co nhiều khúc.
Dương trường đường hiểm khúc cong queo.
Quê chợ bao nhiêu khách để xe.
(Thơ Nguyễn Trãi).
DƯƠNG XA 羊 車
Dương: Con dê. Xa: Chiếc xe. Dương xa là chiếc xe do dê kéo.
Đời nhà Tấn, vua Võ Đế có nhiều cung phi mỹ nữ, nên khi vua muốn ngự cung nào thì đi trên một chiếc xe khảm vàng ngọc có một bầy dê kéo. Hễ dê vào nơi cung nào thì vua sẽ nghỉ lại nơi cung đó.
Xem: Xe dê.
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
DƯỠNG DỤC 養 育
Dưỡng: Nuôi nấng. Dục: Nuôi cho lớn lên.
Dưỡng dục tức là nuôi dạy con trẻ.
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
(Phật Nói Vu Lan).
Nên hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành.
(Lục Vân Tiên).
Sanh quang dưỡng dục quần nhi,
Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
DƯỠNG NGHI 養 儀
Dưỡng: Nuôi nấng. Nghi: Khuôn mẫu, chỉ bà mẹ.
Dưỡng nghi là tiếng dùng để chỉ người mẹ nuôi. Đồng nghĩa với dưỡng mẫu.
Sợ đàn em dại u ơ,
Khổ thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
DƯỠNG NHI BẤT GIÁO 養 兒 不 教
Nuôi con chẳng dạy.
Người xưa cho rằng làm
cha mẹ sinh con ra nuôi dưỡng con cái mà không dạy dỗ, ấy là lỗi của cha mẹ.
Nên có câu: Dưỡng tử bất giáo, phụ chi quá 養 子 不 教, 父 之 過, tức nuôi con chẳng day là lỗi ở cha mẹ.
Cha mẹ rủi sanh con hung bạo,
Tội dưỡng nhi bất giáo đã đành.
(Phương Tu Đại Đạo).
DƯỠNG SINH 養 生
Sinh đẻ và nuôi nấng
Mẹ mang nặng để đau, cha
nuôi nấng dạy dỗ, đó là hai nguồn ơn lớn, gọi là công dưỡng sinh của cha mẹ.
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.
(Truyện Kiều).
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
(Thánh Thi HiệpTuyển).
Dưỡng sinh đã vẹn nợ đôi bên,
Có thiếu thì con cũng trả liền.
(Đạo Sử).
Nợ dưỡng sinh gắng trả cho rồi,
Khi hôm sớm dưỡng nuôi hết dạ.
(Phương Tu Đại Đạo).
DƯỠNG TÁNH
Hay “Dưỡng tính 養 性” theo nghĩa đen là nuôi dưỡng tính tình cho tốt đẹp.
Con người khi được sinh ra thì Trời đã ban cho một Thiên tính, nhưng lớn lên lại mang quá nhiều vọng tưởng và chấp trước, là cội gốc của mọi phiền não, nên dần dần mất Thiễn tính, và mãi chìm sâu trong vòng luân hồi sinh tử vô tận.
Theo Mạnh Tử, Nhân chi sơ, tnh bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn 人 之 初, 性 本 善, 性 相 近, 習 相 遠 nghĩa là con người mới sinh ra, tánh vốn lành nhưng vì do tập nhiễm xã hội mà xa lần tánh lành đi. Vì thế, con người cần phải nuôi dưỡng cái Tánh của mình cho trở lại lành như xưa, tức là phục hồi cái Linh tánh hay Thiên tánh vậy.
Am mây kinh kệ hôm mai,
Lâm tuyền dưỡng tánh, khoan thai thanh nhàn.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.
(Đạo Sử).
DỨT DÂY ĐỘNG RỪNG
Dây mọc trong rừng leo quấn cây cao, nhiều năm bò lan đeo níu một vùng rộng lớn, nên khi dứt dây thì phải động cả vùng rừng. Ý muốn nói làm việc nhỏ sợ đụng chạm đến việc lớn, liên quan ảnh hưởng đến nhiều người khác.
Làm chi mặt vượt mặt lăng,
Dứt dây chẳng sợ động rừng kia ru.
(Truyện Trinh Thử).
DỨT ĐƯỜNG CHIM XANH
Chim xanh chỉ người đưa tin tức, do tích chim thanh loan của bà Tây Vương Mẫu báo tin.
Dứt đường chim xanh ý nói bặt tin tức.
Xem: Chim xanh.
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.
(Truyện Kiều).
DỨT HƠI BA TẤC
Tức là dứt ba tấc hơi.
Ba tấc hơi do chữ “Tam thốn khí 三 寸 氣” trong câu cổ ngữ: Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhất đán vô thường vạn sự hưu 三 寸 氣 在 千 般 用, 一 旦 無 常 萬 事 休, nghĩa là ba tấc hơi còn thì ngàn việc dùng, một sáng vô thường (Tức chết) thì muôn việc điều buông bỏ.
Dứt hơi ba tấc tức chỉ sự chết.
Quyền là chi? Lợi là chi?
Dứt hơi ba tấc có gì gọi hay.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đ
ĐA ĐOAN 多 端
Đa: Nhiều. Đoan: Mối.
Đa đoan là nhiều mối lôi thôi, tức nhiều việc, nhiều chuyện rắc rối khó lường.
Mà lượng Thánh đa đoan kíp mấy,
Bỗng ra lòng run rẩy vì đâu.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Ông tơ thực nhẽ đa đoan!
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
(Truyện Kiều).
Chữ bạc mệnh ai ơi thấu với,
Câu đa đoan trời hỡi thấu chăng?
(Tự Tình Khúc).
ĐA MANG 多 忙
Đa: Nhiều. Mang: Bối rối.
Đa mang có nghĩa là nhiều việc đưa đến khiến lòng thêm bối rối.
Yêu vì nết, trọng vì người,
Phu nhân lại dạy đến lời đa mang.
(Hoa Tiên Truyện).
ĐA QUÁ ĐA NGÔN 多 過 多 言
Đa quá: Nhiều lỗi lầm. Đa ngôn: Nhiều lời.
Đa quá đa ngôn hay đa ngôn đa quá là nhiều lời nhiều lỗi, nghĩa là càng nói nhiều càng có lỗi nhiều.
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá đa ngôn chút nào.
(Gia Huấn Ca).
ĐÁ BIA DANH TẠC
Đá bia: Bia đá. Danh tạc: Khắc tên.
Đá bia danh tạc là khắc tên vào bia đá để ghi công nghiệp hầu bia tiếng thơm muôn đời.
Ðá bia danh tạc chẳng bền chi,
Cái khó tua lo kịp với thì.
(Đạo Sử).
ĐÁ GẬT ĐẦU
Do tích người đệ tử của sư La Thập ngồi giảng kinh Niết Bàn ở núi Hổ Khưu, rồi hỏi mấy hòn đá được xếp xung quanh, xem lời giảng có hợp với ý Phật không, thì thấy mấy hòn đá gật đầu.
Mưa hoa rảy khắp bên mình,
Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.
(Truyện Phan Trần).
Hoa thính kệ lao xao múa nhị,
Đá nghe kinh lố xố gật đầu.
(Nhạc Hoa Linh).
ĐÁ NÁT VÀNG PHAI
Đá vàng chỉ một lòng một dạ để giữ lời hẹn chắc.
Đá nát vàng phai ý nói
lòng dạ thay đổi, không giữ lời ước hẹn như đá bị bể nát, vàng bị phai lợt.
Ai làm đá nát vàng phai,
Ủ ê nào thấy lâu đài như xưa.
(Hoài Nam Khúc).
ĐÁ VÀNG
Do chữ “Kim thạch 金 石” là vàng đá.
Đá vàng là hai loại vật chất cứng, chắc nên trong văn chương người ta dùng để ví với lòng trinh tiết của người đàn bà bền chặt, không bao giờ thay đổi.
Đường thi có câu: Duy hữu đồng tâm nhân, khả đương kim thạch luận 維 有 同 心 人, 可 當 金 石 論, nghĩa là duy chỉ có một người một lòng mới có thể bàn đến chuyện đá vàng.
Sớm đào tối mận lân la,
Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.
(Truyện Kiều).
Đá vàng nghe cũng bền lòng.
Lẽ nào trống thủng bồng long đến điều.
(Quan Âm Thị Kính).
Son phấn thà cam dày gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông?
(Thơ Tôn Thọ Tường).
Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.
(Đạo Sử).
ĐÀ ĐAO 拖 刀
Một thế võ giả vờ thua chạy, chờ kẻ địch đuổi theo, gần đến rồi thừa thế quay lại chém.
Đây là một ngón võ mà Quan Công (Quan Vân Trường) đời Tam Quốc thường dùng.
Nghĩa bóng: Mưu mẹo để lừa người.
Đà đào lập sẵn chước dùng,
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!
(Truyện Kiều).
ĐẠC ĐỨC TRỌNG NI THIẾT
GIÁO
Đạc: Tức mộc đạc, cái mõ gỗ, ngày xưa dùng để đánh hiệu vào học.Vì thế,
người ta gọi thầy giáo là mộc đạc. Trọng Ni: tên tự đức Khổng
Tử. Thiết giáo: Thi hành việc giáo hoá.
Đạc đức Trọng Ni thiết giáo là nói đức Khổng Tử đem đạo đức dạy người đời như cái mõ truyền rao cho thiên hạ nghe.
Trong Luận Ngữ có câu
: Thiên hạ chi vô đạo giả cửu hỹ, Thiên tương dĩ Khổng Tử vi mộc
đạc 天 下 之 無 道 者 久 矣, 天 將 以 孔 子 為 木 鐸, nghĩa là thiên hạ không Đạo đã lâu rồi, Trời cho
Khổng Tử ra làm cái mõ khuya để cảnh tỉnh nhơn tâm.
Ngỡ là chuông vua Hạ Võ chiêu hiền;
Ngỡ là đạc đức Trọng Ni thiết giáo.
(Sãi Vãi).
ĐAI CÂN
Bởi chữ “Cân đới 巾 帶”, tức cái khăn và sợi dây đai, chỉ về phái quan chức mũ cao áo dài
Ngày xưa người đàn ông để tóc dài, nên khi làm quan, mặc triều phục, đầu phải bịt khăn, lưng phải buộc sợi dây đai. Do vậy, từ “Cân đai” dùng để chỉ quan lại.
Xem: Cân đai.
Nền thi lễ, nếp đai cân,
Giá nào dẫu nhắc đồng cân cũng già.
(Hoa Tiên Truyện).
Rày vâng thăng điệu lai Kinh,
Thỏa lòng hồ thỉ phỉ tình đai cân.
(Nhị Độ Mai).
Ðai cân mảng luyến chưa nên phận,
Danh lợi ham giành khó vẹn ngôi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Trọng thì lấy đai cân làm lịnh,
Khinh thì lo trừ nghịch làm duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Dạy trọn thờ hai chữ quân thần,
Rán nên mặt đai cân cùng thế sự.
(Phương Tu Đại Đạo).
ĐÁI LA NANG 帶 羅 囊
Mang túi lụa.
Đời nhà Đường, con của nhà thơ Đỗ Phủ là Tông Vũ, thường hay mang
túi lụa đi ăn chơi, nên ông làm một bài thi khuyên con gắng học như sau: Mích
cú tân tri luật, than thư giải mãn sàng, thí ngâm thanh ngọc án, mạc đới tử la
nang 覓 句 新 知 律, 攤 書 解 滿 床, 譬 吟 青 玉 案, 莫 帶 紫 羅 囊, nghĩa là tìm câu biết luật mới, lục sách bỏ
đầy giường, Thử ngâm bài thanh ngọc, Chớ sách túi lụa hường.
ĐÁI NGUYỆT 戴 月
Hay “Đới nguyệt”.
Đái: Đội trên đầu. Nguyệt: Mặt trăng.
Đái nguyệt tức là đầu đội trăng, ý muốn nói đi ban đêm. Chữ dùng để chỉ sự cực nhọc, vất vả.
Xem: Phụ tinh đái
nguyệt.
Xuất gia quyết một gan liều,
Phụ tinh, đái nguyệt bước lên dặm đường.
(Quan Âm Thị Kính).
ĐÁI THIÊN 戴 天
Đái: Đội trên đầu. Thiên: Trời.
Đái thiên là đầu đội trời. Bởi câu: “Bất cộng đái thiên 不 共 戴 天” tức không đội chung một bầu trời.
Hai bên vì hận thù nhau
ghê gớm, quyết không sống chung dưới bầu trời. Chỉ mối thù sâu.
Công tư luống bận hai bề,
Đái thiên lòng đã quyết thề chẳng dung.
(Lưu Nữ Tướng).
ĐÀI CÁC 臺 閣
Đài các là cái phủ hay cái gác, nơi làm việc của quan, nên hai chữ nầy được dùng để gọi kẻ cao sang, quyền quý.
Rằng đây há khách tầm thường,
Đem thân đài các mà nương bóng chiền.
(Truyện Phan Trần).
Bùi ông đứng nhắm tướng nàng,
Chẳng phen đài các cũng phường trâm
anh.
(Lục Vân Tiên).
Cớ chi nhà lối xa khơi,
Đem mình đài các, vào nơi lâm tuyền.
(Quan Âm Thị Kính).
ĐÀI DƯƠNG
Tức Dương đài 陽 臺, tên một ngọn núi, ở huyện Vu Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Chỉ việc trai gái gặp gỡ ái ân với nhau.
Theo Cao Đường Phú, vua Sở Tương Vương nằm mơ thấy giao hoan với Thần nữ núi Vu sơn, sớm làm mưa, tối làm mây tại Dương Đài.
Xem: Dương đài.
Kìa ai mê giấc Đài Dương,
Mây mưa là chuyện hoang đường biết đâu?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Của đâu trêu ghẹo chi ai,
Ấy người cung Quảng, hay người Đài Dương.
(Nhị Độ Mai).
ĐÀI GƯƠNG
Bởi chữ “Kính đài 鏡 臺”, nơi treo gương để người con gái trang điểm, cũng đồng nghĩa với đài trang.
Đài gương, chỉ nơi người
đàn bà ở. Nghĩa rộng là nói tôn hạng phụ nữ giàu sang.
Tiện đây xin một hai điều,
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng.
(Truyện Kiều).
Trăng tỏ đài gương người thẹn bóng,
Hoa đưa trướng gấm khách tô hồng.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
ĐÀI LÂN 臺 麟
Đài: Cái nhà xây cao lên. Lân: Con kỳ lân.
Tức là Kỳ lân đài, một cái đài do vua Đường Tuyên Tông lập nên để vẽ tượng các vị công thần trong thời bấy giờ để ghi nhớ công nghiệp.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác khói, tượng truyền đài lân.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
ĐÀI LIÊN
Tức “Liên đài 蓮 臺”, dùng để chỉ Tòa sen, nơi ngự của chư Bồ Tát và chư Phật. Vì vậy, Đài liên chỉ quả vị của người tu hành khi chứng đắc.
Xem: Liên đài.
Anh tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy linh Trời giữ tạc đài liên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
ĐÀI MÂY
Bởi chữ “Vân đài 雲 臺”, tên một cái cung đời nhà Hán xây rất cao, nên được gọi là đài mây hay vân đài.
Đời vua Hiền Tông, vua nghĩ đến công ân của những kẻ đời trước mới truyền cho vẽ tượng của 28 công thần vào vách ở phía nam cung vân đài.
Xem: Vân đài.
Danh sáng đài mây đã mấy Đông,
Có nhân dường hãy sống hai ông.
(Hoài Nam Khúc).
Phận dù không gác khói đài mây,
Danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.
(Trận Vong Tướng Sĩ).
Hết buổi truân chuyên nên buổi sướng,
Ðài mây có lúc cũng đưa chân.
(Đạo Sử).
Tạo nên sự nghiệp thế ai màng,
Chưa đến đài mây đã đặng sang.
(Đạo Sử).
ĐÀI NGÂN
Bởi chữ “Ngân đài 銀 臺”.
Hậu Hán Thư có câu: Thỉnh Vương Mẫu ư Ngân Đài hề 請 王 母 於 銀 臺 兮, nghĩa là mời Vương Mẫu ở Ngân Đài chừ.
Do vậy, vân đài được dùng để chỉ nơi Tiên ở.
Trên thì chễm chệ đài Ngân,
Mấy lời dạy bảo mười phần đinh ninh.
(Thạch Sanh).
ĐÀI SEN
Đài sen là cái giá đèn dùng để cắm nến. Cái đài nầy làm thành hình bông sen.
Ngoài ra, “Đài sen” dịch
nghĩa từ “Liên đài”, nên dùng để chỉ Toà sen, nơi ngự của chư Phật và Bồ tát.
Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp song đào thêm hương
(Truyện Kiều).
Đài sen vui nhánh trổ thêm hoa,
Một Đạo như con ở một nhà.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,
Đem tấm tình để ngụ đài sen.
(Nữ Trung Tùng Phận).
ĐÀI TRANG 臺 粧
Tức trang đài, một chiếc bàn để đồ trang sức của phụ nữ. Ngoài ra cũng là tiếng xưng hô người con gái quý phái.
Đài trang còn những đâu đâu,
Hãy đem phong bác con hầu thử xem.
(Hoa Tiên Truyện).
Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.
(Truyện Kiều).
ĐÀI VÂN
Bởi chữ “Vân đài 雲 臺” là đài mây, một cái đài cất cao tận mây.
Đài vân hay Vân đài do vua nhà Hán là Minh Đế xây dựng rất cao, làm nơi thờ ảnh 28 vị công thần để ghi nhớ công đức.
Đối với Tôn giáo, Đài vân hay Vân đài dùng để chỉ nơi đạt phẩm vị cao trọng trên cõi thiêng liêng.
Xem: Vân đài.
Đài vân Quan Võ để phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Phước gặp Tam Kỳ Trời cứu độ,
Gắng tu kiệp buổi lướt Đài Vân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Lời lẽ tuy Thầy chưa để dặn,
Nhưng tên tuổi trẻ ở Ðài Vân.
(Đạo Sử).
Mình muốn rảnh rang Nhơn đạo xử,
Xong xuôi rồi mới đến Ðài Vân.
(Đạo Sử).
ĐÀI XUÂN
“Xuân” hay “Thung” 椿 là một loại cây to, sống lâu, lấy 800 năm làm một mùa xuân, 800 năm làm một mùa thu, mượn để tượng trưng cho tuổi thọ. Tục mong cha được trường thọ, nên gọi cha là “Thung đường” (Xuân đường).
Đài xuân cũng như chữ “Xuân đường” dùng để chỉ người cha.
Xem: Thung đường.
Vào hầu lạy trước đài xuân,
Hương đưa chén chuốc gấm nhuần tiệc cao.
(Hoa Tiên Truyện).
ĐÃI NGỌC 待玉
Đãi ngọc tức là ngọc đợi giá.
Bởi câu “Mỹ ngọc đãi giá 美 玉 待 價” trong thiên Tử Hãn, sách Luận Ngữ, tức là ngọc tốt chờ đợi được giá cao mới bán.
Đãi ngọc dùng để nói về người con gái chờ thời, kén chồng. Xem: Ngọc lành chờ giá.
Người khuê các khách thư cầm,
Ngoài đành đãi ngọc, trong đành tựa mai.
(Nhị Độ Mai).
ĐẠI BÀNG CHÍ CẢ
Đại bàng: Chim bằng, một loại chim có thân hình to lớn. Theo Trang Tử:
Chim bằng lưng như núi Thái sơn, cánh như mây lớn trên trời, có thể bay một lần
đến ba nghìn dặm. Người ta thường ví chim bằng với những kẻ có chí lớn. Chí
cả: Chí lớn.
Đại bàng chí cả ý nói những người có chí hướng lớn lao như chim đại bàng.
Đại bàng chí cả tuyệt vời,
Đường mây vùng vẫy bên trời bay cao.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
ĐẠI CỔ 大 賈
Đại: To, lớn. Cổ: Đi buôn.
Đại cổ là những thương buôn lớn, tức là những người giàu có, mua bán khắp mọi nơi và nhiều loại hàng hoá.
Xe lừa dù có chen
vai,
Kìa người đại cổ nọ người phú thương.
(Nhị Độ Mai).
ĐẠI ĐỒNG 大 同
Đại đồng là hết thảy đều như nhau.
Đây chỉ một xã hội lý tưởng của Nho giáo, trong đó nhơn loại đều là anh em, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giai cấp. Mọi người đều sống bình đẳng, bác ái, chung nhau làm, chung nhau ăn, cuộc sống thanh bình, thánh đức.
Trong Kinh Lễ, thiên Lễ Vận chép rằng: Khổng Tử buồn bã, thở dài về việc Vua nước Lỗ cúng tế không đủ lễ, rồi nói với môn đệ là Tử Du rằng: Đại đạo chi hành dã, dữ Tam đại chi anh, Khâu vị chi đãi dã nhi hữu chí yên.
Đại đạo hành dã, thiên hạ vi công, tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mục. Cố
nhân bất độc thân kỳ thân, bất độc tử kỳ tử, sử lão hữu sở chung, tráng hữu sở
dụng, ấu hữu sở trưởng, căng quả cô độc phế tật giả giai hữu sở dưỡng, nam hữu
phận, nữ hữu quy. Hóa ố kỳ khí vu địa dã, bất tất tàng vu kỷ; lực ố kỳ bất xuất
ư thân dã, bất tất vị kỷ. Thị cố mưu bế nhi bất hưng, đạo thiết loạn tặc nhi
bất tác, cố ngoại hộ nhi bất bế. Thị vị Đại đồng 大 道 之 行 也, 與 三 代 之 英, 丘 未 之 逮 也, 而 有 志 焉. 大 道 之 行 也, 天 下 為 公, 選 賢 與 能, 講 信 修 睦. 故 人 不 獨 親 其 親, 不 獨 子 其 子, 使 老 有 所 終, 壯 有 所 用, 幼 有 所 長, 矜 寡 孤 獨 廢 疾 者 皆 有 所 養, 男 有 分, 女 有 歸. 貨 惡 其 棄 于 地 也, 不 必 藏 于 己, 力 惡 其 不 出 於 身 也, 不 必 為 己. 是 故 謀 閉 而 不 興, 盜 竊 亂 賊 而 不 作, 故 外 戶 而 不 閉, 是 謂 大 同. Nghĩa là thực hành đại
đạo cùng với các bậc anh tuấn đời Tam đại thì Khâu này không làm được, nhưng
vẫn có chí đó.
Ở thời Đại đạo thực hành thì thiên hạ là của chung, người ta chọn kẻ hiền năng, giảng điều tín thực, sửa điều hòa mục. cho nên người ta không riêng thân cha mẹ mình, không riêng yêu con mình, kẻ già được nuôi dưỡng trọn đời, trai tráng có chỗ dùng, trẻ con được săn sóc đến trưởng thành; người ta thương kẻ góa, con côi, người già cô độc; người tàn tật được chu cấp, con trai có phận, con gái có nơi chốn để nương cậy. Người ta ghét của bỏ phế trên đất mà lượm lên, chứ không chủ ý lo lợi riêng cho mình. Vì vậy những ngón cơ mưu không thi thố được, kẻ trộm cắp, người làm loạn, làm giặc không nổi lên, cho nên cửa ngõ không cần đóng. Đó là thời Đại đồng.
Muốn cho thiên hạ Đại đồng.
Lấy câu cứu khổ dụ lòng thương sanh.
(Kinh Thế Đạo).
ĐẠI HẠN 大 限
Giới hạn lớn của đời người là lúc chết.
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: Phu thê bổn thị đồng lâm điểu,
đại hạn lai thời các tự phi 夫 妻 本 是 同 林 鳥, 大 限 來 時 各 自 飛, nghĩa là vợ chồng vốn là chim cùng một rừng
cây, đến khi đại hạn, mỗi con bay một ngả.
ĐẠI HỌC 大 學
Đại học là tên một bộ sách của Nho gia, cùng với Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử hợp thành Tứ Thư. Nội dung quyển Đại học có ý nói học để làm sáng tỏ cái đức trong thiên hạ và đem học thức rộng rãi ra áp dụng về đường chính trị, tức là lấy việc học để trị nước.
Đọc cho đến Trung Dung, Đại Học,
Tứ Thư rồi lại đọc Ngũ Kinh.
(Gia Huấn Ca).
Đại học, Tăng Tử dò lưa,
Tu thân bình trị xếp vừa mười chương.
(Tam Tự Kinh).
ĐẠI KHOA 大 科
Hay “Đại Đăng Khoa 大 登 科” nghĩa là đi thi đậu, được thành danh, làm rạng rỡ tông môn, đó là niềm vui lớn nhứt gọi là Đại Đăng Khoa.
Đại Đăng Khoa còn có
nghĩa đậu khoa thi Hội, thi Đình.
Phu nhân lại dạy chuyện nhà,
Đại khoa nhân thể Tiểu khoa cũng vừa.
(Hoa Tiên Truyện).
Tiên rằng: Nhờ lượng nhạc gia,
Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì.
(Lục Vân Tiên).
Đại khoa, trước đặng nên mình,
Tiểu khoa sau lại phỉ tình bách niên.
(Dương Từ Hà Mậu).
ĐẠI PHU TÙNG 大 夫 松
Cây tùng tức cây thông được phong chức Đại phu.
Do tích vua Tần Thuỷ
Hoàng lên làm lễ phong thiện trên núi Thái Sơn, giữa đường gặp cơn mưa to, đành
trú ẩn dưới gốc cây thông già, sau cơn mưa nhà vua bèn phong cho cây thông chức
“Đại phu”.
Tiết cứng khá phen Quân tử trúc,
Thói cao chẳng nhượng Đại phu tùng.
(Hồng Đức Quốc Âm)
ĐẠI PHÚ DO THIÊN 大 富 由 天
Đại phú: Giàu lớn. Do Thiên: Bởi Trời.
Thánh hiền xưa có dạy rằng: Đại phú do thiên, tiểu phú do cần 大 富 由 天, 小 富 由 勤, nghĩa là giàu to là bởi trời, giàu nhỏ là do sự siêng năng. Có người lại cho rằng: Tiểu phú do kiệm 小 富 由 儉, tức là giầu nhỏ thì do sự tiện tặn.
Chữ rằng: Đại phú do Thiên,
Tiểu phú do kiệm, Thánh hiền còn ghi.
(Tội Vợ - Vợ Chịu).
Ðại phú do Thiên tuy đã vậy,
Ðủ no không thiếu bởi nên cần.
(Đạo Sử).
ĐẠI PHÚ DO THIÊN 大 富 由 天
Đại phú: Giàu lớn. Do Thiên: Bởi Trời.
Thánh hiền xưa có dạy rằng: Đại phú do thiên, tiểu phú do cần 大 富 由 天, 小 富 由 勤, nghĩa là giàu to là bởi trời, giàu nhỏ là do sự siêng năng. Có người lại cho rằng: Tiểu phú do kiệm 小 富 由 儉, tức là giầu nhỏ thì do sự tiện tặn.
Chữ rằng: Đại phú do Thiên,
Tiểu phú do kiệm, Thánh hiền còn ghi.
(Tội Vợ - Vợ Chịu).
Ðại phú do Thiên tuy đã vậy,
Ðủ no không thiếu bởi nên cần.
(Đạo Sử).
ĐẠI PHÚ BỞI TRỜI
Bởi chữ “Đại phú do thiên 大 富 由 天”.
Người xưa cho rằng người siêng năng làm ăn thì có thể làm giàu nhỏ được, còn người có vận số thì giàu to. Vì vậy, sách mới có câu: Đại phú do thiên, tiểu phú do cần, nghĩa là giàu to là bởi trời, giàu nhỏ là do sự siêng năng.
Xem: Đại phú do thiên.
Cho hay đại phú bởi trời,
Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
(Gia Huấn Ca).
ĐẠI TRƯỢNG PHU 大 丈 夫
Người đàn ông có chí khí hơn người.
Mạnh Tử đã định nghĩa
chữ đại trượng phu như sau: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng
di,uy vũ bất năng khuất, thử chi vị Đại Trượng phu 富 貴 不 能 淫, 貧 賤 不 能 移, 威 武 不 能 屈, 此 之 謂 大 丈 夫, nghĩa là giàu sang không làm cho say đắm,
nghèo hèn không làm cho đổi dời, oai võ không làm cho khiếp sợ,ấy mới gọi là
Đại Trượng phu.
Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt,
Đại trượng phu trước giặc vong thân.
(Nữ Trung Tùnh Phận).
ĐẠI VƯƠNG BỐ CÁI 大 王 布 蓋
Khi quân Tàu còn đô hộ, quan Đô uý là Cao Chính Bình bắt dân ta đóng sưu thuế nặng, lòng người oán hận. Bấy giờ ở quận Đường Lâm, nay là huyện Phúc Thọ, có người tên là Phùng Hưng nổi lên, đem quân về phá phủ Đô Hộ. Cao Chính Bình lo sợ thành bịnh mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng thì mất. Quân sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên là Bố Cái Đại Vương 布 蓋 布 蓋, tức là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ (Bố: Cha. Cái: Mẹ).
Đế hương phút trở xe biền,
Đại vương Bố Cái tiếng truyền muôn thu.
(Quốc Sử Diễn Ca).
ĐẠI XÁ 大 赦
Đại: Lớn. Xá: Tha.
Đại xá là không thu thuế.
Chỉ cuộc tha tội lớn
lao, tha một lần cho một số rất đông người phạm tội, hoặc còn có nghĩa là tha
hết tất cả các tội lỗi tội nhân.
Cũng khi ơn đội quốc gia,
Cũng khi đại xá dân ta được mừng.
(Thanh Hoá Quan Phong).
ĐẢM PHÁ TÂM HÀN 膽 破 心 寒
Vỡ mật lạnh tim, ý muốn nói người bị khiếp sợ.
Tống Thư chép: Ông Hàn Trĩ Khuê cùng ông Phạm Trọng Yêm rán sức thu phục nước Tây Hạ. Người đương thời có đặt bài hát rằng: Quân trung hữu nhất Hàn, Tây tặc văn chi tâm đảm hàn. Quân trung hữu nhất Phạm, Tây tặc văn chi kinh phá đảm 軍 中 有 一 韓, 西 賊 聞 之 心 膽 寒. 軍 中 有 一 范, 西 賊 聞