Sunday, October 4, 2020

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử » Cổ văn Việt Nam » Thơ

 SÃI VÃI

Tác giả: Nguyễn Cư Trinh

 Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào năm Canh Ngọ (1750) khi ông đang làm Tuần vũ Quảng Ngãi. Tác phẩm được đánh giá là "một ví dụ tiêu biểu về ảnh hưởng của ca khúc dân gian vào sáng tác của các tác gia văn học viết ở Đàng Trong thuộc Đại Việt vào thế kỷ 17 và 18.

Tác phẩm nhằm đả kích những gì chưa tốt trong giới sư sãi thời bấy giờ, đồng thời cũng để khuyên răn quan quân, kích thích binh sĩ trên đường dẹp cuộc nổi dậy của bộ lạc người Hré ở Quảng Ngãi. Đây là tộc người mà sử nhà Nguyễn gọi là "mọi Đá Vách (mọi Thạch Bích)".

Sãi rằng:
Phật ôi là Phật! Tu hỡi là tu!
Chúa sánh chúa Đường Ngu; tôi ví tôi Tắc Khiết.
Giang san cũ thâu về đất Việt; điền tịch xưa đem lại trời Nam.
Chốn chốn đều tư tái tư tam; nhà nhà cũng tỉ xương tỉ xí.
Già phò gậy đến xem thạnh trị; trẻ ngậm cơm mừng gặp thái bình.
Nước sông vàng lẻo lẻo dòng xanh; dân con đỏ hây hây nhà rạng.
Chợ chưa ra giá bán; đường chẳng lượm của rơi.
Đời đã nên đời; thú vừa vui thú.
Linh San am quê ngụ, Sãi sắc tứ tu trì.
Lòng mộ đạo tăng ni, miệng niệm Nam mô Phật.
Bì chi kẻ đua tranh xảo quyệt; quản bao (người) bạn tác ngư hà.
Lòng từ bi mộ đạo Thích Ca; nguyện Phật pháp vui bề trai gái.
Tiêu diêu cảnh ngoại, nong nả trần trung.
Tương dưa đòi bữa no lòng, bô vải miễn cho ấm cật.
Màn trời chiếu đất, gẫm tợ am thanh.
Đạo Như lai càng niệm càng lành; câu giáo hữu thoạt ngâm thoạt lạ.
Dựa màu thuyền bát nhã; lần chuỗi hột bồ đề.
Rỗi mộc ngư diễn kệ sớm khuya; nương thạch khánh phần hương trưa tối
Ước siêu tam muôi, ngõ thoát cửu huyền
Lăm đền mộc bổ thuỷ nguyên; dốc báo càn khôn phù tái.

Vãi rằng:
Chẳng hay ông sãi, quê quán phương nao?
Lời diễn kệ rất cao, đạo tu hành thêm chói.

Sãi rằng:
Lựa là phải hỏi quê vức làm chi;
Nếu phải đạo tăng ni, tu cùng nhờ phần phước.
Sãi người sanh trong nước, Sãi cũng khỏi xâu bơi.
Sãi sanh ở trong đời, Sãi cũng không thuế khoá
Khăng thìn đạo cả; vẹn giữ giềng ba.
Ngay với chúa, thảo với cha; nghĩa cùng thầy, tin cùng bạn.
Xưa Sãi biết chăn dân muôn quận; xưa Sãi hay giữ việc nhà vàng.
Già cám ơn mãi mã huyền dương; hùm nghe chánh cong đuôi về núi.
Xưa Sãi cũng biết giữ mình làm côi; xưa Sãi cũng hay lấy đức chăn dân.
Giữ thước mực cầm cân; đánh roi bồ răn chúng.
Lỡ bề lương đống, tạm dụng rui mè.
Sãi học lại vãi nghe, hoạ là có lòng chuộng.
Mới tụng kinh vừa xuống, nghe tiếng khánh gióng lệ
Ngỡ là chuông vua Hạ Võ chiêu hiền; ngỡ là đạc đức trọng Ni thiết giáo
Sãi yêu vì đạo, Sãi dấu vì duơn.
Thấy mụ vãi nhan sắc có hơn; Sãi theo với tu hành kẻo thiệt.
Khoan khoan! chưa biết vãi ở chùa nào?
Thanh tân mày liễu má đào; đẹp đẽ mắt sao da tuyết.
Lòng người dầu thiết, thời đạo cũng gần.
Qua tây phương còn cách trở non thần; sau phương trượng đã sẵn sằng bàn Phật
Ngoài che sáo nhặt, trong xủ màn thưa.
Lạnh thời có mền bát tơ; nực thời có quạt lục phủ.
Chiếu du trơn như mỡ; thuốc lá ướp hoa ngâu.
Rượu hồng cúc ngàu ngàu; trà mỹ xuân phức phức.
Sẵn đồ, sẵn đạc; sẵn vãi, sẵn thầy;
Thoát liêu sau cho gần đó gần đây; vào cùng Sãi đặng tu hoài tu huỷ.

Vãi rằng:
Lời sao nói nguỵ, chẳng phải tánh chơn.
Tu làm sao mà lo thiệt lo hơn?
Tu làm sao mà tham tài tham sắc?
Ấy chẳng là bội đức. Chớ tu những điều chi?

Sãi rằng:
Sãi cũng muốn tu trì, khốn thiếu đồ khí dụng.
Thiếu chuông thiếu trống; thiếu kệ thiếu kinh.
Thiếu sứa thiếu sinh; thiếu tiêu thiếu bạt;
Thiếu bình thiếu bát; thiếu đậu thiếu tương;
Thiếu bình bông lư hương; thiếu tiền bàn lá phủ;
Thiếu hài thiếu mũ; thiếu hậu thiếu y;
Thiếu tiền đường sơ ly; thiếu thượng phương liễn đối;
Thiếu bê son bình sái; thiếu tích trượng ca sa;
Thiếu hương thiếu hoa; thiếu xôi thiếu Phật.
Ấy là đồ vặt, Sãi hãy sắm sau.
Thứ nào kíp làm đầu, Sãi phải toan sắm trước.
Nhiễu Thượng Hải, Sãi sắm một cái quần cho tốt; bố cát căn, Sãi sắm một cái áo cho xuê
Nón kiểng hàng, sãi sắm một cái cho xinh ghê; quạt ban trúc, sãi sắm một cây cho báu riết.
Giày hồng hài, Sãi sắm một đôi để đạp gót;
Khăn bích cân, Sãi sắm một cái để bịt đầu.
Sãi lại sắm một đứa tiểu đồng con con để cắp ống điếu cho mầu;
Sãi lại sắm một thước hồ la đo đỏ, Để buộc đãy sô cho ngoả.
Chợ nào nhiều bạn hàng các ả, xóm nào đông bổn đạo các dì,
Sãi một tu lại tu đi, Sãi một tu lên tu xuống.
Sãi lại sắm một cái phương trượng, để sau liêu vắng vẻ một mình,
Trên mặt thì rộng thinh; dưới chân cho kín mít.
Đương khi thời cơm thịt, có bổn đạo vừa lên;
Nghe tiểu đồng tằng hắng tiếng lên, mấy đĩa thịt Sãi thâu vào đó.
Sãi lại sắm một cái vườn nho nhỏ, ở cho cách xóm xa xa.
Đề phòng khi bổn đạo chửa nghén ra, dễ khiến Sãi khoanh tay mà ngồi vậy.
Sãi lại sắm tiền nghề bỏ đãy, sáp tốt để đánh môi;
Ngộ phải khi cờ bạc thua hoài, dễ khiến Sãi khoanh tay ngó lảng.
Sãi lại sắm một hai bình thuốc tráng, với năm bảy đạo bùa mê;
Sắm một tiểu tăng cho hay tin lại tin về; sắm một tín nữ cho hay nói ngon nói ngọt;
Phải nơi gái tốt, vả lại nhiều tiền;
Giữ nết na nó chẳng đến chùa chiền, há khiến Sãi làm thinh mà giả điếc.
Việc Sãi thì Sãi biết, việc Vãi thì Vãi hay;
Ghé cho khỏi cánh tay, kẻo mà tuông nhằm vế.

Vãi rằng:
Lời sao nói quấy, tai chẳng muốn nghe.
Trí tuệ thông như “hoa nở bồ đề”; nhơn duyên bạc tợ “nhị thù Ưu Bát”.
Tuy ngồi mật thất, nào khác thông cù;
Trời xa xa rộng thẳm mà chẳng mù; lưới lộng lộng bủa thưa mà không lọt.
Nói một lời lỗi luật, tu muôn kiếp khôn đền.
Sãi rằng: Nơi Thiên đường, ông hỡi chưa lên; chốn Địa ngục, ông toan kíp xuống.

Sãi rằng:
Vãi này hẹp lượng, chẳng biết hí ngôn.
Có Thiên đường thì quân tử tu lên;
Có Địa ngục thì tiểu nhơn tu xuống.
Hễ là quân tử lượng, thì tu đức thắng tài,
Thờ vua, hết ngay; thờ cha hết thảo.
Một lời nói phải nhơn phải đạo, ấy là tu ngôn;
Một việc làm chẳng hại chẳng tham, ấy là tu hạnh.
Lấy nhân mà tu tánh, lấy đức mà tu thân.
Tu minh đức để mà tân dân; tu tề gia để mà trị quốc.
Ấy là trang hiền đức, tu cho phải đạo tu.
Ngoài thì tu khoan dũ ôn nhu; trong thì tu hoà bình trung chính.
Tu cung, tu kính; tu kín, tu thành.
Đã phải đạo tu hành, lại thêm nền phước chỉ
Tự nhiên: đắc lộc, đắc vị; đắc thọ, đắc danh.
Đắc phú quý hiển vinh. Ấy Thiên đàng là đó.
Hễ là trang hiền ngõ, thì tu đến Thiên đàng.
Còn kẻ tiểu nhơn gian, thì tu vào Địa ngục.
Tiểu nhơn thói tục, tu những tánh phàm.
Tu những lòng bạc ác gian tham; tu những dạ hung hoang tàn bạo.
Nuôi cho lớn mà tu lòng bất hiếu; ăn cho no mà tu dạ bất trung.
Tu sắc lành để mà a ý khúc tùng; tu lời khéo để mà sức phi văn quá.
Người hiền ngõ, tu ghét ghen ngăn trở; kẻ lỗi lầm, tu tìm kiếm don ren.
Tu lưỡi mềm lấy của cho đầy then; tu mưu độc hại người cho đã giận.
Đứa tiểu nhơn như rận, tu rút máu người ta.
Tu càng dày càng nhục ông nhục cha; tu càng dày càng hại con hại cháu.
Tu vơ tu váo; tu chạ tu càn.
Hễ là đứa đại gian, thì tu điều bất ngãi.
Âm vi quỷ thần sở hại, dương vi vương pháp sở tru.
Ấy là tiểu nhơn chi tu, thì ắt tu vào Địa ngục.
Muốn nghe đấng tu mà thoát tục, hãy còn trang thượng trí chi tu.
Nhớ thủa Đường Ngu, thánh xưng Nhị Đế;
Nhị Đế người tu kỷ, mà trăm họ đều an.
Tam Vương người tu nhân, mà muôn dân đều trị.
Dầu những Hớn, Đường kế chí, Tống, Minh tương truyền.
Có tu đức, thì thiên hạ mới trị yên; có tu nhân, thì cơ đồ mới củng cố
Dầu những tu văn tu võ, người cũng tuỳ thời mà tu.
Thuở thái bình, yển võ tu văn; cơn bát loạn, yển văn tu võ.
Trên một người tu đủ, dưới trăm họ hoà hài
Hây hây thọ vức xuân đài; tu vậy thiệt trang thượng trí.
Bằng muốn xét cho cùng nhơn sự, hãy còn nhiều trung trí chi tu.
Kìa như Mặc Địch Dương Chu, tu một việc vị nhơn, vị ngã.
Nhổ mảy lông, mà lợi cả thiên hạ, thì Dương Chu tu một sự chẳng vui.
Mài hết trán, mà lợi có một người, thì Mặc Địch tu một lòng chẳng nại.
Dầu những Thích Ca tu lại, cùng với Đạt ma tu qua.
Tu cho tính chuyên là La Thập Cưu Ma; tu cho khổ não là Văn Thù Bồ Tát.
Ấy là người ngoại quốc, chọn theo thói Trung Hoa.
Chê sự đời phú quý vinh hoa; muốn vui thú thanh nhàn dật lạc.
Nghiệm chữ kia cho xác, chữ Tiên là “nhứt cá sơn nhơn”.
Suy chữ nọ cho chơn, chữ Phật là “phất tri nhơn sự”.
Ai dữ thì mặc dữ, ai lành cũng mặc lành.
Nhà hưng vong, phụ tử chẳng binh; nước trị loạn, quân thần chẳng đoái.
Song chẳng can danh phạm ngãi; cũng không dịch tánh biến tình.
Tham Thiên đường phải giữ lòng lành; sợ Địa ngục nên chừa thói dữ.
Tuy vô ích cũng không sanh sự; ấy là trang trung trí chi tu.
Còn như tu mà hoá ngu, hãy còn nhiều trang hạ chí.
Kìa như Hán Võ Đế; đã nên đứng minh vương;
Nọ như Tần Thỉ Hoàng; rất nên trang hung bạo.
Tham lam cầu Đạo, lặn lội tầm Tiên.
Mỏi sức người, trăm họ chịu lao phiền; hao của nước, muôn dân than đồ khổ.
Trăm chước sưu cầu thì có, mảy lông ứng nghiệm vốn không.
Đất Luân Đài phải Hớn chẳng hối ngộ trách cung; ải Hàm Cốc thì Tần cũng rắp ranh làm phản.
Hỡi nhiều như Hán, chẳng chi một Tần.
Đời nào tu cho hơn Tống Đạo Quân; đời nào tu cho kịp Lương Võ Đế.
Nhục Mạc Bắc, sao Tiên chẳng đến cứu về?
Đói Đài thành, sao Phật không ra trợ nạn?
Tiếc cơ đồ gầy dựng gian nan: hoài sự nghiệp tổ tông sáng tạo.
Châu Sư đã vang dầy tên pháo, Tề ngươn còn giảng đạo hoài hoài.
Khiết Đơn đà vậy phủ trong ngoài, Khâm Nhược vẫn tu trai mãi mãi.
Hư thời đã phải, thác chẳng ai thương.
Hễ đạo làm đế làm vương, thì phải tu nhân tu chính;
Tu quyền, tu bính; tu kỷ tu cang.
Trên, thì tu Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang; dưới, thì tu kinh luân thao lược.
Có đâu đi bắt chước thầy sãi mà tu trì.
Đương ban ngày dầu có phép lên trời, luận đạo trị chẳng ích chi cho nước.
Thấy đâu đặng phước, đều những manh tai.
Nếu cứ theo mê đạo hoài hoài, như vậy chẳng là trang hạ trí?

Vãi rằng:
Ngỡ là ông sãi, chẳng biết sự tu.
Ai dè gỉa đứa ngu, mới hay là bợm lịch
Khôn ngoan trong sạch, chữ nghĩa từ hoà.
Hẳn vàng nọ chưa pha; thiệt ngọc kia còn ẩn
Chẳng kiêu, chẳng lận; biết kính, biết nhường.
Biết tiểu nhơn cỏ rác mà rẻ rang, biết quân tử ngọc vàng mà yêu chuộng;
Biết khinh, biết trọng; biết của, biết người.
Ông có biết chuyện đời, nói nghe chơi cũng khá

Sãi rằng:
Vãi này cũng lạ, chớ hỏi mà sầu.
Uổng năm dây đờn khảy tai trâu; hoài muôn hộc nước xao đầu vịt.
Sãi không có biết, Sãi chẳng có hay.
Ghé cho khỏi cánh tay, kẻo mà quang xuống vế.

Vãi rằng:
Sãi nầy thất lễ, vả lại bạc tình.
Chớ có thấy Vãi tu hành, tưởng Vãi không thông thế sự.
Đã hay rằng nam tử, thì có chí kinh luân;
Song le đấng phụ nhân, cũng ghen tài tế thế.
Kìa như Châu Thái Tỷ, kinh còn khen đức rạng khuê môn.
Nọ như Tống Tuyên Nhơn, sử còn ngợi nữ trung Nghiêu, Thuấn.
Gái như Tạ Đạo Uẩn, gái mà hay vịnh tuyết thành thơ;
Gái như Thái Văn Cơ, gái mà biết phân cầm nên khúc.
Chương gián chúa khỏi vòng dật dục, ấy là Đường Từ Huệ thứ phi.
Thơ cứu cha khỏi chốn tai nguy, nọ như Hớn Đề Oanh thiếu nữ.
Nam tử nhiều trang nam tử; phụ nhân ghe đấng phụ nhân.
Thuyền bách trôi, ngàn dặm hỡi băng băng; sách sử để, muôn năm còn vặc vặc.
Gái có tài có sắc; gái có đức có công.
Thuyền quyên đâu dễ kém anh hùng; ông Sãi nỡ phụ chi mụ Vãi.

Sãi rằng:
Thậm phải! Thậm phải! Mừng thay, mừng thay, mừng thay!
Khát hạn luống trông mây; ôm cầm mà gặp khách,
Chẳng cây cứng sao hay búa sắc; không đường dài nào biết ngựa hay.
Vậy thời Sãi vén mây ngút, phát chông gai, đặng cho Vãi thấy trời xanh, tìm đường cả.
Hiếm chi điều lạ; biết mấy chuyện kỳ.
Kề tai lại mà nghe, ghé vú ra kẻo đụng.
Sãi muốn nói một chuyện xa xa cho Vãi thủng, gẫm trong kinh chép đã thành xe;
Sãi muốn nói một chuyện gần gần cho Vãi nghe, gẫm trong Sử ghi đà nên Đống.
Truyện Hớn, truyện Đường, truyện Tống: truyện Thương, truyện Hạ, truyện Châu
Chuyện phu tử làm đầu; chuyện quân thần rất hệ.
Sãi muốn nói một chuyện: “Quân sử thần dĩ trung”, Sãi lại sợ Mãng, Tào sanh oán.
Sãi muốn nói một chuyện: “Vi phụ chỉ ư từ” cho Vãi hay, Sãi lại e ông Cổ Tẩu dức rằng ngày
Sãi muốn nói một chuyện: “Vi tử chỉ ư hiếu” cho Vãi hay,
Sãi những sợ vua Tuỳ Dương chê rằng ngộ.
Sãi muốn nói một chuyện: “Vi nhân bất phú”,
Sãi lại e thầy Nhan Tử mắng rằng: khéo mở miệng mà tấn ơn.
Sãi muốn nói một chuyện: “Vi phú bất nhơn”,
Sãi lại sợ anh Thạch Sùng trách rằng: khéo thổi lông mà tìm vít.
Sãi muốn nói một chuyện: “Tài tụ tắc dân tán” cho Vãi biết, thì Thương làm sao nên mất mà phải bày;
Sãi muốn nói một chuyện: “Tài tán tắc tụ” cho Vãi hay, thì Châu làm sao nên hưng mà phải thuyết.
Việc Vãi thì Vãi biết, việc Sãi thì Sãi hay;
Gắng công phu mà tu luyện cho lâu ngày, đêm thanh vắng Sãi hãy nói cùng một chuyện.

Vãi rằng:
Ông nầy tu luyện, có chí anh hùng:
Thuộc sử kinh chứa để đầy lòng; mang y bát chơn truyền phải mặt.
Dầu chẳng “Vạn gia sanh Phật”, cũng là “nhất lộ phước tinh”.
Thời chưa nên, còn chờ đợi công danh; vận dầu gặp, chắc hiển dương thinh giá

Sãi rằng:
Chữ phụ nhơn nan hoá, mụ vãi biết là đâu?
Câu bên sông, Lữ còn chờ đợi công hầu; cây ngoài nội,
Doãn những mơ màng Nghiêu Thuấn;
Bất tri bất uẩn, hữu đức tất hữu lân.
Sớm mười hai, dầu chẳng đội đồng cân; muộn bảy mươi mốt, cũng đeo ấn tướng.
Công danh chẳng tưởng, vì bịnh thất tình.
Tồn ư trung bất chánh, ắt chẳng lành; phát ư ngoại bất hoà, thời thất tiết.
Tu dầu lòng chi thiết, Sãi vui trên trời rộng.
Vui nước biếc non xanh lộng lộng; vui trăng thanh gió mát làu làu.
Trong ba ngàn, Sãi vui để một bầu;
Ngoài sáu đạo, Sãi vui với Bát Tiên;
Núi Thương Lãnh tìm lên, Sãi vui cùng Từ Hạo.
Vui nhơn vui đạo, vui thánh vui hiền.
Vui tiếng chuông giục khách lui thuyền; vui chiếc dép trương buồm nương gió.
Lánh cõi tục, Sãi vui thuyền Bát Nhã; rửa bụi trần, Sãi vui nước Ma ha.
Đạo thương người, Sãi vui giáo Thích Ca; Nhân cứu chúng, Sãi vui lòng Bồ Tát.
Vui một bình, một bát; vui một đạo, một hề.
Luận sự vui cho ngoả cho nguê, chi bằng Sãi vui cùng mụ Vãi?
Thêm bịnh nầy không cãi, sãi có bịnh hay thương.
Sãi thương Đấng Tam Hoàng; Sãi thương ngôi Ngũ Đế.
Thương vì hiếu vì đễ; thương vì đức vì tài.
Thương vua Nghiêu áo vải quần gai; thương vua Thuấn cày mây cuốc nguyệt.
Ân hẩm hút, thương vua Võ, thương càng chí thiết; ở lao tù, thương vua Văn, thương rất xót xa.
Thương ông Châu Công, trung đã nên trung, còn mắc tiếng gièm pha;
Thương đức Khổng Tử, thánh đà nên thánh, hãy ghe phen hoạn nạn.
Thương mấy kẻ mưu thần nhà Hán, không tội mà chết oan;
Thương những người văn học đời Tần, vô can mà chôn sống.
Thương Gia Cát có tài lương đống, gặp chúa chẳng phải thì;
Thương Nhạc Phi nên tướng ân uy, không hoà mà bị hại.
Thương đi thương lại, thương chẳng có ngần
Ngồi đêm đông, thương người nằm giá khóc măng; lên ải Bắc, thương kẻ chăn dê uống tuyết.
Thương càng chí thiết, thương rất đỗi thương.
Thương cho khắp bốn phương, chi bằng thương mụ Vãi.
Song lòng nầy còn ngại, vì có bịnh giận dai.
Sãi giận phải, chẳng phải giận sai; Sãi giận thật, Sãi không giận dối.
Sãi giận Sãi nhiều lầm nhiều lỗi; khi lỗi lầm, Sãi một giận hoài.
Sãi giận Sãi ít đức it tài; tưởng tài đức, Sãi càng giận riết.
Sãi giận Sãi kinh luân chẳng biết; Sãi giận Sãi thao lược không hay.
Sãi giận Sãi: thờ quân vương chẳng hết lòng ngay;
Sãi giận Sãi: ơn phụ mẫu chưa đền nghĩa thảo.
Tưởng trong nhơn đạo; Sãi một giận căm;
Suy nghiệp cổ câm, Sãi thêm giận lắm.
Khi Đổng Trác lung lăng nhà Hán, Sãi giận chàng Hà Tấn vô mưu.
Lúc Khuyển Nhung phá phách nhà Chu, Sãi giận gã Thân Hầu thất kế.
Máu sục sục sôi dòng Vị Thuỷ, giận Thương quân hành chánh chẳng lành.
Thây chan chan lấp nội Trường Bình, giận Bạch Khởi ra oai rất dữ.
Hớn dầu yếu, giận Lữ làm quái gở; Đường chưa suy, giận Võ dám lăng loàn.
Tôi Võ đà xấp xỉ Lộc san; tội Lữ cũng rắp ranh Vương Mãng.
Giận quanh giận quẩn, giận chẳng hay cùng.
Giận Vãi sao chẳng chút mến lòng, khiến sãi luống giận hoài mệt mỏi.
Lại còn thêm một nỗi, sãi có bịnh hay yêu.
Chẳng yêu kẻ dâm kiêu, chỉ yêu người trung chánh.
Luận trong chơn tánh, đầu phải yêu thân; suy lý hành nhân, cuối thì yêu vật.
Yêu chí thiết, yêu người nhân đức; yêu mặn nồng, yêu kẻ tín thành.
Yêu trượng phu lượng rộng thinh thinh; yêu quân tử lòng ngay trác trác
Yêu gan sắt, mài mà chẳng nát; yêu lòng son, nhuộm cũng chẳng đen.
Yêu lỗ tai, lời trung chánh nghe quen; yêu con mắt, việc cổ kim dèm tỏ.
Tiết lạnh lẽo, Sãi yêu kỳ kỳ ruổi giong.
Con thảo cha, Sãi yêu bằng ngọc bằng vàng; tôi ngay chúa, Sãi yêu bằng châu bằng báu.
Luận như yêu đạo, thì Sãi yêu đạo trung dung; suy như yêu lòng, thì Sãi yêu lòng nhân ngỡi.

Vãi rằng:
Yêu mà nhà lợi, nước lợi, thiên hạ lợi, chi bằng yêu hiền?
Yêu mà tài nên, đức nên, phú quý nên, chi bằng yêu sĩ?

Sãi rằng:
Yêu trang tuệ trí, yêu kẻ tài năng,
Như yêu sự lăng nhăng, chi bằng yêu mụ Vãi?
Tưởng chuyện nầy còn dại, bịnh hay ghét ở mình.
Ghét chẳng phải vô tình, ghét thiệt là hữu thú.
Ghét Kiệt, ghét Trụ; ghét Lệ, ghét U
Ghét nhân chánh chẳng tu, ghét cang thường nỡ bỏ.
Luận như ghét cho đủ, Sãi ghét đứa bất hiếu, bất trung;
Luận như ghét cho cùng, Sãi ghét đứa đại gian đại ác.
Ghét kỳ ghét quặc; ghét lạ ghét lùng.
Đọc Ngu Thơ ghét đảng Tứ hung; coi Tống Sử, ghét bầy Ngũ quỷ.
Ghét hoài, ghét huỷ; ghét ngọt, ghét ngon.
Ghét đứa cầu mị mà giết con, ghét đứa tham sang mà hại vợ.
Uốn lưỡi vạy, ghét người nước Sở; dạ tham lam, ghét kẻ nước Tề.
Ghét đứa gian hay cậy thế cậy thì, ghét đứa dữ hay hại nhà hại nước.
Ghét thấy lợi mà chạy xuôi chạy ngược; ghét thấy nghĩa mà lo thiệt lo hơn.
Sãi ghét người ích kỷ hại nhơn; Sãi ghét đứa gian phu dâm phụ.
Ghét đứa hay co hay cú; ghét người chẳng thiệt chẳng thà.
Ấy là ghét xưa nay mấy việc người ta, chưa bằng ghét Vãi sao vô tình cùng Sãi.
Lại bịnh nầy khôn giải, về một nỗi muốn nhiều
Muốn trên cho sánh đức Thuấn Nghiêu; muốn dưới thảy nên tài Y Lữ.
Nghĩa từ hiếu, muốn chưng giường phụ tử; câu xướng tuỳ, muốn xử đạo vợ chồng.
Anh với em, muốn đễ muốn cung; bậu với bạn, muốn tin muốn thật.
Người hiền ngõ, Sãi muốn gần cho thiệt rất; đứa gian tà,
Sãi muốn tránh cho xa xôi.
Mở quyển vàng, tay chẳng muốn thôi; thấy đức bạc, mắt không muốn ghé.
Trong làng xóm, Sãi muốn không đảng tham ô.
Lưới thỏ giăng, sãi muốn cho củ củ võ phu;
Gót lân xéo, Sãi muốn cho chơn chơn công tử.
Muốn sao muốn dữ, muốn chẳng hay cùng;
Muốn kinh bang, chưa gặp vận hanh thông; muốn tế thế, hãy còn thời truân kiển.
Đá Tinh Vệ, muốn lấp sao cho cạn biển; đất nghĩ phù, muốn đắp để nên non.
Muốn sao cho đều đặng vuông tròn, chi bằng muốn tu cùng mụ Vãi.
Những suy đi nghĩ lại, còn một bịnh sợ nhiều.
Sợ Quách Khai hay đặt nên điều; sợ Lâm Phủ ngọt lời báng huỷ.
Sợ sắc tốt, hại người Sùng phải luỵ; sợ báu kỳ, vu gã Viện mắc nàn.
Chị dâu sợ em vì sáu cái ấn vàng; tôi hiền sợ giặc vì một đôi ngọc trắng.
Sợ dài sợ vắn, sợ vẩn sợ vơ.
Thuyền họ Trương ở khô,
còn sợ sóng tràn bờ; đất nhà Kỷ vốn hẹp, hãy sợ trời sập mái.
Sợ giá mỏng, nước nhà cơ bại; sợ móc nhiều, thân gái mình gầy.
Dương Quan Tây còn sợ có bốn hay; Khổng Phu tử những dạy ba điều sợ.
Sợ vọt vắn, chưa mau chơn ngựa; sợ vách thưa, còn lậu hơi sương;
Sợ là sợ mật tuy lành mà ruồi những vấn vương; sợ là sợ hoa chẳng độc mà bướm đà mê mẩn.
Sợ càng ngơ càng ngẩn, sợ như dại như ngây.
Sợ tu chẳng trọn kiếp ông thầy, nữa rồi lại đụng nhằm mụ vãi.
Bờ giác ngạn dễ đà đặng lại; bởi thất tình còn hỡ năm mang.
Việc cổ kim chi xiết luận bàn; lời phẫn uất chút ra tiêu khiển.

Vãi rằng:
Nghe qua các chuyện, ngẫm lại hữu tình.
Khen ông sãi thuộc sử thuộc kinh; khen ông sãi có tài có trí.
Lời ăn nói thánh hiền đạo vị; khoa ngôn từ nghĩa lý văn chương.
Chẳng phải kẻ tầm thường, hẳn là trang cách vật.
Lôi Âm tự có tu mới thành Phật;
Thiên Thai sơn có phước cũng nên tiên.
Biết đường nào qua thấu Tây Thiên; cậy chỉ nẻo tu cùng khuya sớm.

Sãi rằng:
Vừa vừa vãi bợm, bớt bớt yêu tinh.
Chốn Thiên Đường còn cách trở minh minh; miền phạn sát, hỡi xa chưng vòi vọi.
Tây Phương không đường tới; Bắc lộ khó nẻo qua.
Đường Nam phương thấy đó chẳng xa, thì những sợ nhiều quân Đá Vách.
Tưởng thôi lạc phách, nhớ đến kinh hồn.
Nọ giết người như dế như trùn; nọ hại người như rít như rắn.
Đến đâu là tảo tận; bắt đặng ắt giết tươi.
Đã vào làng cướp của hại người; lại xuống nội đuổi trâu bắt ngựa.
Hãy tu đây nương dựa; chớ qua đó làm chi.
Đừng đi quàng gặp vãi nó bắt đi, rồi lại bỏ Sãi bồ côi bồ cút.

Vãi rằng:
Kinh trung hữu thuyết: “Nhung Địch thị Ưng:
Ai chịu quyền trọng trấn nhứt phương; nếu không đáng để sau sanh tệ.
Đạo tu lòng chẳng trễ, công mài sắt ắt nên.
Mặc ai xao lãng lòng thiền;
Đạo ta ta giữ cho bền thì thôi.
Thôi thời ông sãi hãy ngồi,
Tây Phương Vãi tới tìm nơi Thiên Đường.
Muôn năm chúc tuổi Nguyễn Vương,
“Nam mô” hai chữ phi thường mặc ai.

HẾT

Điển Sử » Cổ văn Việt Nam » Thơ » Sãi Vãi

 

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...