N
NẠI HÀ
KIỀU 奈 河 橋
Tên một con sông. Sách Tuyên Thất Chí của Trương Độc chép: Đổng Quang chết, hồn đến một con sông rộng không đầy vài thước, nước chảy về hướng tây nam, tục gọi là cầu Nại Hà, chảy từ Địa phủ ra. Quang nhìn nước thấy toàn là huyết, mùi tanh hôi không thể chịu được (Hán Việt Từ Nguyên, Bửu Kế).
Theo Phật giáo, ở cõi Âm phủ có con sông lớn, gọi
là Nại Hà, trong ấy có các loại thủy tộc như rắn, cua, kình rất dữ tợn. Trên
sông có bắc một cây cầu, gọi là cầu Nại Hà, Tội nhơn đến đó không thể nào qua
sông đặng, chỉ những người có đầy đủ phước đức mới đi qua cầu Nại Hà được, còn
những kẻ hung dữ đều bị té nhào xuống sông để cho cua kình rỉa thây.
Bia đề là "Nại hà Kiều",
Ai mà có phước thời dìu dắt qua.
(Dương Từ Hà Mậu).
NAY DI
MAI HẠ
Di 夷: Dân tộc phương đông chưa khai hoá. Hạ 夏: Tức Hoa Hạ, chỉ nhà Hạ văn minh rực rỡ.
Nay Di mai Hạ tức là chỉ lúc còn man di, lúc đã khai hoá rực rỡ, nghĩa bóng chỉ sự thay đổi.
Đời vương đời đế xa rồi,
Nay Di mai Hạ biết hồi nào an.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NAM ÂM
Nam:
Nước Nam. Âm: Âm nhạc, tiếng.
Nam âm là tiếng, hay âm nhạc nước Nam.
Say ngủ kìa ai, ai tỉnh chửa?
Chuông chùa còn gióng tiếng Nam âm.
(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).
NAM CAI 南 陔
Bực thềm ở phía nam, chỉ nơi nhà cha mẹ ở. Nam cai còn là tên một thiên Kinh Thi, nói về một người con hiếu thảo lo lắng phụng dưỡng cho cha mẹ.
Nam cai khuất non xanh man mác,
Thái hàng xa mây bạc lân vân.
(Tự Tình Khúc).
NAM
CHÂU 南 州
Nam Châu là phía Nam của quận Giao Châu 交 州.
Theo Việt Sử, vua Triệu Đà đánh được An Dương Vương rồi, sáp nhập nước Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập thành một nước Nam Việt, lên ngôi là Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung.
Đến đời Hán Vũ Đế nước Trung Quốc, đánh thắng được nhà Triệu, lấy nước Nam Việt, rồi cải ra Giao Chỉ bộ 交 趾 部, và chia ra làm 9 quận, trong đó có ba quận thuộc Bắc Việt và mấy tỉnh ở phía bắc Trung Việt, đó là: Giao Chỉ 交 趾, Cửu Chân 九 真, Nhật Nam 日 南.
Đến cuối đời nhà Đông Hán, vua Hiến Đế đổi Giao Chỉ là Giao Châu 交 州.
Như vậy, Nam Châu là phía nam của Giao Châu.
Bốn ngàn năm quốc gia đã lập,
Cõi Nam Châu bồi đắp giang
sơn.
(Kinh Thế Đạo).
NAM DU 南 遊
Nam:
Phương nam. Du: Đi chơi.
Nam du là đi chơi phương nam.
Đỉnh Hoa biểu từ khơi bóng hạc.
Gót Nam du nhẹ bước tang bồng.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
NAM
DƯƠNG 南 洋
Gia Cát Khổng Minh khi còn hàn vi thường cày cấy ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, nơi ấy có ngọn núi Ngoạ Long Cương, nên tự xưng mình là Ngoạ Long tiên sinh. Sau ba lần tự thân đến rước, Lưu Bị mới được Khổng Minh về phò tá, tôn là Quân sư.
Nước non dễ phụ người nhân trí,
Nọ nọ Nam Dương cũng có lều.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Văn đạt chẳng cầu yên mấy phận,
Ba gian lều cỏ đất Nam Dương.
(Quốc Âm Thi Tập).
Nam Dương có sĩ ẩn Nho,
Khổng Minh là chữ, Trượng phu khác loài.
(Ngoạ Long Cương Vãn).
NAM GIẢN 南 澗
Nam:
Hướng nam. Giản: Khe suối.
Khe suối ở phương nam, chỉ người con dâu hiền thảo và đảm đang, nên thường nói là: Dâu Nam giản.
Do bài “Thái tần” trong Kinh Thi khen ngợi người vợ đảm đang việc nội trợ, đi hái rau tảo rau tần mọc ở khe nước trong về cúng bái tổ tiên: Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân, vu dĩ thái tảo, vu bỉ hành lạo 于 以 采 蘋, 南 澗 之 濱, 于 以 釆 藻, 于 彼 行 潦, nghĩa là để mà đi hái rau tần, Núi nam hay mọc ở gần bờ khe. Tảo kia ta hái luôn về, Bên đường nước chảy dầm dề sau mưa. (Tạ Quang Phát dịch).
Người sau dùng chữ “Nam giản” để chỉ đàn bà con gái và chỉ nàng dâu hiếu thảo.
Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Kìa dâu Nam giản, nọ trai Đông
sàng.
(Lục Vân Tiên).
NAM
GIAO 南 郊
Khoảng đất ở phía nam Kinh thành.
Ngày xưa các vị hoàng đế Trung Hoa thường đắp một cái nền hình tròn ở phía nam Kinh thành để làm lễ tế trời vào ngày Đông chí, gọi là tế “Nam giao” và đắp một cái chằm hình vuông ở phía bắc Kinh thành để tế đất, vào tiết Hạ chí, gọi là tế “Bắc giao”.
Ở nước ta, vua Gia Long nhà Nguyễn cho đắp ở phía nam Kinh thành Huế, thuộc làng Dương Xuân một nền đất cao để tế “Nam giao”.
Vua ngự lễ Nam giao rầm rộ.
Phải có heo mới gọi tam sanh.
(Lục Súc Tranh Công).
NAM HẢI 南 海
Nam hải là vùng đất khi xưa Lạc Long Quân đem 50 người con đến lập nghiệp, ngày nay là nước Việt. Nam Hải còn là một vùng đất có biển chạy dọc theo, chỉ đất nước Việt Nam.
Vùng Nam Hải uy linh nhứt
quốc,
Cỏ rẻ hai chia đất rấp ranh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nam Hải trổ nhiều tay Thánh đức,
Giao Châu sanh lắm mặt Anh hùng.
(Đạo Sử).
NAM HẢI
PHỔ ĐÀ 南 海 普 陀
Nam Hải:
Biển Nam Hải. Phổ Đà: Tức Phổ Đà Sơn thuộc tỉnh triết Giang.
Nam Hải Phổ Đà là nơi ngụ xứ của Đức Quan Âm Bồ Tát ở núi Phổ Đà, biển Nam Hải.
Tây phương Phật Tổ Di Đà,
Nam Hải Phổ Đà cứu khổ Quan Âm.
(Giới Tâm Kinh).
NAM
HUÂN 南 熏
Nam:
Phương nam. Huân: Ấm áp.
Nam huân là gió phương nam ấm áp.
Trong khúc “Nam phong ca 南 風 歌”
của vua Thuấn có câu: Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi
uẩn hề, nam phong chi thời hề, khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề 南 風 之 熏 兮, 可 以 解 吾 民 之 慍 兮, 南 風 之 時 兮, 可 以 阜 吾 民 之 財 兮,
nghĩa là gió phương nam ấm áp hề, có thể cởi mở được nỗi giận của dân ta, gió
phương nam thổi phải lúc hề, có thể thêm của cải cho dân ta.
Nào khúc Nam Huân sao chửa gảy,
Chẳng thương bồ liễu phận le te.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Nóng nảy làm chi cờ dạo cuộc,
Nam Huân sao chửa lọt song the.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Lầu cao gió mát,người vô sự,
Khúc Nam huân văng vẳng
nghe.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NAM
KINH 南 京
Nam kinh là tên một vùng đất ở Trung Quốc.
Đời Minh Thái Tổ đóng đô ở vùng đất này và lập
thành phủ Ứng Thiên. Đến đời vua Thành Tổ, lo phòng bị người Mông Cổ, nên năm
1421 dời đô về Bắc Bình là Kinh Đô cũ của nhà Nguyên, gọi là Bắc Kinh, còn Kim
Lăng gọi là Nam Kinh.
Cảnh thanh trải mấy mà hay,
Gót phồn hoa thực nơi này Nam Kinh.
(Hoa Tiên Truyện).
NAM KHA 南 柯
Giấc mộng khi nằm ngủ dưới cành cây phía nam.
Do sách “Nam Kha Ký” của ông Lý Công Tá đời Đường chép: Thuần Vu Phần nhân uống rượu, nằm ngủ quên dưới gốc cây hoè, mộng thấy mình đến nước Hoè An, được vua nước ấy thương tình gả Công chúa cho, rồi bổ đến làm Thái thú đất Nam Kha, hết sức vinh hoa phú quý. Sau Thuần Vu Phần được sai đem binh đi đánh giặc, bị thua quân, Công chúa ở nhà cũng bị bịnh mà chết. Quốc vương nước Hoè An đem lòng nghi kỵ, cách chức đuổi đi.
Thuần Vu Phần liền tỉnh mộng, thấy mình nằm cạnh cội cây hoè, dưới cành cây phía nam, trên đó có một tổ kiến. Thuần Vu Phần suy nghĩ, chợt tỉnh ngộ: Mộng thực như nhau, nước Hoè An chính là gốc cây hoè, cành cây phía nam là đất Nam Kha, và ổ kiến chính là quân giặc. Ông thấy cuộc đời như một giấc mộng, rất ngắn ngủi, nên cảm thấy chán nản với cuộc sống hiện tại, rồi bỏ đi tu.
Trong văn chương thường dùng điển tích này với các từ: “Giấc Nam kha”, “Giấc Hoè”…để chỉ cuộc đời như giấc mộng.
Xem: Mộng Nam kha.
Nam kha một giấc xế tà,
Ngàn vàng mua chuộc dễ mà được sao.
(Mỹ Nữ Cống Hồ).
Giấc mộng Nam kha khéo chập
chờn,
Giữa trời riêng cảnh một giang sơn.
(Tát Nước, Khuyết Danh).
NAM KHA MỘNG SÀNG 南 柯 夢 床
Nam kha:
Cành cây phía nam. Mộng sàng: Giường mộng, ý chỉ giấc mộng khi nằm ngủ.
Nam kha mộng sàng là giường mộng Nam kha, nói giấc mộng của Thuần Vu Phần thấy mình được vinh hiển trong 20 năm, sau sự nghiệp tiêu tan, công chúa bị chết, lại bị đuổi về làm dân, Vu Phần tỉnh mộng, hoá ra chỉ là một giấc chiêm bao.
Xem: Nam kha.
Bên hang có tấm đá hoa,
Khảm vào bốn chữ "Nam kha mộng sàng".
(Dương Từ Hà Mậu).
NAM LÂU 南 樓
Nam:
Hướng nam. Lâu: Cái lầu.
Nam lâu cái lầu nằm về phía nam.
Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
Khắc canh đã giục nam lâu mấy
hồi.
(Truyện Kiều).
NAM MÔ 南 無
Nam mô là tiếng phiên âm từ chữ Phạn “Namah”, dịch nghĩa là: Quy nạng, kính lễ, cứu ngã, độ ngã…
Như vậy “Nam mô” là câu nói của Phật tử khi hướng về Đức Phật, Bồ Tát quy y tín thuận, quyết chí dâng theo lời dạy và xin gửi trọn đời mình cho chư Phật và Bồ Tát.
Thường người ta dùng tiếng “Nam mô” làm chữ khởi đầu cho câu niệm danh hiệu chư Phật và Bồ Tát.
Ví dụ: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát.
Lòng mộ đạo tăng ni,
Miệng niệm Nam Mô Phật.
(Sãi Vãi).
Buồn tình lóng Nam Mô câu
tụng,
Nhìn tượng cây rồi khủng cho thân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Trên tứ bảo, dưới tam đồ,
Lòng tin hai chữ Nam Mô báo
đền.
(Truyện Phan Trần).
Nam Mô Địa Tạng thi ân,
Đưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.
(Kinh Tận Độ).
NAM NHI 男 兒
Nam nhi là đứa con trai.
Chữ nam nhi dùng để chỉ người con trai, nhưng
còn hàm ý nói về bổn phận và địa vị của kẻ làm trai, như thành ngữ “Nam nhi chi
chí”.
Đem ngay vào chốn công đàng,
Lễ dâng bốn lạy, rỡ ràng nam nhi.
(Dương Từ Hà Mậu).
Một gánh nợ nam nhi rất nặng,
Ướm tra vai căn dặn lại mình.
(Phương Tu Đại Đạo).
NAM
PHONG 南 風
Gió phương nam, nói về thời thái bình thịnh trị.
Nam Phong là tên một khúc hát do vua Thuấn đặt ra.
Sách Lễ Ký viết: Tích giả Thuấn tác ngũ huyền chi cầm dĩ ca nam
phong 昔 者 舜 作 五 絃 之 琴 以 歌 南 風,
nghĩa là xưa kia vua Thuấn chế đàn cầm năm dây để khảy bài ca nam phong.
So xem quốc sắc, nữ tài,
Đã trong gia huấn, lại ngoài nam phong.
(Bần Nữ Thán).
Trăm năm ước vẹn nên dòng dõi,
Ca khúc nam phong thuở Thuấn
Nghiêu.
(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).
NAM QUỐC
SƠN HÀ 南 國 山 河
Nam quốc sơn hà là non sông nước Việt Nam.
Đây là chữ trong bài thơ của Lý Thường Kiệt khi
kéo quân sang đánh Tàu, viết bằng chữ Hán để khích lệ tinh thần tướng sĩ. Bài
thơ như sau: Nam quốc sơn hà nam đế cư, Tiệt nhiên định
phận tại thiên thư. Như hồ nghịch lỗ lai xâm phạm? Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư. 南 國 山 河 南 帝 居, 截 然 定 分 在 天 書. 如 何 逆 虜 來 侵 犯, 汝 等 行 看 取 敗 虛.
Dịch nghĩa: Non sông nước Nam, vua Nam ở, Rõ ràng định phận tại thiên thư. Tại
sao quân giặc kéo đến xâm phạm? Bọn bây rồi thấy nhận lấy thất bại.
NAM SƠN 南 山
Chỉ sự sống lâu, do chữ “Thọ tỷ nam sơn 壽 比 南 山” tức là sống lâu như núi nam.
Kinh Thi có câu: Như nam sơn chi thọ, bất
khiên bất băng 如 南 山 之 壽, 不 騫 不 崩,
nghĩa là thọ như núi nam, không mòn không lở.
Tuổi vua Phật nguyện thăng hằng,
Nam sơn há sánh núi trăng xem tày.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
NAM TÀO BẮC ĐẨU 南 曹 北 斗
1. Nam tào và Bắc đẩu là hai vì sao ở trên trục nam bắc của Địa cầu. Khi Địa Cầu tự quay hay quay xung quanh mặt trời, hai vì sao này vẫn luôn luôn nằm theo hai hướng Nam Bắc của Địa Cầu.
Nam tào không phải là định tinh, nhưng nó chuyển động thế nào để luôn luôn nằm trên hướng nam của trục Địa cầu.
Bắc đẩu là một định tinh, ở trung tâm vũ trụ, nên tất cả các chùm sao khác đều quay quanh Bắc đẩu.
2. Tương truyền Nam tào và Bắc đẩu là hai vị thần chủ hai vì sao đó, coi về bộ sanh và bộ tử của con người. Sự tích sau cho thấy điều đó: Quản Lộ tự là Công Minh, người đất Bình Nguyên đời Tam Quốc, diện mạo xấu, thích uống rượu, rất giỏi về khoa thiên văn và lý số.
Một hôm, ra đồng dạo chơi, thấy Triệu Nhan là một thanh niên 19 tuổi, đang cày ruộng, Quản Lộ xem tướng bèn cho biết: Ta thấy mặt anh có quầng tử khí, chỉ ba ngày nữa anh phải chết.
Cha Triệu Nhan nghe liền lạy Quản Lộ xin cứu giúp. Quản Lộ bày cho Triệu Nhan chuẩn bị trái cây và rượu tinh khiết, ngày mai vào núi Nam Sơn dưới cây cổ thụ sẽ có hai ông già ngồi trên phiến đá đánh cờ, ngươi cố lạy lục xin cứu mạng.
Hôm sau làm y lời Quản Lộ dặn, đến dưới cây cổ thụ thì thấy ông mặc áo trắng, quay mặt hướng nam, một ông mặc áo màu hồng quay mặt hướng bắc, cùng nhau ngồi đánh cờ. Triệu Nhan lẳng lặng quỳ dâng mâm rượu và trái cây. Hai ông vẫn mải mê đánh cờ, thỉnh thoảng đưa tay bưng rượu uống. Đợi hai người đánh xong ván cờ, Triệu Nhan bèn sụp lạy cầu xin thêm tuổi thọ. Hai ông giựt mình, bàn nhau giúp Triệu Nhan.
Ông áo trắng liền rút bộ tử ra tìm một lúc rồi bảo
Triệu Nhan: Năm nay 19 tuổi, đáng lý chết, bây giờ đây ta thêm chữ cửu trên hai
chữ thập cửu, thì ngươi sẽ sống tới cửu thập cửu. Triệu Nhan về thuật lại cho
Quản Lộ nghe, ông mới giải thích ông mặc áo màu hồng chính là ngôi Nam tào giữ
bộ sanh, còn ông mặc áo màu trắng tức là ngôi Bắc đẩu, cầm bộ tử.
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau.
(Lục Vân Tiên).
Phép hay biến hóa, thần thông,
Một ông Bắc đẩu, một ông Nam Tào.
(Dương Từ Hà Mậu).
NAM TỬ
TU MY 男 子 鬚 眉
Nam tử:
Người đàn ông con trai. Tu my: Râu mày.
Nam tử tu my chỉ thân phận mày râu của người đàn ông con trai.
Đã là nam tử tu my,
Vào trong công nghiệp ấy thì có vua.
(Nhị Độ Mai).
NAM
THOÁN 南 竄
Nam Thoán là một con đường dưới núi Thương Sơn, thuộc tỉnh Thiểm Tây qua đất Trường An là kinh đô cũ của nước Tàu.
Nam Thoán do trong hai câu thơ đề đền Tứ
Hạo: Sơn hạ hồng trần Nam Thoán lộ, bất tri quan đái kỷ nhân hoàn 山 下 紅 塵 南 竄 路, 不 知 冠 帶 幾 人 還,
nghĩa là dưới núi bụi hồng đường Nam Thoán, chẳng biết mấy người đội mũ đeo đai
trở về. Ý nói đường công danh có đông người chen chúc, khó lòng len vào được.
Chật đường Nam Thoán như nêm,
Cân đai nhan nhản người quen với mình.
(Truyện Phan Trần).
NAM THUỲ 南 陲
Nam:
Phương nam. Thuỳ: Biên giới.
Nam thuỳ là biên giới phương nam.
Lạc long về chốn Nam thuỳ,
Âu cơ sang nẻo Ba vì Tản viện.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Quân Minh chiếm giữ Bắc kỳ,
Vua Trần lánh ở Nam thuỳ một
nơi.
(Quốc Sử Diễn Ca).
NAM
TRANG 男 裝
Nam trang là trang phục của nam phái, tức là y phục dành cho người đàn ông con trai.
Bây giờ cải dạng nam trang,
Nói ra dễ giữ thói hằng được nao!
(Quan Âm Thị Kính).
NAN TRÌ 難 持
Nan:
Khó khăn. Trì: Giữ lấy.
Nan trì là khó giữ lấy.
Nếu mà chấp nhất chẳng nghe,
Gây ra hấn khích chỉn e nan trì.
(Hạnh Thục Ca).
NÀNG
BAN
Có hai điển:
1.- Nàng Ban tức là Ban Chiêu đời nhà Hán, con gái
Ban Bưu, tự là Huệ, học rộng tài cao. Chồng Ban Chiêu là Tào Thế Thúc mất sớm,
nàng một mực giữ tiết thờ chồng. Anh là Ban Cố soạn chưa xong bộ Hán Thư thì
chết, nàng vâng chiếu vua Hòa Đế tiếp tục soạn cho hoàn thành.
Khen: Tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này!
(Truyện Kiều).
2.- Nàng Ban tức là Ban Tiệp Dư, một cung nhân của vua Thành Đế nhà Hán. Bà làm nữ quan đến chức Tiệp Dư, họ là Ban, được vua sủng ái. Sau bị nàng Triệu Phi Yến gièm pha, bà sợ hại thân, bèn xin vua cho theo hầu bà Thái Hậu, mẹ vua ở cung Trường Tín. Từ khi bà về cung ấy thì sự yêu vì của vua ngày một phai dần, nên bà đã đề một bài thơ ở trên cái quạt tròn, gọi là Tề hoàn để tự ví thân phận của mình.
Xem: Ban Tiệp Dư.
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã lạt mùi
thu dung.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
NÀNG
DIÊU Ả NGUỴ
Bởi chữ “Ngụy tử, Diêu hoàng 魏 紫 姚 黃” là tên hoa Mẫu đơn. Trong bài Mẫu Đơn ký của Âu Dương Tu, mẫu đơn nhiều cánh màu đỏ là mẫu đơn tướng nước Ngụy, mẫu đơn nhiều cánh màu vàng là của nhà họ Diêu. Theo bài Mẫu đơn vinh nhục của Khâu Toàn, mẫu đơn vàng là của nhà họ Diêu, chỉ vua, con màu đỏ là của nhà họ Ngụy, chỉ hậu phi.
NÀNG
OANH
Có hai điển tích về “Nàng Oanh”:
1.- Bán mình chuộc tội cho cha, đó là nàng Đề Oanh, con gái của Thuần Vu Ý, đời Hán Văn Đế.
Khi Thuần Vu Ý bị tội nhục hình nhưng vì ông không có con trai để hậu tự, nàng con gái thứ năm là Đề Oanh dâng thơ cho vua Hán Văn Đế, xin bán mình vào cung để chuộc tội cho cha. Vua cảm lòng chí hiếu, bèn tha tội cho cha nàng.
Dâng thơ đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình chuộc cha.
(Truyện Kiều).
2.- Trốn nhà theo tình nhân, đó là nàng Thôi Oanh Oanh trốn nhà theo Trương Quân Thuỵ.
Theo Tây Sương Ký, nàng Thôi Oanh Oanh đời nhà Đường, là người con gái có tài sắc tuyệt trần, chuyên nghề dệt vải. Thôi Oanh Oanh có tình với Trương Quân Thuỵ, một hôm nàng Oanh đang ngồi dệt cửi, Quân Thuỵ đến gọi, nàng liệng thoi (Gieo thoi), cùng Quân Thuỵ trồn nhà, dẫn nhau lập tổ uyên ương ở mái tây chùa Phổ Cứu.
Mà nàng lạc lối tới đây,
Vả coi hình tướng cũng tày nàng
Oanh.
(Truyện Trinh Thử).
NÀNG TẠ
Tức nàng Tạ Đạo Uẩn, người đời Tấn, cháu của Tạ An, có chồng là Vương Ngưng Chi. Nàng là một người con gái thông minh hay chữ, một người con gái nổi tiếng về văn thơ.
Xem: Tạ Đạo Uẩn.
Câu thơ liễu nhứ ngâm chơi,
Dẫu tài nàng Tạ đã xơi cho tày.
(Quan Âm Thị Kính).
NANH VUỐT
Dịch từ chữ “Nha trảo 牙 爪”, tức là răng nanh và móng vuốt.
Những loài cầm thú sống nơi hoang dã, Tạo hoá cũng khéo ban cho nanh vuốt để tự bảo vệ mình. Nanh vuốt còn dùng để chỉ những tay chân bộ hạ của bọn quan lại.
Xem: Nha trảo.
Khải ca lừng lẫy phu công,
Đã ngoài nanh vuốt, lại trong cột
rường.
(Truyện Phan Trần).
Trương hai con mắt tựa dần,
Nanh trắng như ngần vuốt nhọn như chông.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
NANG SA 囊 沙
Nang:
Cái đãy, cái bao. Sa: Cát.
Bao cát.
Tích trong Sử Ký: Hàng Tín cùng với Long Thả đánh cầm cự với nhau trên bờ sông,
chưa phân thắng bại. Hàn Tín bèn lập mưu, huy động quân lính ban đêm dùng hàng
vạn bao cát (Nang sa) đắp một cái bờ ngang chận nước, không cho nước trên thượng
lưu chảy xuống. Rồi đem quân đến khêu chiến, Long Thả mở cửa thành, xua binh ra
đánh, quân Hàn Tín giả thua chạy, binh lính Long Thả rượt theo. Khi thấy quân
rút qua khỏi dòng nước, Hàn Tín liền ra lịnh phá bờ cản nước, nước trên thượng
lưu cuồn cuộn chảy xuống nhận chìm quân Long Thả chết không biết bao nhiêu mà kể.
Sau Lưu Khích khen rằng: Nang sa trạch bạn tri binh pháp 囊 沙 澤 畔 知 兵 法, nghĩa là Bao cát ở bên bờ sông, cho biết được tài dụng binh.
NÃO
CHÚNG 惱 眾
Não:
Làm buồn phiền. Chúng: Đông đúc.
Não chúng tức là gây buồn phiền cho nhiều người.
Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khóe thu ba rợn sóng khuynh thành.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
NẠP ĐẾN
BẾN NHƠ
Nạp đến:
Dâng nạp cho. Bến nhơ: Do thân phận người đàn bà con gái người ta ví với bến
nước, trong nhờ đục chịu. Bến nhơ tức bến đục.
Nạp đến bến nhơ ý dạy người con gái cần chọn hôn cẩn thận đừng vội vàng mà nạp đến bến nhơ, tức gặp chồng không tốt.
Đừng quá chắc miệng người yêu mến,
Mà đem mình nạp đến bến nhơ.
(Phương Tu Đại Đạo).
NẠP
THÁI 納 釆
Nạp:Thu
vào. Thái: Lựa chọn.
Nạp thái là một trong sáu cổ lễ về hôn nhơn.
Nạp thái là lễ của nhà trai muốn định hôn nhơn với
nhà gái, nên chọn ngày cho nhà gái biết, rồi đem lễ vật sang xem có bằng lòng
nhận không.
Định ngày nạp thái vu quy,
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong.
(Truyện Kiều).
Rõ ràng một cuộc vui vầy,
Đủ lề nạp thái, định ngày
nghênh hôn.
(Hoa Tiên Truyện).
NÁT NGỌC
TAN VÀNG
Người ta thường ví thân thể người đẹp như là vàng ngọc, vì vậy thành ngữ “Nát ngọc tan vàng” có nghĩa là thân vàng ngọc bị tan nát, ý nói chết.
Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì
thôi!
(Truyện Kiều).
NÁT NGỌC
CHÂU CHÌM
Hay “Nát ngọc trầm châu”, dịch từ thành ngữ Hán: “Ngọc phá châu trầm 玉 破 珠 沉”, tức là làm cho viên ngọc tan vỡ, hạt châu chìm mất, ý muốn nói làm cho cuộc đời người đàn bà con gái phải bị tan nát.
Xem: Ngọc nát châu chìm.
Rừng sầu bể rộng, nàng hỡi đi đâu?
Nát ngọc châu chìm, lòng tôi quặn nhớ.
(Văn tế Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Kiều do Hoàng Xuân Hãn dịch Nôm).
NÁT NGỌC
TRẦM CHÂU
Như chữ “Nát ngọc trầm trai”, dịch từ thành ngữ Hán: “Ngọc phá châu trầm 玉 破 珠 沉”, nghĩa là làm cho viên ngọc vỡ, hạt châu chìm, ý nói làm cho cuộc đời tan tành vỡ nát.
Xem: Ngọc phá châu trầm.
1.- Nát ngọc trầm châu:
Hầu mong nát ngọc trầm châu,
Lầu cao chẳng quản giếng sâu chẳng từ.
(Truyện Trinh Thử).
2.- Nát ngọc trầm trai:
Đành rằng nát ngọc trầm trai,
Ai ngờ trong cõi tuyền đài thấy nhau.
(Hoa Tiên Truyện).
NĂM BÁ
BẢY HÙNG
Năm bá dịch từ chữ “Ngũ bá 五 霸” tức là năm bực trưởng trong các chư hầu thời Đông Châu, gồm Tề Hoàng Công, Tấn Văn Công, Tống Tương Công, Sở Trang Công và Tần Mục Công.
Xem: Ngũ bá.
Bảy hùng dịch từ chữ “Thất hùng 七 雄” tức là bảy nước chư hầu hùng cường trong thời Chiến Quốc. Bảy nước đó là Tần, Triệu, Tề, Yên, Sở, Hàn và Nguỵ.
Năm bá mượn vay, nhân nghĩa mọn.
Bảy hùng giành xé, lợi danh bay.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Nối ra năm bá, bảy hùng,
Đua tranh công lợi, lấp dòng nghĩa nhân.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NĂM
CUNG
Bởi chữ “Ngũ âm 五 音” là năm bậc âm thanh gồm: Cung, thương, Giốc, chuỷ, vũ.
Năm cung là năm bậc âm thanh của nhạc cổ điển.
Lao lực thế tình chi xạo xự,
Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cõi thế chờ qua đường mấy dặm,
Non Thần đợi lóng nhạc năm cung.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
NĂM GIỀNG
BA MỐI
Bởi chữ “Tam cương ngũ thường 三 綱 五 常” là ba mối năm giềng.
Năm giềng là nhân, nghĩa, lễ, trí và tín. Ba mối
là vua tôi, cha con, chồng vợ.
Ấy rằng quang nhạc khí hôn,
Năm giềng ba mối rối dồn như tơ.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NĂM GIỚI
Bởi chữ “Ngũ giới 五 戒”, trong ngũ giới cấm.
Năm giới tức là năm giới cấm trong đạo Phật, đó
là: Không sát hại sanh vật, Không trộm cắp, Không tà dâm, Không nói dối, Không
rượu thịt.
Di Đà sáu chữ mựa rời,
Chịu truyền năm giới, trọn đời tinh chuyên.
(Hứa Sử Tân Truyện).
NĂM HẰNG
Dịch từ chữ Hán “Ngũ thường 五 常”, tức là năm đức tính thường có của con người.
Năm hằng hay ngũ thường gồm có: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín 仁, 義, 禮, 智, 信.
Xem: Tam cang ngũ thường.
Năm hằng ba mối làm đầu,
Cội tùng nhành bách mặc dầu đông tây.
(Tư Dung Vãn).
Tánh khí hiền lành, nết na vẹn vẻ,
Bốn đức lòng gìn, năm hằng dạ
để.
(Tử Tế Mẫu Văn).
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ
lơi.
(Kinh Sám Hối).
Ba giềng với năm hằng khá
đoán,
Hư nên đừng xao lãng chí nam nhi.
(Phương Tu Đại Đạo).
NĂM NHẠC
Bởi chữ “Ngũ nhạc 五 岳” là năm ngọn núi cao tiêu biểu cho năm phương hướng của Trung Quốc: Đông có Thái Sơn, Tây có Hoa Sơn, Nam có Hành Sơn, Bắc có Hằng Sơn, Trung có Tung Sơn.
Xem: Ngũ nhạc.
Nửa nghìn chưa gặp vận sông Vàng,
Năm nhạc, hơi che một chữ quang,
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NĂM
PHÚC
Bởi chữ “Ngũ phúc 五 福” là năm việc tốt lành.
Theo Kinh Thư “Năm phúc” (Ngũ phúc) gồm có:
Phú (Giàu có), Quý (Sang cả), Thọ (Sống lâu), Khang (Mạnh khoẻ) và Ninh (Yên
vui).
Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực,
Năm phúc hây hây dưới thứ dân.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Hội lành đã gặp gồm năm phúc,
Chỏ non Nam chúc thánh quân.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NĂM THÊ
BẢY THIẾP
Thê thiếp 妻 妾 là vợ và người hầu.
Luật hôn nhân trong chế độ quân chủ ngày xưa dành
cho người đàn ông rất rộng rãi, nên tục ngữ mới có câu: Trai năm thê
bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng. Như vậy, năm thê bảy thiếp tức là
người đàn ông được quyền cưới vợ và nhiều người hầu.
Thung dung quân tử hảo cừu,
Năm thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đừng mượn tiếng trai năm thê bảy
thiếp,
Mà ép tình lấn hiếp thuyền quyên.
(Phương Tu Đại Đạo).
NĂM VẦN
Năm vần ý nói một bài thơ gồm có năm vần, hay nói rõ hơn là tám câu năm vần. Đây là thể thất ngôn bát cú hay Đường luật.
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu năm vần.
(Lục Vân Tiên).
Gắng cầm viết nín hơi sống rốt,
Đề năm vần khắc cốt nữ
lưu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NĂM XE
Do nghĩa “Ngũ xa thư 五 車 書” tức năm xe sách. Ý nói người học rộng, đọc nhiều sách.
Trang Tử khen Huệ Thi: Kỳ thư ngũ xa 其 書 五 車,
nghĩa là sách ông ấy năm xe. Nghĩa bóng: Chỉ người tài cao học rộng. Xem: Năm
xe kinh sử.
Kinh sử năm xe chứa chất,
ngang trời, dọc đất ấy kinh luân;
Tôn Ngô bảy quyển lảu thông,
đè sóng, xông mây là chí khí.
(Hàn Vương Tôn Phú).
Nhà Nho đèn sách công dày,
Tài kiêm tám đấu, sách đầy năm xe.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NĂM XE
KINH SỬ
Tức là nói người học rộng, đọc nhiều sách.
Do trong Cổ thi có câu: Yếu thông kim cổ sự, tu độc ngũ xa thư 要 通 今 古 事, 須 讀 五 車 書, nghĩa là muốn hiểu rõ việc cổ kim, phải đọc hết năm xe sách, ý muốn nói đọc nhiều sách.
Người xưa khen Huệ Thi đời nhà Châu là người học rộng đọc đến năm xe sách.
Chim hồng mong chắp cánh mây,
Năm xe Kinh sử một tay vẽ vời.
(Tự Tình Khúc).
NẮM
LÔNG HỒNG
Tức nắm lông con chim hồng, chỉ sự nhẹ nhàng.
Do câu nói của Tư Mã Thiên: Người đời ai cũng chết, mà cái chết có người nặng như núi Thái sơn, song có người nhẹ như nắm lông hồng.
Xem: Hồng mao.
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong
trận,
xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc,
nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay.
(Trận Vong Tướng Sĩ).
NẮM
PHAN TIẾP DẪN
Phan 幡 tức là cây phướn, một cây tựa như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, trong lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống. Tiếp Dẫn 接 引 tức là Tiếp Dẫn Đạo Nhân là vị Phật cầm cây phướn Tiếp Dẫn có nhiệm vụ tiếp rước và dẫn dắt các Chơn linh đắc Đạo về cõi Tây Phương Cực Lạc.
Biếng thân hạc nội mây ngàn,
Nắm phan Tiếp Dẫn mở đàng Lôi Âm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NẰM GAI
NẾM MẬT
Đồng nghĩa câu “Ngọa tân thường đảm 臥 薪 嘗 膽” tức là nằm trên củi và nếm mật, dùng chỉ sự quyết chí chịu đựng khổ cực để phục thù.
Ngô Phù Sai đời Chiến Quốc, đánh thắng vua Câu
Tiễn nước Việt và bắt cầm tù mười năm mới thả về. Để rửa mối hận ấy, Câu Tiễn
khi ngủ nằm trên củi để lưng đau ngủ không yên giấc, khi ăn nếm mật đắng cho
hết vị ngon để lòng luôn luôn nhớ đến mối thù. Sau Việt Vương Câu Tiễn dùng Tây
Thi làm mỹ nhân kế, khiến Phù Sai ham mê tửu sắc mà bỏ bê việc nước, nhân đó
kéo quân đánh bại vua Ngô Phù Sai.
Nằm gai nếm mật, chung nỗi ân ưu,
Mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
(Trận Vong Tướng Sĩ).
NẰM GIÁ
Tức là nằm trên băng giá, nói về sự tích Vương Tường, một trong hai mươi bốn người con hiếu thảo.
Vương Tường là người đời Tấn, mẹ mất sớm, ở với cha, nhưng bị bà mẹ ghẻ rất sâu cay thường kiếm lời nói ra nói vào, khiến cho cha ông ghét bỏ. Mùa đông, nước đóng lại thành băng, bà mẹ ghẻ đòi ăn cá tươi, ông cởi trần trên băng giá để tìm cá. Bỗng nhiên băng nứt đôi ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông bắt về làm món ăn cho kế mẫu.
Xem: Vương Tường.
Suy trang nằm giá khóc
măng,
Hai mươi bốn thảo chẳng bằng người xưa.
(Lục Vân Tiên).
Ngồi đêm đông,
thương người nằm giá khóc
măng;
lên ải Bắc,
thương kẻ chăn dê uống tuyết.
(Sãi Vãi).
NẮNG HẠ
LÀM MƯA
Gặp lúc nắng hạ nóng bức có cơn mưa sẽ làm cho mát mẽ, ý nói người giúp nước cứu dân xem như nắng hạ làm mưa.
Phó Duyệt là vị công thần của nhà Thương, nên vua
Cao Tông mới bảo: Nhược tuế đại hạn, dụng nhữ tác lâm vũ 若 歲 大 旱, 用 汝 作 霖 雨,
nghĩa là gặp năm đại hạn, sẽ dùng ngươi làm cơn mưa dầm.
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?
(Lục Vân Tiên).
NẮNG
MƯA CHƯA VỪA KẺ
Trời có khi mưa khi nắng. Nắng mưa không làm vừa lòng mọi người: Người trông mưa trời lại nắng, kẻ đợi nắng trời lại mưa, ý nói trời kia còn không làm vừa lòng được mọi người.
Nắng mưa kia vốn chưa vừa kẻ,
Phàm tục nhiều tay quá lỗi lời.
(Đạo Sử).
NẮNG NỒNG
TUYẾT LẠNH
Khi nắng thì nóng bức, khi tuyết thì lạnh lẽo, ý muốn nói những nỗi gian nan, vất vả, chịu mọi nỗi khổ cực ở đời.
Hay đã sợ nắng nồng tuyết lạnh,
Cảnh đau thương khó lánh thân phàm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NẶNG
TÌNH TRỌNG NGÃI
Nặng tình: Tức tình sâu. Trọng ngãi: Nghĩa nặng.
Nặng tình trọng ngãi đồng nghĩa với tình sâu nghĩa nặng, là nói tình nghĩa sâu nặng.
Ví để dạ nặng tình trọng ngãi,
Thì nhìn con phải trái tính cho đồng.
(Phương Tu Đại Đạo).
NÂNG DÉP TÔN LÃO TRƯỢNG
Trương Lương dạo trên cầu Hạ Bì, gặp một cụ già làm rơi ba lần dép xuống dưới cầu, bảo Trương xuống lượm cho cụ. Trương Lương nhẫn nhục ba lần đều xuống cầu lượm dép, ba lần dâng dép cho cụ, vì vậy sau cụ tặng cho Trương một bộ binh pháp, nhờ đó mà giúp Lưu Bang, diệt nhà Tần, trừ Hạng Võ, dựng nên nghiệp nhà Hán.
Xem: “Trương Lương dâng dép ba lần”.
Rải nghìn vàng tìm khách thiếu niên,
Nâng chiếc dép tôn người lão
trượng.
(Trương Lưu Hầu Phú).
NÂNG
KHĂN
Bởi chữ “Nâng khăn sửa túi”.
Ngày xưa người đàn ông còn để tóc, nên vẫn xài khăn và lược. Như vậy, bổn phận của người đàn bà có chồng phải lo khăn lược cho chồng, gọi là nâng khăn sửa lược (Hay nâng khăn sửa túi).
Nâng khăn là chỉ bổn phận đàn bà ở với chồng.
Xem: Cân trất.
Nâng khăn trót đã long đong.
Còn toan tiếc mảnh má hồng nữa ru.
(Hoa Tiên Truyện).
NÂNG
KHĂN TRẤP
Bởi câu thành ngữ “Nâng khăn sửa trấp”, tức là nói bổn phận của người đàn bà thời xưa phải lo
khăn lược cho chồng. Nói cách khác là chăm sóc cho chồng.
Nâng khăn trấp giải buồn quân tử,
Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NÂU SỒNG
Nâu sồng là vải nhuộm màu nâu và màu sồng (Màu dà, tức màu nâu tối). Hai loại màu nầy được Phật giáo chọn để nhuộm quần áo cho các tăng ni mặc thường ngày, nhằm để tỏ ý không cần đẹp, tiết kiệm và thể hiện hạnh tốt của người tu hành: Phế đời hành đạo.
Nghĩa bóng: Chỉ sự tu hành.
Nâu sồng từ bén màu thiền,
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.
(Truyện Kiều).
Nâu sòng gìn giữ cho tròn phận,
Thoát kiếp lai sinh hoá kiếp tiên.
(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).
Nâu sồng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như bước ướt chân mới đến thuyền.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bó lòng thảm, dệt tâm đau,
Nâu sồng cậy phép đổi màu anh hoa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NẤU GÀ
MÁI
Bởi chữ “Phanh thư kê 烹 雌 雞” là nấu con gà mái.
Sách Phong Tục Thông ghi: Ông Bá Lý Hề làm quan Tướng nước Tần, trong nhà có tấu nhạc, người đàn bà giặc ủi trong dinh, tự nói biết âm nhạc. Bảo đàn thử, nàng bèn gảy đờn cầm, nhấn dây mà ca rằng: Bá Lý Hề! Bá Lý Hề! Năm bộ da dê, trong khi lâm biệt, nấu con thư kê (Gà mái), củi không còn hề, chụm bằng vách cửa, nay được sang giàu, lại vội quên nhau!
Ông Bá Lý Hề nghe ca, nhơn tìm hỏi ra, tức là vợ của ông vậy.
Xem: Bá Lý Hề.
NẤU KINH SỬ
Do thành ngữ “Nấu sử xôi kinh”, tức là ôn luyện, học tập kinh sách của các bậc thánh hiền cho nhuần nhuyển để đi thi.
Xem: Nấu sử xôi kinh.
Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NẤU SỬ
XÔI KINH
Học hành và luyện tập kinh sử cho làu thông, nhuần nhuyển, được ví như thức ăn dùng lửa để xôi nấu kỹ lưỡng cho chín nhừ, rục rã.
Phi Nga có chí cậy mình,
Quyết lòng nấu sử xôi kinh theo
thì.
(Nữ Tú Tài).
Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao.
(Lục Vân Tiên).
Thiếp thời tần tảo cửi canh,
Chàng thời nấu sử xôi kinh kịp
kỳ.
(Thanh Hoá Quan Phong).
NEM LÂN
CHẢ PHƯỢNG
Con kỳ lân và chim phượng là hai con vật rất quý hiếm, thuộc hàng tứ linh: Long. Lân quy phượng. Người ta thường dùng chữ lân, phượng để chỉ những vật hay những thức ăn quý báu.
Nem lân chả phượng ý muốn chỉ những thức ăn trân
quý của người sang trọng.
Nem lân, chả phượng, yến sào,
Đàn con chưa dễ biết bao mùi nầy.
(Truyện Trinh Thử).
NÉM BÚT
Bởi chữ “Đầu bút tùng nhung 投 筆 從 戎” tức là bỏ viết theo binh nhung.
Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc có câu thơ: “Xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Nghĩa bóng: Bỏ văn theo võ.
Theo Hán Thư, Ban Siêu là con nhà nghèo, thường ngày phải đi viết mướn để kiếm tiền nuôi thân, vất vả trăm bề, cũng chỉ sống qua ngày, tức mình ông ném bút mà than rằng: Người trượng phu, không làm được gì to tát thì cũng học theo gương Phó Giới Tử, Trương Khiên lập công ở đất người để được phong hầu, sao lại mãi chạy theo văn bút!
Xem: Ban Siêu.
Chẳng phải được như chàng ném bút,
Nết kém thầy Vương chửa ném cây.
(Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm).
Đeo gươm ném bút mới đành,
Muốn cùng Tông Xác băng mình gió khơi.
(Thơ Lãng Nhân).
NÉM
CHÂU GIEO VÀNG
Người xưa thường ví văn chương hay ngôn ngữ như là vàng ngọc, nên câu “Ném châu gieo vàng” tức là viết ra, nói ra những từ đẹp đẽ quý giá như vàng ngọc.
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
(Truyện Kiều).
NÉM QUẢ
Bởi chữ “Đầu quả 投 果” tức là ném trái.
Tấn Thư chép: Phan Nhạc tự là An Nhân lúc còn là thanh niên rất đẹp trai, đàn bà con gái đi theo sau rất nhiều. Đi đâu, chàng đều mang theo cây đàn, ngồi trên xe dạo dọc theo con đường Lạc Dương. Đi tới đâu, đàn bà con gái bao vây, lấy hoa và trái ném vào xe, khi về nhà, xe đầy hoa quả.
Điển Phan Nhạc hay Phan Anh là dùng để chỉ người đàn ông đẹp trai.
Ngỡ chàng Phan Nhạc đấy ru,
Ra đâu cũng ném quả cho tiếc
gì.
(Quan Âm Thị Kính).
Những mong là sửa túi nâng khăn,
Nào thấy có gieo cầu ném quả.
(Mẹ Ơi, Con Muốn Lấy Chồng).
NẺO HOẠN
Bởi chữ “Hoạn Lộ 宦 路” là đường làm quan.
Việc làm quan được ví với người hành trình trên một con đường, có lúc bằng phẳng
thì thảnh thơi dễ thăng tiến, có lúc gồ ghề, khúc khỉu thì gian nan vất vả dễ
buồn rầu, chán nản.
Xem: Hoạn lộ, hoạn đồ.
Trường Tiên mở rộng chơn du khách,
Nẻo hoạn buông khơi trí đặc tài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NẺO U
MINH
U minh 幽 暝 là tăm tối.
Nhà Phật gọi con đường địa ngục và ngạ quỷ là cõi
u minh. Vậy “Nẻo u minh” chỉ cõi âm tức cõi chết.
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen.
(AI Tư Vãn).
NÉP CÂY
ĐỢI THỎ
Bởi chữ “Bão chu đãi thố 抱 株 待 兔” tức là ôm cây đợi thỏ.
Do tích một người nước Tống tình cờ bắt được một con thỏ va đầu vào gốc cây giữa ruộng mà chết. Ông đem về nhà làm thịt ăn. Từ đó ông suốt ngày đứng nép chờ dưới gốc cây, mong lại có con thỏ khác chết nữa.
Xem: Ôm cây.
Nương cảnh cũ nép cây đợi thỏ,
Ngọn nguồn ai rõ nỗi âm hao.
(Đạo Sử).
NÉT
XUÂN SƠN
Nét xuân sơn là nét lông mày của người con gái. Núi mùa xuân cây cối tươi xanh, dùng để ví với lông mày ngươi con gái đẹp.
Do câu trong Tình Sử chép: Nhãn như thu
thuỷ, my tự xuân sơn 眼 如 秋 水, 眉 似 春 山,
nghĩa là ánh mắt trong như nước mùa thu, lông mày phơn phớt tợ núi mùa xuân.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
(Truyện Kiều).
NẾM MẬT
Bởi chữ “Thường đảm 嘗 膽” là nếm mùi mật đắng, dùng để nói chịu đựng sự khắc khổ để nuôi chí phục thù. Do tích Việt Vương Câu Tiễn thường nếm mật đắng, chịu đựng sự khắc khổ để tự nhắc nhở mình mưu việc rửa hận.
Xem: Nêm mật nằm gai.
Nếm mật Cối Kê đâu chẳng giận,
Cắp dùi Bác Lãng há rằng chơi.
(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).
NẾM MẬT
NẰM GAI
Do chữ “Thường đảm ngọa tân 嘗 膽 臥 薪”.
Việt Vương Câu Tiển bị vua Ngô Phù Sai đánh bại, cả hai vợ chồng đều bị bắt đem về nước Ngô cho chăn nuôi mục súc. Sau nhờ kế của Văn Chủng, Câu Tiển nhẫn nhục nếm phẩn để đoán bịnh của vua Phù Sai, nên được tha về nước Việt.
Việt Vương Câu Tiển nuôi chí phục thù, thường ép mình mỗi đêm nằm trên gai nhọn, mỗi ngày nếm mật đắng để đừng quên cái nhục và luôn nghĩ kế khôi phục nước nhà. Về sau, Việt Vương Câu Tiển nhờ Phạm Lãi và Văn Chủng giúp diệt vua Ngô Phù Sai, trả được cái hận mất nước.
Nghĩa bóng: Nằm gai nếm mật dùng để chỉ chịu sự
khổ sở vất vả để nuôi chí rửa hận.
Đau lòng não nuột đã ngoài mười niên,
Nếm mật nằm gai phải đâu một buổi.
(Bình Ngô Đại Cáo).
Căm Tạ thị miệng còn nếm mật,
Hận Viêm Công cật tựa nằm gai.
(Nhạc Hoa Linh).
NỆM
THUÝ
Hay “Nệm Tuý”
Loại đồ vật sang trọng đặt trong loan phòng hay phòng ngủ của đàn bà con gái. Nệm thuý tức là loại nệm được dồn bằng lông chim phỉ thuý.
Nệm thuý chỉ nơi ngủ của đàn bà con gái quý phái.
Đài loan nọ thôi cười với bóng,
Nệm túy kia lại ngủ cùng ba.
(Tần Cung Nữ).
May mắn thuở vầy duyên nệm tuý,
nương vườn thung nguyền phỉ ba sinh.
(Tử Tế Mẫu Văn).
NÊN HƯ
Do nghĩa từ chữ “Thành bại 成 敗”.
Nên hư là điều tốt, điều xấu. Nên hư còn có nghĩa
được thua, tức là thành công hay thất bại.
Gần điều nên, lánh lẽ hư,
Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.
(Kinh Thế Đạo).
Cuộc nên hư nào tránh đặng
vận thời,
Nếu không mẹ ai hơi đâu lo cứu vớt.
(Phương Tu Đại Đạo).
Sự nên hư định liệu phải
thừa,
Quyền thầy dạy cũng chưa so bẳng.
(Phương Tu Đại Đạo).
NỀN
NGHĨA
Lấy ý từ câu “Nhân cơ nghĩa chỉ 仁 基 義 址”, tức là lấy nhân nghĩa làm nền tảng.
Nền nghĩa là lấy việc theo đường lối phải, theo
đạo lý (Việc nghĩa) làm nền tảng.
Dọn nhà lành tìm kiếm rể dâu,
roi phước hậu nối gót lân vun nền nghĩa.
(Tử Tế Mẫu Văn).
NỀN
NHÂN
Hay “Nền Nhơn”.
Dịch từ câu “Nhân cơ nghĩa chỉ 仁 基 義 址”, tức là lấy nhân nghĩa làm nền tảng.
Theo nho giáo, nhân là đầu mối hết trong các đạo lý của con người. Do vậy, con người lấy nhân làm nền thì chắc chắn sẽ được bền vững lâu dài.
Nền nhân nhờ bóng sân hòe,
Cũng may tới cửa ngựa xe với ngươi.
(Quan Âm Thị Kính).
Bố hóa người đời gây mối Ðạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cân đường tội phước đấp nền nhân,
Chớ lấy giữ riêng để dạ hờn.
(Đạo Sử).
Ân cần lo lắng đắp nền nhơn,
Phước trước thừa sau có chút hườn.
(Đạo Sử).
NẾT
KHUÔN
Nết:
Tính nết, nết na. Khuôn: Khuôn phép.
Nết khuôn tức là nói giữ gìn tính nết và khuôn phép để cư xử trong nhà.
Nào là hương đượm lửa nồng,
Nết khuôn giữ vẹn, chữ đồng lương nhân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NI CÔ 尼 姑
Ni:
Sư nữ, người nữ tu. Cô: Tiếng gọi người con gái chưa chồng.
Ni cô là người phụ nữ quy y theo Phật và xuất gia vào chùa tu hành, tức là nữ tu sĩ Phật Giáo.
Dập dìu trước chốn thiền am,
Kẻ hoài xuân những muốn làm ni cô.
(Quan Âm Thị Kính).
Thuyền tình chịu sóng không kham,
Xin cho phận thiếp biến làm ni cô.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NỊCH
NHÂN 溺 人
Nịch:
Chìm đắm. Nhân: Người.
Nịch nhân làm cho con người bị chìm đắm. Theo Phật, có nhiều thứ làm cho người bị chìm đắm, trong đó có nữ sắc làm cho con người mãi mãi bị chìm đắm trong luân hồi.
Người xưa có câu: Vũ vô kiềm toả năng lưu
khách, sắc bất ba đào dị nịch nhân 雨 無 鉗 鎖 能 留 客, 色 不 波 濤 易 溺 人,
nghĩa là mưa không then khoá lưu được khách, sắc chẳng ba đào đắm say người.
Như Tạ thị là nó nghĩ:
vũ năng lưu khách, Sắc dị nịch nhân.
Thời, ta cũng biết:
Nó dụng phương nhĩ chi kế dĩ lưu cư,
(Nhạc Hoa Linh).
NIỀM
ĐAN
Bởi chữ “Đan thành 丹 誠” tức tấm lòng thành.
Niềm:
Nỗi niềm. Đan: Màu đỏ, sau dùng chỉ quả tim. Niềm đan như chữ “Đan
tâm”, “Đan thành” dùng để chỉ tấm lòng chân thật.
Một mai vội gióng Dương quan,
Diện từ xin giải niềm đan mấy
lời.
(Hoa Tiên Truyện).
NIỀM
SON SẮT
Son sắt tức là lòng không phai lợt như màu son đỏ, bền chặt như sắt thép cứng.
Niềm son sắt ý nói lòng trung thành trước sau như
một, không dời không đổi.
Nào khi ước giữ niềm son sắt,
Nào thề non nắm chặt dải đồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NIỀM
TÂY
Niềm:
Nỗi niềm, tức là mối nghĩ trong lòng. Tây: Riêng tây.
Niềm tây là nỗi lòng riêng tây, hay nói cách khác là mối suy nghĩ riêng lẻ trong lòng.
Nàng càng giọt ngọc như chan,
Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm
tây.
(Truyện Kiều).
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá
nào.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
NIỆM
CHÚ 念 咒
Niệm:
Đọc thầm. Chú: Thần chú, chân ngôn hay mật ngữ.
Niệm chú tức là đọc thần chú.
Phật giáo có kinh và chú. Kinh là những lời Phật giảng, còn chú là những lời bí mật của chư Phật không nói rõ ra bằng lời, là những chuỗi âm vận chứa đựng những năng lực huyền bí, nên khi trì niệm có thể diệt trừ khổ ách, tiêu tai giải nạn.
Theo Phật giáo Việt Nam, các Đạo sư thấy không cần thiết phải giải thích ý nghĩa của những câu Thần chú hay mật chú, vì nghĩ rằng Thần chú không phải là cái để tìm hiểu, mà là để trụ tâm trì tụng, hầu có sự cảm ứng với chư Phật và Bồ Tát.
Tụng kinh, niệm chú thấy
chi,
Dói kêu đổ thuốc nào thì tỉnh đâu.
(Hứa Sử Tân Truyện).
NIỆM PHẬT
TỤNG KINH
Niệm Phật 念 佛 là đọc trang nghiêm danh hiệu của Đức Phật. Theo nghĩa rộng của kinh, đây là từ chỉ chung cho các Đấng: Niệm Phật cũng có nghĩa là niệm danh hiệu Đức Thượng Đế hay các Đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần.
Mục đích niệm danh hiệu các Đấng là để trói buộc
cái tâm mình vào danh hiệu các Đấng, lúc đó các vọng tưởng hết, chân tâm thanh
tịnh hiện bày. Nhưng điều cần nhứt là niệm đến chỗ nhứt tâm bất loạn 一 心 不 亂,
tức là tâm không bị loạn động, chí thành, không để các tạp niệm xen vào, miệng
niệm mà trong lòng không có vọng tưởng.
Tâm bị vô minh, vọng tưởng làm điên đảo, bất tịnh, niệm Phật có công năng
phá trừ vọng niệm, làm cho tâm mê lầm trở nên sáng tỏ, tinh tấn.
Tụng kinh 誦 經 là đọc thành tiếng theo nhịp kinh một cách thành kính thì kinh có công năng phá trừ vô minh, khai mở tâm trí sáng suốt. Như vậy, ý nghĩa huyền diệu trong kinh điển chúng ta cần phải tìm hiểu, học tập: “Độc kinh cầu lý 讀 經 求 理”, bởi vì lý của kinh sẽ chiếu sáng tâm con người (lý dĩ chiếu nhân tâm 理 以 照 人 心).
Hễ là niệm Phật tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết khá in như nguyền.
(Kinh Sám Hối).
NIÊN
CANH 年 庚
Niên canh là tuổi tác.
Trong phép đoán mệnh của các nhà lý số thường lấy
can chi (tức thiên can, địa chi) của năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh
gồm tám chữ gọi là niên canh, hay bát tự niên canh.
Niên canh chẳng hiệp mạng nghèo hèn,
Bởi đạo đức nhiều mới lấn chen.
(Đạo Sử).
NIÊN HIỆU 年 號
Ngày xưa, hoàng đế các triều đại khi lên ngôi đều lấy một tên hiệu (Đế hiệu) để định số năm vị vua đó đã cầm quyền.
Ví dụ vua Hán Võ Đế lên ngôi năm Tân Sửu (140 trước Tây Lịch), lấy niên hiệu là Kiến Nguyên.
Sau này, có nhiều vị vua khi có điềm lành hoặc gặp việc trọng đại bèn đổi niên hiệu, gọi là cải niên hiệu hay cải hiệu.
Tôn vương bèn mới chọn ngày,
Hàm Nghi niên hiệu ban
ngay trong ngoài.
(Hạnh Thục Ca).
NIÊN
HOA 年 華
Niên:
Năm. Hoa: Rực rỡ.
Niên hoa là tiếng dùng để chỉ thời giờ.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
NIẾT
BÀN 涅 槃
Do âm Phạn Nirvana, dịch ra Hán là “Viên tịch”, “Diệt độ”, “Tịch diệt”…
Niết Bàn là cảnh giới hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh, là cứu cánh mà người tu hành mong đạt được. Có hai loại: Hữu Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn.
Hữu Dư Niết Bàn là nghiệp phiền não đã tận nhưng vẫn còn cái thân hữu lậu, còn Vô Dư Niết Bàn là vĩnh viết thoát sinh tử. Khi Đức Phật mất gọi là nhập Niết Bàn hoặc Viên Tịch, tức chỉ cõi trở về chân như của Đức Phật.
Đối với Cao Đài, Niệt Bàn hay Cực Lạc Thế Giới là
cõi trở về của chư Phật.
Chúng sanh khế ngộ Chơn Như,
Nhứt thiết trai chứng vô dư Niết Bàn.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan,
Đưa linh thẳng đến Niết Bàn mới
thôi.
(Kinh Tận Độ).
Cõi Tiên mở rộng cung Ðâu Suất,
Nước Phật sửa an cảnh Niết Bàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NINH
LĂNG 寧 陵
Yên:
Yên lặng. Lăng: Lăng tẩm, nơi chôn cất vua.
Một cuộc lễ long trọng, trang nghiêm để an táng thi hài nhà vua, gọi là ninh lăng.
Âu lo việc nước hãy nhiều,
Ninh lăng đại lễ phải điều trước toan.
(Hạnh Thục Ca).
NINH TỬ 寧 子
Ninh Tử tức là Ninh Thích (có người đọc là Nịnh Tử), người nước Vệ, thời Chiến Quốc. Lúc còn hàn vi, phải đẩy xe và chăn trâu ở núi Dao Sơn, được Quản Trọng nghe tiếng là bậc hiền tài, bèn giới thiệu lên vua Tề Hoàn Công.
Xem: Ninh Thích.
Đuôi kia biếng cột Điền Đan hoả,
Tai nặng buồn nghe Nịnh Tử ca.
(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).
NINH
THÍCH 寧 戚
Ninh Thích (có người đọc là Nịnh Thích), người nước Vệ, vốn là bậc hiền tài đời Chiến Quốc. Lúc còn hàn vi, Ninh Thích chăn trâu ở núi Dao Sơn, được quan Tướng quốc nước Tề là Quản Di Ngô tức Quản Trọng nghe tiếng là bậc tài giỏi, nên giới thiệu lên vua Tề Hoàn Công và được vua Tề trọng dụng, phong làm quan Đại phu. Ninh Thích đã giúp cho Tề Hoàn Công lập được nhiều công lớn.
Tài cao hơn nữa Công Tôn Sách,
Sự thịnh còn truyền Nịnh Thích ca.
(Thập Giới Cô Hồn).
NOÃN
BÀO 卵 胞
Noãn:
Trứng. Bào: Cái bọc thai.
Noãn bào là cái thai sinh ra một bọc trứng.
Do truyền thuyết về sử nước ta chép: Sùng Lãm tức vua Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc gồm một trăm trứng, nở ra một trăm người con. Lạc Long Quân đem năm mươi người con xuống miền Nam Hải, sau nối nghiệp làm vua nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng Vương.
Vì sinh ra noãn bào, tức là một bọc trứng, nên người đời sau gọi những người cùng một dân tộc Việt, một nước Việt là “Đồng bào” (Cùng một bọc trứng).
Noãn bào dù chuyện hoang đường,
Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì.
(Quốc Sử Diễn Ca).
NOẢN
VƯƠNG 赧 王
Noản vương là một vị vua hèn yếu, nhu nhược nhất của đời nhà Châu. Ở ngôi suốt năm mươi chín năm mà chẳng có thực quyền gì hết, thường bị các chư hầu áp chế, ức hiếp, vì vậy, không làm được việc gì có ích nước lợi dân, cho đến khi mất nước.
Một dòng phụ đạo xưa nay,
Trước ngang Đường đế sau tầy Noản
vương.
(Quốc Sử Diễn Ca).
NOI
NGHĨA Ở NHƠN
Do chữ trong sách Mạnh Tử: Cư nhân do nghĩa, đại nhân chi sự bị hỹ 居 仁 由 義, 大 人 之 備 矣, nghĩa là ở chỗ nhơn, theo đường nghĩa là việc phải được chuẩn bị của bậc đại nhân.
Trọn mình noi nghĩa ở nhơn.
Bo bo giữ việc ra ơn, làm lành.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NÓI RA
VÀNG ĐÁ
Lấy ý từ câu: “Ngôn như kim thạch 言 如 金 石” tức là lời nói ra như vàng đá.
Nói ra vàng đá chỉ lời nói cương quyết, chắc chắn
không bao giờ thay đổi.
Nói ra vàng đá chẳng xao,
Văn ra dấy phụng, rời giao tưng bừng.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NON BỒNG
Tức là núi Bồng Lai, một ngọn núi nằm trên Bồng Đảo, tương truyền là nơi Tiên ở.
Bồng Đảo là một trong ba hòn đảo nằm ở biển Bột Hải, đó là Bồng Đảo, Phương Đảo và Doanh Đảo.
Xem: Bột Hải.
Những là vắng mặt khuất lời,
Non Bồng xem ngỡ mấy mươi mươi trùng.
(Hoa Tiên Truyện).
Anh nên tìm Lý Tri Niên,
Theo người ắt đặng gặp Tiên non Bồng.
(Dương Từ Hà Mậu).
NON BỒNG
NƯỚC NHƯỢC
Do chữ “Bồng sơn Nhược thuỷ 蓬 山 弱 水”, nghĩa là núi Bồng sơn, biển Nhược thuỷ.
Non Bồng là ngọn núi trên Bồng Đảo, là một trong ba hòn đảo ở biển Bột Hải. Tương truyền ở biển Bột Hải có nước rất yếu ớt, không đỡ nổi một hạt cải, nên còn có tên là Nhược thuỷ hay nước Nhược.
Vậy “Non Bồng nước Nhược”chỉ cảnh Bồng Lai và biển Bột Hải, dùng để diễn tả cảnh sắc đẹp đẽ ở miền tiên cảnh.
Thân là thân hiếm hoi chừng ấy,
nỡ nào lấy đôi mươi năm làm một kiếp,
mà ngơm ngớm chốn non Bồng nước nhược,
đỉnh gì không đoái đến cõi phù sinh.
(Văn Tế Trương Quỳnh Như).
NON CÔN
Tức núi Côn Lôn 崑 崙, là nơi tu luyện của Đức Lão Tử và Nguơn Thuỷ, giáo chủ của Xiển Giáo, chỉ nền Chánh giáo.
Xem: Động Bích.
Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,
Lối mòn động Bích chớ lầm đường.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NON
CÔNG BỂ ĐỨC
Non công:
Công sức nhiều như núi non. Bể đức: Đức sâu rộng như biển cả.
Non công bể đức ý nói công đức cao và rộng lớn như núi non biển cả.
Ngửa trông đức cả cao xa,
Non công, bể đức kể đà xiết bao.
(Truyện Trê Cóc).
NON ĐỒNG
Tức là “Đồng sơn 銅 山”, tên một ngọn núi có nhiều kim loại đồng.
Cổ ngữ có câu: Đồng sơn tây khuynh, Lạc chung đồng ứng 銅 山 西 傾, 洛 鐘 同 應, nghĩa là núi Đồng ở phía tây nghiêng, chuông ở đất Lạc Dương về phía đông tự nhiên có tiếng vang ứng theo. Đồng nghĩa với câu “Đồng thanh tương ứng”.
Non Đồng được ví với tình người mẹ, chuông Lạc ví với hiếu của người con, cả hai có liên quan cảm ứng với nhau, như Tăng Tử ở trong rừng, bà mẹ ở nhà cắn ngón tay, mà Tăng Tử thấy đau lòng.
Nghĩa bóng: Cảm ứng nhau.
Cho hay từ hiếu tương quan,
Non Đồng khi lở không hàn tiếng chuông.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
Nghìn năm nghiêng lở non Đồng,
Biết còn ứng tiếng Lạc chung đó là?
(Quan Âm Thị Kính).
NON YÊN
Non Yên tức là núi Yên Nhiên 燕 然, thuộc địa phận ngoại Mông Cổ. Đời Đường có đặt phủ Đô đốc để cai trị Mông Cổ.
Đến đời Hậu Hán, có Đậu Hiến đánh đuổi giặc bắc Thiền Vu (Hung Nô) đến núi Yên Nhiên, bèn lên núi khắc công huân vào đá, đoạn kéo quân về.
Xem: Yên Nhiên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
NON HOA
Tức “Hoa biểu” là một cây cột đá ở các mồ mả. “Hoa biểu”, “Hạc quy” dùng để chỉ người chết.
Cổ thi có câu: Vân ám đỉnh hồ, long khứ viễn, Nguyệt minh hoa biểu, hạc quy trì 雲 暗 鼎 湖, 龍 去 遠; 月 明 華 表, 鶴 歸 遲, nghĩa là mây phủ đỉnh hồ rồng bay khuất bóng, trăng soi trụ hoa, hạc bay về muộn.
Xem: Hoa biểu.
Rồi ra cách trở quan san,
Chẳng may bóng hạc khơi ngàn non
Hoa.
(Truyện Phan Trần).
NON KỲ
Núi Kỳ Liên 祈 連, là nơi Hoắc Khứ Bệnh, một tướng giỏi của nhà Hán, người đất Bình Dương có công đánh thắng giặc Hung Nô ở núi Kỳ Liên. Sau ông chết, để nhắc nhở công lao ông, vua sai đắp mộ như hình núi Kỳ Liên.
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
NON KỲ
REO TIẾNG PHỤNG
Non Kỳ:
Núi Kỳ Sơn thuộc đất Tây Kỳ, đời Ân Trụ, nước Trung Hoa. Phụng: Chim phụng.
Non Kỳ reo tiếng phụng là nói chim phụng hoàng gáy trên Kỳ Sơn, là một điềm lành báo cho biết có chúa Thánh ra đời tại Tây Kỳ, đem đến cho đất nước một thời thái bình, thịnh trị.
Do điển vua Văn Vương nhà Châu ra đời thì có chim
phụng đậu trên Kỳ Sơn gáy, báo cho biết là một điềm lành, Ngài là bậc Thánh
quân. Sau vua Văn Vương được Khương Tử Nha phò tá, diệt vua Trụ, dựng nghiệp
nhà Châu, mở ra một thời bình trị.
Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,
Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NON KIỀU
Tức là ngọn núi Viên Kiều.
Theo truyền thuyết, trên núi Viên Kiều có các vị
tiên ở, nên nơi đó được coi là cảnh tiên.
Trời tây cảnh vật buồn hiu,
Hồ sen ngút toả, non Kiều mây bay.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NON MÃ
Tên một quả núi mà Dương Quý Phi chết ở đấy, đó là ngọn Mã Ngôi.
An Lộc Sơn đem quân đánh kinh đô nhà Đường, Đường Minh Hoàng phải chạy vào đất Thục, ngang qua Mã Ngôi, quân reo hò không chịu đi nữa, đòi vua phải giết Dương Quý Phi, Quý Phi buộc lòng phải tự vẫn chết ở đấy.
Xem: Mã Ngôi.
Ải Vân oán điệu tỳ bà,
Dấu giày non Mã sương
pha nên đồ.
(Hoa Tiên Truyện).
NON NAM
Chỉ sự sống lâu, do chữ “Thọ tỷ nam sơn 壽 比 南 山” tức là sống lâu như núi nam.
Thơ Thiên Bảo trong Thiên tiểu nhã sách Mao thi có câu: "Như Nam sơn chi thọ 如 南 山 之 壽" là sống lâu như non nam. Ở đây ý chúc vua tuổi thọ cao như núi Nam sơn.
Xem: Nam sơn.
Hội lành đã gặp gồm năm phúc,
Trỏ non Nam chúc thánh
quân.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong.
(Ai Tư Vãn)
NON NGỌC
Bởi chữ “Ngọc sơn 玉 山” tức là núi ngọc, chỉ cảnh tiên. Sơn Hải Kinh chép: Ngọc sơn là nơi ở của bà Tây Vương Mẫu, vì nơi ấy có nhiều ngọc dao trắng trong ao gọi là Dao trì (Hay Diêu trì).
Dám xin trỏ lối cho nao,
Tới non Ngọc dễ ai nào về
a!
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NON
NHÂN NƯỚC TRÍ
Do câu trong Luận Ngữ: Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thuỷ 仁 者 樂 山, 智 者 樂 水, nghĩa là người nhân ưa thích núi, người trí ưa thích sông.
Non nhân nước trí dùng để chỉ phong cảnh núi non
hữu tình dành cho người nhân trí thưởng thức.
Kìa non, nọ nước, mặc dầu,
Non nhân nước trí, nhiệm mầu thảnh thơi.
(Dương Từ Hà Mậu).
Năm ba chén non nhân nước trí,
Một vài câu thơ thánh phú tần.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
NON
SÔNG
Bởi chữ “Sơn hà 山 河” tức là núi sông, cùng nghĩa với “giang sơn 江 山” chỉ tài nguyên, đất nước của một quốc gia.
Núi sông hay non sông chỉ tài nguyên, hay chỉ đất
nước. Xem: Giang sơn.
Băng luân một tấm lộng khơi,
Non sông muôn nước bóng ngời lòng soi.
(Dương Từ Hà Mậu).
Càng nhớ đến lời nguyền buổi trước,
Thẹn non sông chưa ngớt
tình nồng.
(Kinh Thế Đạo).
Non sông Việt chủng ngày êm lặng
Chung sức cùng nhau đức lập quyền
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Non sông chẳng đổi theo lời nói,
Cơ nghiệp dầu thay bởi sức làm.
(Đạo Sử).
Non sông nhuộm một màu sầu,
Nền giao cỏ láng, sân chầu sương phong.
(Ngụ Đời).
Trong vũ trụ hiệp hoà là mạnh,
Phận đồ thơ phải gánh non sông.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NON
SÔNG MỘT CHÈO
Nói chí tung hoành của kẻ nam nhi, với một mái chèo mà đi khắp cả sông hồ.
Do câu thơ của Hoàng Sào đời nhà Đường: Bán
kiên cung kiếm bằng thiên túng, Nhất trạo giang sơn tận địa duy 半 肩 弓 劍 憑 天 縱, 一 棹 江 山 盡 地 維,
nghĩa là nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp thiên hạ, một mái chèo mà đi khắp
non sông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
(Truyện Kiều).
NON
THÁI
1.- Chỉ núi Thái Sơn, một ngọn núi cao thuộc Ngũ Nhạc ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, để chỉ ân nghĩa cao sâu, nặng nề.
Xem: Thái Sơn.
Hai chữ cần lao non Thái nặng,
Một niềm ưu ái bóng thu trong.
(Tô Công Phụng Sứ).
Non Thái dầu cao, cao hóa thấp,
Chậu kia dầu kín thấy thông thương.
(Đạo Sử).
2.- Chỉ núi Thái Hàng, nơi mà Địch Nhân Kiệt, người đời Đường, đi làm quan xa quê nhà, trông thấy đám mây trắng lờ lửng, bèn than rằng: Nhà cha mẹ ta dưới đám mây trắng trên đầu non Thái đó…Chỉ việc nhớ quê hương, cha me.
Xem: Mây trắng.
Ngàn non Thái một màu mây
bạc,
Giạt chân bèo lưu lạc bể oan.
(Tự Tình Khúc).
NON VU
Bởi chữ “Vu sơn 巫 山”, là một ngọn núi tiếp với Vu Giáp, dưới chân có miếu thần nữ.
Do tích Sở Tương Vương đến chơi ở Cao Đường, nằm mộng thấy một thiếu nữ cùng vua chăn gối. Vua hỏi thì nàng cho biết là thần nữ núi Vu sơn, có nhiệm vụ buổi sáng làm mây, tối làm mưa ở chốn Dương Đài.
Nghĩa bóng: Chỉ trai gái chung chạ.
Nhởn nhơ hoa nở khói lồng,
Non Vu đành có nẻ thông từ rày.
(Hoa tiên Truyện).
NON VU
LẤP NẺO
Non Vu là núi Vu Sơn, điển tích nói về vua Sở chiêm bao thấy cùng Thần nữ giao hoan, dùng để chỉ sự gối chăn, ân ái.
Non Vu lấp nẻo tức là bít đường đến Vu sơn, ý muốn
nói tuyệt dứt đường ân ái.
Vui đọc truyện, buồn ngâm thơ,
Non Vu lấp nẻo, đàn tơ dở mùi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NON
XƯƠNG CHẤT THẢM
Non xương chất thảm là nói xương người chất cao như non núi, xem thấy thật là thảm thiết, ý nói người chết quá nhiều đến nỗi xương chất bằng non rất nên thê thảm.
Ai làm nên nỗi nước nầy,
Non xương chất thảm, dòng thây trôi hờn.
(Hoài Nam Khúc).
NÓN
CHIÊN ÁO CẦU
Nón chiên: Nón dệt bằng lông con chiên. Áo
cầu: áo cầu là áo bằng da cừu, ý nói về
văn hoá, tập tục của các bộ tộc du mục phía bắc Trung Quốc.
Non chiên áo cầu nghĩa là nón và áo của các bộ tộc, chỉ sự văn minh lễ nghĩa của dân tộc đã bị biến đổi.
Xem: Chiên cừu.
Buồn xem trong đất U, Yên,
Y quan xưa hoá nón chiên áo cầu.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NÔ LỆ 奴 隸
Nô lệ là chỉ những người mất tự do, bị người khác đãi ngộ bất bình đẳng, đối xử hà khắc, hoặc bắt về để sai khiến. Vào thời đại còn là bộ lạc, các bộ lạc mạnh đánh các bộ lạc yếu, bắt con trai, con gái về làm nô lệ. Ở Châu Âu vào thời trung cổ, việc mua bán nô lệ rất thịnh hành ở các nước. Về sau tư tưởng tự do càng bành trướng trên thế giới, thì con người hưởng ứng giải phóng nô lệ càng nhiều ở các nước. Tại Mỹ vào năm 1863 giải phóng chế độ nô lệ người da đen.
Trống gông nô lệ sao ham
muốn?
Hình bóng quan viên xúm giựt giành.
(Đạo Sử).
Lằng xanh ưa ngửi mùi đồng,
Ham thân nô lệ, mến vòng tôi
con.
(Ngụ Đời).
NỐI DÂY
Bởi chữ “Tục huyền 續 弦” là nối lại sợi dây đàn.
Trong văn chương, người ta thường ví vợ chồng như hai cây đàn cầm và đàn sắt. Vì vậy, vợ chết gọi là “Đoạn huyền” (Đứt dây). Đàn ông cưới lại người vợ khác gọi là tục huyền hay : “Nối dây”.
Xem: Nối huyền.
Tấc lòng thề với trời cao,
Quản chi trắng tóc, nỡ nào nối dây.
(Nhị Độ Mai).
NỐI
DÒNG TRUYỀN HƯƠNG
Nối dòng:
Nối tiếp dòng họ để truyền kế lâu dài. Truyền
hương: Truyền kế lửa hương.
Nối dòng truyền hương là nối tiếp dòng họ để truyền kế lâu dài sự thờ cúng tổ tiên.
Đừng làm nhục tổ hổ tông,
Lập thân trả hiếu nối dòng truyền
hương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NỐI
ĐIÊU
Nối điêu là nối theo.
Ngày xưa, các quan Ngự sử dùng lông đuôi con điêu để gắn trên chóp mũ. Khi chức quan Ngự sử được phong quá nhiều, trong khi đuôi con điêu không đủ để làm chóp mũ nữa, nên có mới câu: Điêu bất túc, cẩu vĩ tục 貂 不 足, 狗 尾 續, nghĩa là đuôi con điêu không đủ để làm mũ, thì lấy đuôi chó mà thêm vào.
Trong thơ ca, người ta thường dùng hai chữ “Nối điêu” để nói về hoạ thơ lại, một cách khiêm nhường.
Nghĩa bóng: Bắt chước một cách vụng về.
Xem: Tục điêu.
Hay hèn lẽ cũng nối điêu,
Nỗi quê nghĩ một đôi điều ngang ngang.
(Truyện Kiều).
Cứ lần lần năm đạo nối điêu,
Ít tài đức tùy theo hành đạo.
(Phương Tu Đại Đạo).
NỐI GÓT
LÂN
Gót lân do chữ “Lân chỉ 麟 趾” trong Kinh Thi nói về con cháu của vua Văn Vương đều được giáo hoá tốt.
Nối gót lân ý nói có con quý nối dòng.
Xem: Gót lân.
Phước đà liền nối gót lân,
Phận mình: giàu có, thanh bần, cũng ưng.
(Dương Từ Hà Mậu).
Than rằng: Chàng hỡi Dương quân!
Muốn tu còn nối gót lân làm
gì?
(Dương Từ Hà Mậu).
Tần Khanh đặng nối gót lân,
Tấm lòng yêu mến phu nhân khôn cùng.
(Dương Từ Hà Mậu).
Dọn nhà lành tìm kiếm rể dâu,
roi phước hậu nối gót lân vun
nền nghĩa.
(Tử Tế Mẫu Văn).
NỐI HUYỀN
Bởi chữ “Tục huyền 續 弦” tức là nối lại sợi dây đàn. Ngày xưa, người ta thường ví vợ chồng như cây đàn cầm đàn sắt. Cho nên chết vợ gọi là “Đoạn huyền” (đứt dây), cưới vợ lại gọi là nối huyền, hay tục huyền (nối dây).
Cầm lành như chẳng nối huyền,
Nghe trong tình ý có nên tiếng gì.
(Truyện Trinh Thử).
NỒI KÊ
CHƯA CHÍN
Do điển tích: Lữ sinh đi thi không đỗ, khi về vào một quán trọ nghỉ ngơi, thấy người chủ quán đang nấu nồi kê vàng (Hoàng lương). Lữ sinh nằm ngủ quên, bèn chiêm bao thấy mình thi đỗ, làm quan rồi cưới vợ, sinh con đẻ cháu, nối nhau làm quan vinh hoa phú quý vô cùng. Chợt khi tỉnh dậy, Lữ sinh thấy mất tất cả, cuộc đời chẳng khác giấc mộng huỳnh lương, tức là giấc mộng ngắn ngủi, đến nỗi nấu hạt kê vàng mà vẫn chưa chín..
Nồi kê chưa chín dùng để chỉ công danh phú quý chỉ
là giấc mộng ngắn ngủi, mà người đời gọi đó là “Mộng huỳnh lương”.
NỘI BỘC 內 僕
Nội: Bên trong. Bộc: Đầy tớ.
Người xưa quan niệm rằng cưới dâu về để có người làm việc lặt vặt trong nhà đáng tin cậy hơn mướn đầy tớ bên ngoài, nên con dâu được ví như “Nội bộc”.
Tiếng đời ví dâu là nội bộc,
Lại gọi rằng ngoại tộc nữ sanh.
(Phương Tu Đại Đạo).
NỘI
CHÂU
Nội Châu là đồng ruộng của nhà Châu.
Do tích sau khi vua Võ Vương nhà Châu hạ được nhà
Ân, liền thả trâu ra phía Nam núi Hoa sơn, đưa ngựa về đồng rừng đào, tỏ sự
thái bình của đất nước, không dùng quân binh nữa.
Bãi cỏ non, trâu thả ngựa buông,
nội Châu đã lắm người ca ngợi.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
NỘI ĐƯỜNG 內 堂
Nội:
Bên trong. Đường: Nhà.
Nội đường là nhà bên trong.
Những là vui chuyện nội đường,
Sảnh ngoài bỗng có hai chàng báo tin.
(Nhị Độ Mai).
NỘI
GIÁM 內 監
Nội:
Bên trong. Giám: Xem xét.
Nội giám tức là xem xét công việc trong cung cấm. Nội giám còn là chức của các hoạn quan tự xưng.
Liền tay thảo sớ một bài,
Theo chân nội giám vào nơi
đền vàng.
(Nhị Độ Mai).
NỘI SẰN
Bởi chữ “Sằn dã 莘 野” tức cánh đồng Hữu sằn, là nơi Y Doãn cày ruộng, lúc còn hàn vi. Ông có công giúp vua Thang đánh đuổi vua Kiệt, diệt nhà Hạ mà lập nên nhà Thương.
Mạnh Tử có câu: Y Doãn sinh ư Hữu sằn chi dã 伊 尹 生 於 有 莘 之 野, nghĩa là Y Doãn cày ruộng ở cánh đồng Hữu sằn.
Xem: Sằn dã.
Doãn chưa đặng lễ Thang mời,
Cày kia chưa dễ buông nơi nội Sằn.
(Ngoạ Long Cương Vãn).
Sớm dạo nội sằn đi khắp khởi,
Tối về tử lý thở hê ha.
(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).
NỘI TẮC 內 則
Nội:
Bên trong. Tắc: Khuôn phép. Nội tắc là tên một thiên trong Kinh Lễ dạy
những người đàn bà con gái ăn ở sao cho có lễ nghi, đức hạnh.
Thiên Thiếu nghi, thiên Nội tắc,
giáo lành chép lấy làm gương,
Thơ Quyển nhĩ, thơ Quan thư,
đức thịnh phen đòi bắt chước.
(Cung Trung Bảo Huấn).
Khúc thư châu thổi sạch tiếng hoà,
Khuôn Nội tắc đã gây nên
nhân nhượng.
(Phan Huy Ích).
Đạo thờ cha kính,
đủ một thiên nội tắc vuông
tròn;
Phương chủ quỷ tề gia,
thìn bốn đức phụ nhơn trọn trẻ.
(Tử Tế Mẫu Văn).
NỘI
THƯƠNG 內 傷
Nội thương là bị đau ở bên trong.
Theo y học, thương có nghĩa là tổn hại, như vậy
nội thương là sự tổn hại bên trong do hai nguyên nhân: Bệnh tật và tâm lý. Nội
thương do bệnh tật như các loại đau bệnh về ngũ tạng lục phủ. Nội thương do tâm
lý như những nỗi sầu oán làm thương tổn con người.
Lục quân, Tứ vật thang danh,
Thập toàn, Bát vị, sẵn dành nội thương.
(Lục Vân Tiên).
NỘI TRỢ 內 助
Nội:
Bên trong. Trợ: Giúp đỡ.
Nội trợ là sắp đặt, lo liệu các việc trong gia đình để giúp đỡ cho người chồng hằng ngày.
Phần nội trợ trăm phiền
đeo đẳng,
Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng
bì đồng nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cũng có ngày con phải ra riêng,
Lo học tập cho yêu nghề nội trợ.
(Phương Tu Đại Đạo).
NỘN NHUỴ 嫩 蕊
Nộn:
Tươi non. Nhuỵ: Nhuỵ hoa.
Trong văn chương hoa được ví như người con gái, nhuỵ hoa coi như phẩm giá tốt đẹp, hoặc cuộc đời trinh trắng. Như vậy, “Nộn nhuỵ” có nghĩa là nhuỵ hoa còn tươi non, ví như phẩm giá đẹp của người phụ nữ.
Hoa Xuân nọ còn phong nộn nhuỵ,
Nguyệt thu kia, chưa hé hàn quang.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
NÔNG
PHONG LỘC TÀI 農 豐 祿 財
Nông phong: Người làm ruộng trúng mùa. Lộc tài: Nhiều của cải
và tiền bạc.
Nông phong lộc tài là sau một vụ lúa nhọc nhằn, người nông dân thu hoạch được mùa và thêm nhiều của cải, tiền bạc.
Sáu chương mừng kẻ sĩ nông,
Sĩ đăng khoa đệ, nông phong lộc tài.
(Thanh Hoá Quan Phong).
NỢ
DUYÊN
Nợ duyên, hay duyên nợ, là mối dây ràng buộc do nợ nần tạo ra từ kiếp trước của người vợ lẫn người chồng. Hay nói cách khác, do nghiệp lực của tiền kiếp lôi kéo cho hai người nam nữ phối hiệp nhau để tạo nên hạnh phúc, gọi là duyên, hay đền trả oan trái khổ đau, gọi là nợ.
Ở trước mặt Hồng Quân định phận.
Đạo vợ chồng đã xứng nợ duyên.
(Kinh Thế Đạo).
NỢ ĐỜI
Bởi chữ “Thế trái 世 債”, tức là món nợ ở thế gian.
Nợ đời là các món nợ mà mình vay khi làm người sống ở cõi thế gian. Muốn dứt tuyệt nợ đời, chỉ có con đường tu hành đắc quả để không bao giờ luân hồi xuống cõi thế gian này nữa.
Xem: Nợ thế.
Dù sao bình đã vỡ rồi,
Lấy thân mà trả nợ đời cho
xong!
(Truyện Kiều).
Khối trái chủ nhẫng lo vay trả,
Mới gầy nên nhân quả nợ đời.
(Kinh Tận Độ).
Chàng dầu cung Ngọc an ngôi,
Xin thương thân thiếp nợ đời còn
mang.
(Kinh Thế Đạo).
Trót đã đa mang cái nợ đời,
Gánh đời nặng lắm khách đời ơi!
(Đạo Sử).
Ðước tánh còn lo lắm nợ đời,
Ðường tu chưa đặng bước xa khơi.
(Đạo Sử).
Hay sợ khổ sanh ly tử biệt,
Nên tìm phương dứt tuyệt nợ đời.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đền đáp phận người dầu chẳng vẹn,
Nợ đời đừng mộng rảnh rồi vay.
(Phương Tu Đại Đạo).
NỢ TIỀN
KHIÊN
Tiền khiên 前 愆 là điều lỗi lầm ngày trước hay kiếp trước. Nợ tiền khiên tức là món nợ phải trả do kiếp trước làm lỗi mà ra.
Bãi biển đưa chơn chưa đáng buổi,
Trần hoàn trả vẹn nợ tiền khiên.
(Đạo Sử).
NÚI
BĂNG
Hay “Núi giá”. Do câu: “Thế dị tận giả nhược băng sơn 勢 易 盡 者 若 崩 山” nghĩa là thế lực dễ tiêu tan như núi giá.
Điển tích trong Đường Thư viết: Ông Dương Quốc
Trung làm Tể tướng, được nhiều người đương thời xu phụ. Có người khuyên ông
Trương Thoán Yết chi rằng: Hãy về nương theo quan Tể tướng, sẽ được hưởng sự
giàu sang. Trương Thoán nói: Các ông cho quan Tể tướng họ Dương là núi Thái
Sơn, tôi thì cho núi băng giá. Nếu mặt trời sáng mọc lên, các ông được khỏi mất
chỗ dựa nương chăng? Bèn vào núi Tung Sơn mà tìm nơi ẩn dật.
Gian thần chưa chắc nẩy chồi,
Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan.
(Nhị Độ Mai).
NÚI CHỈ
NON THỀ
Tức là chỉ núi non mà thề nguyện, cùng nghĩa với “Bể thệ non nguyền”, dùng để nói trai gái thề nguyền với nhau.
Xem: Bể thệ non nguyền.
Nọ là núi chỉ non thề,
Bất kỳ nên nghĩa tương kỳ mới hay.
(Truyện Trinh Thử).
NÚI ĐẤT
BA LỜI
Núi Đất:
Tức Thổ Sơn. Ba lời: Ba điều giao ước.
Núi Đất ba lời chỉ ba lời giao ước ở núi Đất (Thổ Sơn). Do điển Quan Vân Trường bị Tào Tháo vây ở Thổ Sơn, bèn đưa ra ba điều giao ước để đầu hàng: 1. Đầu hàng vua Hán, chớ không đầu Tào Tháo. 2. Hai người chị dâu, vợ Lưu Bị, phải được cấp dưỡng theo bổng lộc của Lưu Bị, tuyệt đối người ngoài không được đến cửa. 3. Hễ nghe Lưu Bị ở đâu thì được phép đi theo.
Núi đất ba lời gìn nghĩa Hán,
Sông vàng hai trận trả ơn Tào.
(Dương Từ Hà Mậu).
NÚI LỞ
NON MÒN
Núi lở non mòn là núi non sụp lở, dùng để ví tiền của chất cao như non núi, không lo làm ăn chỉ hoang phí thì cũng phải sụp đỗ, tiêu tan như núi lở non mòn.
Ngồi ăn, núi lở non mòn,
Huống chi lại phá, của còn đặng đâu!
(Huấn Nữ Ca).
NÚI
SÔNG
Chỉ cảnh sông và núi, và để diễn tả đường đi cách trở núi sông.
Sách Quốc sắc thiên hương có câu rằng: Tương
thân chỉ xích nhi diểu nhược hà sơn 相 親 咫 尺 而 渺 若 河 山,
tức là gần nhau độ một gang một thước mà không được gặp nhau, như cách trở núi
sông.
Chừng nào thánh đế ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NUÔI
CHÁU BỎ CON
Bởi câu “Tồn điệt khí nhi 存 姪 棄 兒” tức nuôi cháu bỏ con.
Tấn thư chép: Ông Đặng Bá Đạo đương khi có giặc
Triệu Thạch Lặc làm loạn, bèn cõng con và đứa cháu tên là Tuy cùng chạy trốn.
Ông Bá Đạo nói với vợ rằng: Con ta và cháu ta không thể lưỡng toàn được! Em ta
một sớm chỉ có đứa con này, lẽ nào để tuyệt hậu. Thà bỏ con ta, về sau còn sanh
nữa. Vợ khóc nghe theo lời ông, bèn bỏ con mình. Sau vợ chồng ông không có thai
nữa, cuối cùng phải vô hậu. Người đời thương cho hoàn cảnh ông rằng: Tồn
điệt khí nhi, bi Bá Đạo chi vô hậu 存 姪 棄 兒, 悲 伯 道 之 無 後,
nghĩa là nuôi cháu bỏ con, buồn cho ông Bá Đạo không con nối hậu.
NUỐT TRÂU
Bởi chữ “Thôn ngưu 吞 牛” có nghĩa nuốt trâu nghĩa bóng là nói chí khí hào hùng.
Do câu nói của Xí Tử: "Hổ báo chi tử tuy
vị thành văn dĩ hữu thôn ngưu chi khí 虎 豹 之 死 雖 未 成 文, 已 有 吞 牛 之 氣"
nghĩa là giống hổ báo tuy chưa đủ văn thái cũng đã có khí phách nuốt trâu.
Miệng thèm thuồng giương dạ nuốt trâu,
Chí hăm hở dang tay bắn vượn.
(Thập Giới Cô Hồn).
NỮ CÔNG 女 工
Nữ:
Đàn bà con gái. Công: Việc.
Nữ công là sự làm lụng bằng chân tay khéo léo của đàn bà con gái.
Nữ công còn là một trong Tứ đức của người con gái,
đó là: Công, dung, ngôn, hạnh.
Ðâu xiết kể, muôn sầu nghìn não,
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Dệt thêu học lẫn nữ công.
Lúc chia hoa ướp, khi chung phấn giồi.
(Nhị Độ Mai).
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
(Gia Huấn Ca).
Rán tập em nữ hạnh nữ công,
Tập đủ phép ông chồng hay tập vợ.
(Phương Tu Đại Đạo).
NỮ CÔNG
PHỤ XẢO 女 工 婦 巧
Nữ công:
Công việc của phụ nữ. Phụ xảo: Nghề khéo của đàn bà.
Nữ công phụ xảo là những việc khéo léo của đàn bà, phụ nữ trong nữ công, ví như may vá, bánh trái…
Ðâu xiết kể, muôn sầu nghìn não,
Từ nữ công, phụ xảo đều
nguôi.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
NỮ
CHÂN 女 真
Tên một chủng tộc. Nữ Chân chia làm hai: Sinh Nữ Chân và Thục Nữ Chân.
Sinh Nữ Chân nay ở vùng tỉnh Cát Lâm, phía đông
nam Tùng Hoa Giang. Thục Nữ Chân ở tỉnh Hắc Long Giang, phía tây bắc Tùng
Hoa Giang. Thời Tống Huy Tông, Nữ Chân tự lập dựng thành nước Kim, diệt nước
Liêu, đánh nhà Tống, về sau bị Mông Cổ diệt.
Riêng cầu bên nước Nữ Chân,
Đem quân mọi rợ đánh phần Hà đông.
(Dương Từ Hà Mậu).
NỮ GIÁ NAM HÔN 女 嫁 男 婚
Nữ giá:
Con gái thì gả. Nam hôn: Con trai thì cưới.
Nữ giá nam hôn có nghĩa là nuôi con trưởng thành gái thì gả chồng, trai thì lấy vợ cho kịp thời.
Dương rằng: Nữ giá nam hôn,
Làm cha phải liệu cho con cập thì.
(Ngọc Kiều Lê).
NỮ KIỆT 女 傑
Nữ:
Người con gái. Kiệt: Tài giỏi hơn người.
Nữ kiệt là người con gái tài giỏi.
Thanh sử từng nêu gương nữ kiệt,
Hồng ân chi kém bạn nam nhi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NỮ LƯU 女 流
Nữ:
Đàn bà. Lưu: Một ngánh, một phái.
Nữ lưu là tiếng dùng để chỉ giới nữ, tức nữ phái.
Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NỮ NAM
ĐỒNG BỰC
Nữ nam đồng bực là trai gái ngang nhau, nói rõ hơn là quyền hành của nam nữ bằng nhau. Đó là nguyên tắc mà hiện nay người ta đề ra: “Nam nữ bình quyền 男 女 平 權”.
Dạy cho hiểu nữ nam đồng bực,
Trí khôn ngoan cân sức vốn như nhau.
(Phương Tu Đại Đạo).
NỮ OA 女 媧
Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy, một trong ba vị vua đời Thượng cổ ở Trung Quốc.
Tương truyền ngày xưa, Cung Công Thị đánh nhau với
Chúc Dung Thị không thắng được, nên nổi giận làm sập ngọn Bát Châu Sơn, tức là
quả núi chống trời. Trời bị khuyết, nên bà Nữ Oa mới luyện đá ngũ sắc để vá
trời, người xưa gọi “Luyện thạch bổ thiên”, tức luyện đá vá trời.
NỮ PHÁCH 女 魄
Nữ: Phụ nữ. Phách là khí phách, tinh thần.
Nữ phách là nói tinh thần hay khí phách của người phụ nữ.
Dụng văn hóa trau tria nữ
phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NỮ SĨ 女 士
Nữ sĩ dùng để chỉ người phụ nữ có học thức, có tài về thi phú, viết văn, hay hội hoạ.
Tinh thần cao thấp nhờ thi,
Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng
nam.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NỮ
TRUNG 女 中
Nữ:
Đàn bà, con gái. Trung: Bên trong.
Nữ trung là chỉ trong giới đàn bà con gái.
Nữ trung dễ mấy nầy ru!
Song mai kể mấy công phu tập rèn.
(Mai Đình Mộng Ký).
Thì toan giữ vẹn chung tình,
Đưa thoi đừng để lỗi mình nữ trung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NỮ
TRUNG NGHIÊU THUẤN 女 中 堯 舜
Người đàn bà tài đức trong giới nữ như hai vị vua Nghiêu và Thuấn.
Trong sử Trung Quốc có ghi: Bà Tuyên Nhơn Thái Hậu
là người họ Cao, vợ của vua Anh Tông đời Tống. Khi Tống Thần Tông (Con vua Anh
Tông) băng, con là Triết Tông nối ngôi mới 10 tuổi. Bà Tuyên Nhơn Thái Hậu thay
cháu lâm triều, bãi bỏ tân pháp và bè đảng Vương An Thạch, dùng Tư Mã Quang làm
tể tướng, nên nhân dân được an cư, đất nước được thái bình, vì vậy, sử khen bà
Tuyên Nhơn Thái hậu là “Nữ trung Nghiêu Thuấn”, tức là vua Nghiêu Thuấn
của phải nữ lưu.
Nọ như Tống tuyên Nhơn,
Sử còn ngợi “Nữ trung Nghiêu Thuấn”.
(Sãi Vãi).
NỬA CHỪNG
XUÂN
Mùa xuân thường dùng đẻ ví với tuổi trẻ, tuổi thanh niên.
Nửa chừng xuân là nửa cái tuổi xuân, còn rất trẻ.
Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
(Truyện Kiều).
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai,
Nông nổi nghĩ thôi tiếc bấy tài.
(Đạo Sử).
NƯỚC
BÈO
Bởi chữ “Bình thuỷ 萍 水” là bèo và nước.
Bèo trôi bập bềnh trên nước, nước chảy lênh đênh theo dòng, cả hai trôi đi không có sở định, nhưng khi có duyên may, bèo nước lại gặp gỡ nhau.
Xem: Nước bèo tương phùng.
Nước bèo dù có duyên sau,
Bên sông thử bắc nhịp cầu từ đây.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NƯỚC
BÈO TƯƠNG PHÙNG
Bởi chữ “Bình thuỷ tương phùng 萍 水 相 逢”, tức là nước bèo gặp gỡ, chỉ sự tình cờ mà gặp nhau.
Bèo trôi không biết đi đâu, nước chảy chẳng biết
về đâu, cả hai không định, thế mà có duyên gặp gỡ. Thơ Vương Bột có câu: Bình
thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách 萍 水 相 逢, 盡 是 他 鄉 之 客,
nghĩa là bèo nước gặp gỡ nhau, toàn là do mỗi người một nơi.
Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng,
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
(Truyện Kiều).
Lá hồng ra mối chỉ hồng,
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NƯỚC
CAM LỒ
Bởi chữ “Cam lộ thuỷ 甘 露 水” là nước sương ngọt, cũng gọi là nước nhành dương. Nước cam lồ trong bình tịnh thuỷ, Đức Quan Âm Bồ Tát dùng nhành dương liễu nhúng nước cam lồ để giải oan khiên, khổ nạn cho chúng sanh.
Xem: Cam Lộ.
Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên,
Nước Cam Lồ rửa sạch thuyền độ nhân.
(Kinh Tận Độ).
Mượn nước Cam Lồ lau tục
trái,
Ðường Tiên nẻo Phật sớm đưa chơn.
(Đạo Sử).
Am tự đóng chặt gài bước tục,
Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NƯỚC CHẢY
HOA TRÔI
Bởi câu “Thuỷ lưu hoa tạ 水 流 花 謝”, mượn ý trong Đường Thi: Thuỷ lưu hoa tạ lưỡng vô tình 水 流 花 謝 兩 無 情, tức nước trôi hoa rụng, tất cả đều vô tình, ý muốn nói nước kia cứ chảy, hoa nọ cứ tàn, vẫn vô tình với mọi biến chuyển, cũng như định mệnh cứ hờ hững trước sự bạc phận của kẻ hồng nhan.
Phận sao phận bạc như vôi,
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ
làng.
(Truyện Kiều).
Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy,
Để thân này nước chảy hoa trôi.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Nào hay nước chảy hoa trôi,
Nào hay phận bạc như vôi thế này.
(Lục Vân Tiên).
NƯỚC
DƯƠNG
Bởi chữ “Dương chi thuỷ 楊 枝 水” tức là nước cành dương liễu.
Sách Pháp Uyển Châu Lâm chép: Ông sư tên Phật Đồ
Trừng, người Thiên Trúc đến nhà ông Thạch Lặc chơi, vừa có đứa con bị bịnh nặng.
Phật Đồ Trừng lấy cành dương liễu tẩm nước phép rải cho đứa trẻ đau, liền khỏi
bịnh. Nước phép ấy gọi là “Cam lộ thuỷ” chứa trong Tịnh bình của Phật Quan Thế
Âm.
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Ngửa nhờ giọt nước dương chi,
Dẫu cho đã héo rồi thì lại tươi.
(Quan Âm Thị Kính).
Nước dương rưới sạch trần ai cũ,
Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NƯỚC ĐẰNG
Bởi chữ “Đằng quốc 藤 國”.
Thời Đông Châu liệt quốc có một nước Đằng, là nước
nhỏ nằm giữa hai nước lớn Tề và Sở, nên Đằng Quốc không biết phải theo nước
nào.
Đằng tiểu quốc dã, gián ư Tề Sở. Sự Tề hồ, sự Sở hồ? 藤 小 國 也, 間 於 齊 楚. 事 齊 乎, 事 楚 乎?,
nghĩa là Đằng là một nước nhỏ nằm xen giữa hai nước Tề và Sở. Thờ nước Tề ư,
thờ nước Sở ư?
Em là con gái nước Đằng,
Bên Tề bên Sở biết rằng theo ai.
(Thanh Hoá Quan Phong).
NƯỚC ĐỔ
BỐC ĐẦY
Bởi câu “Phúc thuỷ nan thâu 覆 水 難 收” là nước đổ khó hốt.
Hán Sử chép: Châu Mãi Thần vừa đi làm việc mệt nhọc vừa học, vợ ông xin ra đi. Ông Mãi Thần nói: Tôi đến năm mươi tuổi, nhứt định giàu sang! Vợ nạt rằng: Theo anh cuối cùng sẽ chết đói. Mãi Thần giữ không được, vợ dứt tình ra đi. Về sau, Mãi Thần nên danh, vợ trở lại xin tái hiệp. Mãi Thần nói: Nước đổ hốt lại được mới cho tái hiệp. Vợ Mãi Thần bèn tự vận chết.
Theo sách Thập Di Ký: Thái Công Vọng có vợ là bà Mã Thị. Thời đó ông chỉ chăm đọc sách chứ không lo làm ăn. Bà Mã Thị buồn bỏ ra đi lấy chồng khác. Sau Thái Công Vọng gặp vua Văn Vương, nên hiển đạt. Mã Thị trở về xin tái hợp, Thái Công Vọng đổ nước xuống đất, yêu cầu vợ cũ hốt lại, nhưng chỉ được nước bùn mà thôi. Thật là: Nhược năng ly cánh hiệp, Phúc thuỷ định nan thâu 若 能 離 更 合, 覆 水 定 難 收 .Dịch nghĩa: Nếu lìa mà hiệp được, Nước đổ khó thu về!
Nàng rằng : Duyên nợ bấy nay,
Thương ôi nước đổ bốc đầy được
đâu.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NƯỚC LỖ
BIẾN HÌNH LÂN
Nước Lỗ:
Một nước nhỏ trong thời Xuân Thu bên Trung Hoa, nay thuộc tỉnh Sơn Đông. Lân: Kỳ lân, một con
vật trong tứ linh, khi xuất hiện báo điềm Thánh nhân ra đời cứu thế.
Nước Lỗ biến hình lân ý nói nước Lỗ có Kỳ lân xuất hiện, báo cho biết có Thánh nhân là Đức Khổng Tử ra đời để truyền bá đạo đức hầu cứu dân độ thế.
Do tích bà Nhan Thị, vợ của Thúc Lương Ngột, lúc
gần sinh, chiêm bao thấy con Kỳ lân nằm phục xuống, nhả ra một cái ngọc xích,
trên có đề chữ: Con nhà Thuỷ Tinh, nối đời Châu suy mà làm vua không ngai. Sau
bà sinh ra Đức Khổng Tử, là bậc Thánh nhân đời Xuân Thu.
Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,
Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NƯỚC
LƯNG ĐÁY GÁO
Gáo là vật dùng để múc nước.
Nước lưng đáy gáo là nói nước trong gáo đã sắp
hết, cũng như người luống tuổi, sức khoẻ và sinh lực đã cạn kiệt.
Phận sao phận bạc như vôi,
Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NƯỚC MA
HA
Hay “Ma Ha thủy 摩 訶 水”, tức là nước của sông Gange ở bên xứ Ấn Độ, tức là sông Hằng Hà, một con sông rất linh thiêng đối với người dân Ấn. Do tích Đức Phật Thích Ca xuống tắm và dùng nước con sông ấy để tẩy trần mà đắc thành Phật vị.
Lánh cõi tục, Sãi vui thuyền Bát Nhã;
rửa bụi trần, Sãi vui nước Ma Ha.
(Sãi Vãi).
Cứ nương bóng Chí Linh soi bước,
Gội mê đồ tắm nước Ma Ha.
(Kinh Giải Oan).
Nước Ma Ha rửa hờn nhi nữ,
Chuỗi Bồ Đề gìn giữ hồng nhan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NƯỚC
MÂY
Do câu “Lưu thuỷ hành vân 流 水 行 雲”, tức là mây bay nước chảy.
Mây vốn bởi nước sinh ra, mây lại ở trên cao cách trở. Nước mây (Mây nước) được ví sự xa cách.
Nước mây còn có nghĩa là làng mây xóm nước, chỉ sự xa cách chốn phồn hoa đô hội.
Ngư nhàn ngày mất tăm hơi,
Nước mây man mác cho người sầu thương.
(Thơ Tản Đà).
Những mong cá nước xum vầy,
Nào ngờ đôi ngã nước mây cách
vời.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
NƯỚC
NON
Đồng nghĩa với chữ “Núi sông”.
Nước non dùng để diễn tả đường đi cách trở của núi và sông, hoặc để chỉ đất nước.
Xem: Núi sông.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm dấu, thầm yêu chốc mồng.
(Truyện Kiều).
Tuy rằng cách trở nước non,
Vẫn còn trăng bạc vẫn còn trời xanh.
(Truyện Phan Trần).
Cánh hồng quen với cuồng phong,
Nước non thế giới vẫy vùng tinh trăng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NƯỚC
NGUYỀN NON HẸN
Ý muốn nói ngày xưa, mỗi khi trai gái thề nguyền về nhân duyên, thường bày bàn hương án giữa trời, chỉ sông núi hay nước non mà thề hẹn với nhau.
Xem: Thệ hải minh sơn.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm giỡn ong chào.
(Gia Huấn Ca).
NƯỚC
NGUỒN CÂY CỘI
Nước nguồn: Do chữ “Thủy nguyên 水 源” là dòng nước từ nguồn chảy ra.
Cây cội:
Do chữ “Mộc bổn 木 本” là cây từ gốc, cội sinh ra.
Nước nguồn cây cội là do thành ngữ Hán Việt “Mộc bổn thủy nguyên 木 本 水 源”, tức là nước có nguồn, cây có cội.
Nghĩa bóng: Con người có cha mẹ ông bà. Ý nói phải
nhớ đến nguồn gốc của mình.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
(Kinh Sám Hối).
NƯỚC
NHÀNH DƯƠNG
Như chữ “Nước dương”.
Do chữ “Dương chi thuỷ 楊 枝 水”. Đời Tấn, Thạch Lặc ở ngôi vua, có người con trai bịnh nặng, đang cơn hấp hối, may gặp Phật Đồ Trừng lấy nhành dương, nhúng nước rưới vào người, cứu sống đặng.
Nước dương cũng chỉ nước cam lộ trong bình tịnh thuỷ và nhành dương liễu của Phật Bà Quan Âm dùng để cứu khổ nạn của chúng sanh.
Nghe Kinh nhà Phật tan niềm tục,
Mượn nước nhành dương rưới
lửa phiền.
(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).
Lánh đường trần tục đến non Tiên
Lấy nước nhành dương tưới
lửa phiền
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ngồi thuyền Bát Nhã qua tình biển,
Mượn nước nhành dương rưới
lửa lòng.
(Đạo Sử).
NƯỚC
NHƯỢC
Bởi chữ “Nhược thuỷ 弱 水” là nước yếu ớt.
Tương truyền nước ở biển Bột hải rất yếu, sức không chịu nổi hột cải, để hột cải lên thì chìm, nên người ta gọi nơi ấy là nước nhược hay nhược thuỷ.
Trong biển Nhược thuỷ có ba hòn đảo tiên, đó là Bồng lai, Phương trượng, Doanh châu, dùng để chỉ cảnh tiên. Xem: Nhược thuỷ.
Cõi người nước nhược nguồn
đào,
Liền mây ngàn dãy, bày sao trăm tòa.
(Nhị Độ Mai).
NƯỚC
NHƯỢC NON BỒNG
Bởi chữ “Nhược thuỷ bồng sơn 弱 水 蓬 山”, là nước yếu ớt của biển Bột Hải và non thẳm của núi Bồng Lai, dùng để chỉ về cõi tiên, nơi xa cách trần thế.
Xem: Nhược Thuỷ, Bồng Lai.
Bầu trời bát ngát xa trông,
Biết đâu nước Nhược non Bồng là đâu?
(Hương Sơn Hành Trình).
NƯỚC THẤM
ĐẦU NON
Tức là mưa trên đỉnh núi, chỉ thấm ướt trên ấy một ít, nước sẽ tuột theo triền núi xuống đất. Nhưng nếu mưa nhiều lần thì đầu non cũng thấm hết.
Nghĩa bóng: Ý nói lời khuyên mỗi ngày một ít, lâu
ngày rồi cũng thấm nhiều trong tư tưởng.
Những ngờ nước thấm đầu non,
Nào hay trăng khuyết hao mòn nhơn duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NƯỚC
TRÍ NON NHÂN
Bởi câu chữ trong sách Luận Ngữ: Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thuỷ 仁 者 樂 山, 智 者 樂 水, là người nhân thích núi, người trí thích nước.
Nước trí non nhân nói cảnh ưa chuộng của người có
nhân có trí.
Nghé vùng danh nẻo lợi bấy lâu,
cảnh tuy rằng nhỏ,
Song nước trí non nhân mấy chốn,
cảnh đã chi thua.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
Mảng vui nước trí non nhân,
Đăng lâm trót hẹn với xuân một lời.
(Mai Đình Mộng Ký).
Nước trí non nhân hứng Ðạo thoàn,
Một bầu nhựt nguyệt nỗi mênh mang.
(Đạo Sử).
NƯỚC TRỊNH
Nước Trịnh là tên một nước chư hầu đời Xuân Thu, nay thuộc tỉnh Hà nam, Trung Quốc. Theo Kinh thi, ngày xưa, người nước Trịnh có phong tục xấu, trai gái thường hay dâm loạn nơi ruộng dâu hay bên bờ sông Bộc.
Xem: Bộc thượng tang gian.
Chẳng ưa thói nước Trịnh đâu,
Hẹn người tới cửa vườn dâu tư tình
(Lục Vân Tiên).
NƯỚC
XAO ĐẦU VỊT
Lông vịt không thấm nước, nên đem nước mà đổ lên đầu vịt thì rốt cuộc cũng như không. Ví như lấy những điều phải nói với kẻ khờ, kẻ ngang ngạnh thì họ cũng không biết sợ, không nghe.
Uổng thay đàn gảy tai trâu,
Nước xao đầu vịt, nghĩ lâu nực cưòi.
(Lục Vân Tiên).
NƯƠNG CỬA
Dịch từ chữ “Ỷ môn 倚 門”, theo điển tích mẹ của Vương Tôn Giả, người đời Chiến Quốc, rất hay lo lắng và yêu thương con cái, cứ mỗi lần Vương Tôn Giả đi khỏi nhà, thì bà thường tựa trông đợi con về. Vì vậy, “Nương cửa” dùng để chỉ tấm lòng mong nhớ của người mẹ. Đồng nghĩa với tựa cửa.
Xem: Ỷ môn.
Rằng từ con vắng đình vi,
Ngán lòng nương cửa một bề nhớ trông.
(Truyện Phan Trần).
NƯƠNG
DÂU BÃI BỂ
Lấy ý từ câu “Thương hải tang điền 蒼 海 桑 田” tức ruộng dâu biển xanh.
Theo Thần tiên truyện: Tam thập niên vi nhất biến, thương hải vi tang điền 三 十 年 為 一 變, 蒼 海 為 桑 田, nghĩa là cứ ba chục năm lại có một lần thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu.
Nương dâu bãi bể có ý chỉ một cuộc biến đổi lớn lao. Xem: Thương hải tang điền.
Nương dâu bãi bể ai bày,
Hồng quần sao khéo đọa đày hồng nhan.
(Thơ Bà Nhàn Khanh).
NG
NGA
HOÀNG NỮ ANH 娥 皇 女 英
Nga Hoàng và Nữ Anh là hai người con gái của vua nghiêu. Theo Kinh Thư, khi nghe ông Thuấn là người hiếu nghĩa, vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho, nên gả hai nàng công chúa Nga Hoàng và Nữ Anh để xem cách tề gia của ông Thuấn. Ông Thuân bèn lấy ngũ điển ra cư xử trong ngoài, vua Nghiêu thấy được bèn nhường ngôi lại cho ông Thuấn. Khi Thuấn lên ngôi phong cho Nga Hoàng làm Hoàng hậu, Nữ Anh làm Hậu phi.
Sau vua Thuấn đi tuần thú và băng ở đất Thương
Ngô, hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm vua, đến sông Tiêu Tương ngồi khóc, nước
mắt rơi vào hàng tre dọc ven sông, sau tre đó hoá thành tre đồi mồi, gọi là
Tương Trúc. Tương truyền sau khi khóc, hai bà trầm mình xuống sông Tiêu Tương
mà chết.
Ông rằng: Thôi chớ rẩy ruồng,
Nhà Ngu xưa có Nga Hoàng Nữ Anh.
(Nhị Độ Mai).
Xưa Nga Hoàng lại với Nữ
Anh,
Theo vào chốn điền canh cùng ông Thuấn.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGA MAO 鵝 毛
Lông con chim ngỗng.
Do điển tích nàng Mỵ Châu, con gái của vua An Dương vương, ước hẹn với chồng là Trọng Thuỷ, nếu có loạn ở Kinh Thành, chạy tới đâu thì nàng lấy lông ngỗng trong chiếc áo lông ngỗng đang mặc mà rắc dọc theo đường để Trọng thuỷ theo dấu đó mà tìm nhau.
Khi Triệu Đà đánh phá Cổ Loa thành, An Dương Vương phải bỏ thành đèo Mỵ Châu trốn giặc. Chạy đến Mộ Dạ, sát bờ biển, An Dương Vương vẫn thấy sau lưng quân giặc vẫn đuổi theo. Đến chừng Thần Kim Quy hiện lên cho biết: Giặc ngồi sau lưng đấy, thì An Dương Vương mới biết con mình là Mỵ Châu rải lông ngỗng để quân giặc theo dấu, ông tức giận, chém Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biển mà tự tận.
Trùng lai dù họa có ngày,
Nga mao xin nhận dấu này thấy nhau.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Quy trảo dẫu rằng cơ tạo hoá,
Nga mao song cũng nặng tình đeo.
(Thơ Dương Lâm).
NGA MY 蛾 眉
Nga:
Con bướm do tằm hoá ra. My: Lông mày.
Lông mày phụ nữ đẹp thì phải nhuyễn và cong vút, giống như râu của con bướm tằm (Tức con ngài).
Nga my dùng để chỉ người đàn bà, con gái đẹp.
Thơ cổ có câu: Hoàng kim bất tích mãi nga my 黃 金 不 惜 買 蛾 眉, nghĩa là vàng ròng chẳng tiếc đem mua mày ngài.
Lại càng dại dáng nga my,
Trăm năm danh tiết xướng tuỳ sao đang.
(Truyện Trinh Thử).
Trau giồi cho xứng phận nga mi,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NGẠ QUỶ 餓 鬼
Ngạ quỷ là quỷ đói.
Ngạ quỷ là một trong sáu nẻo luân hồi của đạo Phật, gọi là Lục đạo.
Ngạ quỷ là một hạng chúng sanh bị đọa trong tam ác đạo của Lục đạo luân hồi. Ngạ quỷ còn là thế giới của sự đói khát. Trạng thái tinh thần lúc các dục vọng nảy sinh trong trí óc của chúng ta.
Hoặc đọa địa ngục, Tu la,
Làm thân ngạ quỉ cùng là
bàng sinh.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,
Không uống ăn tiều tụy hình hài.
(Phật Nói Vu Lan).
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ
thân.
(Kinh Sám Hối).
NGẠC
NGƯ 鱷 魚
Cá sấu, một loại cá hung dữ, ăn thịt người, sống ở sông biển.
Tương truyền, ngày xưa tại sông Phú Lương có xuất
hiện loài cá sấu phá hại nhân gian. Vua Nhân Tông nhớ tới việc Hàn Dũ đời Đường
bên Tàu, mới sai Nguyễn Thuyên viết bài Văn tế đuổi cá sấu. Sau khi bài văn tế
được thả xuống sông, cá sấu đi thật. Do giống chuyện Hàn Dũ đuổi cá sấu, nên
vua ban cho Nguyễn Thuyên lấy họ Hàn.
Ngạc ngư kia hỡi! Mày có hay,
Biển Đông rộng rãi là nơi mày,
Phú Lương đây thuộc về Thánh vực,
Lạc lối đâu mà lại đến đây?
(Văn Tế Cá Sấu, Hàn Thuyên).
NGÀY
NGHIÊU THÁNG THUẤN
Do câu: Nghiêu thiên Thuấn nhật 堯 天 舜 日.
Thời Thượng cổ, dưới triều đại của vua nghiêu Thuấn, đời sống nhân dân an cư lạc nghiệp, đất nước thái bình thịnh trị, người không tham lam, xã hội không trộm cướp. Do vậy, sách mới nói thời đó: Gia vô bế hộ, lộ bất thập di 家 無 閉 戶, 路 不 拾 遺, tức là nhà không đóng cửa, đường không lượm của rơi.
Người đời sau mới dùng câu “Nghiêu thiên Thuấn Nhật” hay “Ngày Nghiêu tháng Thuấn” ca tụng đời thái bình thịnh trị.
NGÀN
DÂU
Bởi chữ “Mạch thượng tang 陌 上 桑” là dâu trồng bên đường.
Ngày xưa ở thôn quê người ta thường hay trồng dâu
dọc theo hai bên lộ, nên đường đi dâu xanh thẳng tắp, gọi là ngàn dâu.
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
(Truyện Kiều).
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
(Thơ Tản Đà).
NGANG
TÀNG 昂 藏
Ngang:
Ngẩng cao. Tàng: Chứa đựng.
Ngang tàng là chứa đựng trong con người cái tính cách hiên ngang, không sợ sệt.
Năm năm trời bể ngang tàng,
Đem mình đi bỏ chiến trường như không.
(Truyện Kiều).
Lư công nghe nói ngang tàng,
Mắt sòng sọc khóe, mặt sường sượng gân.
(Nhị Độ Mai).
Lỡ gặp phải ông chồng ngu độn,
Đừng ỷ khôn nói hỗn ngang tàng.
(Phương Tu Đại Đạo).
Mỗi tiếng nào con nói ngang tàng,
Thì để ý vội vàng cải sửa.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGAO CÒ
Bởi câu “Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi 蚌 鷸 相 持, 魚 翁 得 利” nghĩa là ngao cò đôi co nhau, ông câu được lợi. Ý muốn nói hai đàng giằng co nhau, người thứ ba được lợi. Nghĩa bóng nói sự đôi co, tranh giành với nhau.
Xem: Bạng duật.
Nực cười hai gã ngao cò,
Tranh chi nên nỗi đôi co vậy là.
(Tư Dung Vãn).
Tháng ngày chẳng luận đói no,
Riêng thương thế thái ngao cò,
chấu ve.
(Hứa Sử Tân Truyện).
NGAO ĐẦU 鼇 頭
Ngao:
Một loài rùa biển. Đầu: Cái đầu.
Sau khi công khai danh sách những người thi đậu, quan Lễ bộ đưa Trạng nguyên đến trước thềm điện, đứng trên viên đá đặt ngay thềm. Nơi đó có chạm một con rồng bay và một con ngao lớn. Con rồng tượng cho nhà vua, đầu ngao chỉ người đỗ Trạng nguyên. Vì vậy, người ta gọi Trạng nguyên là người “Độc chiếm ngao đầu” tức một mình chiếm được đầu con ngao.
May thay nên lúc thủ ngao đầu,
Ðạo đức của con ý vị sâu.
(Đạo Sử).
NGÂM VỊNH 吟 詠
Ngâm:
Đọc thơ với giọng rung và kéo dài. Vịnh: Ngâm thơ.
Ngâm vịnh có nghĩa là làm thơ hay ngâm thơ.
Chỉn là ngâm vịnh đủ tài,
Lời châu tiếng ngọc trong đời ngợi khen.
(Hạnh Thục Ca).
NGẬM
CƠM
Do câu “Hàm bô 含 餔”, tức là miệng ngậm cơm, để chỉ sự no ấm của nhân dân.
Nghĩa bóng: Nói đời thái bình thạnh trị.
Xem: Ngậm cơm vỗ bụng.
Già phò gậy đến xem thạnh trị,
Trẻ ngậm cơm mừng gặp thái
bình.
(Sãi Vãi).
NGẬM
CƠM VỖ BỤNG
Lấy từ nghĩa câu Hán “Hàm bô cổ phúc 含 餔 鼓 腹”, tức là miệng ngậm cơm, tay vỗ bụng, để tỏ ý rằng nhân dân được no ấm, đời được thái bình thạnh trị.
Ngậm cơm vỗ bụng đều ca,
Nhìn xem Nam Việt, ngỡ là Đường Ngu.
(Hoài Nam Khúc).
NGẬM
GƯƠNG
Từ dùng để chỉ mặt trời hay mặt trăng gần lặn, bị che lấp một phần bởi đầu non, được ví như núi ngậm vầng ô hay che gương nguyệt, còn nhô ra một phần.
Đêm thâu khắc lậu canh tàn,
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm
gương.
(Truyện Kiều).
Nỉ non đêm ngắn tình dài,
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm
gương.
(Truyện Kiều).
NGẬM
TĂM
Trong binh pháp có thuật “Người ngậm thẻ, ngựa cất lạc”, tức là miệng ngậm thẻ hay ngậm tăm, giữ sự im lặng trong khi di chuyển quân để được an toàn, vì mở miệng nói chuyện thì thẻ hay tăm sẽ rơi.
Ngậm tăm lặng ngắt như không,
Trại ngoài điểm trống, dinh trong gióng
kèn.
(Nhị Độ Mai).
NGẬM
VÀNH
Do chữ “Hàm hoàn 含 環”.
Điển tích: Dương Bảo đi dạo chơi ở núi Hoa Âm, thấy một con chim sẻ bị con chim cú đánh rơi xuống, làm trọng thương. Dương Bảo bắt đem về nuôi, đến khi chim lành vết thương, Bảo mới thả chim bay đi. Đêm ấy, Dương Bảo nằm mộng thấy một đứa trẻ mặc áo vàng đến nói rằng:Tôi là sứ giả Tây Vương Mẫu, nhờ ông cứu mạng, ơn ấy tôi chẳng bao giờ quên, xin tặng ông bốn chiếc vòng, ông và ba đời con cháu ông sau này sẽ được vinh hoa phú quý. Sau quả đúng như vậy.
Ngậm vành nghĩa bóng là sự báo ơn.
Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về
sau.
(Truyện Kiều).
NGÂN
BÌNH 銀 瓶
Cái bình làm bằng bạc.
Ngân Bình là một biệt hiệu dùng để chỉ người con gái của Nhạc Phi, một vị nguyên soái đời nhà Tống. Khi Nhạc Phi bị bọn Tần Cối hãm hại, người con gái của ông tuy còn nhỏ tuổi, nhưng nghe tin cha bị hại, bèn ôm bình bạc (Ngân bình), nhảy xuống giếng mà chết.
Về sau người ta gọi nàng là Ngân Bình tiểu thư và dựng đền thờ gần bên giếng. Hiện nay, ở Hồ Tây tại tỉnh Chiết Giang vẫn còn cái giếng và đền thờ của Ngân Bình tiểu thư.
Ngân Bình người dại chưa quen,
Ai rằng thiếu nữ mà hèn Đề Oanh.
(Hoài Nam Ca Khúc).
NGÂN CẦU
Ngân cầu tức cầu bắc qua sông Ngân.
Bởi chữ “Ngân kiều 銀 橋” do đàn quạ bắc qua sông Ngân để Ngưu Lang Chức Nữ gặp
nhau vào đêm thất tịch. Xem: Ngân Hà.
Mộng điệp tầm phương xây túy giấc,
Cầu Lam đổi nghiệp sửa Ngân cầu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
NGÂN HÀ 銀 河
Muôn vạn ngôi sao chi chít trên bầu trời tạo thành một dải dài trông như một con sông bạc (Màu trắng), dải ngôi sao đó được gọi là “Ngân Hà”.
Theo truyền thuyết, Ngân Hà cũng là một con sông
ngăn cách vợ chồng Ngưu Lang, Chức Nữ, cứ vào đêm mồng 7 tháng 7 hằng năm, nhờ
quạ đen bắc cầu, hai vợ chồng Ngưu Lang, Chức Nữ mới được gặp nhau một lần.
Ngân Hà dùng để chỉ sự cách trở hay khổ đau.
Ngân hà cách trở còn phen họp,
Hồ Hán đôi phương biết mấy đời.
(Truyện Vương Tường).
Huệ quang chiếu thấu chánh tà,
Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ
sanh.
(Kinh Tận Độ).
Sông Ngân hà sóng gió coi
êm,
Cậy quạ bắt cầu thêm cho dễ gặp.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGÂN
HÁN 銀 漢
Ngân:
Bạc. Hán: Dòng sông.
Ngân Hán là dòng sông màu bạc, dùng để chỉ sông “Ngân hà” do các vì sao lóng lánh trên trời tạo thành một dải sông dài.
Xem: Ngân Hà
Bóng Ngân Hán khi mờ khi tỏ,
Độ Khuê triền buổi có buổi không.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
NGÂN KIỀU 銀 橋
Ngân:
Bạc. Kiều: Chiếc cầu.
Ngân kiều là chiếc cầu bắt qua con sông Ngân Hà, là một dải ngôi sao trên bầu trời.
Tương truyền, Ngưu Lang, Chức Nữ bị phạt, chia
cách tình yêu giữa sông Ngân, mỗi năm chỉ gặp nhau có một lần vào đêm thất
tịch, mùng 7 tháng 7 âm lịch, nên đêm này, nước mắt của họ chứa chan, tạo thành
những cơn mưa ngâu, vì bởi khóc than một cách đau khổ cho cảnh biệt ly. Vì thế,
Ngân Hà được ví như một dòng sông đau khổ.
Ngân Kiều Bát Nhã qua bờ,
Đưa duyên để bước kịp giờ siêu thăng.
(Kinh Thế Đạo).
NGÓ Ý
Ngó ý tức là ý như sợi tơ vấn vít, ví như ngó sen, tuy đã gãy lìa nhau, nhưng sợi tơ vẫn còn chằn chịt dính chặt vào nhau. Ý chỉ đã cách biệt nhau nhưng tơ lòng vẫn còn vương vấn.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ
lòng!
(Truyện Kiều).
NGÕ HẠNH
Đường vào khu vườn hạnh (Hạnh viên), nay thuộc phía tây sông Khúc Giang, huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây, nơi tập trung hội yến của các tân khoa tiến sĩ. Ngõ hạnh dùng để chỉ sự thi cử, đỗ đạt.
Cửa trời rộng mở đường mây,
Hoa chào ngõ hạnh hương
bay dặm phần.
(Truyện Kiều).
NGÕ KHỔNG
TRÌNH
Đồng nghĩa với “Cửa Khổng sân Trình”.
Ngõ Khổng Trình là ngõ vào cửa Khổng sân Trình, ý chỉ trường học dạy các Nho sĩ thời xưa.
Khổng tức Khổng Tử, người đời Chu, nước Lỗ, được tôn kính làm bậc thánh nhân. Trình tức Trình Di, Trình Hạo, là bậc đại Nho vào thời nhà Tống.
Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,
Huống để công đến ngõ Khổng Trình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGỌ MÔN 午 門
Ngọ môn là cửa chính của cung vua, ngay trước tử cấm thành, đó là một tòa lâu đài trên gác chín gian, dưới chia ra ba cửa ra vào, cửa giữa tiếp thẳng tới đoan môn của hoàng thành, chỉ có vua mới ngự qua, còn các tôi thần và thứ dân đều đi hai cửa bên tả hữu.
Trần công ra khỏi thiên lao,
Ngọ môn chực sẵn đã vào tạ ân.
(Nhị Độ Mai).
NGOA
TRUYỀN 訛 傳
Ngoa:
Sai lầm. Truyền: Chuyển lời nói từ nơi này đến nơi khác.
Ngoa truyền tức là những tin đồn không có thật, hay tin đồn nhảm.
Sau nghe những sự ngoa truyền,
Xót lòng luống những xây phiền đắp thương.
(Hoa Tiên Truyện).
NGOẠ LIỄU SINH CHI 臥 柳 生 枝
Do câu: Tường chung hán đại, cấm trung ngoạ liễu sinh chi 祥 鍾 漢 代, 禁 中 臥 柳 生 枝, tức là điềm lành tụ nhà hán, trong cung cấm cây liễu nằm mọc nhánh.
Sách hán Thư chép: Đời vua Chiêu Đế, vườn cây
trong cung cấm có cây liễu nằm nơi đất. Một hôm cây đứng dậy mọc nhánh lá, bị
sâu ăn lá khuyết thành chữ rằng: Vị Công Tôn bịnh đã hết, tức là chỉ vua Hán
Tuyên Đế vậy.
NGOẠ LONG 臥 龍
Ngoạ long là con rồng nằm.
Ngoạ Long tiên sinh là biệt hiệu của Gia Cát Lượng, tức Khổng Minh, một vị quân sư tài ba của vua Thục đời Tam Quốc, nước Trung Hoa.
Đào Duy Từ lúc còn hàn vi, để tỏ chí hướng của mình muốn đem tài trí giúp Chúa Nguyễn và tự ví mình như Gia Cát Lượng bên Tàu, khi còn ẩn tại núi Ngoạ Long, nên viết bài “Ngoạ Long Cương Vãn” bằng văn Quốc âm theo thể lục bát. Người đời cũng gọi ông là Ngoạ Long tiên Sinh.
Chốn này thiên hạ đời dùng,
Ắt là cũng có Ngoạ Long ra
đời.
(Ngoạ Long Cương Vãn).
NGỌA
TÀM 臥 蠶
Ngoạ:
Nằm. Tàm: Con tằm.
Ngoạ tàm nghĩa đen là con tằm nằm, dùng để chỉ dưới mi mắt. Sách xem tướng cho rằng người có ngoạ tàm cao và ngư vĩ (Đuôi con mắt) dày thì có nhiều con.
To đầu vú, cả dài tai,
Dày nơi ngư vĩ, cao nơi ngoạ tàm.
(Truyện Trinh Thử).
NGOẠ
TÂN THƯỜNG ĐẢM 臥 薪 嘗 膽
Tức nằm trên củi và nếm mật, dùng chỉ sự quyết chí chịu đựng khổ cực để phục thù. Đồng nghĩa với câu “Nằm gai nếm mật”.
Do tích Câu Tiễn, vua nước Việt, bị vua nước Ngô đánh thua, trong gần hai mươi năm trời, cứ nằm trên củi gai và thường nếm mật đắng để lúc nào cũng nhớ đến mối thù.
Xem: Nằm gai nếm mật.
Xử nghịch cảnh, ngoạ tân thường đảm,
Phụng di ngôn nhẫn nhục tồn cô.
(Kim Thạch Kỳ Duyên).
NGOẠ
TRIỀU 臥 朝
Vua nằm để dự triều chính.
Theo lịch sử Việt Nam, Lê Long Đĩnh, con vua Lê Đại Hành, là vị vua nằm để dự triều chính, nên được gọi là Lê Ngoạ Triều.
Lê Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết. Khi đã giết anh rồi, lên làm vua, thường lấy sự giết người làm trò chơi: Có khi những tù phạm phải hình thì lấy rơm tẩm dầu quấn vào người đốt sống, có khi bắt tù trèo lên cây rồi ở dưới sai người chặt gãy cho cây đỗ. Làm những điều ác như thế lấy làm thích chí. Ông cũng là người ham dâm dục, vì quá độ, mắc bịnh không ngồi được, đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngoạ triều.
Ngọa triều thí nghịch hôn dung,
Trong mê tửu sắc, ngoài nồng hình danh.
(Quốc Sử Diễn Ca).
NGOẠI
ĐƯỜNG 外 堂
Ngoại:
Ngoài, chỉ bên mẹ. Đường: Cái nhà.
Ngoại đường là nhà bên ngoại, chỉ bà con bên mẹ.
Thái cơ nghe nói đỡ lời,
Tiệc vui ban tối khi chơi ngoại đường.
(Hoa Tiên Truyện).
NGOẠI
GIA 外 家
Chỉ nhà cha mẹ của mẹ mình, tức nhà của ông ngoại bà ngoại.
Đàn ông con trai gọi nhà của cậu mình là ngoại
gia. Đàn bà con gái gọi nhà của cha mẹ mình là ngoại gia.
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
Trên hai đường, dưới nữa là hai em.
(Truyện Kiều).
NGOẠI
KHOA 外 科
Các loại thuốc, các chứng bịnh thuộc về ngoài da.
Còn có nghĩa là thuốc dùng toàn thuốc nam, tức sử dụng cây lá của ta chứ không dùng đến thuốc bắc.
Theo tây y ngày nay là môn y học chuyên chữa bịnh bằng phẫu thuật.
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội Kinh đã sẵn, ngoại khoa thêm
mầu.
(Lục Vân Tiên).
NGOẠI HẠN 外 限
Ngoại:
Ngoài. Hạn: Thời kỳ, thời hạn.
Ngoại hạn tức là ra ngoài thời hạn đã ấn định.
Văn chương ngoại hạn quan
không chấm,
Nhà cửa giao canh nợ phải bồi.
(Thơ Trần Tế Xương).
NGOẠI LỴ 外 蒞
Ngoại:
Ngoài. Lỵ: Đến nhậm chức quan.
Ngoại lỵ là nhậm chức quan ở các tỉnh ngoài Kinh đô. Đồng nghĩa với “Ngoại nhậm”.
Xem: Ngoại nhậm.
Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu,
Chưa trao lễ nhạn mới đầu thiếp canh.
(Nhị Độ Mai).
NGOẠI
NHẬM 外 任
Ngoại:
Ngoài. Nhậm: Gánh vác, nhận.
Ngoại nhậm là nhậm chức quan ở các tỉnh ngoài Kinh đô. Cùng nghĩa với ngoại lỵ.
Vâng ra ngoại nhậm Lâm
Tri,
Quan sơn nghìn dặm, thê nhi một đoàn.
(Truyện Kiều).
NGOẠI TỘC
NỮ SANH
Bởi câu thành ngữ Hán “Nữ sinh ngoại tộc 女 生 外 族” tức là sinh ra gái là ngoài dòng họ.
Người mình theo phụ hệ, muốn sinh trai để nối dõi dòng họ, và hương lửa tông đường, nên quan niệm “Nữ sinh ngoại tộc”. Từ đó mới có ý trọng nam khinh nữ, như câu: Nhứt nam viết hữu, thập nữ viết vô 一 男 曰 有 十 女 曰 無, nghĩa là sinh một trai coi như có, sinh mười gái xem là không.
Xem: Thập nữ viết vô.
Tiếng đời ví dâu là nội bộc,
Lại gọi rằng ngoại tộc nữ sanh.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGOẠI
TÔNG NƯƠNG PHẬN
Ngoại tông: Dòng họ ngoài, chỉ dòng họ bên chồng. Nương phận: Nương nhờ
thân phận.
Do quan niệm “Nữ sanh ngoại tộc 女 生 外 族” nên chữ “Ngoại tông” dùng để chỉ dòng họ bên chồng.
Ngoại tông nương phận ý nói người đàn bà con gái
có chồng thì về nhà chồng nương thân.
Mặc người cha mẹ dể duôi,
Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGOẠI VẬT 外 物
Chỉ bên ngoài cảnh vật của thế gian, tức là không phải cảnh trần tục.
Nghĩa bóng: Người đi tu.
Thoát trần một gót thiên nhiên,
Tấm thân ngoại vật là tiên trên đời.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
NGOAN CẦM 頑 禽
Ngoan:
Ương ngạnh. Cầm: Loài chim.
Ngoan cầm tức là những loài chim hung dữ.
Dặn rằng: Ta phải mau chân,
Để ta chúc thọ trước dân ngoan cầm.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
NGOAN
NGẠNH 頑 硬
Ngoan:
Ngang bướng. Ngạnh: Cứng đầu.
Ngoan ngạnh là cứng đầu bướng bỉnh, làm càn bậy không chịu nghe theo lẽ phải.
Tánh ngoan ngạnh không vì
cô bác,
Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
(Kinh Sám Hối).
NGỌC BIỆN
HOÀ
Viên ngọc do Biện Hoà 卞 和, người thợ ngọc nước Sở tìm được trong hòn đá ở Kinh Sơn. Sau viên ngọc Biện Hoà trở thành viên ngọc quý giá của nước Triệu, đổi được mười lăm thành của nước Tần.
Xem: Biện Hoà.
Vàng Quách Ngỗi ai đồn ai rước,
Ngọc Biện Hoà ai ước ai hay.
(Hoài Nam Ca Khúc).
NGỌC BỘI 玉 佩
Ngọc:
Châu ngọc. Bội: Mang, đeo.
Ngọc bội tức là đeo ngọc. Ngày xưa người ta thường hay dùng ngọc để đeo, trong sách Lễ Ký có chép: Cổ chi quân tử tắc bội ngọc 古 之 君 子 則 佩 玉, tức là người quân tử ngày xưa đều đeo ngọc, để ví cái đức tính người quân tử cũng quý như ngọc.
Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,
Chẳng sân ngọc bội, thời phường
kim môn.
(Truyện Kiều).
NGỌC
CÁC 玉 閣
Ngọc:
Chỉ sự quý báu. Các: Cái lầu gác.
Ngọc các là lầu ngọc, hay gác ngọc, chỉ những nhà cao sang, quyền quý.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
(Đạo Sử).
NGỌC CẬN
HƯƠNG THÂN 玉 近 香 親
Ngọc cận:
Gần gũi người ngọc. Hương thân: Thân thiết mùi hương.
Ngọc cận hương thân là nói người đàn ông thường gần gũi chung đụng với đàn bà con gái, chỉ người ham mê sắc dục.
Hỏi đến khách sớm đào tối mận,
Đon những trang ngọc cận hương thân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGỌC CẦU
LAM
Ngọc cầu Lam tức là cái chày bằng ngọc để giã thuốc mà Bùi Hàng dùng làm vật sính lễ để cưới nàng Vân Anh ở cầu Lam.
Xem: Lam Kiều.
Lỡ lối cũ động đào lạc bước,
Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGỌC
CHƯƠNG KHUÊ
Chương khuê 璋 珪 là tên hai thứ ngọc quý: Ngọc chương và ngọc khuê.
Ngọc chương khuê thường được dùng để ví với người
có nhân phẩm, đạo đức cao quý.
Môn rằng chẳng những tài nghề,
Bạn thầy như ngọc chương khuê đức tuyền.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGỌC DIỆP KIM CHI 玉 葉 金 枝
Ngọc diệp: Lá ngọc. Kim chi: Cành vàng.
Ngọc diệp kim chi là lá ngọc cành vàng, dùng để chỉ người trong họ nhà vua hay người quý phái.
Tiêu Phong Nhạc Từ: Kim chi phồn mậu, ngọc
diệp diên trường 金 枝 繁 茂, 玉 葉 延 長,
tức là cành vàng sum sê, lá ngọc dài tốt.
Mà trong ngọc diệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
(Quốc Sử Diễn Ca).
Nhủ rằng: Ngọc diệp kim chi,
Lứa đôi xem cũng phải thì lứa đôi.
(Nữ Tú Tài).
NGỌC DUẪN 玉 筍
Ngọc:
Châu ngọc. Duẫn: Măng tre.
Ngọc duẫn tức là măng ngọc.
Đường Thư chép: Lý Tông Mẫn làm chủ khảo trường
thi, lấy nhiều người tài giỏi thi đỗ nên những người này được gọi là ngọc duẫn.
Rợp sân Hán đôi hàng ngọc duẫn,
đứng bày triều sĩ đùn đùn.
(Thập Giới Cô Hồn).
Tôi mọn dự đòi hàng ngọc duẩn,
Non cao kính chúc tuổi minh quân.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NGỌC ĐỊCH 玉 笛
Ngọc:
Chỉ sự quý giá. Địch: Ống sáo.
Ngọc địch là ống sáo ngọc, tức ống sáo quý giá.
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo
von bên lầu.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
NGỌC ĐƯỜNG 玉 堂
Có hai nghĩa:
1. Ngọc đường là nhà ngọc, tức là dùng để chỉ nhà
phú quý. Trong cổ Nhạc phủ có chép: Hoàng kim vi quân môn, bạch ngọc vi
quân đường 黃 金 為 君 門, 白 玉 為 君 堂,
nghĩa là lấy vàng làm cửa, lấy ngọc làm nhà.
Ấy ai hẹn ngọc thề vàng,
Bây giờ kim mã ngọc đường với ai.
(Truyện Kiều).
2. Ngọc đường còn là viện Hàn lâm. Đời Tống vua
Thái Tông có câu thi như sau: Hàn Lâm thừa chỉ quý, thanh tịnh ngọc
đường trung 韓 林 承 旨 貴, 清 淨 玉 堂 中.
Diêu ra quan chính cõi ngoài,
Lương vào Hàn uyển thảnh thơi ngọc đường.
(Hoa Tiên Truyện).
NGỌC
GIAI 玉 階
Ngọc:
Châu ngọc. Giai: Bậc thềm.
Ngọc giai là thềm ngọc, chỉ thềm nơi nhà vua ngự.
Lời chúa vâng truyền đến ngọc giai.
(Thơ Lê Thánh Tông).
NGỌC
GIAO 玉 蛟
Tức là một loại ngọc do nước mắt của một giống người gọi là giao nhân sống ở thế gian, đến cuối năm về thuỷ phủ chầu vua, khi từ biệt gia đình, họ khóc rất thảm thiết, mà khóc bao nhiêu thì nước mắt hóa thành những hạt ngọc bấy nhiêu.
Xem: Giao nhân.
Lưu tô sương gió lọt vào,
Đem mâm mà chứa ngọc giao hẳn đầy.
(Quan Âm Thị Kính).
NGỌC
HOÀN 玉 環
Tên của Dương Quý Phi 楊 貴 妃, hiệu là Thái Chân, một nàng phi sủng ái của vua Đường Huyền Tông, em của Dương Quốc Trung.
Khi loạn An Lộc Sơn, quân lính oán giận Dương Quý
Phi, không chịu chống giặc, đòi Đường Huyền Tông phải xử Dương Quý Phi, buộc
lòng nhà vua phải để nàng tự tử tại ghềnh núi Mã Ngôi.
Ông tơ khéo lẽ đa đoan,
Ba sinh luống đợi Ngọc Hoàn còn lâu.
(Hoa Tiên Truyện).
NGỌC
KINH 玉 京
Theo Đạo giáo, nơi ngự của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là Ngọc Kinh, hay Bạch Ngọc
Kinh, tức triều nghi nơi cõi Trời.
Về sau, “Ngọc kinh” được dùng để chỉ kinh đô nhà vua.
1.- Nơi ngự của Ngọc Hoàng, chỉ cảnh tiên:
Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi?
(Ai Tư Vãn).
2.- Chỉ Kinh đô nhà vua:
Ngại ngùng thay, lúc phân bào!
Kẻ về tử lý người vào ngọc kinh.
(Nhị Độ Mai).
NGỌC
KINH SƠN 荊 山 玉
Biện Hoà người nước Sở, tìm được hòn đá ngọc ở Kinh Sơn, đem dâng vua nước Sở. Vua sai thợ ngọc thử, bảo là đá, Biện Hoà phải tội chặt chân. Đến nước khác, Biện Hoà cũng đem ngọc dâng vua, lại bị chặt chân nữa. Mãi sau này, có người mới khám phá ra được trong hòn đá có một viên ngọc quý giá vô cùng, ngọc ấy về tay vua Triệu. Vua Tần Thuỷ Hoàng nghe tin, đem mười lăm thành để đổi viên ngọc ấy, nên người ta cũng gọi là “Ngọc liên thành”.
Xem: Ngọc liên thành.
Mã Long tuấn gặp chàng Bá Nhạc,
Ngọc Kinh sơn gặp được Biện Hoà.
(Bần Nữ Thán).
NGỌC
LAM ĐIỀN
Bởi câu “Lam điền chủng ngọc 藍 田 種 玉, tức là ruộng Lam trồng ngọc.
Tích trong Bộ Sưu Thần Ký chép: Có người bộ hành đến nhà Ung Bá xin nước uống, uống xong nước, lấy cho Ung Bá một thăng hột giống ngọc và nói: Trồng hạt ngọc này, sẽ sinh ra ngọc tốt. Ung Bá đem trồng sau mọc lên năm cây ngọc, nơi đất đó gọi là ngọc điền.
Xem: Lam điền.
Đã người trong sách là duyên,
Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa
giâm.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới
đông!
(Truyện Kiều).
Tỉ nhạc thân đòi ngọc Lam điền,
Mình phải đủ phép Tiên trồng đặng ngọc.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGỌC
LÀNH ĐỢI GIÁ
Dịch từ câu: “Mỹ ngọc đãi giá 美 玉 待 價” trong thiên Tử Hãn, sách Luận Ngữ, tức là ngọc tốt chờ đợi được giá cao mới bán.
Thầy Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử: Hữu mỹ ngọc ư tư, uẩn độc nhi tàng chư? Cầu thiện giá nhi cô chư? Tử viết: Cô chi tai! Cô chi tai! Ngã đãi giá giả dã 有 美 玉 於 斯, 慍 櫝 而 藏 諸 ? 求 善 價 而 詁 諸? 子 曰: 詁 之 哉! 詁 之 哉! 我 待 價 者 也, nghĩa là nay có viên ngọc quý, bỏ vào hộp mà cất đi hay là cầu giá đắt mà bán? Khổng Tử nói: Nên bán lắm chứ! Nhưng ta còn đợi giá, ý nói kẻ sĩ có tài chờ vua biết đúng giá trị của mình, mới chịu ra làm quan.
Sau người ta dùng “Ngọc lành đợi giá”, “Ngọc lành được giá”, “Ngọc lành chờ giá”, hay “Ngọc lành phải giá” để nói về người con gái kén chồng.
1.- Ngọc lành đợi giá:
Ngọc lành còn đợi giá cao,
Hôn nhân chưa định nơi nào kết nghi.
(Nữ Tú Tài).
Ngọc lành còn đợi giá cao,
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
(Bần Nữ Thán).
2.- Ngọc lành được giá:
Ngọc lành được giá thì thôi,
Làm chi đợi đến những lời ong ve.
(Hoa Tiên Truyện).
3.- Ngọc lành chờ giá:
Luận theo trong cõi phàm trần,
Ngọc lành chờ giá, biết phần ai mua?
(Dương Từ Hà Mậu).
4.- Ngọc lành phải giá:
Đào tơ sen ngó xanh xanh,
Ngọc lành phải giá, gái lành đẹp duyên.
(Thanh Hoá Quan Phong).
NGỌC
LIÊN THÀNH
Viên ngọc quý có giá trị bằng nhiều thành trì.
Do điển: Nước Triệu có một viên ngọc rất quý giá, vua Tần Thuỷ Hoàng nghe được, muốn đem mười lăm thành trì chiếm được của nước Triệu để đổi lấy viên ngọc. Do vậy, người ta mới gọi là “Ngọc liên thành”, tức là viên ngọc có giá trị để đổi lấy mười lăm thành liền với nhau.
Xem: Liên thành bích.
Tràng An treo ngọc liên thành,
Phẩm cao vô giá, tài tình riêng ai.
(Thơ Học Canh).
NGỌC LỘ 玉 露
Ngọc:
Ngọc. Lộ: Hạt sương, hạt móc.
Ngọc lộ là hạt sương móc trong như ngọc. Đời nhà Hán, vua Võ Đế xây dựng một cái đền gọi là Bạch Lương có tạc một tượng người tay bưng mâm, hứng giọt ngọc lộ để uống, cầu cho được trường sanh.
Lại còn một vẻ thanh quang nữa,
Ngọc lộ đầy mâm để uống thường.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NGỌC
NÁT CHÂU CHÌM
Do thành ngữ: “Ngọc phá châu trầm 玉 破 珠 沉”, tức là làm cho viên ngọc tan vỡ, hạt châu chìm mất.
Châu ngọc là vật quý giá thường được ví với cuộc
đời người phụ nữ quý phái. Như vậy, “Ngọc phá châu trầm”, tức là ngọc nát châu
chìm thì còn đâu là vật quý giá nữa, ví như tan nát cuộc đời của ngườn con gái.
Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng,
ngọc nát châu chìm,
chua xót cũng vì đâu?
não ruột cũng vì đâu?
(Văn Tế Trương Quỳnh Như).
NGỌC NÁT HOA TÀN
Ngọc, hoa thường được dùng để ví với cuộc đời người phụ nữ đẹp, sang trọng.
Ngọc nát hoa tàn ý chỉ tấm thân người đẹp bị vùi
dập nát tan.
Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
(Truyện Kiều).
NGỌC NỮ 玉 女
Theo truyện thần tiên, nơi Thượng giới các vị tiên trưởng thường có các tiểu đồng hầu hạ, gái thì được gọi là Ngọc nữ, trai thì được gọi là Kim đồng.
Xem: Kim đồng.
Xiêm nghê rạng thức tử hà,
Kim đồng Ngọc nữ xướng ca đôi hàng.
(Tư Dung Vãn).
Kìa Ngọc nữ nọ kim đồng,
Phật bà chẳng xét thấu lòng ấy chăng.
(Truyện Phan Trần).
NGỌC
QUAN 玉 關
Ngọc Quan là tên một cái ải ở huyện Long Lặc, là nơi giáp giới miền Tây Vức.
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc
Quan.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Chợt nghe Tiền cậu báo tin:
Giặc Hồ nghiêng nước, vây miền Ngọc Quan.
(Hoa Tiên Truyện)
NGỌC TỶ 玉 璽
Ngọc tỷ là cái ấn bằng ngọc của vua.
Đời Tam đại (Hạ, Thương, Châu) về trước chưa có ngọc tỷ. Đến nhà Tần, vua Thuỷ Hoàng được ngọc ở Lam Điền mới khắc ra ấn.
Ngày xưa, ngọc tỷ hay ngọc ấn thường dùng lối chữ “triện”, nên đóng ấn cũng được gọi là đóng triện.
NGỌC
TƯƠNG 玉 漿
Nước của viên ngọc.
Theo sách Sưu Thần Ký: Trên quả núi cao của Trung
Quốc là ngọc Tung Sơn về hướng bắc, có một cái hố rất sâu. Vào đời nhà Tấn, có
người bị rơi xuống hố này, nhưng may không chết. Người ấy đi lần dưới hố, thấy
có hai ông lão ngồi đánh cờ, bên cạnh có để bình nước. Người ấy thấy khát, xin
nước trong bình uống thì thấy sức lực tăng lên gấp bội. Sau khi anh ra khỏi hố
được, đem câu chuyện này đến hỏi Trương Hoa, một người có học thức uyên bác, am
hiểu sâu rộng, thì Hoa cho biết hố ấy là tiên quán, tức là nơi tiên ở, còn nước
trong bình là ngọc tương (Nước ngọc).
NGỌC THẠCH CÂU PHẦN 玉 石 俱 焚
Ngọc thạch: Ngọc và đá. Câu phần: Đều bị cháy.
Ngọc thạch câu phần là ngọc đá đều bị đốt cháy. Kinh Thư có câu: Hoả viêm côn cương, ngọc thạch câu phần 火 炎 崑 崗, 玉 石 俱 焚, nghĩa là lửa đốt cháy núi Cương, ngọc đá đều cháy.
Nghĩa bóng: Khi lộn xộn, người hiền lành và người
hung dữ đều chịu chung số phận như nhau.
Tới đâu ngọc thạch câu phần.
Than rằng Thăng, Điện ấy dân tội gì?
(Hoài Nam Khúc).
NGỌC
THÀNH 玉 成
Ngọc:
Viên ngọc, còn có nghĩa làm cho tốt đẹp hoàn toàn. Thành: Nên.
Ngọc thành là làm cho con người được hoàn thiện hơn. Bởi câu: Thiên ngọc nhữ vu thành 天 玉 汝 于 成, ý nói trời giúp cho nên tốt đẹp.
Cho hay trời khéo ngọc thành,
Hiếu tâm đâu để đoạn tình cha con.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
NGỌC THỎ
Bởi chữ “Ngọc thố 玉 兔”, tức là thỏ ngọc, chỉ mặt trăng. Bởi truyền thuyết cho rằng trên cung trăng có con thỏ ngọc.
Theo kinh Phật, ngày xưa có một con thỏ nhân đức,
rất thương đồng loại, nó thấy những con thỏ khác đói, động lòng trắc ẩn bèn
nhảy vào lửa tự thiêu mình để làm món ăn cho mấy con thỏ đói. Khi những con thỏ
ăn hết thịt rồi, đức Phật thương tình mới lượm xương con thỏ nhân đức ấy, làm
cho nó sống lại, đem về để trên cung nguyệt. Do vậy, người ta gọi mặt trăng là
“Ngọc thố” hay “Thỏ ngọc”.
Anh hùng thử tới mà xem,
Kìa gương ngọc thỏ, nọ rèm thuỷ tinh.
(Nhân Nguyệt Vấn Đáp).
Cành dưới trên sương hãy nhuộm màu xanh,
Ca ngư tử đã xua tan vầng ngọc thỏ.
(Phản Tây Hồ Tụng).
Mắt phượng đã say miền ngọc thỏ,
Cung Nghê nỡ phụ khúc cầm loan.
(Hằng Nga, Khuyết Danh).
NGÓI
TAN
Dịch từ chữ “Ngoã giải 瓦 解”, tức là ngói tan vỡ. Do ý nghĩa cả mái nhà, chỉ rớt mấy viên ngói là có thể làm tuột hết tất cả mái ngói. Vì thế, dùng để sự tan rã một cách nhanh chóng.
Sử Ký có câu: Tần chi tích suy thiên hạ
thổ băng ngõa giải 秦 之 積 衰 天 下 土 崩 瓦 解,
nghĩa là thế của Tần tích tụ điều suy vong, thiên hạ như đất lỡ ngói tan.
Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan,
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.
(Truyện Kiều).
NGÒI VIẾT
ĐỖNG HỒ
Tức là nói cây viết của nhà chép sử Đỗng Hồ.
Tể tướng Triệu Thuẫn thời Xuân Thu nghe tin vua Tấn Linh Công bị Triệu Xuyên giết chết, nhưng ông trở về không trị tội Triệu Xuyên, nên Đỗng Hồ là viên sử quan thời ấy chép: “Triệu Thuẫn giết vua”, với ý quy trách nhiệm cho Triệu Thuẫn trong cái chết của vua Tấn Linh Công.
Xem: Đổng Hồ.
Cám vua nước Tấn vô cô,
Chính là ngòi viết Đỗng Hồ biên
ra.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGỌN ĐUỐC
PHÒ NGUY
Tức Quan Võ cầm ngọn đuốc phò hai người chị dâu lúc gặp nguy nan. Chỉ lòng dạ hết sức thẳng ngay của Quan Võ.
Khi Quan Võ bị thất thủ phải đầu Tào Tháo. Trên
đường về Hứa Đô, khi tạm nghỉ nơi quán dịch, Tào Tháo cố ý sắp đặt cho Quan Võ
và hai chị dâu ở chung một phòng. Vào đêm đó, Quan Võ cầm đuốc đứng ngoài cửa
canh hai chi dâu ngủ trong phòng đến sáng.
Quyển kinh bát loạn tay nào mỏi,
Ngọn đuốc phò nguy gió chẳng xao.
(Dương Từ Hà Mậu).
NGỌN
RAU TẤT ĐẤT
Chỉ ơn nghĩa của nhà vua hay của đất nước.
Ngày xưa trong chế độ quân chủ, đất đai thuộc về nhà vua, vua ban cấp cho dân để có điều kiện sinh sống. Vì vậy, dù một ngọn rau hay một tấc đất cũng là thọ ơn của nhà vua.
Xem: Ơn tấc đất ngọn rau.
Gẫm mình cũng ngọn rau tấc đất,
phải lo đền nợ nước ơn vua.
(Nhạc Hoa Linh).
Ngọn rau tấc đất là ân,
Một dòng một giống lo cần ích chung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ðổ lụy hỏi người sao chẳng nhớ,
Ngọn rau tấc đất nước nhà ta.
(Đạo Sử).
NGỌN THỎ
Bởi chữ “Thố hào 兔 毫” tức là lông thỏ, chỉ bút lông, vì ngòi bút lông làm bằng lông thỏ.
Ngọn thỏ tức là ngọn bút lông.
Buồng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
(Truyện Kiều).
NGÔ ĐỒNG 梧 桐
Một loại cây mùa thu đến thường hay rụng lá. Cổ thi có câu: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu 梧 桐 一 葉 落, 天 下 共 知 秋, nghĩa là: Ngô đồng một lá rụng rơi, Ai ai cũng biết cảnh trời sang thu.
Cành cây ngô đồng là nơi chim phượng hoàng thường
hay đậu, vì thế thơ Đỗ Phủ có câu: Bích ngô thê lão phụng hoàng chi 碧 梧 棲 老 鳳 凰 枝,
tức là cành ngô biếc là cành chim phượng hoàng đậu đã già rồi.
Ngày nay thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng.
(Lục Vân Tiên).
Ngô đồng thêm tốt thêm xinh,
Để chim phụng đỗ đầu cành xa ly.
(Thanh Hoá Quan Phong).
Lác đác ngô đồng mấy lá
bay,
Tin thu hiu hắt lọt hơi may.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NGÔ KHỞI 吳 起
Cũng đọc là Ngô Khỉ, người nước Vệ đời Đông Châu, là một võ tướng có tài thao lược, nhưng lại không có hạnh đức. Ông là người con bất hiếu, khi hay tin mẹ mất lòng vẫn dửng dưng, không hề thương tiếc, nên thầy ông là Tăng Sâm đuổi không cho học nữa.
Ngô Khởi làm quan cho nước Lỗ, khi Lỗ sắp kéo quân đánh Tề, vua Lỗ không tin dùng Ngô Khởi, sợ ông không hết lòng với mình, vì vợ ông là người nước Tề. Ngô Khởi biết vậy, liền giết vợ để được làm tướng. Người đời sau chê Ngô Khởi “Sát thê cầu tướng”.
Về sau, Ngô Khởi tự thấy mình là người bất hiếu, bất nghĩa, sợ Lỗ Hầu không dùng nữa, nên chạy qua đầu Sở. Khi Sở có biến loạn, Ngô Khởi đành chịu chết chung với vua Sở.
May duyên rủi nợ dễ phò,
Chớ nghi Ngô Khởi, hãy
lo Mãi Thần.
(Lục Vân Tiên).
Chém vợ để cầu vinh thuở trước,
Ngô Khởi còn gian ngược chi danh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGÔ
MÃNH 吳 猛
Ngô Mãnh người đời Tấn, mới lên tám tuổi đã là đứa con hiếu thảo. Nhà nghèo khó, không có tiền mua mùng, gặp lúc mùa hè nhiều muỗi, ông sợ cha mẹ bị muỗi đốt, bèn cởi trần nằm để muỗi bay đến đốt ông, không dám xua, sợ rằng nếu mình xua đi thì muỗi lại đến đốt cha mẹ. Vì thấy gương hiếu hạnh, nên người đời sau mới liệt ông vào một trong nhị thập tứ hiếu.
Tấn Ngô Mãnh tuổi thì lên
tám,
Lòng sự thân không dám khi nhàn.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
NGÔ ÔNG
TỨC NHƯỢC ÔNG 吾 翁 即 若 翁
Ngô ông tức nhược ông là cha ta tức cha mầy.
Do điển trong Sử Ký chép: Trong lúc Hán và Sở
tranh thiên hạ, Hạng Võ bắt Thái Công tức là cha của Bái Công, đặt cạnh một cái
vạc lớn và bảo Bái Công rằng: Nếu ngươi không đầu hàng, ta sẽ nấy Thái Công.
Bái Công đáp: Ta với Hạng Vương cùng thờ Hoài Vương, ước làm huynh đệ, cha ta
cũng như cha ngươi (Ngô ông tức nhược ông). Nếu ngươi muốn nấu thịt cha, thì
xin chia cho ta một bát canh (Phân ngã bôi canh).
Kính lão đắc trường thọ,
Ngô ông tức nhược ông.
Cứ lấy lẽ thuận tòng,
Hễ chồng đâu vợ đó.
(Nhạc Hoa Linh).
NGÔ
QUÂN 吳 君
Tức là Ngô Khởi hay Ngô Khỉ, người nước Vệ đời Đông Châu, là một võ tướng có tài thao lược, làm quan cho nước Lỗ, khi Lỗ sắp kéo quân đánh Tề, vua Lỗ không tin dùng Ngô Khởi, vì vợ ông là người nước Tề. Ngô Khởi biết vậy, liền giết vợ để được làm tướng. Người đời sau chê Ngô Khởi bất nghĩa, giết vợ để được làm tướng.
Xem: Ngô Khởi.
Cật ngựa ra tài Mã Viện,
Trong màn vận chước Ngô Quân.
(Tiễn Chồng Đánh Giặc)
NGÔ PHÙ
SAI 吳 夫 差
Ngô Phù Sai là vị vua nước Ngô đời Xuân Thu, cha là Hạp Lư bị Câu Tiễn nước Việt đánh bại, trọng thương mà chết. Phù Sai lên ngôi đáng thắng Câu Tiễn ở Cối Kê để báo thù cho cha. Câu Tiễn lo lót cho Thái Tể nước Ngô là Hi để được đầu hàng. Phù Sai chấp nhận, Ngũ Tử Tư can không được. Sau Phù Sai nghe lời sàm tấu của Hi mà giết Tử Tư.
Ba năm sau, Phù Sai đem hết những đội tinh binh
hội với chư hầu ở miền bắc. Câu Tiễn thừa cơ tấn công diệt được nước Ngô. Phù Sai
xin hàng không được, bèn tự vận mà chết.
NGÔ TÀO 吳 曹
Ngô tức Ngô Tôn Quyền, Tào tức là Tào Tháo.
Đời Tam Quốc, Tàu chia làm ba nước, Tôn Quyền làm
vua nước Ngô ở về phía đông; Tào Tháo làm chúa nước Nguỵ ở phía bắc, còn Lưu Bị
làm vua nước Thục ở về phía Tây.
Dầu cơn độc mã đơn đao,
Tâm trung nghĩa khí, Ngô Tào cũng kiêng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGÔ THỤC
NGUỴ 吳 蜀 魏
Ngô, Thục, Nguỵ là ba nước ở vào cuối đời nhà Hán, phân theo thế chân vạc để chống chỏi, tranh giành nhau, sử gọi là đời Tam quốc. Tôn Quyền chiếm cứ cõi đông Ngô, Tào Tháo cai trị vùng bắc Nguỵ còn Lưu Bị thì lập nên nhà Thục.
Ngô chưa quét Thục Ngụy tranh phong,
Một dãy non sông chứa bá tòng.
(Đạo Sử).
NGỖ NGHỊCH 忤 逆
Ngỗ:
Làm trái. Nghịch: Chống lại.
Ngỗ nghịch là kẻ ngang ngược, làm trái lẽ phải, chống lại lời dạy dỗ của bề trên.
Sách Minh Tâm có câu: Hiếu hạnh hoàn sanh
hiếu hạnh tử, ngỗ nghịch hoàn sanh ngỗ nghịch nhi 孝 行 還 生 孝 行子,
忤 逆 還 生 忤 逆 兒, nghĩa là người hiếu hạnh sinh ra con hiếu hạnh, kẻ
ngỗ nghịch sinh ra con ngỗ nghịch.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận không màng thảo ngay.
(Kinh Sám Hối).
Đời hằng nói dâu hiền thì ít,
Còn những nàng ngổ nghịch thì
nhiều.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGỘ BIẾN TÙNG QUYỀN 遇 變 從 權
Ngô:
Gặp. Biến: Thay đổi, chỉ sự bất ngờ xảy ra. Tùng: Theo. Quyền: Quyền biến, tức
là thay đổi cho hợp lẽ.
Ngộ biến tùng quyền tức là gặp lúc tai biến thì phải tuỳ theo tình huống mà ứng xử.
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
Trong khi ngộ biến tùng quyền biết
sao.
(Truyện Kiều).
NGỘ TẶC
TRANH TỬ 遇 賊 爭 死
Gặp cướp giành chết.
Do câu: Ngộ tặc tranh tử, Triệu Hiếu dĩ thân đại đệ 遇 賊 爭 死, 趙 孝 以 身 代 弟, nghĩa là gặp cướp giành nhau chết, Triệu Hiếu đem mình thế cho em.
Sách Hán Thư chép: Ở cuối đời Vương Mãng, Triệu Lễ bị bọn cướp bắt đòi làm thịt ăn. Triệu Lễ lạy dài xin tha trong giây phút đặng về nhà dâng bữa ăn cho mẹ, rồi trở lại chịu chết. Bọn cướp thấy Lễ là người con hiếu, tạm cho về.
Anh của Lễ là Triệu Hiếu nghe được chuyện, tự trói
mình đến chỗ bọn cướp, nói: Thằng Lễ ốm, tôi mập nhiều thịt, xin thế mạng cho
em là Lễ. Triệu Lễ nói: Các ông gặp tôi trước bắt tôi, xin tha mạng cho anh ấy.
Bọn cướp thấy vậy, khen hai người có hiếu nghĩa, bèn tha cho cả hai anh em.
NGÔI HOÀNG CỰC
Dịch từ câu "Duy hoàng kiến cực 維 皇 建 極" trong thiên hồng phạm, sách Thượng thư. Ở đây nói chỉ ngôi thiên tử (Ngôi vua).
Cao vòi vọi ngôi hoàng cực,
khắp làng lâng phúc thứ dân.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực,
Năm phúc hây hây dưới thứ dân.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NGU
CÔNG 愚 公
Ông Ngu Công dời núi.
Ngày xưa có ông Ngu Công ở Bắc Sơn, đã chín mươi tuổi rồi mà vẫn muốn dời hai hòn núi Thái Hàng và Vương Ốc, đang chắn ngang lối đi nhà ông. Ông định đào bằng phẳng, ai nấy đều cười, ông đáp: Ta có già chết thì còn con ta, con ta rồi có cháu ta, cháu ta lại sinh con nữa, trong khi cái núi vẫn mãi như thế, lo gì mà không dời nổi.
Nghĩa bóng: Có chí thì mọi việc đều nên.
Nhẫn thấy Ngu Công tua sá
hỏi,
Non từ nơi má, tổn công dời.
(Thơ Nguyễn Trãi).
Kìa lấp bể ai hồn tinh vệ,
Nọ dời non ai chí Ngu Công.
(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).
NGU HẠ 虞 夏
Tức nói đời của vua Ngu Thuấn và vua Hạ Võ.
Theo cổ sử, vào đời hai vị vua Ngu Thuấn và Hạ Võ trị vì, đất nước được thái bình thịnh trị, nhân dân được an cư lạc nghiệp.
Xem: Ngu Thuấn, Hạ Võ.
Mừng nay mưa nắng thuận trời,
Trị đời Ngu, Hạ, dân đời Thương
Chu.
(Thanh Hoá Quan Phong).
NGU LỖ 愚 魯
Ngu:
Tối tăm, đần độn. Lỗ: Lừ đừ, chậm chạp.
Ngu lỗ chỉ người có tính lừ đừ, chậm chạp mà lại đần độn ngu dốt.
Ba là trược khí trúng nhằm
Sanh con ngu lỗ mê tâm từ
rày.
(Huấn Nữ Ca).
NGU THUẤN 虞 舜
Tên triều đại của vua Thuấn, một vị vua thời cổ của nước Trung Hoa.
Thuấn là cháu tám đời vua Huỳnh Đế, họ Diêu, tên Trùng Hoa, con ông Cổ Tẩu. Ông Thuấn rất hiếu thảo, mẹ mất sớm, cha cưới vợ khác sanh ra Tượng. Cha và mẹ ghẻ ghét ông, nhiều phen mưu giết, nhưng ông thoát khỏi chết và vẫn không oán hờn. Lòng hiếu nghĩa của ông động lòng cha, mẹ ghẻ và em.
Vua Nghiêu nghe tiếng cho tìm, nhường ngôi và gả con. Vua Thuấn đóng đô ở Bồ Phan, làm vua 48 năm, theo gương vua Nghiêu, không truyền ngôi cho con là Thương Quân mà nhường ngôi lại cho vua Võ. Băng tại Thương Ngô, thọ 101 tuổi.
Kinh Thư viết: Vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho
Thuấn, bèn gả hai nàng công chúa là Nga Hoàng, Nữ Anh cho, để xem cách tề gia
của Thuấn. Ông Thuấn lấy ngũ điển ra đối đãi với mọi người, nên sau được vua
Nghiêu nhường ngôi cho.
Đức Đại thánh họ Ngu vua Thuấn,
Buổi tiềm long gặp vận hàn vi.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
NGŨ ÂM 五 音
Tức là năm âm thanh chính theo giọng cao thấp, trong đục mà phân chia trong nền âm nhạc cổ, gọi là ngũ âm, đó là: Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ. Âm cung, thương là tiếng đục, thấp, âm chuỷ vũ là tiếng cao và trong.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
(Truyện Kiều).
NGŨ BÁ 五 霸
Ngũ:
Năm. Bá: Lãnh tụ mạnh nhất trong các chư Hầu, thường dùng võ lực
để khuất phục các nước nhỏ.
Đời Xuân Thu, có năm nước chư Hầu đứng lên làm Bá: Tề Hoàn Công, Tống Tương Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công và Sở Trang Công.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.
(Lục Vân Tiên).
NGŨ ĐẾ 五 帝
Năm vị vua thời cổ bên Trung Quốc. Có hai thuyết phân chia:
Thuyết thứ nhứt, Ngũ đế gồm: Thái Hiệu, Hoàng Đế, Thần Nông, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc.
Thuyết thứ hai, Ngũ đế gồm: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.
Sãi thương đấng Tam Hoàng,
Sãi thương ngôi Ngũ đế.
(Sãi Vãi).
Tam hoàng, Ngũ đế, dấu vừa
qua,
Mối đạo, trời trao đức thánh ta.
(Dương Từ Hà Mậu).
Nhờ hơi quang nhạc sáng đường,
Ở đời Ngũ đế, Tam vương trị vì.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGŨ GIỚI 五 戒
Năm giới cấm của Phật giáo:
1- Nhất bất sát sanh 一 不 殺 生: Là không sát hại sinh vật.
2- Nhì bất du đạo 二 不 遊 盜: Không trộm cướp.
3- Tam bất tà dâm 三 不 邪 婬: Không được tà dâm.
4- Tứ bất tửu nhục 四 不 酒 肉: Không uống rượu.
5- Ngũ bất vọng ngữ 五 不 妄 語:
Không nói dối.
Đưa nàng đến trước Phật đường,
Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia.
(Truyện Kiều).
NGŨ
HÀNH 五 行
Theo thiên Hồng phạm trong Kinh Thư, thì ngũ hành là Kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ. Ngũ hành là năm thế lực hoạt động hay năm tác nhân chuyển vần tương sinh tương khắc lẫn nhau.
Xem: Ngũ hành sinh khắc.
Ai mà rõ lẽ ngũ hành,
Việc trong trời đất dữ lành trước hay.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Ví dù tạo hóa mấy lò,
Hóa công mấy thợ, một pho ngũ hành.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGŨ
HÀNH SINH KHẮC 五 行 生 剋
Ngũ hành:
Năm hành là kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Sinh
khắc: tương sinh, tương khắc, tức là
nuôi dưỡng nhau và chống lại nhau.
Sinh: Thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ.
Khắc: Thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hoả, hoả khắc kim,
kim khắc mộc, mộc khắc thổ.
Ngư rằng: Kìa bến Ngũ Hành,
Chia ra nẻo khắc, nẻo sinh làm gì?
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGŨ HỒ 五 湖
Ngũ hồ tức là năm hồ
Sách Ấu Học viết: Nhiêu Châu chi Bà Dương, Nhạc Châu chi Thanh thảo, Nhuận châu chi Đơn Dương, Ngạc châu chi Động Đình, Tô Châu chi thái Hồ, thử vi thiên hạ chi ngũ hồ 饒 州 之 鄱 陽, 岳 州 之 青 草, 潤 州 之 丹 陽, 鄂 州 之 洞 庭, 蘇 州 之 太 湖, 此 為 天 下 之 五 湖, nghĩa là hồ Bà Dương ở huyện Nhiêu Châu, hồ Thanh Thảo ở huyện Nhạc Châu, hồ Đơn Dương ở huyện Nhuận Châu, Thái Hồ ở huyện Tô Châu, hồ Động Đình ở huyện Ngạc Châu, đấy là năm hồ lớn trong Thiên hạ, chỉ khắp nơi trong thiên hạ.
Ngũ hồ còn dùng để chỉ Thái hồ, vì hồ nầy có chu vi rộng trên năm trăm dặm, thông với năm nguồn nước khác, dùng để chỉ hồ ao sông nước.
Không toan sớm đói chiều no,
Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp
nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGŨ HỔ 五 虎
Năm con cọp, tiếng dùng để chỉ năm vị võ tướng thời Tam quốc của nước Thục. Đó là Quan Vân Trường, Trương Dục Đức, Triệu Tử Long, Huỳnh Trung và Mã Siêu.
Ngũ hổ năm anh tướng rất mầu,
Đâu dè đến nỗi thất Kinh Châu.
(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).
NGŨ
HƯNG 五 興
Tức là năm cái điềm thịnh vượng.
Tương truyền Hán Bái Công có tướng mạo ngũ hưng:
1.- Đế Nghiêu chi duệ là dòng dõi vua Nghiêu. 2.- Thể mạo đa kỳ dị là mặt mày
nhiều tướng lạ. 3.- Thần võ hữu ứng nghiệm là thần võ có ứng nghiệm. 4.- Khoa
minh nhi nhân thứ là rộng rãi sáng suốt và có nhân thứ. 5.- Tri nhân thiện dụng
là biết người, khéo dùng người.
Núi kia lở thì nâng,
khó chi vạn ngũ hưng tay Thánh Chúa.
(Tần Cung Nữ).
NGŨ
KINH
Năm bộ sách quan trọng của người xưa, ở Trung Hoa và Việt Nam, mà các Nho gia dùng để học hoặc để nghiên cứu. Đó là Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Đọc cho đến Trung Dung, Đại Học,
Tứ Thư rồi lại đọc Ngũ Kinh.
(Gia Huấn Ca).
NGŨ KHỐ 五 褲
Do câu: Liêm Phạm thú Thục quận, dân ca ngũ khố 廉 范 守 蜀 郡, 民 歌 五 褲, tức là ông Liêm Phạm làm quan Thái Thú Thục quận, dân ca bài “Ngũ khố”.
Hán Thư viết: Ông Liêm Phạm làm quan Thái Thú Thục
quận. Theo chế độ cũ cấm dân làm ban đêm, để ngừa hoả hoạn. Ông Liêm Phạm bèn
bãi bỏ lịnh ấy, nhưng buộc phải chứa nước để phòng hoả. Dân cho rằng có lợi,
nên đặt bài ca rằng: Liêm thúc độ, lai hà mộ? Bất cấm hoả, dân an tộ
(An tác). Tích vô nhu, kim ngũ khố 廉 叔 度, 來 何 暮? 不 禁 火, 民 安 作. 昔 無 襦, 今 五 褲,
nghĩa là chế độ của quan Liêm đưa đến tự chiều nào? Không cấm lửa, dân an ổn
làm ăn. Ngày xưa dân không có áo ngắn, ngày nay dư năm quần.
NGŨ LIỄU TIÊN SINH 五 柳 先 生
Tức Đào Tiềm, người đời Tấn, tự là Uyên Minh, trước có ra làm quan, sau cáo về ở ẩn, làm bài “Quy khứ lai từ” rất nổi tiếng. Nhà ông, trước sân có trồng năm cây liễu, nên người đương thời gọi là Ngũ Liễu tiên sinh.
Thà như Ngũ Liễu tiên sinh,
Gặp cơn Tấn loạn giữ mình cũng xong.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGŨ
LUÂN 五 倫
Năm đạo hằng của con người dùng để đối xử với nhau theo lẽ phải.
Ngũ luân gồm có:
- Quân thần là đạo vua tôi: Quân minh thần trung 君 明 臣 忠, nghĩa là vua sáng tôi hiền.
- Phụ tử là đạo cha con: Phụ từ tử hiếu 父 慈 子 孝, tức là Cha hiền con thảo.
- Phu phụ là đạo vợ chồng: Phu xướng phụ tuỳ 夫 唱 婦 隨, nghĩa là chồng hát vợ theo.
- Huynh đệ là đạo anh em: Huynh đệ hoà 兄 弟 和, nghĩa là anh em hoà thuận.
- Bằng hữu là đạo bè bạn: Bằng hữu tín 朋 友 信, nghĩa bè tin lẫn nhau.
Mạnh Tử nói: Phụ tử hữu thân, quân thần
hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu tín 父 子 有 親, 君 臣 有 義, 夫 婦 有 別, 長 幼 有 序, 朋 友 有 信,
nghĩa là cha con có tình thân, vua tôi có nghĩa, vợ chồng có phân biệt, anh em
có trật tự, bè bạn tin nhau.
Đạo người trong có ngũ luân,
Thần hôn thì tiếc song thân đã rồi.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGŨ NHẠC TAM QUANG 五 嶽 三 光
Năm ngọn núi cao tiêu biểu cho năm phương hướng của Trung Quốc:
Sách Ấu Học Quỳnh lâm viết: Đông nhạc Thái Sơn, Tây nhạc Hoa Sơn, Nam nhạc Hành Sơn, Bắc nhạc Hằng Sơn, Trung nhạc Tung Sơn, thử vi thiên hạ chi ngũ nhạc 東 嶽 泰 山, 西 嶽 華 山, 南 嶽 衡 山, 北 嶽 恆 山, 中 嶽 嵩 山, 此 為 天 下 之 五 嶽, nghĩa là núi phía đông là Thái sơn, núi phía tây là Hoa Sơn, núi phía nam là Hành Sơn, núi phía bắc là Hằng Sơn, núi chính giữa là Tung Sơn, đây là năm hòn núi lớn (Ngũ nhạc) trong thiên hạ.
Tam quang là ba nguồn ánh sáng là mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao.
Ngũ nhạc tam quang chỉ chung về trời đất.
Xen hình hơi chính trôi ra,
Dưới là Ngũ Nhạc, trên là Tam Quang.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGŨ PHÚC 五 福
Ngũ phúc tức là năm việc tốt lành.
Theo Kinh Thư ngũ phúc gồm có: Thọ là sống lâu,
phú là giàu có, khang ninh là mạnh khoẻ, du hiếu đức là làm được điều lành,
khảo chung mạng là chết già chứ không bị tai nạn. Hoặc có người cho ngũ phúc
gồm Phú, quý, thọ, khương, ninh.
Còn nhiều phú quí vinh hoa,
Kiêm toàn ngũ phúc, chúa ta hơn người.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
NGŨ PHỤC 五 服
Ngũ:
Năm. Phục: Quần áo tang.
Ngũ phục là năm loại áo tang. Tuỳ theo thân sơ, người xưa chế ra năm loại áo quần để tang: Trảm thôi, tang 3 năm; Tư thôi, tang 1 năm; Đại công, tang 9 tháng; Tiểu công, tang 5 tháng; Ti ma, tang 3 tháng.
Bằng khi ngũ phục chưa
xong
Càng nên giữ vẹn hiếu trung một lòng.
(Huấn Nữ Ca).
NGŨ
QUAN 五 關
Ngũ:
Năm. Quan: Năm giác quan.
Ngũ quan là năm giác quan của con người, đó là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý, nghĩa là mắt, tai, mũi, lưỡi, da của thân thể.
Bế ngũ quan, không kiêng tục
tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGŨ QUẾ 五 桂
Năm cây quế.
Do điển: Đậu Võ Quân đời Ngũ đại, làm quan Gián
Nghị Đại Phu, vì ở đất Yên Sơn, nên đời gọi là Đậu Yên Sơn. Ông có năm người
con trai kế tiếp nhau đỗ đạt, làm nên danh phận hiển hách, vì vậy, người đời
xưng là “Yên Sơn ngũ quế 燕 山 五 桂”
nghĩa là năm cây quế ở đất Yên Sơn. Bởi vì cây quế thơm được ví với người hiển
đạt.
Đông hàng lông phượng gót lân,
Kìa nhà ngũ quế nọ sân bát đồng.
(Nhị Độ Mai).
NGŨ QUÝ 五 季
Ngũ quý tức thời “Ngũ đại 五 代”, gồm năm triều đại, đó là Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, và Hậu Chu. Ngũ quý là thời kỳ loạn lạc, thường xảy chiến tranh liên miên.
Khỏe mắt Hi Di trời Ngũ quý,
Mỏi lòng Gia Cát đất tam phân.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGŨ QUỶ 五 鬼
Nói năm người trong đời nhà Tống gồm Vương Khâm Nhược, Đinh Vị, Lâm Đặc, Trần Bành Niên, Lưu Thừa Khuê là bọn gian tà, hiểm nguy, người đương thời gọi là Ngũ quỷ.
Đọc Ngu Thơ ghét đảng Tứ hung;
Coi Tống Sử, ghét bầy Ngũ quỷ..
(Sãi Vãi).
NGŨ QUỶ
LỤC THẦN 五 鬼 六 神
Ngũ quỷ (Hay ngũ hoạn): Năm vị thần hung bạo, gieo tai vá hoạ, làm hại mạng người. Lục thần: Sáu vị thần,
gồm Thanh long, Bạch hổ, Châu tước, Huyền
Vũ, Đằng xà, Câu trận.
Ngũ quỷ (Hay ngũ hoạn), lục thần là những vị thần mà các thầy địa lý tìm chọn để tránh tai được phúc.
Lấy câu phú quý dắt người,
Bày nơi ngũ quỷ, chỉ nơi lục
thần.
(Dương Từ Hà Mậu).
NGŨ TỬ 伍 子
Tức là Ngũ Tử Tư, tên là Ngũ Viên, người nước Sở đời Chiến Quốc, văn võ kiêm toàn, lại có tài thổi tiêu. Khi đến đất Ngô, Tử Tư thổi tiêu ở chợ để kiếm tiền độ nhựt. Tiếng tiêu của ông làm cho Bí Ly chú ý, nên ông này bèn tiến cử Ngũ Viên cho quan cầm quyền nước Ngô là Vương Liêu.
Xem: Ngũ Viên.
Xót than khóc tủi buồn thầm,
Tiếng tiêu Ngũ Tử khúc cầm Ủng Môn.
(Hoài Nam Ca Khúc).
NGŨ THƯỜNG 五 常
Thường là hằng có.
Ngũ thường là năm đạo thường, hay “Năm hằng” gồm có: Nhân 仁, Nghĩa 義, Lễ 禮, Trí 智, Tín 信.
Xem: Năm hằng.
Dẫn rằng: Bằng hữu giúp nhau,
Miễn cho trọn nghĩa theo câu ngũ
thường.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Nguyện tam cang gìn tâm trọn đạo,
Nguyện ngũ thường hiếu thảo
làm khuôn.
(Kinh Thế Đạo).
NGŨ
VIÊN 伍 垣
Ngũ Viên, tự là Tử Tư, người nước Sở đời Chiến Quốc, có tài kiêm văn võ. Vì vua Sở Bình Vương giết cha ông là Ngũ Xa và anh Ngũ Thượng, nên trốn ra nước ngoài để tìm cách báo thù. Lúc đến cửa ải Chiêu Quan, thấy lính canh phòng nghiêm ngặt, Ngũ Tử Tư xin tạm trọ tại nhà Đông Cao Công. Đêm ông không ngủ được vì lo nghĩ mưu kế báo thù, sáng ngày soi gương, thấy đầu đã bạc trắng. Nhờ bạc đầu, và nhờ Hoàng Phủ Nột, bạn của Đông Cao Công, giả làm Tử Tư, còn Tử Tư thì giả làm người hầu, gạt quân giữ ải mà trốn thoát.
Khi đến sông Đại Giang, Tử Tư nhờ lão đánh cá đưa qua sông, rồi tặng ông lão cây kiếm giá đáng ngàn vàng để tạ ơn. Ông lão không nhận. Sợ Tử Tư nghi mình báo quan để lãnh thưởng, ông lão đánh cá bèn tự tử để Tử Tư được yên lòng.
Đi dọc đường vì quá đói, ông phải nhờ một cô gái cho ăn. Khi Tử Tư ăn xong, người con gái nghĩ rằng mình đem cơm cho trai ăn là phạm đến trinh tiết, nên nhảy xuống sông tự tử.
Khi đến đất Ngô, Tử Tư thổi tiêu ở chợ để kiếm tiền độ nhựt. Bí Ly là quan nước Ngô thấy Tử Tư tướng mạo khác thường, nên tiến cử lên Vương Liêu, một vị quan đang cầm quyền ở nước Ngô. Sau đó, vua Hạp Lư tin dùng và đề cử ông đem binh đánh Sở. Tử Tư có dịp báo thù nên quyết liệt đánh thắng quân Sở. Lúc bấy giờ Sở Bình Vương đã chết rồi, Tử Tư cho đào mả lấy roi đồng đánh vào thây và móc mắt để trả thù cho cha, anh.
Vua Hạp Lư mất, Tử Tư phò Ngô Phù Sai lập được nhiều chiến công và đánh bại được Việt Vương Câu Tiển. Nhưng sau Phù Sai vì ham mê nữ sắc của nàng Tây Thi, nên Tử Tư nhiều lần can gián không được, lại bị vua cho là có ý làm phản, bảo người đem một thanh kiếm đến trao cho ông. Biết ý vua muốn giết mình, Ngũ Tử Tư bèn tự tử.
Ta nghe trong chốn Lư giang,
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên.
(Dương Từ Hà Mậu).
NGỤC
HÌNH 獄 刑
Ngục:
Nhà giam. Hình: Hình phạt.
Ngục hình là hình phạt bị giam vào ngục.
Thương thay trung nghĩa mấy người,
Kẻ thì oan thác người nơi ngục hình.
(Nhị Độ Mai).
NGỤC TỐT 獄 卒
Ngục:
Nhà giam. Tốt: Lính.
Ngục tốt là lính canh gát nhà giam.
Kíp truyền ngục tốt giao
canh,
Rồi đây ta sẽ tiến kinh cho rồi!
(Nhị Độ Mai).
NGUY
KHOA 巍 科
Nguy:
Cao ngất. Khoa: Tức đăng khoa chỉ thi đỗ.
Nguy khoa tức là khoa thi đỗ cao.
Đất bằng một tiếng sấm bay,
Hai sinh đều dự một ngày nguy khoa.
(Hoa Tiên Truyện).
NGUỴ
TÀO 魏 曹
Nguỵ là nhà Nguỵ, Tào là chỉ gia đình Tào Tháo.
Dưới đời vua Hiến Đế nhà Hán, Tào Tháo làm Thừa
Tướng, nhưng lại chuyên quyền xưng là Nguỵ Vương. Đến khi con của Tào Tháo là
Tào Phi phế vua Hán rồi lên ngôi, tự xưng là Nguỵ Văn Đế, lập nên nhà Nguỵ,
truyền ngôi được hai đời thì bị diệt.
Trung thành giữ cõi Nam trào,
Hùng anh trước đặng Ngụy Tào khiếp oai.
(Nữ Trung Tùng Phận)
NGUỴ
TRƯNG 魏 徵
Nguỵ Trưng là người đời Đường, tự là Huyền Thành, làm chức Gián nghị đại phu thời vua Đường Thái Tông. Ông là người rất điềm đạm, vui buồn không lộ ra mặt, có chí khí và đảm lược, dám can vua, dù biết vua không bằng lòng. Ông được vua Thái Tông kính nể và thương mến.
Ở đài các giữ lòng Bao Chửng,
Nhiệm tướng khanh thì thói Nguỵ
Trưng.
(Quốc Âm Thi Tập).
Nghiệp Lưu Quý thịnh đâu truyền báu,
Bia Ngụy Trưng cao há nối
tông.
(Quốc Âm Thi Tập).
NGUYÊN
CĂN 元 根
Nguyên:
Đầu tiên Căn: Gốc. rễ.
Nguyên căn là những người có căn gốc đầu tiên, từ lúc khai thiên lập địa, đó là những bậc nguyên nhân.
Xem: Nguyên nhân.
Linh Tiêu Điện, bảng danh nêu,
Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.
(Kinh Tận Độ).
NGUYÊN
LƯỢNG 原 亮
Tên tự của Đào Tiềm, còn có tên là Uyên Minh, biệt hiệu Ngũ Liễu Tiên Sinh, người đời Tấn, quê ở Tầm Dương. Ông sinh trong một gia đình nghèo và gặp thời loạn lạc, ba lần làm quan nhỏ nhưng đều chán cảnh luồn cúi. Lần cuối cùng ông đương làm quan lệnh ở Bành Trạch, cũng không vì đấu gạo mà lòn cúi, nên ông bỏ quan về quê nhà, an bần lạc đạo. Ông có làm bài “Quy khứ lai từ”.
Xem: Đào Tiềm.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề Giúp nước lại lui về cày.
(Lục Vân Tiên).
NGUYÊN
NHÂN 元 人
Theo quyển Ngọc Lộ Kim Bàn, Nguyên Nhân là những linh căn chơn tánh mà Đức Kim Bàn Phật Mẫu cho xuống thế gian để dạy dỗ chúng sanh. Nhưng khi xuống trần bị nhiễm mùi tục lụy, mất hết bửu nang, nên không trở về ngôi cũ được.
Các bậc Nguyên Nhân do Phật Mẫu sai xuống gồm100
ức nguyên nhân, có nhiệm vụ độ rỗi chúng sanh, nhưng vì mê luyến hồng trần,
Phật giáo và Tiên giáo chỉ độ đặng 8 ức, còn 92 ức đang mê muội nơi cõi trần
này.
Phục Nguyên nhân huờn tồn Phật tánh,
Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
Đã gầy dựng nên quyền Tạo Hóa,
Phòng hiệp vầy trọn cả Nguyên nhân.
(Kinh Thế Đạo).
Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp rước Nguyên nhân.
(Kinh Thế Đạo).
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các Nguyên nhân.
(Đạo Sử).
NGUYÊN
NHUNG 元 戎
Nguyên:
Đứng đầu. Nhung: Quân lính.
Nguyên nhung tức là một vị quan võ đứng đầu tất cả quân lính, tức là vị tướng thống suất đoàn binh.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ, tướng hung lạ lùng.
(Lục Vâm Tiên).
Tần khanh làm chức nguyên nhung.
Ra ngăn Vương Phục, đánh cùng Nữ Chân.
(Dương Từ Hà Mậu).
Nào những đấng bài binh bố trận,
Vâng lịnh sai lãnh ấn nguyên nhung.
(Thập Loại Chúng Sinh).
NGUYÊN
PHONG ĐỘNG TOẢ
Nguyên phong: Nguồn suối hoa đào đống kín. Động toả: Cửa
động đào nguyên khoá chặt.
Nguyên phong động toả ý nói người đánh cá ở đất Vũ Lăng đi lạc vào động Đào nguyên, sau khi về có tìm trở lại nhưng đã mất lối vào, nguồn suối đã đóng kín, cửa động đã khoá chặt.
Nguyên phong động toả dùng để nói khó tìm đến chỗ ở của người đẹp.
Xem: Động toả nguyên phong.
Nguyên phong động toả trùng trùng,
Khách thơ luống những mơ mòng hồn thơ.
(Mai Đình Mộng Ký).
NGUYÊN
TIÊU 元 宵
Nguyên:
Đầu. Tiêu: Đêm.
Nguyên tiêu là đêm đầu tiên có trăng tròn của một năm, tức là đêm rằm tháng giêng Âm lịch.
Cửa hàng buôn bán cho may,
Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên
tiêu.
(Truyện Kiều).
Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo,
Nguyên tiêu cao ngất một gang nêu.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
NGUYỄN
ĐÀO 阮 陶
Tức Nguyễn Tịch và Đào Tiềm, hai danh sĩ nổi bật của đời nhà Tấn.
Nguyễn Tịch là một trong nhóm Trúc Lâm Thất Hiền và Đào Tiềm là người thanh cao, học rộng, thơ văn lỗi lạc, nổi tiếng với bài “Quy khứ lai từ”.
Xem: Nguyễn Tịch, Đào Tiềm.
Trập trùng quán thấp lầu cao,
Tạ Vương mấy chốn, Nguyễn, Đào mấy
nơi.
(Nhị Độ Mai).
NGUYỄN
LANG 阮 郎
Tức là Nguyễn Triệu, người cùng với Lưu Thần vào núi Thiên Thai hái thuốc, đi lạc vô động tiên rồi kết duyên với tiên nữ. Sau đó vì nhớ nhà, Lưu Nguyễn từ biệt về thăm quê, thì người thân thuộc chẳng còn ai, hai chàng tìm đường trở lại động cũ thì không còn lối đi.
Xem: Lưu Nguyễn.
Nỗi riêng luống những ngậm ngùi,
Thẹn thò Trương Sưởng thiệt thòi Nguyễn Lang.
(Tây Sương).
NGUYỄN
TỊCH 阮 籍
Nguyễn Tịch tự là Tự Tông, người đời Tấn, đọc nhiều, học rộng, thích triết lý Lão Trang. Ông là một trong Trúc Lâm thất hiền, có mắt tinh đời, nhìn người bằng mắt xanh hay mắt trắng. Khi tiếp người thông thường ông nhìn với đôi mắt trắng, tiếp người vừa ý, đáng kính ông nhìn với đôi mắt xanh.
Nguyễn Tịch không chịu làm quan, chỉ uống rượu và
ngao du sơn thuỷ. Tịch thường một mình ngồi xe vào rừng, đến chỗ đường cùng thì
lại than khóc một lúc rồi về.
Lều tiện Nhan Uyên tìm đến đỗ,
Đường cùng Nguyễn Tịch khóc làm chi.
(Quốc Âm Thi Tập).
Mạnh Thường vì nước uổng sầu,
Còn hơn Nguyễn Tịch rừng
sâu khóc rồ.
(Thơ Lãng Nhân).
NGUYỆT
BÌNH 月 評
Nguyệt bình là lời bình phẩm hàng tháng.
Do tích Hứa Thiệu trong Hậu Hán Thư, mỗi tháng ông phê bình một nhân vật trong làng xóm một lần.
Nghĩa bóng: Dùng để chỉ lời bình phẩm.
Một là mở tấm đan thành,
Hai là rửa tấm nguyệt bình chê
bai.
(Tự Tình Khúc).
NGUYỆT
CÁC HOA ĐÌNH 月 閣 花 亭
Nguyệt các: Tức là gác nguyệt. Hoa đình: Đình thưởng
hoa.
Nguyệt các hoa đình là gác thưởng trăng thanh và đình ngắm hoa kiểng.
Long câu nhạc ngựa đế thành,
Dùng dằng nguyệt các hoa đình giong
chơi.
(Lưu Nữ Tướng).
NGUYỆT
CẦM 月 琴
Nguyệt:
Mặt trăng. Cầm: Cây đàn.
Nguyệt cầm là tên một loại đàn tỳ bà, đó là đàn nguyệt, hay hồ cầm. Theo sách Văn hiến thông khảo thì nguyệt cầm và hồ cầm là cùng một loại đàn như nhau.
Xem: Hồ cầm.
Vui thay gặp khách tri âm,
Xừ xang mấy khúc nguyệt cầm nhặt khoan.
(Bất Phong Lưu Truyện).
NGUYỆT
HOA 月 花
Nguyệt:
Mặt trăng. Hoa: Bông.
Trai gái thường hẹn hò nhau dưới ánh trăng hay bên khóm hoa, nên chữ “Nguyệt hoa” thường dùng trong văn chương để nói về trai gái tình tự, hội họp với nhau một cách bất chính.
Các chữ: Trăng hoa, phong nguyệt, gió trăng, hoa
tình, phong tình đều cùng một nghĩa để chỉ sự lả lơi không đứng đắn giữa nam nữ
hay cuộc ái ân giữa trai gái.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng.
(Truyện Kiều).
Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa!
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
Lòng sao mà nỡ buông lời nguyệt hoa?
(Lục Vân Tiên).
Lần khân ép dấu nài yêu,
Người rằng: Vốn đã lánh điều nguyệt
hoa.
(Quan Âm Thị Kính).
NGUYỆT
LÃO 月 老
Tức là “Nguyệt hạ lão nhân 月 下 老 人”: Ông già dưới trăng. Tục truyền là vị Thần xem việc hôn nhân.
Đường thư chép: Vi Cố đời nhà Đường trọ ở Tống Thành thấy một ông lão ngồi dưới trăng đang lật xem một quyển sách, bên cạnh có một số dây tơ đỏ. Vi Cố hỏi dây gì, thì ông lão đáp: “Dây xích thằng” (Chỉ đỏ) dùng để cột chân những người có duyên nợ vợ chồng với nhau.
Xem: Xích thằng.
Nhân duyên vâng lĩnh quạt thề,
Nhờ tay Nguyệt lão khéo xe
lạ lùng.
(Truyện Phần Trần).
Thương chàng phận bạc trong đời,
Cũng vì Nguyệt lão xe lơi
mối hồng.
(Lục Vân Tiên).
Giục lòng hương lửa tưng bừng,
Khen thay Nguyệt lão xích
thằng xe dây.
(Nữ Tú Tài).
Tay Nguyệt lão khờ sao có
một,
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
NGUYỆT
SA TRÊN MÌNH
Chiêm bao thấy nguyệt sa trên mình là điềm sinh con quý.
Sách Sưu Thần Ký chép: Vợ Tôn Kiên là bà Ngô phu
nhân mơ thấy mặt trăng rơi vào lòng mà có thai sinh ra Tôn Sách.
Liễu Thơ là vợ họ Hà,
Chiêm bao nằm thấy nguyệt sa trên mình.
(Dương Từ Hà Mậu).
NGUYỆT
TÀ 月 斜
Nguyệt tà là trăng xế qua đầu, ý nói trăng gần tàn, trời sắp sáng.
Buồn vì nỗi nguyệt tà ai
trọng,
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Nguyệt tà bóng lặn ngã Tây hiên,
Hỏi cớ gì đâu chịu nỗi phiền.
(Đạo Sử).
Chừ sao để lụn canh gà,
Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa
thưa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGUỒN
ÂN
Nguồn ân là ân huệ của Tổ tiên ông bà.
Do Tổ tiên là nguồn cội của con cháu, nên ân Tổ
tiên chính là nguồn ân của con cháu.
Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,
Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương.
(Kinh Thế Đạo).
NGUỒN
ĐÀO
Bởi chữ “Đào nguyên 桃 源” tức là suối hoa đào. Chỉ nơi Tiên ở.
Do bài “Đào hoa nguyên ký” của Đào Uyên Minh kể lại một người quê ở Võ Lăng làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà chèo thuyền đi, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động trồng đầy hoa Đào. Trong động ấy, có một nhóm người đang sinh sống, mà trước đây tổ tiên của họ trốn loạn đời nhà Tần, đến đó ở biệt lập hẳn với người đời bên ngoài động đã từ lâu rồi.
Sau khi tìm cách ra khỏi động Đào nguyên, người đánh cá trở về quê có kể lại sự tình cho viên Thái thú. Viên Thái thú sai người đánh cá trở lại, tìm những chỗ trước đã đánh dấu, nhưng không tìm được lối vào nữa.
Vì vậy, Nguồn đào, Động đào,
hay Suối hoa đào đều được dùng để chỉ nơi Tiên ở, hay động
Tiên.
Cõi người nước nhược nguồn Đào,
Liền mây ngàn dãy, bày sao trăm tòa.
(Nhị Độ Mai).
Tưởng mình lạc lối nguồn Đào,
Khi ra Động khẩu, khi vào Bồng doanh.
(Mai Đình Mộng Ký).
Hay là lạc bước nguồn Đào,
Để thương cho mặt anh hào đeo mang.
(Kinh Thế Đạo).
Nguồn đào lạc lối ấy duyên may,
Gặp đạo nương theo bước dặm dài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cái bả vinh huê đời rối rắm,
Nguồn đào thong thả đã là đâu.
(Đạo Sử).
NGUỒN
NHÂN
Nguồn:
Nguồn gốc. Nhân: Thương người mến vật.
Nguồn nhân, đồng nghĩa với “Cội ái”, chỉ cái nguồn gốc của sự thương yêu.
Xem: Cội ái.
Linh dược đầy bầu là cội ái,
Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NGUỒN
PHONG ĐỘNG KHOÁ
Bởi chữ “Động toả nguyên phong 洞 鎖 源 封”.
Nguồn phong: Nguồn đào bị phong kín. Động khoá: Cửa động
bị khoá chặt,
Nguồn phong động khoá nói về người đánh cá đất Vũ Lăng khi lạc vào động Đào nguyên trở về, sau có tìm trở lại nhưng đã mất lối vào. Ý nói khó mong tìm lại cảnh tiên lần thứ hai. Ở đây dùng để nói khó tìm đến chỗ ở của người đẹp.
Xem: Động toả nguyên phong.
Nguồn phong động khóa trùng trùng,
Khách thơ thêm những mơ mòng hồn thơ.
(Mai Đình Mộng Ký).
NGUỒN
THÁNH
Hay nguồn nước Thánh, là dòng nước Thiêng liêng, mầu nhiệm, dùng để rửa sạch các oan khiên, nghiệt chướng nơi cõi trần.
Vì vậy, nguồn Thánh còn dùng để chỉ nguồn Đạo.
Xem: Nguồn trong.
Noi dấu đường ngay Trời tế độ,
Chen chơn nguồn Thánh bước
lần vào.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NGUỒN
TRONG
Nguồn:
Chỗ phát tích ra dòng nước. Trong: Trong sạch. Nguồn trong là dòng nước trong sạch, dùng để
lau rửa các vết bẩn ô trược, bám vào thân tâm của con người. Đồng nghĩa với
“Nguồn Thánh”, chỉ nguồn Đạo.
Xem: Nguồn Thánh.
Thuyền chờ bến tục buồm trương sẵn,
Ðưa đến nguồn trong rửa bợn
sầu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NGƯ
DƯƠNG HÁT LÚA
Trương Kham làm Thái thú ở đất Ngư Dương 漁 陽, dân chúng được bình ổn, làm mùa thường lúa trúng. Nên dân chúng cho rằng nhờ chính sách trị dân của Trương Kham có tính khoan hòa, bác ái, khiến cho đất Ngư Dương dân chúng được yên lành, giàu có. Nghĩa bóng nói người cai trị dân tốt.
Bức tranh treo chữ tuần lương,
Ngư Dương hát lúa, Hà Dương vịnh đào.
(Tự Tình Khúc).
NGƯ GIA 漁 家
Ngư:
Đánh cá. Gia: Nhà.
Ngư gia là nhà dân chày hay thuyền đánh cá.
Hay đâu khéo cũng may mà,
Gần đâu đấy, có ngư gia đóng
thuyền.
(Nhị Độ Mai).
NGƯ HÀ 魚 蝦
Ngư:
Cá. Hà: Tôm.
Ngư hà là cá tôm, chỉ sự ẩn dật.
Trong bài Xích Bích Phú của Tô Đông Pha có câu: Lữ ngư hà vi hữu mi lộc 侶 魚 蝦 為 友 麋 鹿, nghĩa là dưới sông thì làm bạn với cá tôm, trên núi thì làm bạn với hưu nai.
Nghĩa bóng: Chỉ sự ẩn dật.
Bì chi kẻ đua tranh xảo quyệt;
Quản bao người bạn tác ngư hà.
(Sãi Vãi).
NGƯ LIỆP 漁 獵
Ngư:
Đánh cá. Liệp: Đi săn.
Ngư liệp là nghề nghiệp ngày xưa, người đi đánh cá, chài lưới và người đi săn bắn thú rừng.
Nhâm Diên khuyên việc canh nông,
Đổi nghề ngư liệp về trong
khuê điền.
(Quốc Sử Diễn Ca).
NGƯ
LONG BIẾN HOÁ 魚 龍 變 化
Ngư long:
Cá và rồng. Biến hoá: Thay đổi.
Ngư long biến hoá tức là cá biến hoá thành rồng, ý muốn nói “Cá hoá long” chỉ sự thành đạt.
Hẳn bền lòng chớ chút oán vưu,
Thời chí hỷ ngư long biến hoá.
(Thơ Cao Bá Quát).
NGƯ MỤC
HỖN CHÂU 魚 目 混 珠
Ngư mục:
Mắt con cá. Hỗn: Lẫn lộn. Châu: Hạt châu trai.
Ngư mục hỗn châu là mắt con cá và hạt trai lẫn lộn nhau, không phân biệt. Ý nói giả thật khó phân.
Dám xin biện bạch vàng thau,
Kẻo khi ngư mục hỗn châu khó
lòng.
(Ngọc Kiều Lê).
NGƯ
NHÀN
Bởi chữ “Ngư nhạn 魚 雁” tức là cá và chim nhạn.
Nhạn cá đều là loài đưa thơ, nên người ta dùng để chỉ thư từ tin tức.
Xem: Nhạn tín, ngư thư.
Ngư nhàn ngày mất tăm hơi,
Nước mây man mác cho người sầu thương.
(Thơ Tản Đà).
NGƯ ÔNG 漁 翁
Ngư:
Đánh cá. Ông: Chữ dùng để chỉ người đàn ông, lớn tuổi.
Ngư ông là ông câu hay người đánh cá.
Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
(Thơ Huyện Thanh Quan).
NGƯ ÔNG
ĐẮC LỢI 漁 翁 得 利
Ông câu được lợi.
Do câu: Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi 蚌 鷸 相 持, 漁 翁 得 利, tức là trai và cò tranh nhau, khiến ông câu được lợi.
Chiến Quốc Sách chép: Có một con trai nằm phơi nắng. Con cò đi ngang qua trông thấy mổ vào thịt trai. Trai khép võ lại, cò không sao rút mỏ ra được. Trai nghĩ thầm, nếu trời mưa luôn mấy hôm thì cò phải chết, còn cò thì cho rằng nếu trời nắng luôn thì trai sẽ phải chết. Thế là cả hai giằng co với nhau, không bên nào nhượng bộ. Trong lúc đó, có một ngư ông đi ngang qua thấy trai và cò mắc kẹt lẫn nhau, liền bắt cả cặp.
Nghĩa bóng: Hai bên tranh chấp nhau để người thứ
ba hưởng lợi.
NGƯ PHÙ 魚 符
Ngư: Cá. Phù: phù hiệu, dùng để làm tin.
Ngày xưa người ta tiện con cá bằng gỗ, hay đúc bằng đồng để làm hiệu. Mỗi khi liên lạc nhau, cắt con cá làm hai, mỗi người giữ một nửa, khi ráp lại, hợp với nhau tức là không có sự giả mạo.
Như cần phái một người đi công tác, cầm theo nửa mảnh ngư phù, để lại nửa mảnh nơi thành. Khi về, lính canh ráp hai mảnh lại với nhau, nếu ăn khớp thì cho vào thành. Trước kia người ta dùng hổ phù (Hình con cọp), qua đời nhà Đường, đổi lại là ngư phù.
NGƯ PHỦ 漁 父
Ngư:
Đánh cá. Phủ: Chữ dùng để gọi người đàn ông một cách tôn trọng.
Ngư phủ tức là người đánh cá.
Nhớ xưa trong núi Lư san,
Có ông ngư phủ đưa chàng
Ngũ viên.
(Lục Vân Tiên).
Nếu tuổi xanh chẳng nhuốm bụi hồng,
chiếc ngư phủ đã đưa vào động
biếc.
(Tần Cung Nữ).
NGƯ PHỦ
ĐÀO NGUYÊN 漁 父 桃 源
Thuyền chài lạc vào động Đào nguyên.
Do điển một người đánh cá quê ở Võ Lăng, theo dòng khe mà chèo thuyền đi, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động Đào nguyên.
Xem: Đào Nguyên.
Giữa dòng đáy nước lồng gương,
Mượn chèo ngư phủ đưa đường Đào
nguyên.
(Hương Sơn Hành Trình).
NGƯ TIỀU
CANH MỤC 漁 樵 耕 牧
Hay “Ngư, mục, tiều, canh 漁 牧 樵 耕”.
Tức là bốn nghề nghiệp của thời xưa, gồm: Ngư là nghề đánh cá, tiều là nghề đốn củi, canh là nghề cài ruộng, mục nghề chăn nuôi súc vật.
1.- Ngư tiều canh mục:
Đón hỏi ngư tiều canh mục,
Ngõ cho tường trong đục dường bao.
(Nhạc Hoa Linh).
Sĩ, nông, công, cổ sanh nhai,
Ngư, tiều, canh, mục làm bài bảo thân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Ngư mục tiều canh:
Thú vui bốn thú thêm yêu,
Kìa ngư, nọ mục, ấy tiều, này canh.
(Ngoạ Long Cương Vãn).
NGƯ
THÔN 漁 村
Ngư:
Đánh cá. Thôn: Làng, xóm.
Ngư thôn tức là xóm của những người chài lưới, xóm chài, làng chài.
Kìa đâu bờ bến lôi thôi,
Ngư thôn mấy móc, mặt trời tà dương.
(Hoa Tiên Truyện).
NGƯ THUỶ 魚 水
Ngư thuỷ là cá nước, hay cá nước gặp duyên. Cá sống nhờ nước, hai thứ tương đắc nhau, nên câu “Ngư thuỷ tương phùng” dùng để ví:
1. Vua tôi gặp nhau:
Lưu Bị, vua nhà Thục cùng Khổng Minh Gia Cát Lượng càng ngày càng thêm thân mật, Quan võ và Trương Phi không vui lòng, Lưu Bị mới nói: Cô đắc Khổng Minh do ngư chi đắc thuỷ 孤 得 孔 明 猶 魚 之 得 水, Ta được Khổng Minh cũng ví như cá gặp nước.
Duyên ngư thuỷ còn dành cơ
hội lại
Quyết tang bồng cho phỉ chí trượng phu.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
2. Vợ chồng tương đắc:
Kinh Thi có câu: Hạo hạo giả thuỷ, dục dục giả ngư. Vị hữu thất gia nhi an triệu ngã cư 浩 浩 者 水, 育 育 者 魚. 未 有 室 家 而 安 召 我 居, nghĩa là mênh mông là nước, nhởn nhơ là cá, chưa có gia thất, sao dời ta đến ở. Vì điển này, nên đời sau thấy cảnh hoà thuận giữa vợ chồng thì dùng “Cá nước gặp duyên” để khen tặng.
Xem: Cá nước gặp duyên.
Trước là ngư thuỷ duyên hài,
Sau là hai nước muôn đời giao thông.
(Hoa Tiên Truyện).
NGƯ THƯ 魚書
Bức thư bỏ trong bụng cá. Chỉ sự đưa tin.
Ngày xưa, có hai vợ chồng xa nhau. Người vợ nhớ
chồng bèn viết một lá thư bỏ vào miệng cá, thả xuống sông. Không ngờ sau đó con
cá bị bắt đem ra chợ bán, người chồng tình cờ mua được, đem về mổ bụng cá thấy
được bức thư của vợ.
Dạo quanh nghìn dặm Kinh sư,
Biết đâu là chốn ngư thư nhắn lời.
(Tây Sương).
NGƯ VĨ 魚 尾
Ngư:
Cá. Vĩ: Cái đuôi.
Ngư vĩ là đuôi con cá. Ngoài ra, còn dùng để chỉ đuôi con mắt. Theo sách xem tướng, ngư vĩ dày và ngoạ tàm (Dưới mi mắt).cao thì người có nhiều con.
To đầu vú, cả dài tai,
Dày nơi ngư vĩ, cao nơi ngoạ
tàm.
(Truyện Trinh Thử).
NGỰ CÂU 御 溝
Ngự câu là ngòi nước trong hoàng thành hay cung vua chảy ra ngoài.
Đường thư chép: Đời vua Hy Tông, nàng Hàn Thuý Tần ở trong cung đề thi trên lá hồng, thả trôi trên dòng ngự câu. Anh Nho sĩ tên là Vu Hựu lượm được, lại đề thi trên một chiếc lá khác, cũng thả cho trôi vào nội cung, nàng Thuý Tần lượm được. Về sau quan Thừa Tướng Hàn Vịnh vì đó tác hợp cho hai người nên duyên chồng vợ. Âu đó cũng do chiếc lá làm mai dong.
Xem: Hồng diệp.
Đào tơ Thượng uyển, liễu mềm ngự
câu.
(Hoàng Sĩ Khải).
NGỰ GIÁ 御 駕
Ngự:
Thuộc về vua. Giá: Cổ xe vua đi.
Ngự giá tức chỉ việc vua đi.
Phải hầu ngự giá kíp dời,
Một đoàn tôi chúa tếch vời nhặt dong.
(Hạnh Thục Ca).
NGỰ SỬ 御 史
Một chức quan thời xưa, coi việc giám sát, can gián vua và đàn hạch các quan.
Có quan Ngự sử tôi ngay,
Phan đình Phùng đã thấy nay bất bình.
(Hạnh Thục Ca).
Chẳng hay là đất Trung châu,
Nhà quan Ngự sử là Châu Bá
Phù.
(Nhị Độ Mai).
NGỰ SỬ
MAI 御 史 梅
Hoa mai có vẻ đẹp và thơm tho nên được xưng tụng là mai Ngự sử.
Thơ Lưu Hành Giản có câu: Ngã thường
phẩm Giang mai, chân chính hoa ngự sử 我 常 品 江 梅, 真 正 花 馭 史,
nghĩa là thường bình phẩm hoa mai ở Giang Nam, rõ ràng là quan ngự sử trong
loài hoa.
Hội lành được dự Quỳnh lâm yến,
Tiết ngọc trăng nhường Ngự sử mai.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NGỰ SỬ
VŨ 御 史 雨
Mưa Ngự sử.
Đường thư chép: Đất Bình Nguyên có người chịu hàm
oan nơi ngục thất, các quan phán quyết vụ án đó không công minh, nên trời làm
hạn to nơi vùng ấy. Đến chừng quan Ngự sử là Nhan Châu Khanh được bổ về đó và
xét xử vụ án, minh oan cho người dân vô tội. Lời phán quyết tha tội vừa xong
thì trời mưa xuống tầm tả, người bấy giờ gọi đó là “Ngự sử vũ” (Mưa Ngự sử).
NGỰA HỒ CHIM VIỆT
Ngựa Hồ nơi đất bắc, chim Việt ở trời nam. Nói sự xa cách nam bắc và lòng thương nhớ quê hương.
Thơ cổ có câu: “Hồ mã tê bắc phong, Việt điểu sào nam chi 胡 馬 嘶 北 風, 越 鳥 巢 南 枝, tức là ngựa Hồ hý gió bắc, chim Việt đậu cành nam.
Xem: Chim Việt ngựa Hồ.
Nhớ chuyện ngựa Hồ, chim Việt cũ,
Lòng đây tưởng đó mất như còn.
(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).
Người nhìn kẻ lại trông theo,
Ngựa Hồ chim Việt nhiều điều nhớ nhau.
NGỰA
QUA CỬA SỔ
Bởi chữ “Bạch câu quá khích 白 駒 過 隙” là bóng ngựa trắng chạy qua kẻ hở. Chỉ thời gian trôi qua mau.
Do câu nói của Trương Lưu Hầu: Nhân sinh nhất thế gian như bạch câu quá khích, hà chí tự khổ như thử 人 生 一 世 間 如 白 駒 過 隙, 何 至 自 苦 如 此, nghĩa là người ta sinh ra trong đời như bóng bạch câu qua khe hở, cần gì phải làm khổ mình đến như vậy?
Xem: Bạch câu.
Ngựa qua cửa sổ bao lâu,
Kíp toan kiếm chốn bán sầu mua vui.
(Truyện Trinh Thử).
Mộng ảo trò đời đâu mấy chốc,
Ngựa qua cửa sổ cuộc tan tành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NGỰA
TÁI ÔNG
Bởi câu “Tái ông thất mã bất tri hoạ phúc 塞 翁 失 馬, 不 知 禍 福” nghĩa là Tái ông mất ngựa không biết hoạ phúc.
Do tích ngựa của ông lão ở gần nơi quan ải bị mất đi, sau dẫn về con ngựa khác. Con ngựa được dẫn về làm cho con Tái ông bị té gãy đùi, nhờ vậy gặp thời loạn lạc, con Tái ông khỏi phải tòng quân. Ý nói Tái ông gặp hoạ, nhưng hoạ lại hoá phúc, trong phúc lại có hoạ, cứ thế hoạ phúc chuyển biến với nhau.
Xem: Tái ông thất mã.
Phú quý cần câu Nghiêm Tử,
Công danh con ngựa Tái ông.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NGỰA
TRÂU CÔNG ĐỀN
Ngựa trâu: Làm thân trâu và ngựa. Công
đền: Lấy công đền tội.
Ngựa trâu công đền tức là làm kiếp trâu ngựa để lấy công đền cái tội lỗi do tiền kiếp đã gây ra.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế ngựa trâu công
đền.
(Kinh Sám Hối).
NGỰA
TRE ĐÓN RƯỚC
Bởi chữ “Trúc mã nghinh 竹 馬 迎” tức đón rước bằng ngựa tre.
Do câu: Quách Cấp vi Tinh Châu thú, đồng nhi hữu trúc mã chi nghinh 郭 伋 為 并 州 守, 童 兒 有 竹 馬 之 迎, nghĩa là ông Quách Cấp làm Thái thú Tinh Châu, trẻ nít có cuộc đón rước bằng ngựa tre.
Sách Hán Thư chép: Quách Cấp trước làm quan Thái thú đất Tinh Châu, sẵn gieo ân đức, sau đi tuần tra tù án, các thuộc bộ đi đến quận Tây Hà, có mấy trăm trẻ nhỏ, cỡi ngựa tre xá bái ông, đón rước bên đường. Sau này ông được triệu làm quan Đại trung Đại phu.
Dương xuân bủa một phương trời,
Ngựa tre đón rước vui cười gió nhơn.
(Kim Thạch Kỳ Duyên).
NGƯỜI
BĂNG
Bởi chữ “Băng nhân 冰 人”, người làm mai mối như chữ “Môi nhân”.
Do điển tích: Linh Hồ Sách là một tri huyện nằm mộng, thấy mình đứng trên tấm băng trò chuyện cùng người đứng dưới phiến băng. Hôm sau, thức dậy mới đoán rằng: Đứng trên băng thuộc dương, đứng dưới băng thuộc âm, mà âm dương tức chỉ vợ chồng. Như vậy, người nói cho nên vợ chồng gọi là người băng (Băng nhân).
Xem: Băng nhân.
Nhà huyên thêm nỗi lòng vui,
Người băng đưa thiếp đã sai đệ trình.
(Hoa Tiên Truyện).
NGƯỜI ĐỊCH
CHỐNG CHÈO
Tức nói Tổ Địch, người đời Tấn làm Thứ sử ở Dự Châu, khi đem quân đánh Thạch Lặc, gõ vào mái chèo mà thề rằng: Nếu không quét sạch giặc ra khỏi Trung Nguyên thì không trở về sông này nữa.
Người Địch chống chèo thề cũng luống,
Họ Đào vận bịch sức còn tham.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGƯỜI
NĂM NGOÁI
Do bài thơ của Thôi Hộ, một thi gia đời Đường, nhân ngày lễ thanh minh đi thăm mộ, ghé vào xin chén nước trà của người con gái đương đứng dưới cửa ngõ bên cây đào. Người con gái mời chén trà và có ý nhìn Thôi Hộ bằng một vẻ hữu tình. Năm sau đi lễ thanh minh, lại ghé thì không thấy người con gái ấy. Thôi Hộ bèn đề vào gốc đào một bài thơ: Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong 去 年 今 日 此 門 中, 人 面 桃 花 相 映 紅. 人 面 不 知 何 處 去, 桃 花 依 舊 笑 東 風 dịch vần: Cửa này năm ngoái thấy bên trong, Vẻ thắm đào tươi ánh má hồng. Nay chẳng thấy người đâu đó tá? Hoa đào còn cợt với gió đông.
Qua năm thứ ba, Thôi Hộ đi thanh minh lại ghé lần
nữa, cửa nhà đóng bên trong có tiếng khóc. Hỏi thăm mới được biết rằng người
con gái ấy đã vì bài thơ của Hộ đề, mà đau tương tư, nay mới chết và chưa liệm.
Hộ xin vào thăm, đến bên tử thi gọi to lên, người chết bèn sống lại.
Hoa đào còn đó trơ trơ,
Mà người năm ngoái bây giờ là đâu?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NGƯỜI
PHẠM
Tức chỉ ông Phạm Trọng Yêm, tự là Hy Văn, thuỵ là Văn Chính, người xứ Tô Châu, nhà nghèo rất chăm học, thi đỗ Tiến sĩ, làm quan dưới triều Tống Nhân Tông đến chức Lại Bộ Viên Ngoại Lang, từng giữ chức Tri Châu ở Hàng Châu. Ông là người thanh liêm chính trực, lại trọng nghĩa khinh tài, đối xử với dân chúng rất có hậu, ông đã thường nói: Làm quan phải “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”.
Xem: Phạm Trọng Yêm.
Thiểm Châu dân đã ca người Phạm,
Ngoài cõi làu làu vắng giặc Tây.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NGƯỜI
SÙNG PHẢI LUỴ
1.- Người Sùng phải luỵ tức chỉ Diêu Sùng, do điển vua Đường Cao Tông mê đắm sắc đẹp nàng Võ Chiêu Nghi, muốn lập lên làm Hoàng Hậu, Diêu Sùng đứng ra can gián, nên bị luỵ.
2.- Người Sùng phải luỵ tức chỉ Thạch Sùng vì sắc đẹp của Lục Châu mà bị hại. Bởi tích Tôn Tú, gia thần của Triệu Vương Luân, muốn lấy người thiếp yêu của Thạch Sùng là nàng Lục Châu, Lục Châu không chịu, bèn nhảy từ lầu cao xuống đất tự tử. Tôn Tú tức giận, mới gièm với Triệu Vương Luân rằng Thạch Sùng làm phản, nên cả nhà Sùng đều bị hại.
Xem: Thạch Sùng.
Sợ sắc tốt, hại người Sùng phải lụy;
Sợ báu kỳ, vu gã Viện mắc nàn.
(Sãi Vãi).
NGƯỜI
TÔ PHỤ
Tức là vợ Tô Tần, người đàn bà hám công danh, tham phú quý, thường cùng với chị dâu khinh rẻ Tô Tần lúc hàn vi, khiến Tô Tần phải bỏ nhà đi du thuyết các nước láng giềng. Sau Tô Tần được sáu nước dùng làm Tể tướng, về nhà đeo sáu ấn vàng, lúc ấy vợ Tô Tần mới nể phục, yêu vì.
Xem: Tô Tần.
Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
NGƯỜI
VĂN HỌC ĐỜI TẦN CHÔN SỐNG
Tức nói các Nho sĩ đời Tần bị chôn sống.
Muốn thống nhứt tư tưởng nhà Tần, Thuỷ Hoàng theo lời đề nghị của Lý Tư thu thập sách vở của bách gia chư tử truyền cho đốt sạch tất cả, người đời gọi là “Phần thư 焚 書”. Muốn được sống lâu, vua Tần Thuỷ Hoàng bảo các thuật sĩ, hay các Nho gia đi tìm thuốc trường sanh, nhưng không có kết quả. Nhiều người sợ bị tội nên bỏ trốn, lại nữa vì bị đốt sách một số Nho sĩ phản đối, Tần Thuỷ Hoàng tức giận ra lịnh cho chôn sống ở Hàm Dương hơn 460 nhà Nho , nên sử gọi là “khanh Nho 坑 儒”.
Xem: Hầm Nhu.
Thương mấy kẻ mưu thần nhà Hán,
không tội mà chết oan;
Thương những người văn học đời Tần,
vô can mà chôn sống.
(Sãi Vãi).
NGƯỜI VỊ
VONG
Vị:
Chưa. Vong: Mất, chết.
Người đàn bà ngày xưa khi chồng đã chết rồi, thường tự xưng mình là “vị vong nhân 未 亡 人”, người chưa chết, ý muốn nói phận đàn bà buộc phải theo chồng, lẽ ra chồng chết phải chết theo, nếu còn sống sót là người đáng chết mà chưa chết vậy.
Như vậy, “Vị vong” là tiếng của người đàn bà goá
tự xưng, xem như mình đã chết rồi, tức không còn tha thiết với cuộc đời nữa.
Thôi di đâu biết có trời,
Bỗng không mà hóa ra người vị vong.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
NGƯU
LANG 牛 郎
Ngưu lang là “Chàng Ngưu”, tức là chàng Khiên ngưu. Tục truyền rằng Ngưu lang và Chức nữ bị Thượng Đế đày ở hai bên sông Ngân, mỗi năm chỉ được gặp nhau vào đêm thất tịch (Mồng 7 tháng7) do lũ quạ đen bắt cầu cho hai người đến với nhau.
Xem: Ngưu nữ.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
(Lục Vân Tiên).
Chức Nữ khóc thầm biệt Ngưu Lang,
Trăng soi thêm chạnh lá gan vàng.
(Đạo Sử).
NGƯU
LANG CHỨC NỮ 牛 郎 織 女
Sao ngưu và sao nữ, là hai ngôi sao mỗi năm chỉ gặp gỡ nhau một lần vào đêm thất tịch (Tức là đêm mồng 7 tháng 7).
Do điển trong sách Tục Tề Hài Ký chép: Ở phía đông sông Thiên hà có nàng Chức Nữ, cháu của vị Thiên Đế, nàng thường siêng năng với việc nữ công, nên được Thiên Đế thương gả cho chàng Khiên Ngưu ở phía Tây sông Thiên hà. Lễ cưới rồi, nàng Chức Nữ bỏ phế việc nữ công, Thiên Đế giận, ra lịnh về ở luôn phía đông sông Thiên hà, chỉ đến đêm thất tịch cho hợp nhau một lần mà thôi.
Xem: Ngưu Lang Chức Nữ.
Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng
mà nghiêng.
(Lục Vân Tiên).
NGƯU
MIÊN 牛 眠
Ngưu miên là trâu ngủ.
Đào Khản đời Tấn mất một con trâu, không biết nó
đi đâu. Có người bảo rằng: Trước núi tôi thấy một con trâu ngủ, chỗ đất ấy nếu
táng người chết vào thì địa vị sẽ cực phẩm. Vì thế người ta gọi huyệt quí là
"Ngưu-miên" nghĩa là “Huyệt trâu nằm”.
Lập lăng mấy gốc tùng thu,
Một vùng sảng khải đắp mồ ngưu miên.
(Nhị Độ Mai).
NGƯU NỮ 牛 女
Tức là sao Ngưu và sao Nữ, hai vì sao trong nhị thập bát tú.
Tương truyền vợ chồng Ngưu lang, Chức nữ có lỗi
nên bị Thượng Đế đày ở hai bên sông Ngân Hà, mỗi năm vào đêm thất tịch nhờ quạ
bắc cầu ô thước mới được gặp nhau một lần. Xem: Ngưu Lang, Chức Nữ.
Tòa Ngưu Nữ đôi bên cách trở,
Khóm thung huyên đòi đoạn bồi hồi.
(Quan Âm Thị Kính).
NGH
NGHÊ KÌNH 鯢 鯨
Cá voi là một loài cá to sống ở biển, con cá mái gọi là nghê, con cá đực gọi là kình.
Nghê kình là loài cá to hung tợn nên người ta
thường ví với những kẻ có thế lực hoặc nói những kẻ hung bạo.
Dã ngoài tưới những triệu binh,
Được thế nghê kình phun sóng giật sương.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
NGHÊ
THƯỜNG 霓 裳
Nghê:
Ráng trời. Thường: Xiêm y.
Nghê thường là bộ xiêm y bằng lông chim năm sắc, như sắc cái mống màu ráng trời.
Nghê thường cũng là một khúc nhạc. Do sách Đường
Dật Sử chép: La Công Viễn có pháp thuật, đưa vua Đường Minh Hoàng lên chơi Cung
trăng. Vua thấy cung nữ đều mặc áo nghê thường nhảy múa giữa sân điện. Đó là
khúc “Nghê thường Vũ Y”.
Đong đưa khoe thắm đua vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Dẫu nghề tay múa miệng xang,
Thiên tiên cũng xếp Nghê thường trong
trăng.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
NGHI
DUNG 儀 容
Nghi:
Cử chỉ bên ngoài. Dung: Dáng mạo.
Nghi dung là dáng mạo và cử chỉ.
Họ Vương tên gọi Hỉ Đồng,
Bút nghiên tay giỏi, nghi dung con
nhà.
(Nhị Độ Mai).
Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,
Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.
(Kinh Thế Đạo).
Soi bóng nước đặng nhìn thấy dạng,
Thấy nghi dung hết mặn nét
ngài.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGHI
GIA 宜 家
Nghi:
Nên. Gia: Nhà.
Nghi gia tức là thành gia thất. Bởi vì có vợ chồng tất phải lo việc gia thất, nên chữ “Nghi gia” mượn để chỉ việc đôi bạn.
Kinh Thi cũng có câu: Đào chi yêu yêu ,
chước chước kỳ hoa, chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia 桃 之 夭 夭, 灼 灼 其 華. 之 子 于 歸, 宜 其 室 家,
Dịch vần: Đào tơ mơn mởn xinh tươi, Hoa hồng đơm đặc dưới trời xuân trong. Hôm
nay nàng đã theo chồng, Nên bề gia thất ấm nồng thuận vui (Tạ Quang
Phát dịch).
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,
(Truyện Kiều).
Sai quân đem bức thư về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
(Lục Vân Tiên).
Nghi gia hai chữ thơ Đào,
Nhận ra trăm nết, nết nào còn chê.
(Quan Âm Thị Kính).
Trăm ngàn dặm quản chi non nước;
Chữ nghi gia mừng được phải
duyên.
(Ai Tư Vãn).
NGHI
SAI 疑 猜
Nghi:
Hồ nghi. Sai: Ngờ vực.
Nghi sai là ngờ vực, không tin.
Chút hờn chẳng khứng nhiêu khoan,
Đãi người luống những bạo tàn nghi
sai.
(Hạnh Thục Ca).
NGHI TẦN 儀 秦
Tức Trương Nghi và Tô Tần.
Trương Nghi 張 儀 là người nước Ngụy, đời Chiến Quốc, học trò của Quỷ Cốc Tiên Sinh. Lúc chưa gặp thời, làm môn khách cho Sở Chiêu Vương nước Sở. Chiêu Vương mất ngọc, ngờ Trương Nghi ăn trộm, sai người tra tấn gần chết, bỏ xác ngoài đường, may có người cứu mạng.
Trương Nghi là người đưa ra thuyết “Liên hoành”, tức là kêu gọi sáu nước họp lại đánh Tần, cũng là chống lại “Tung ước” của Tô Tần. Sau Trương Nghi chạy qua làm tướng nước Lương và mất ở đó.
Tô Tần, người Lạc Dương, đời Đông Châu, tự là Quý
Tử, có tài du thuyết, lúc còn hàn vi, sang du thuyết đất Tần, không được trọng
dụng, về nhà bị vợ và chị dâu khinh bỉ. Sau Tô Tần lại đi các nước du thuyết,
được các nước nghe theo kế hợp tung, tức là kết hợp các nước nhỏ để chống lại
nước lớn là Tần. Tô Tần lúc ấy được các nước phong làm Tể tướng, đeo ấn sáu
nước, danh tiếng lừng lẫy. Bấy giờ vợ không dám khinh khi, chi dâu quỳ xin
tạ tội.
Trời đất thuở cát vàng bụi tía,
áng công danh thông uốn lưỡi Nghi Tần.
(Trương Lưu Hầu Phú).
NGHI
TÌNH 疑 情
Nghi:
Ngờ vực. Tình: Tình trạng hay tình hình.
Nghi tình nghĩa là tình hình còn nghi nan, chưa rõ thực hư như thế nào.
Sai nha lấy thế nghi tình.
Bảo nhau tầm nã chung quanh trong làng.
(Nhị Độ Mai).
NGHI VỆ 儀 衛
Nghi vệ gồm có nghi trượng và các vệ sĩ, tức là lính đi theo hầu.
Vua quan ngày xưa mỗi khi đi ra ngoài hoặc đi dự
lễ đều có những người lính cầm binh khí, xe cộ, dù lọng và các lính vệ sĩ theo
hầu. Tất cả những cái đó gọi chung là nghi vệ.
Tiếm dùng nghi vệ chẳng kiêng,
Lung lăng ngấp nghé ý riêng đã bày.
(Hạnh Thục Ca).
Ngỡ là Thiên tử ngự phong,
Gẫm trong nghi vệ, cũng đồng thần
tiên.
(Dương Từ Hà Mậu).
NGHI VU
Nghi Vu là cảnh ở nước Lỗ thời Xuân Thu.
Nghi là tên một con sông chảy qua Khúc Phụ, quê hương của Đức Khổng Tử. Vu tức đàn Vũ Vu, tên một cái đàn cao ở bên sông Nghi. Trong Luận Ngữ có chép việc Đức Khổng Tử hỏi về chí của các học trò, Tăng Điểm có ước rằng: Mộ xuân giá, xuân phục ký thành, quan giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi quy 暮 春 者, 春 服 既 成, 冠 者 五 六 人, 童 子 六 七 人, 浴 乎 沂, 風 乎 舞 雩, 詠 而 歸, nghĩa là vào tiết cuối tháng mùa xuân, y phục xuân đã gọn gàng, cùng các bạn tuổi thành niên, năm sáu người, các em nhỏ sáu bảy người ra tắm ở sông Nghi và hóng mát ở đàn Vũ Vu, xong rồi ngâm hát mà trở về.
Khổng Tử nghe xong, ngậm ngùi than rằng: Ngô dữ Điểm dã 吾 與 點 也, tức là ta cũng đồng với chí của Điểm vậy!
Hàng cổ thụ gió rung bóng lộc,
tràng Phụng thiên nhận sẵn thú Nghi
Vu.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
NGHỊ ĐỒ 議 徒
Nghị:
Bàn bạc. Đồ: Đi đày.
Đưa ra quan để xét tội, sau khi thảo luận, bàn bạc quan quyết định xử tội đày, gọi là “Nghị đồ”.
Nghị đồ rồi lại được tha,
Để đoàn Vũ Đái đều là thác oan.
(Quốc Sử Diễn Ca).
NGHĨA
BÈO MÂY
Nghĩa bèo mây là chỉ sự gặp gỡ tình cờ rồi kết nghĩa vợ chồng với nhau nơi quê người đất khách.
Ví dù nên nghĩa bèo mây,
Đuốc hoa dành để đợi ngày hươu kêu.
(Lưu Nữ Tướng).
NGHĨA
BINH 義 兵
Nghĩa:
Việc hợp với lẽ phải. Binh: Quân lính.
Nghĩa binh tức là binh sĩ vì việc nghĩa như trừ gian khử bạo mà nổi lên.
Vì thầy, quyết chí phục thù,
Nghĩa binh từ cõi Ái châu kéo vào.
(Quốc Sử Diễn Ca).
NGHĨA
KHÍ 義 氣
Nghĩa:
Việc hợp với lẽ phải. Khí: Tinh thần phát hiện ra ngoài.
Nghĩa khí là tinh thần ưa chuộng điều phải thể hiện ra ngoài.
Hớn trào Quan Thánh bia danh,
Trung can nghĩa khí háo
sanh giúp đời.
(Xưng Tụng Công Đức).
NGHĨA
NHÂN 義 仁
Nghĩa:
Việc theo đường lối phải. Nhân: Lòng thương người.
Nghĩa nhân là đối xử với người theo điều phải và có lòng thương người.
Lợi lộc xôn xao rồi một kiếp,
Nghĩa nhơn tích trữ để muôn đời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NGHĨA
PHỤ 義 父
Nghĩa:
Đạo nghĩa. Phụ: Cha.
Nghĩa phụ là vì việc nghĩa nên nhận làm cha nuôi, chứ không phải là cha ruột.
Ông rằng: Thực cũng khéo là,
Thế mà nghĩa phụ, thế mà ân
nhi.
(Nhị Độ Mai).
NGHĨA PHƯƠNG 義 方
Nghĩa:
Việc làm hợp lẽ phải. Phương: Phép tắc.
Nghĩa phương là chí hướng hợp đạo nghĩa, tức hợp với lẽ phải.
Sách Tả Truyện viết: Giáo tử dĩ nghĩa
phương 教 子 以 義 方,
nghĩa là dạy con phải chỉ bảo nó đi theo con đường đạo nghĩa.
Nhờ nghĩa phương từ bé chút từng nghe,
dưới sân nghiêm mắt quở tai răn,
tính du đảng uốn lần cho nhập giáo,
(Tự Thuật Ký).
Thay nghĩa phương dạy trẻ,
dõi người xưa hoà hoàn gấu vẻ bút lao.
(Tử Tế Mẫu Văn).
Lại khen Hàn Thị nghĩa phương,
Hoà hoàn mật gấu giúp trường kinh lân.
(Nữ Phạm Diễn Nghĩa Từ).
Trong bốn nghiệp ra công gắng sức,
Đường nghĩa phương ta phải
khuyên con.
(Thanh Hoá Quan Phong).
NGHĨA TẾ 義 婿
Nghĩa:
Đạo nghĩa. Tế: Con rể.
Nghĩa tế tức là người con rể biết ăn ở theo đạo lý.
Công rằng: Nghĩa tế mới
sang,
Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà.
(Lục Vân Tiên).
NGHĨA
TRỌNG TÀI KHINH
Bởi câu “Trọng nghĩa khinh tài 重 義 輕 財”.
Nghĩa trọng: Xem nặng điều nghĩa, Tài khinh: Coi nhẹ về
tiền tài.
Nghĩa trọng tài khinh chỉ người quân tử có tính coi trọng về việc nghĩa, xem nhẹ về tiền tài.
Khuyên con coi nghĩa trọng tài
khinh,
Lòng quảng đại mới điều đình thế sự.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGHĨA VỤ 義 務
Nghĩa:
Việc làm theo lẽ phải. Vụ: Công việc.
Nghĩa vụ là bổn phận mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm tròn.
Nghĩa vụ thường đi đôi với quyền lợi, có nghĩa vụ
thì phải có quyền lợi, hay ngược lại.
Này sự nghiệp nhà Nam đầy nghĩa vụ,
Anh lòng nào bỏ phú cho đám em khờ?
(Văn Tế Tiểu Tường).ư
Phải dạy biết những điều nghĩa vụ,
Gìn tục phong qui củ nước nhà.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGHỊCH
NỢ TIỀN KHIÊN
Nghịch:
Làm trái ngược. Nợ tiền khiên: Nợ nần với nhau từ kiếp trước.
Nghịch nợ tiền khiên tức là làm trái ngược lại sự vay trả nợ nần từ kiếp trước.
Toan để bút ngăn vòng chồng vợ,
Thì lại e nghịch nợ tiền khiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGHỊCH
TẶC 逆 賊
Nghịch:
Ngược ngạo. Tặc: Giặc.
Nghịch tặc là bọn phản nghịch, bọn làm loạn.
Sao cho tâm lực hiệp đồng,
Mổ gan nghịch tặc thoả
lòng nữ nhi.
(Nhị Độ Mai).
NGHỊCH
THẦN 逆 臣
Nghịch:
Trái ngược. Thần: Bầy tôi.
Nghịch thần là kẻ bề tôi ngỗ ngược, phản nghịch lại với nhà vua.
Giận rằng vợ kẻ nghịch thần,
Thương vì tiết phụ mười phân trọn mười.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
NGHIÊM
CHÂU 嚴 周
Họ của hai nhà ẩn dật đời Hán.
Nghiêm tức Nghiêm Quang, tự là Tử Lăng, người đời Hán, lúc trẻ cùng học chung với Hán Quang Võ. Sau khi Hán Quang Võ lên ngôi, Nghiêm Quang đổi tên họ đi ở ẩn. Quang Võ sai người tìm, phong ông chức Gián Nghị Đại phu, ông không nhận, trở về ẩn tại núi Phú Xuân, cày ruộng, câu cá sinh sống.
Xem: Nghiêm Lăng.
Châu tức là Châu Mục, tự là Công Thúc, người đời
Hậu Hán, thấy đời kiêu bạc, làm bài “Tuyệt giao luận”, suốt đời ở ẩn, không ra
làm quan.
Thà như hai họ Nghiêm, Châu,
Chẳng tham lộc Hán, cày câu mặc tình.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGHIÊM
ĐƯỜNG 嚴 堂
Như chữ “Thung (Xuân) đường 樁 堂”.
Nghiêm:
Tôn kính. Đường: Nhà, nơi cha mẹ ở.
Nghiêm đường, như thung đường, là tiếng dùng để chỉ người cha. Còn Huyên đường là tiếng dùng để chỉ người mẹ.
Vốn người huyện Tích châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi
hàng Lâm Tri.
(Truyện Kiều).
Rằng gia quân với nghiêm đường,
Chữ luân xưa cũng mối giường một hai.
(Mai Đình Mộng Ký).
Tuấn Khanh vâng cứ nghiêm đường,
Giả rằng bị bịnh phi thường cáo thi.
(Nữ Tú Tài).
NGHIÊM
HUẤN 嚴 訓
Nghiêm:
Chỉ người cha. Huấn: Lời dạy dỗ.
Nghiêm huấn là lời răn dạy và giáo huấn của cha.
Thấy lời nghiêm huấn rành
rành,
Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.
(Truyện Kiều).
NGHIÊM
LĂNG 嚴 陵
Nghiêm Lăng là một cao sĩ đời nhà Đông Hán, bạn của Lưu Tú. Sau khi Lưu Tú diệt được nhà Tân, giết Vương Mãn, rồi lên ngôi vua xưng là Quang Võ. Nhiều lần vua Quang Võ sai người đến rước Nghiêm Lăng, nhưng Lăng đều từ chối. Vua Quang Võ phong quan tước, Lăng cũng không nhận. Vua tôi thân thiện như bạn thuở nào, hai người ngủ chung một giường, chuyện trò vui vẻ. Nghiêm Lăng gác chân lên bụng vua, vua vẫn tươi cười, không nói điều gì.
Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi,
Cày mây, cần nguyệt tả tơi áo cầu.
(Lục Vân Tiên).
Hồ, thuở thuyền chơi, lòng Phạm Lãi,
Đài, khi câu rủ, thú Nghiêm Lăng.
(Hồng Đức Quốc Âm)
Dựa bãi Nghiêm Lăng chờ bĩ
thái,
Neo gành Lữ Vọng nhắp công hầu.
(Thơ Phan Văn Trị).
NGHIÊM
LÂU 嚴 樓
Nghiêm:
Chốn thâm nghiêm. Lâu: Lầu các.
Nghiêm lâu là nơi lầu thâm nghiêm của vua chúa ở, nơi đó rất lộng lẫy, tôn nghiêm.
Tranh biếng ngắm trông đồ tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
NGHIÊM
LỆNH 嚴 令
Nghiêm:
Chặt chẽ, khó dung tha. Lệnh: Sai khiến.
Nghiêm lệnh tức là mệnh lệnh sai khiến rất chặt chẽ, nghiêm ngặt.
Tăn măn nói nói cười cười,
Rằng: Vâng Nghiêm lệnh rước
người về sanh.
(Mai Đình Mộng Ký).
NGHIÊM
NGHỊ 嚴 毅
Nghiêm:
Chặt chẽ khó dung. Nghị: Cương quyết.
Nghiêm nghị là nghiêm trang và quả quyết.
Chín tầng cửa đóng then cài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày
đoan trang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGHIÊM
NHAN 嚴 顏
Nghiêm Nhan là viên tướng anh hùng của Lưu Chương ở Tây Xuyên đời Tam Quốc. Khi Lưu Bị đánh với Lưu Chương, Trương Phi bắt được Nghiêm Nhan. Trương Phi dụ hàng, Nghiêm Nhan nói: Đây có hạng tướng mất đầu chớ không có hạng tướng đầu hàng.
Chính làm đầu lão Nghiêm Nhan,
Thua thời chịu chém, chẳng hàng Trương Phi.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NGHIÊM
PHỤ 嚴 父
Nghiêm:
Tôn kính. Phụ: Cha.
Nghiêm phụ, cũng như nghiêm đường, nghiêm quân, dùng để chỉ người cha.
Vả còn nghiêm phụ khi nay,
Mắc oan còn phải đợi ngày giải oan.
(Nữ Tú Tài).
Thờ nghiêm phụ cần chuyên
khuya sớm,
Đạo làm con chẳng dám chút khuây.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
NGHIÊM
QUANG 嚴 光
Theo Hậu Hán Thư, Nghiêm Quang tự là Tử Lăng, người đời Đông Hán, nổi danh là người giỏi từ thuở nhỏ, bạn thân của vua Quang Võ, không chịu ra làm quan về cày ruộng ở núi Phú Xuân.
Xem: Nghiêm Lăng.
Kìa kìa Lã Vọng câu Bàn trạch,
Nọ nọ Nghiêm Quang náu Phú Xuân.
(Bạch Vân Quốc Ngữ).
Bởi khách cố cựu thương tình,
Nghiêm Quang được gác lên mình Hán Quang.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
NGHIÊM
QUÂN 嚴 君
Nghiêm quân chỉ về người cha, do quẻ “Gia nhân” trong Kinh Dịch nói: Gia nhân hữu nghiêm quân, phụ mẫu chi vị dã 家 人 有 嚴 君, 父 母 之 謂 也, nghĩa là người nhà có nghiêm quân là trỏ về cha mẹ. Ngày nay chữ “Nghiêm quân” chuyên dùng để chỉ ông cha.
Đặt tên là ả Phi Nga,
Huyên đường sớm vắng, còn nhà nghiêm
quân.
(Nữ Tú Tài).
NGHIÊM
TỪ 嚴 慈
Nghiêm:
Trang nghiêm tôn kính. Từ: Hiền lành.
Nghiêm là đức tính của ông cha, từ là đức tính của bà mẹ, người ta thường dùng chữ nghiêm nói về cha, chữ từ nói về mẹ, nên nghiêm từ là chỉ cha mẹ.
Việc quan hẳn khác việc nhà,
Lạy nghiêm từ đã lạy bà từ
thân.
(Truyện Phan Trần).
Xót thay! hai đấng nghiêm từ,
Để người chịu muỗi, bây giờ biết sao!
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
NGHIÊM
TỬ 嚴 子
Tức Nghiêm Tử Lăng hay Nghiêm Quang, là một ẩn sĩ đời Đông Hán, bạn thân của Hán Quang Võ. Vua cố mời ra giữ chức Gián Nghị Đại Phu, nhưng Nghiêm Tử không chịu ra làm quan, mà trở về cày ruộng ở núi Phú Xuân.
Xem: Nghiêm Lăng.
Toà đá Khương Công đôi khóm cúc,
Áo xuân Nghiêm Tử một vai cày.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
NGHIÊM
TRANG 嚴 裝
Nghiêm:
Quá, lắm. Trang: Trau dồi, sửa sang.
Nghiêm trang là sửa sang tô điểm cho được nghiêm chỉnh. Tức là đoan chính, không lả lơi khiến người ta phải kính trọng, nể vì.
Cổ Thi có câu: Kê minh ngoại dục thự, tân
phụ khởi nghiêm trang 雞 鳴 外 欲 曙, 新 婦 起 嚴 裝,
nghĩa là gà gáy trời gần sáng, dâu mới dậy nghiêm trang.
Đặt bày lễ vật nghiêm trang.
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh.
(Lục Vân Tiên).
Khi tế tự chớ lờn chớ dể
Việc quan, hôn thủ lễ nghiêm trang.
(Kinh Sám Hối).
Dạy đi đứng nghiêm trang bộ
tịch,
Dạy nói năng cho lịch cho ngoan.
(Phương Tu Đại Đạo).
Quân lịnh nghiêm trang hàng
ngũ chỉnh,
Ngựa voi rần rộ trót giờ lâu.
(Thiên Thai Kiến Diện).
NGHIỄM
NHIÊN 儼 然
Nghiễm:
Trang nghiêm. Nhiên: Một chữ đệm.
Nghiễn nhiên là trang nghiêm.
Nguy nga miếu mạo hẳn hoi,
Một tòa thần tượng trên ngồi nghiễm
nhiên.
(Nhị Độ Mai).
NGHIÊN
BÚT
Do chữ “Nghiễn bút 硯 筆”.
Nghiễn:
Cái nghiên mực. Bút: Cây viết.
Nghiên bút là cái nghiên mực và cây viết, dùng để chỉ sự nghiên cứu, học tập, sáng tác thi văn…
Như khêu tấm dạ trung nghì,
Dạy đem nghiên bút thơ đề
mấy câu.
(Nhị Độ Mai).
Ông xem ra dáng con nhà,
Truyền đem nghiên bút thử
và câu chơi.
(Nhị Độ Mai).
NGHIÊNG
NƯỚC NGHIÊNG THÀNH
Do câu trong bài ca của Lý Diên Niên: Nhât cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc 一 顧 傾 人 城, 再 顧 傾 人 國, có nghĩa là ngoảnh lại một cái xiêu thành, ngoảnh lại cái nữa đổ nước, ý muốn nói vẻ đẹp tuyệt thế của người đàn bà làm cho người ta say mê đến nỗi nghiêng thành, mất nước.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
(Truyện Kiều).
Vốn mang cái bệnh Trương sinh,
Gặp người nghiêng nước nghiêng
thành biết sao?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Khen cho một dạ kiên trinh,
Dẫu rằng nghiêng nước nghiêng thành dễ đâu.
(Truyện Trinh Thử).
NGHIỆP
BÁO 業 報
Nghiệp:
Điều tự mình tạo ra lúc sinh tiền hay trong đời quá khứ làm cái nhân để sau chịu
quả. Báo: Trả lại.
Nghiệp báo tức là do mình làm ra nghiệp (lành, dữ) thì sẽ nhận được quả báo (lành dữ).
Dạy em đừng chồng một vợ ba,
Dạy cho hiểu nguyệt hoa là nghiệp
báo.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGHIỆP
CĂN 業 根
Nghiệp:
Những cái gì do mình tạo ra. Căn: Gốc rễ.
Căn nghiệp là do gốc rễ của hành vi thiện ác mà kiếp sống hiện tại con người phải thọ lãnh, nếu kiếp trước làm những điều thiện, thì tạo căn lành cho kiếp sống hiện tại, nếu bây giờ ta làm những việc ác, thì tạo ác căn cho kiếp lai sinh. Như vậy, căn hay cái gốc rễ tạo thành cái nghiệp cho con người, vì thế người ta thường gọi nghiệp căn.
Tiền khiên đã mãn nghiệp căn xưa
Phải biết ăn năng chiếm thượng thừa
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NGHIỆP
CHƯỚNG 業 障
Nghiệp:
Điều do mình gây nên làm thành cái nhân để sau nhận lấy quả. Chướng: Làm trở ngại.
Việc ác gây ra từ kiếp trước tạo thành nghiệp báo làm chướng ngại cho kiếp sau này.
Tiền sinh nghiệp chướng còn
đầy,
Cho nên trời mới đem đày nhân gian.
(Quan Âm Thị Kính).
Oan trái dứt, nghiệp chướng tiêu,
Cảnh vui Cực Lạc mỹ miều vẻ tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGHIỆP
DUYÊN 業 緣
1.- Chỉ mối nhân quả do kiếp trước để lại báo ứng cho kiếp sau này.
Sư rằng: Song chẳng hề chi,
Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
(Truyện Kiều).
2.- Chỉ mối liên lạc từ kiếp trước để lại kiếp sau
này giữa đôi tình nhân hay hai người bạn.
NGHIỆP NHÀ VONG PHẾ
Nghiệp nhà: Sự nghiệp trong gia đình. Vong phế: Bỏ mất.
Nghiệp nhà vong phế là làm cho sự nghiệp trong gia đình bị tiêu tan mất.
Ghen sợ nổi nghiệp nhà vong phế,
Ghen sợ mê chẳng kể vợ con.
(Phương Tu Đại Đạo).
NGHIỆP
QUẢ 業 果
Nghiệp quả là cái kết quả của nghiệp báo, đó là cái trái được sanh ra do việc gây tạo nên nghiệp. Nếu làm điều hung dữ thì tạo ra ác nghiệp, nếu làm điều đạo đức thì tạo ra thiện nghiệp.
Tách bến sông mê sóng tạt thuyền,
Lọc lừa nghiệp quả kẻ may
duyên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NGHIỆT
BÁO 孽 報
Nghiệt:
Mầm ác. Báo: Đáp lại.
Nghiệt báo là báo đáp lại do cái mầm ác đã tạo ra từ trước. Quả báo này có thể xảy ra trước mắt, hay trong một kiếp, hay chờ đợi kiếp sau.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo oan gia
chẳng rời.
(Kinh Sám Hối).
NGHIỆT
CĂN 孽 根
Nghiệt:
Mầm ác. Căn: Gốc rễ.
Nghiệt căn là những việc hung ác gây ra từ kiếp trước (nghiệt) làm gốc rễ (căn)
của các tai họa xảy đến trong kiếp này.
Gần điều nên, lánh lẽ hư,
Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt
căn.
(Kinh Thế Đạo).
Hung hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.
(Kinh Sám Hối).
Từ bi hứng giọt nhành dương,
Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt
căn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGHIỆT
CHƯỚNG 孽 障
Nghiệt:
Mầm ác. Chướng: Ngăn trở.
Nghiệt chướng là sự ngăn trở của nghiệp ác.
Dầu nghiệt chướng số căn
quả báo,
Đừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.
(Kinh Tận Độ).
NGHIỆT
ĐÀI 孽 臺
Nghiệt:
Mầm ác, ác nghiệp. Đài: Cái đài cao.
Nghiệt đài tức là “Nghiệt cảnh đài 孽 鏡 臺” là một cái đài, trong ấy có một tấm kiếng mầu nhiệm để soi hành vi những tội hồn khi còn trên dương thế gây những điều tàn ác.
Để sau xuống chốn Diêm phong,
Nghiệt đài chiếu kính có trong lời thề.
(Tội Vợ Vợ Chịu).
Đường hung ác, nẻo chông gai,
Lấn chen vào chốn Nghiệt đài gọi
ngoan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NGHIÊU
CÙ 堯 衢
Nghiêu:
Tên một vị vua Trung Quốc đời Thượng cổ. Cù: Con đường thông bốn mặt.
Nghiêu cù chỉ đường đi đời vua Nghiêu có những ông lão và trẻ con hát xướng vui vẻ, để ca tụng cảnh thái bình, thịnh trị.
Lời ca ngợi tưởng ngồi trong Châu nhã,
Điệu ngâm nga nghe đứng giữa Nghiêu
cù.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
NGHIÊU
HOA 堯 華
Nghiêu hoa là Vua Nghiêu đi tuần thú đến đất Hoa, có vị Phong nhân, quan coi ấp chúc vua giàu có, sống lâu và nhiều con trai. Vua Nghiêu không nhận và nói: Lắm con trai thì lo sợ nhiều, giàu có thì công việc nhiều, sống lâu thì nhục nhã nhiều.
Viên quan đáp: Vua nói thế thì thật là một bậc quân tử, nhưng nhiều con trai mà giao cho mỗi đứa một việc thì việc gì mà lo sợ, giàu có mà biết đem của chia cho người thì làm gì có công việc nhiều? Ăn có chừng ngủ có độ, lúc nào cũng thư thái tự nhiên, thiên hạ hay thì cùng hay với thiên hạ, thiên hạ dở thì mình làm cho thiên hạ hoá hay, trăm tuổi vui vẻ từ giã cõi đời, không có tai hoạ gì thì sao lại bảo sống lâu là nhục nhã?
Lời chúc đó được người đời gọi là “Hoa phong tam chúc 華 豐 三 祝”, nghĩa là ba điều chúc của Phong nhân ấp Hoa.
Vóc đề chữ, gấm thêu bài,
Vịnh ca Thiên bảo, chúc lời Nghiêu
hoa.
(Nhị Độ Mai).
NGHIÊU
THUẤN 堯 舜
Vua Nghiêu và vua Thuấn là hai vị vua thời thượng cổ của nước Trung Hoa, sau Phục Hy, Thần Nông và Huỳnh Đế, rất nhân từ minh chánh.
Dưới thời của hai vua Nghiêu, Thuấn, thiên hạ thái
bình, đất nước thạnh trị, nhân dân no ấm, người không tham lam, nên trong
thời đó có câu: “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di” 家 無 閉 戶, 路 不 拾 遺,
tức là nhà không đóng cửa, lộ chẳng lượm của rơi. Vì vậy đời sau mới gọi thời
ấy là: Nghiêu thiên Thuấn nhựt.
Quán rằng: Nghiêu, Thuấn thuở xưa,
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do.
(Lục Vân Tiên).
Phán rằng: Nghiêu, Thuấn, làm
vua,
Chín năm nước lụt mà mùa chẳng hư.
(Dương Từ Hà Mậu).
Nghe rành rành trước vua Nghiêu,
Thuấn,
Công đức dày, ngự vận càng lâu;
(Ai Tư Vãn).
Trông thời Nghiêu Thuấn dễ
chi trông,
Nên mặc ai chưa biết gã Tòng.
(Đạo Sử).
NGHÌN TỨ
MUÔN CHUNG
Bởi chữ “Thiên tứ vạn chung 千 駟 萬 鐘”, nói về hạng quan quyền phú quí, được hưởng nhiều bổng lộc.
Nghìn tứ muôn chung là nói nhà có hàng nghìn cỗ xe ngựa tứ, muôn chung thóc lương.
Xem: Thiên tứ vạn chung.
Ví ham nghìn tứ, muôn chung,
Con chim bay mãi cũng trong khuôn trời.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NGHÌN
VÀNG PHIẾU MẪU
Phiếu mẫu là người đàn bà giặt lụa, giúp cơm cho Hàn Tin khi còn hàn vi.
Sử Ký chép: Vào một hôm, Hàn Tín đi câu bị đói lã,
bà Phiếu mẫu thấy thế, giúp cơm cho ăn hơn mươi ngày. Về sau, Hàn Tín nên danh
trả ơn cho bà phiếu mẫu hơn một nghìn lượng vàng.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân?
(Truyện Kiều).
NGHINH
HÔN 迎 婚
Nghinh:
Rước. Hôn: Lấy vợ.
Nghinh hôn hay thân nghinh là một lễ trong hôn lễ, tức là lễ rước dâu.
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,
Sính nghi rẻ giá nghinh hôn sẵn
ngày.
(Truyện Kiều).
Mong cho gặp mặt tiểu thư,
Nạp nghinh hôn lễ mà đưa
nàng về.
(Nữ Tú Tài).
NH
NHA DỊCH 衙 役
Nha:
Nơi làm việc quan. Dịch: Sai khiến.
Nha dịch là một chức lại để cho quan trên sai khiến. Đồng nghĩa với nha lại.
Họ Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch lại là
từ tâm.
(Truyện Kiều).
NHA MÔN 衙 門
Nha:
Nơi làm việc quan. Môn: Cửa.
Nha môn là cửa cơ quan, tức nơi làm việc của các quan trong chế độ triều đình thời xưa.
Tìm vào Lại bộ tới nơi,
Truyền nha môn định, ngày
mai tiến chầu.
(Nhị Độ Mai).
NHA PHIẾN 鴉 片
Nha:
Con quạ. Phiến: Tấm.
Nha phiến là thuốc phiện, một loại độc dược khiến người xử dụng phải mê, ghiền rồi tác hại đến thần kinh. Thuốc phiện có màu đen như lông con quạ.
Lại còn nha phiến thuốc
mê,
Càng nên xa lánh, chớ hề gần xong.
(Huấn Nữ Ca).
Dạy đừng ham quán rượu tiệm trà,
Đừng hút xách làm ma nha phiến.
(Phương Tu Đại Đạo).
NHA
TIÊM 牙 籤
Nha:
Ngà voi. Tiêm: Cái thẻ.
Ngày xưa những nơi chứa sách, người ta thường dùng cái thẻ làm bằng ngà hoặc bằng xương ghi tên sách để tiện việc kiểm sát.
Thơ Hàn Dũ có câu: Nghiệp hầu gia đa thơ,
Tháp giá tam vạn trục. Nhất nhất huyền gia tiêm, Tân nhược thủ vị xúc 業 侯 家 多 書, 塔 架 三 萬 軸. 一 一 懸 牙 籤, 新 若 手 未 觸,
nghĩa là nghiệp hầu nhà nhiều sách, trên giá ba vạn quyển. mỗi quyển treo nha
tiêm, mới như chưa rờ đến.
Nha tiêm tiếng động án Chu Dịch.
Thạch đỉnh hương tàn khói thuỷ trầm.
(Quốc Âm Thi Tập).
NHA TRẢO 牙 爪
Nha:
Răng, nanh. Trảo: Móng, vuốt.
Những loài mãnh thú cậy có nha trảo (Nanh vuốt) để hộ thân, cũng như bọn quan lại, người quyền thế nhờ những tay chân bộ hạ bảo vệ. Do vậy, chữ “Nha trảo” được dùng để chỉ bọn tay chân bộ hạ.
Xem: Nanh vuốt.
Nó dầu nhiều nha trảo hùng anh,
Một kíp thả công thả tẩu.
(Nhạc Hoa Linh).
NHÀ
DIÊU CỬA NGUỴ
Diêu Nguỵ 姚 魏 là hai họ đã tìm ra hoa mẫu đơn.
Nhà họ Diêu đã tìm ra đầu tiên giống hoa mẫu đơn màu vàng, còn họ Nguỵ đã tìm ra được hoa mẫu đơn màu tím.
Nhà Diêu cửa Nguỵ chỉ hoa mẫu đơn vàng và tía.
Xem: Diêu nguỵ.
Nhà Diêu, cửa Ngụy thiếu gì,
Còn Phan huyện với Tùy đê cũng nhiều.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
NHÀ
HUYÊN
Dịch từ chữ “Huyên thất 萱 室”, tức là nhà trồng cỏ huyên, để chỉ bà mẹ.
Kinh thi có câu: Yên đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối 焉 得 萱 草 言 樹 之 背, nghĩa là ước gì được cỏ huyên mà trồng thềm phía bắc, bởi vì cỏ huyên có tính giải được phiền muộn, cho nên người ta dùng cỏ huyên để chỉ bà mẹ.
Xem: Huyên thất.
Giọng Kiều rên rĩ trướng loan,
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ gì?
(Truyện Kiều).
Nhà huyên thêm nỗi lòng vui,
Người bằng đưa thiếp đã sai đệ trình.
(Hoa Tiên Truyện).
Rau tần phồn ngoài Nam giản lạnh khô,
Nhà huyên thảo sau Bắc đường quạnh quẻ.
(Tử Tế Mẫu Văn).
NHÀ HUỲNH
Huỳnh 黌 là trường học. Các trường học ngày xưa thường sơn màu vàng, cho nên gọi là huỳnh cung 黃 宮. Còn gọi là huỳnh tự 黌 序, huỳnh hiệu 黌 校.
Nhà huỳnh có nghĩa là nhà học, chỉ trường học.
Gia quan mới dạo nhà huỳnh,
Thú nhà hầu hạ huyên đình bấy lâu.
(Hoa Tiên Truyện).
NHÀ LAN
Do chữ “Lan thất 蘭 室”, tức là nhà có mùi thơm của hoa lan. Xem: Lan thất.
Nhà lan có hai nghĩa:
1.- Nhà lan dùng để chỉ nhà có đạo đức:
Gặp cơn rảnh nhà lan vắng
khách,
Công chỉ kim đèn sách học hay.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Nhà Lan thơm mùi hoa lan, chỉ nơi phụ nữ ở:
Nhà lan sum họp ban mai,
Đã trong tần tảo, lại ngoài ty ca.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NHÀ THÔNG
Hay “Nhà thung”, “Nhà xuân”.
Thông 樁, còn gọi là cây Thung (hay xuân), là một loại cây to, theo Trang Tử lấy tám nghìn năm làm một mùa xuân, tám nghìn năm làm một mùa thu, vì thế người ta dùng chữ “Thung” để chúc thọ, hay ví với cha.
Nhà thung hay nhà xuân là chỉ ông cha.
Xem: Xuân đình hay Xuân đường.
1.- Nhà thông:
Ở trên còn có nhà thông,
Lượng trên trong xuống biết lòng có thương?
(Truyện Kiều).
2.- Nhà Thung:
Rõ nỗi nhà thung gìn đức cả,
Nên toan tiếp trẻ khỏi ba đào.
(Đạo Sử).
3.- Nhà xuân:
Nhà xuân vừa mở thọ diên,
Chén pha giếng cúc, bàn chen non đào.
(Hoa Tiên Truyện).
NHÀ
VÀNG
Do chữ “Kim ốc 金 屋”, tức là nhà quý báu, lộng lẫy dành cho người đẹp ở. Còn có thể dùng để chỉ người con gái quý phái.
Hán Võ Đế khi còn nhỏ, người cô là trưởng công chúa bế ngồi trên đầu gối, chỉ A Kiều là người con gái út của mình, hỏi đùa: Cháu có muốn A Kiều không? Võ Đế cười đáp: Nếu được A Kiều thì con sẽ cất nhà vàng cho A Kiều ở. Về sau, khi lên ngôi vua, Võ Đế lập A Kiều làm Hoàng hậu.
Xem: Kim ốc.
Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng
nên.
(Truyện Kiều).
Những công trang điểm sửa sang,
Dẫu treo thước ngọc, nhà vàng cũng
nên.
(Bần Nữ Thán).
Nhà vàng phận quí khi thơ,
Gót sen dầu lịch cũng nhờ vẻ xuân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NHẢ NGỌC
GIEO VÀNG
Nhả ngọc là người có lời nói văn hoa, gieo vàng ý nói người có tài làm thơ.
Nhả ngọc gieo vàng ý nói người ngôn luận giỏi, có
tài văn chương, thơ văn giỏi.
Nhớ tình nhả ngọc với gieo vàng,
Bồng đảo trần gian cách trở đàng.
(Đạo Sử).
NHẢ NGỌC
PHUN CHÂU
Hay “Nhả châu phun ngọc”.
Dịch từ câu “Thoá ngọc phi châu 唾 玉 霏 珠”.
Thành ngữ “Nhả ngọc phun châu” hay “Nhả châu phun ngọc” được dùng để chỉ người có tài văn chương, ngôn luận giỏi và làm thơ lỗi lạc.
1.- Nhả ngọc phun châu:
Khen: Tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này!
(Truyện Kiều).
Khen tài nhả ngọc phun châu,
Ba vần già dặn, bốn câu thanh kỳ.
(Nhị Độ Mai).
2.- Nhả châu phun ngọc:
Chẳng phen người Quỷ Cốc xuất trần,
Cũng bì kẻ nhả châu phun ngọc.
(Nhạc Hoa Linh).
NHẢ NGỌC
PHUN KHUÊ
Như câu “Nhả ngọc phun châu”. Khuê 珪 cũng là châu ngọc.
Nhả ngọc phun khuê có ý chỉ người có tài học, giỏi văn chương chữ nghĩa và làm thơ hay.
Xem: Nhả ngọc phun châu.
Nẩy tài nhả ngọc phun khuê,
Nhẹ nhàng vây sóng, lập lòe cánh mây.
(Hoa Tiên Truyện).
NHẠC
DƯƠNG
Nhạc dương tên một cái lầu ở Hồ Nam, trên Động Đình Hồ, một nơi danh lam thắng cảnh do Trương Duyệt đời Đường dựng lên, Đặng Tử Kính đời Tống sửa lại, và Phạm Trọng Yên có làm bài ký về lầu Nhạc Dương.
Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,
Ấy nền Đồng Tước, hay lầu Nhạc
Dương.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NHẠC
GIA 岳 家
Nhạc:
Hòn núi to. Gia: Chữ dùng để gọi những người tôn trưởng.
Người xưa thường ví cha mẹ vợ như hòn núi cao to, nên mới gọi là “Nhạc gia”.
Tiên rằng: Nhờ lượng nhạc gia,
Ðại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì.
(Lục Vân Tiên).
NHẠC
LÔI 岳 雷
Nhạc Lôi là con của danh tướng nhà Tống Nhạc Phi, cùng cha đem quân đi đánh Ngột Truật, phá quân Kim lập được nhiều công trận, sau khi mất được phong làm Vũ Lược Hầu.
Đánh Kim chi sá thằng Lưu Dự,
Giúp Tống xin phò gã Nhạc Lôi.
(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).
NHẠC
NGHỊ
Nhạc Nghị, người nước Triệu, giúp vua Yên đi du thuyết Tần, Triệu, Hàn đem quân đánh Tề. Nước Tề thua chạy, Nhạc Nghị phá thành vào, chở vàng bạc châu báu về Yên. Sau khi Chiêu Vương mất, Thái tử Lạc Tư lên ngôi, nghe lời gièm pha, không tin dùng Nhạc Nghị nữa, nên Nhạc Nghị bỏ nước Yên trở về Triệu.
NHẠC
PHI 岳 飛
Một danh tướng đời Tống Huy Tông, hiệu là Bàng Cử, sanh ở huyện Thang Âm. Ông là người trung trực với vua, người chí hiếu với mẹ. Ông có tài chinh chiến, đánh đâu thắng đấy, được vua ban cho lá cờ thêu bốn chữ “Tinh Trung Nhạc Phi 精 忠 岳 飛”.
Nhạc Phi đem quân đi đánh Liêu. Trong triều có Tần
Cối vì ganh công với Nhạc Phi, nên đề nghị muốn xin hoà, giả chiếu chỉ vua
triệu Nhạc Phi về. Nhân trong lúc đang thắng trận, Nhạc Phi không chịu hoà với
giặc. Tần Cối gièm với vua là Nhạc Phi có ý muốn làm phản, nên nhà vua bắt bỏ
ngục và giết Nhạc Phi.
Thương Nhạc Phi nên tướng ân uy,
không hoà mà bị hại.
(Sãi Vãi).
Hoặc là chuộng một lời hoà nghị,
Giận Nam Phiên phải bắt Nhạc Phi về.
(Văn Tế Trương Định).
NHẠC
THÂN 岳 親
Nhạc:
Núi cao, người xưa ví cha mẹ ruột như núi Thái Sơn, còn cha mẹ vợ như hòn núi
cao, cho nên nhạc có nghĩa là cha mẹ vợ. Thân: Cha mẹ.
Nhạc thân là cha mẹ vợ.
Tỉ nhạc thân đòi ngọc Lam điền,
Mình phải đủ phép Tiên trồng đặng ngọc.
(Phương Tu Đại Đạo).
NHẠC
THIỀU 樂 韶
Nhạc:
Âm nhạc. Thiều: Nhạc của vua Thuấn.
Nhạc thiều tức là khúc nhạc “Tiêu Thiều” của vua Thuấn. Tiêu thiều là tên một khúc nhạc dạy dân phải có lòng chính đính, cao thượng, không tà dại dâm loạn. Tương truyền khi vua Thuấn tấu lên thì có chim phượng hoàng đến múa. Trong Kinh Thư, thiên Ích Tắc viết: Tiêu thiều cửu thành, phụng hoàng lai nghi 簫 韶 九 成, 鳳 凰 來 儀, nghĩa là khi nhạc Thiều tấu đến khúc thứ chín, thì chim phượng hoàng đến múa, có vẻ uy nghi.
Nhạc thiều tiếng dứt khôn trông phụng,
Sử Lỗ biên rồi khó thấy lân!
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
NHẢY
PHƯỢNG CỠI KÌNH
Nhảy phượng: Nhảy cao như chim phượng bay. Cỡi kình: Cỡi con cá
kình.
Nhảy phượng cỡi kình tức là chỉ người tài giỏi vượt trên thiên hạ, ý muốn nói người có tài học cao.
Gấm hoa tài mạo gồm hai,
Đua chân nhảy phượng chen
vai cỡi kình.
(Truyện Hoa Tiên).
NHẢY
SÓNG HOÁ LONG
Nhảy sóng: Do chữ “Khoá lãng 跨 浪” là vượt lên sóng. Hoá long: Hóa rồng, cá chép hóa thành rồng, nói bóng về thi cử đỗ
đạt.
Nói về cửa Võ môn, cá sắp thành hàng, nhảy vượt sóng lên núi cao, con nào nhảy được, hoá thành rồng, tức là thi đỗ.
Nhảy sóng hoá long dùng để chỉ việc đỗ đạt.
Xem: Võ môn.
Tớ thầy tìm chốn chứa chân,
Chờ ngày nhảy sóng đợi tuần hoá
long.
(Nhị Độ Mai).
NHAM HIỂM 巖 險
Nham:
Sườn núi. Hiểm: Khó khăn, cản trở.
Nham hiểm là chỉ sự hiểm trở của núi non. Rồi từ đó có nghĩa rộng là ác ngầm, lòng sâu cay, hiểm độc, không thể nào lường được.
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết
người không dao.
(Truyện Kiều).
Đêm khuya ghé lại rỉ lời:
Lòng người nham hiểm, thói đời
viêm lương.
(Nhị Độ Mai).
Đừng lòng nham hiểm hẹp
hòi,
Buông lời chửi rủa đòn roi không từ.
(Kinh Sám Hối).
NHAN KHỔNG 顏 孔
Tức Nhan Uyên và Khổng Tử.
Nhan Uyên là một học trò giỏi nhất của Đức Khổng Tử. Ông là người siêng năng cần mẫn, học một biết mười, không nệ nghèo khổ, sống trong cảnh hàn vi mà bao giờ cũng an bần lạc đạo.
Nhan Khổng dùng để chỉ cái học của đạo Nho.
Xem: Khổng Tử, Nhan Uyên.
Nghiêng cánh nhạn tếch mái rừng Nhan Khổng,
chí xông pha nào quản chông gai.
(Tài Tử Đa Cùng Phú).
NHAN TỬ 顏 子
Tức là Nhan Uyên, học trò giỏi của Đức Khổng Tử, người thông minh, cần mẫn nhưng lại chết sớm, mới ba mươi mốt tuổi Nhan Tử đã mất.
Xem: Nhan Uyên.
Thương thầy Nhan Tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
(Lục Vân Tiên).
Một lần hoạ biết bầu Nhan Tử,
Tám trận không hay chước Khổng Minh.
(Quốc Âm Thi Tập).
NHAN
UYÊN 顏 淵
Người nước Lỗ, đời Xuân Thu, tự là Tử Uyên, còn gọi là Nhan Hồi 顏 回, học trò giỏi của Đức Khổng Tử. Nhan Uyên là người thông minh, học một biết mười, lại siêng năng, cần mẫn. Nhan Uyên không ngại nghèo khổ, sống trong cảnh hàn vi mà bao giờ cũng an bần lạc đạo.
Mới hai mươi chín tuổi, đầu của Nhan Uyên tóc đã bạc phơ, đến 31 tuổi Nhan Uyên mất. Khổng Tử có biếu cho Nhan Lộ, cha của Uyên, một chiếc xe. Nhờ bán xe ấy mà người cha mới có tiền chôn con.
Trong Luận Ngữ, Khổng Tử nói về Nhan Uyên như sau: Nhan Hồi giả hiếu học, bất thiên nộ, bất nhị quá. Bất hạnh đoản mệnh, tử hỹ, kim dã tắc vong, vị văn hiếu học giả dã 顏 回 者 好 學, 不 遷 怒, 不 二 過. 不 幸 短 命, 死 矣, 今 也 則 亡, 未 聞 好 學 者 也, nghĩa là Nhan Hồi là người hiếu học, không giận lây người khác, không phạm lỗi quá hai lần. Chẳng may đoản mệnh chết sớm, nay không có người nào hiếu học như vậy nữa.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
(Lục Vân Tiên).
Lều tiện Nhan Uyên tìm tới
đỗ,
Đường cùng Nguyễn Tịch khóc làm chi.
(Quốc Âm Thi Tập).
Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt,
Đỗ Phủ thơ nên bút có thần.
(Thơ Nguyễn Trãi).
NHÀN CÁ
Hay nhạn cá, tức là nói tin nhạn và thư cá, dùng để chỉ về thư tín, hay tin tức.
Xem: Nhạn cá.
Non nước lạ nghìn nhàn cá diễn,
Phượng loan dường một gối chăn chung.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NHÀN
TRUNG KIỂM ĐIỂM SỰ BÌNH SANH
Lấy từ câu nói của Từ Thần Ông, trong Minh Tâm Bửu Giám: Nhàn trung kiểm điểm bình sanh sự, tĩnh lý tư lương nhựt sở vi; thường bả nhứt tâm hành chánh đạo, tự nhiên thiên địa bất tương khuy 閒 中 檢 點 平 生 事, 靜 裏 思 量 日 所 為; 常 把 一 心 行 正 道, 自 然 天 地 不 相 虧, nghĩa là khi thong thả kiểm điểm lại những công việc đã làm. Lúc yên tĩnh xét kỹ lại những câu chuyện hàng ngày.Lòng mình bao giờ cũng nhất định giữ cho ngay thẳng thì tự nhiên trời đất sẽ soi xét đến.
Nhàn trung kiểm điểm sự bình sanh,
Gương bể chưa ai kết đặng lành.
(Đạo Sử).
NHÃN TIỀN 眼 前
Nhãn:
Con mắt. Tiền: Trước.
Nhãn tiền là việc xảy ra trước con mắt, ý nói việc xảy ra liền.
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.
(Truyện Kiều).
Đó là báo ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu lâu truyền cháu con.
(Kinh Sám Hối).
NHẠN CÁ
Bởi chữ “Nhạn tín ngư thư 雁 信 魚 書” là tin nhạn thư cá, dùng để chỉ thư từ, tin tức.
Xem: Nhạn tín, ngư thư.
Duyên này đã thấy kim lan họp,
Thư kẻo còn truyền nhạn cá thông.
(Hồng Đức Quốc Âm).
NHẠN YẾN 雁 燕
Chim nhạn và chim yến, hai loại chim này tuỳ theo mùa tiết mà bay đi, chim nhạn mùa đông bay đi, chim yến mùa xuân bay về, ý nói hết mùa nầy sang mùa khác, chỉ sự thay đổi thời tiết trong một năm.
Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
Đổi thay nhạn yến đã hòng
đầy niên.
(Truyện Kiều).
NHẠN
TÍN 雁 信
Có nghĩa là tin nhạn, do điển tích: Tô Võ đi sứ Hung Nô, nói nhiều lời xúc phạm, bị bắt chăn dê nơi Bắc hải, không cho về Hán. Tô Võ bắt được con chim nhạn, xé áo lụa viết thư, rồi buộc vào chân nhạn, thả bay về Hán.
Vua Hán bắt được thơ của Tô Võ mới biết ông đang
bị giam cầm. Do điển này, sau người ta dùng: “Tin nhạn”(Nhạn tín), “Tin hồng”
(Hồng tín), “Thước lụa” (Xích tố), “Lụa ngoài ải” (Tái bạch) để chỉ tin tức,
thư từ, thư tín.
Khôn nhạn tín, khó hồng thư,
Viết quơ chẳng nổi, giấy như tránh đề.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NHẠN VẮNG
Nhạn thường ví với thư tín, thấy chim nhạn là được tin tức, vắng chim nhạn là mất liên lạc.
Nhạn vắng chỉ sự bặt tin tức.
Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
NHÀNH
CHIM LÁ GIÓ
Do hai câu thơ của Tiết Đào đời nhà Đường: Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong, nghĩa là nhành đón chim nam bắc, lá đưa gió qua lại.
Nhành chim lá gió dùng để chỉ gái lầu xanh đưa đón khách làng chơi.
Xem: Lá gió cành chim.
Càng chịu phận nhành chim lá gió,
Càng thương chồng chẳng ngó rõ lòng trinh.
(Phương Tu Đại Đạo).
NHÀNH
DƯƠNG
Do chữ “Dương chi 楊 枝”, là nhành dương liễu, một pháp thuật của Quan Âm Bồ Tát nhúng vào nước trong Tịnh bình (Tức nước Cam lộ) để rưới tắt phiền não, tiêu tai giải nạn, hoặc tiêu trừ bịnh chướng.
Nghe Kinh nhà Phật tan niềm tục,
Mực nước nhành dương rưới
lửa phiền.
(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).
Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,
Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.
(Đạo Sử).
Ðạo đức là nền làm phẩm cách,
Mượn nhành dương tịnh lửa
sôi lòng.
(Đạo Sử).
Từ bi hứng giọt nhành dương,
Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NHÀNH
MAI SÁI MÙA
Hoa mai là loài hoa nở rộ vào tiết cuối đông, đầu xuân nên rất quý trong mấy ngày tết Âm lịch, ai cũng trịnh trọng đặt cành mai vàng nơi giữa nhà để cầu sự may mắn đến với gia đình trong ngày xuân mới. Nếu nhành mai nở sái mùa, không đúng vào dịp tết, thì nhành mai ấy không có giá trị.
Ở đây nhành mai sái mùa dùng để chỉ thời xuân sắc
của người con gái đã qua, đã lỡ thời.
Hư nên cũng có một đời,
Hay chi thay đổi nhành mai sái mùa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NHÀNH
XUÂN
Xuân là mùa xuân, mùa cây cỏ tươi tốt, thường ví với người tuổi trẻ.
Nhành xuân, như chữ cành xuân dùng để chỉ người
con gái trẻ tuổi còn đẹp đẽ.
Rủi duyên gặp phải thường phu,
Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NHẮC THẢM
GHẸO SẦU
Nhắc thảm ghẹo sầu ý muốn nói những hình ảnh chung quanh hiện ra như khêu gợi hay trêu ghẹo nỗi sầu thảm trong lòng.
Còn thân thiếp chịu cút côi,
Đèn khuya nhắc thảm, gió
mơi ghẹo sầu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NHĂN
CHÚT LÔNG NHEO
Tây Thi người đời Xuân Thu, con gái nhà bán củi ở xóm tây thôn Trữ La nước Việt, có nhan sắc tuyệt trần, mỗi khi nàng bị đau, nhăn mặt ôm bụng thì trông nàng lại càng đẹp hơn. Ý muốn nói mỗi cái nhăn lông mày (Hay nhíu mày) của người đẹp, cũng đủ làm tăng thêm nét duyên dáng, tình tứ hơn.
Làn thu lóng lánh đưa theo,
Não người nhăn chút lông nheo cũng
tình.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NHẮN CÁ
GỬI CHIM
Đồng nghĩa với “Tin chim thư cá”, do chữ “Ngư thư nhạn tín 魚 書 雁 信”, nghĩa là bỏ thư vào bụng cá và buộc thư vào chân nhạn để đưa tin.
Cá và chim nhạn đều là vật đưa thư, dùng để chỉ về thư tín hay tin tức.
Xem: Tin chim thư cá.
Biết đâu nhắn cá gửi chim,
Vớt trăng dưới nước, mò kim trong doành.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Hay là nhắn cá gửi chim,
Đêm xuân đón gió đi tìm mùi hương.
(Truyện Trinh Thử).
Có đâu lại gieo đào trả lý,
Có đâu nên nhắn cá gửi chim.
(Bần Nữ Thán).
NHÂM
DIÊN 壬 延
Nhâm Diên là vị Thái thú ở quận Cửu Chân từ năm Kiến Võ nhà Đông Hán, là vị quan rất có nhân chính. Lúc bấy giờ dân quận ấy chỉ làm nghề chài lưới và săn bắn, chứ không biết cày cấy làm ruộng nương, Nhâm Diên mới dạy dân dùng cày bừa mà khai khẩn ruộng đất, bởi vậy, chẳng bao lâu mà dân quận ấy có đủ gạo thóc để ăn. Sau đó để ghi tạc công đức Nhâm Diên, người dân quận ấy lập đền thờ ông.
Nhâm Diên khuyên việc canh nông,
Đổi nghề ngư liệp về trong
khuê điền.
(Quốc Sử Diễn Ca).
NHÂM
KHƯƠNG 妊 姜
Tức nói hai người đàn bà hiền đức là Thái Nhâm và Thái Khương.
Thái Nhâm là mẹ Châu Văn Vương, một người mẹ hiền
thục đoan trang. Thái Khương, bà nội của Châu Văn Vương là người đàn bà trinh
thuận, lo chồng dạy con nên trang tài ba và hiền đức.
Mây xóm phù dung chỉn đối gương,
Máy linh đã động dạ Nhâm Khương.
(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).
NHÂN ÁI 仁 愛
Hay “Nhơn ái”.
Nhân:
Lòng thương người. Ái: Yêu mến.
Nhân ái là lòng yêu thương người. Kẻ có lòng nhân ái thì luôn luôn muốn cứu giúp chúng sanh.
Gót nhân ái đến nhà kẻ bịnh,
Giọng từ bi thức tỉnh hung tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
NHÂN CHỦNG 人 種
Hay “Nhơn chủng”.
Nhân:
Người. Chủng: Chủng tộc, nòi giống.
Nhân chủng là các chủng tộc của loài người, hay các nòi giống của con người.
Trên thế giới hiện nay có bốn chủng tộc gồm người
da trắng, da vàng, da đen và da đỏ.
Hội Nguơn hữu Chí Linh huấn chúng,
Đại Long Hoa nhơn chủng hoà ki.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
NHÂN
DUYÊN 因 緣
Hay “Nhơn duyên”.
Nhân:
Căn do. Duyên: Mối dây liên lạc từ việc này sang việc kia.
Theo kinh Phật, nhứt thiết sự vật đều do nhân duyên hoà hợp mà sinh ra. Nhân là yếu tố chính, sinh ra sự vật, duyên là yếu tố phụ, trợ giúp cho sự vật được hình thành. Như khi trồng lúa, hạt giống là nhân, còn nắng gió, đất nước, cày bừa…là duyên. Nhân duyên có hoà hợp mới sinh ra cây lúa.
Kinh nhà Phật có câu: Dục tri tiền thế nhân,
kim sinh thụ giả thị 欲 知 前 世 因, 今 生 受 者 是,
nghĩa là muốn biết cái nhân trước thế nào thì hãy xem đời nay được hưởng thế
nào. Xem: Nhân quả.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội, một thuyền đâu xa!
(Truyện Kiều).
NHÂN
DUYÊN 姻 緣
Hay “Nhơn duyên”.
Nhân:
Cưới gả, nhà trai là nhân, nhà gái là hôn. Duyên: Mối dây ràng
buộc.
Nhân duyên là duyên phận vợ chồng.
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
(Truyện Kiều).
Nhân duyên số sẵn tự trời,
Hôn nhân đã định vào nơi họ Hầu.
(Nhị Độ Mai).
Nhân duyên vâng lĩnh quạt thề,
Nhờ tay Nguyệt lão khéo xe lạ lùng.
(Truyện Phần Trần).
Gác xuân cách mấy dặm khơi,
Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
NHÂN
DUYÊN 人 緣
Hay “Nhơn duyên”.
Nhân:
Người. Duyên: Mối dây ràng buộc.
Nhân duyên là có mối dây ràng buộc vào một người được định sẵn
từ trước, ý nói có duyên (Ràng buộc) việc tu hành.
Bát Nhã từ đây vững lái thuyền,
Tuông pha khổ hải độ nhơn duyên.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NHÂN ĐẠO 人 道
Hay “Nhơn đạo”.
Nhân (Nhơn) đạo là đạo làm người, là những cách cư xử của con người ở thế gian, nên cũng được gọi là Thế đạo.
Nhân đạo là những nguyên tắc và bổn phận mà con phải hành xử trong đời sống hằng ngày đối với gia đình và xã hội. Nhờ có nhân đạo, gia đình và xã hội mới có tôn ty, trật tự, phẩm giá con người mới xứng đáng là loài thượng đẳng trong muôn loài.
Buông trôi ví chẳng tròn nhơn đạo,
Còn có mong chi đến đạo Trời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xong bề nhơn đạo tua gìn
trước,
Trước cửa không rồi mối đạo thông.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Rồi chưa Nhơn đạo đến cầu
tu,
Tu ấy nặng nề lắm công phu.
(Đạo Sử).
NHÂN
GIAN 人 間
Hay “Nhơn gian”.
Nhân:
Người. Gian: Khoảng.
Nơi con người đang ở, đang sống gọi là “Nhân gian”. Đồng nghĩa với thế gian, trần gian…
Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu Địa ngục ở miền nhân gian.
(Truyện Kiều).
Xuống vừa tới cõi Âm ty,
Mặt nhìn cảnh vật khác thì nhân
gian.
(Dương Từ Hà Mậu).
Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ,
Ðộ đời cố tạo phước nhơn gian.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Ðời qua thắm thoát cõi nhơn gian,
Sớm nở hoa kia, chiều vội tàn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Từ nay ra khỏi chốn nhơn gian,
Thủy tú sơn tinh thích chí nhàn.
(Đạo Sử).
NHÂN HẬU 仁 厚
Nhân:
Lòng thương người. Hậu: Dày, tốt.
Nhân hậu là nhân từ, trung hậu, tức là kẻ ăn ở với mọi người hết lòng thương, thương đến nơi đến chốn.
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu chế răn
lòng tà.
(Kinh Sám Hối).
NHÂN HIẾU 仁 孝
Nhân:
Lòng thương người. Hiếu: Hết lòng thờ phụng cha mẹ.
Nhân hiếu là người có lòng nhơn từ và có lòng hiếu kính.
Tiếng nhân hiếu đồn vang
thiên hạ,
Thói thuần lương hóa cả lê nguyên.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
NHÂN
HÔN BÁO ĐỨC 因 婚 報 德
Lấy sự kết hôn để báo đền cái ân đức.
Bởi câu: Nghĩa trọng tình thâm, Sở nữ nhân hôn báo đức 義 重 情 深, 楚 女 因 婚 報 德, tức là nghĩa nặng ân sâu, gái nước Sở kết hôn để trả ân đức.
Tả Truyện chép: Quân binh nước Ngô vào làm loạn, nước Sở đưa con gái vua là nàng Quý Can để thoát nạn. Vua Sở Chiêu Vương chạy qua nước Trịnh, quan Đại phu nước Sở là Chung Kiến cõng nàng Quý Can chạy theo.
Sau vua Chiêu Vương tính gả nàng Quý Can. Quý Can
từ chối và nói rằng: Người con gái sở dĩ được trọn vẹn là không thân cận với
nam tử. Nay Chung Kiến từ Sở qua Trịnh, bao nhiêu lần cõng tôi, bây giờ tôi lại
xa người để thân cận với người khác thì cái đời con gái tôi ra gì! Vua Chiêu
Vương nghe phải, bèn gả Công chúa cho Chung Kiến, dùng Chung Kiến làm quan Nhạc
Doãn.
NHÂN LOẠI 人 類
Hay “Nhơn loại”.
Nhân:
Người. Loại: Loài.
Trên Địa cầu này có muôn loài vật sinh sống, trong đó có người là loài cao trọng hơn cả, nên gọi là loài người, tức “Nhơn loại”.
Vì thương nhơn loại cực
lòng Ta,
Ta hỏi nhơn sanh có biết à?
(Đạo Sử).
NHÂN LUÂN 人 倫
Hay “Nhơn luân”.
Nhân:
Người. Luân: Luân thường, là phép tắc ở đời đúng theo lẽ thường.
Nhân luân là đạo lý bình thường của con người.
Một lòng giữ mối đạo hằng.
Trau lời thế giáo, cằm dằn nhân
luân.
(Dương Từ Hà Mậu).
Hễ phải mặt văn nhân tài tử,
Dạy con nên vẹn giữ nhơn luân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Ðiều đình gia thất vẹn nhơn luân,
Cái nẻo Thiền môn giống đám rừng.
(Đạo Sử).
NHÂN
NGUYỆN THIÊN TUỲ 人 願 天 隨
Nhân nguyện: Lời nguyền của người. Thiên tuỳ: Trời chiều
theo.
Nhân nguyện thiên tuỳ tức là người ước ao việc gì trời cũng chiều theo.
Mới hay nhân nguyện thiên tuỳ,
Lọ là đòi hỏi làm chi nữa mà.
(Nữ Tú Tài).
NHÂN
NGHĨA 仁 義
Hay “Nhơn nghĩa”.
Nhơn là lòng thương người, là từ bi, bác ái. Nghĩa là việc làm phải, là công bình chánh trực.
Nhơn nghĩa là hai đạo lý quan trọng trong Nho giáo, con người lấy đó làm căn bản mà phát huy ra cho nhân sinh được thuận hòa, an lạc, xã hội thanh bình, hạnh phúc.
Thảo ngay, nhơn nghĩa, hòa
lành,
Thấy ai đói rách, thương tình giúp cho.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Đau khổ rán gìn nhơn nghĩa vẹn,
Tang thương chờ hưởng huệ ân riêng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
U hiển không từ nhơn nghĩa cũ,
Gặp nhau xin phó bóng thiều quang.
(Đạo Sử).
Ví biết trai nhơn nghĩa giữ
tròn,
Để liếm láp sợ mòn chi chút gái.
(Phương Tu Đại Đạo)
NHÂN QUẢ 因 果
Hay “Nhơn quả”. Nhân: Căn do. Quả: Trái
Nhân quả tức là nguyên nhân và kết quả.
Nhân là hạt giống, mầm, đó là năng lực tác động, quả là trái, sự hình thành, kết quả. Nói cho đầy đủ là nhân duyên quả báo.
Mỗi hiện tượng đều có nguyên nhân của nó. Hễ có nguyên nhân, tất nhiên sẽ có kết quả xứng hợp với nguyên nhân ấy, nhân nào quả đó.
Kinh Phật ghi: Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thụ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị 欲 知 前 世 因, 今 生 受 者 是; 欲 知 來 生 果, 今 生 作 者 是”: Muốn biết nguyên nhân đời trước ta thế nào, thì cứ xem hưởng thụ của ta đời nay; muốn biết sự kết quả đời sau thế nào, ta cứ xem việc ta làm đời nay đó.
Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
(Truyện Kiều).
Xe duyên đành có Trăng già;
Mặc dù nhân quả, chớ ra quan
hoài.
(Mai Đình Mộng Ký).
Sao cho âm đức dài trôi,
Khỏi dòng nhân quả đền bồi
thân sau.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Truyện nầy nhơn quả rõ
ràng,
Nếu ngồi lặng vậy, sao an tấm lòng.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Giựt giành rốt cuộc cũng tay không,
Nhân quả đeo mang tội chất chồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
NHÂN
SINH 人 生
Nhân:
Con người. Sinh: Sống.
Nhân sinh là chỉ đời sống của con người.
Nghĩ người lại ngắm vào ta,
Nhân sinh đệ nhất thật là lứa đôi.
(Hoa Tiên Truyện).
NHÂN
TÂM THIÊN LÝ 人 心 天 理
Nhân tâm:
Lòng người. Thiên lý: Lẽ trời.
Do câu “Thiên lý tại nhân tâm 天 理 在 人 心” nghĩa là lý của trời đất ấy là cái lẽ phải của lòng người.
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên
lý nào.
(Gia Huấn Ca).
NHÂN
TÌNH 人 情
Nhân:
Người. Tình: Tình cảm.
Nhân tình là tình cảm người đối với người.
Trước đèn xem chuyện Tây Minh,
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo
le.
(Lục Vân Tiên).
NHÂN TỬ 人 子
Nhân tử là nói đạo làm con, tức là người con phải biết công ơn và hiếu kính cha mẹ.