T
TA
BÀ 娑 婆
Hay “Sa bà”.
Ta bà hay Sa bà do chữ Phạn là Saha, còn gọi là Ta bà thế giới. Theo Phật, thế giới Ta bà là một đại thiên thế giới và địa cầu nơi con người ở chỉ là một nơi rất nhỏ bé trong thế giới Ta bà. Ta bà Hán dịch là kham nhẫn 堪 忍, tức chỉ chúng sanh ở thế giới này phải nhẫn chịu nhiều điều khổ sở, phiền muộn.
1.- Ta bà:
Con nguyện xin khuôn linh giúp sức,
Bước Ta bà giục thức huệ quang,
(Kinh Thế Đạo).
Càn khôn để bước Ta bà,
Đoạt cơ thoát tục tạo nhà cõi Thiên.
(Kinh Thế Đạo).
Nước non để bước Ta bà,
Sô xiêm đem nhuộm màu dà gọi duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
2.- Sa bà:
Tây phương tịnh độ ngỡ là xa,
Ngày nay mới biết nội Sa bà.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TÀ
CHÁNH 邪 正
Tà: Cong
queo, không ngay thẳng. Chánh: Đúng đắn,
không tà vạy.
Tà chánh là hai thế lực thường đối kháng nhau như nước lửa, Âm Dương, luôn luôn hiện hữu trong các pháp, tạo thành hai lực để lôi cuốn theo hai chiều ngược nhau, hầu thúc đẩy sự tiến hoá của vạn vật.
Xem: Chánh tà.
Tà chánh thế gian không biện biệt,
Chánh tà tâm nội có đâu xa.
(Thơ Đức Hộ Pháp).
TÀ DÂM 邪 婬
Tà:
Cong vạy, gian trá. Dâm: Ham muốn khoái lạc xác thịt nam nữ.
Tà dâm là ham muốn khoái lạc xác thịt nam nữ một cách bất chính, bậy bạ.
Tà dâm cũng là một trong ngũ giới cấm.
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm.
(Truyện Kiều).
TÀ
DƯƠNG 斜 陽
Tà:
Bóng xế. Dương: Mặt trời.
Tà dương là mặt trời đã ngả về tây, chỉ trời về chiều, hay trời sắp tối.
Đất bằng bỗng rấp chông gai,
Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương.
(Cung oán Ngâm Khúc).
Trời tây ngả bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
(Thơ Tản Đà).
TÀ HUY 斜 輝
Tà:
Xế. Huy: Ánh mặt trời.
Tà huy là ánh sáng mặt trời đã xế bóng, chỉ trời sắp chiều.
Cầu Thệ thuỷ ngồi trơ cổ độ,
Quán Thu phong đứng rũ tà huy.
(Cung Oán ngâm Khúc).
TÀ MỴ 邪 魅
Tà:
Tà ma. Mỵ: Quỷ quái.
Tà mỵ là bọn yêu tinh ma quái, luôn luôn bày trò giả dối để lừa gạt và hãm hại kẻ tu hành. Đồng nghĩa với tà quái.
Tà mỵ phàm rung rinh chất Thánh,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
(Đạo Sử).
TÀ NGUYỆT 斜 月
Tà:
Xế, xiên. Nguyệt: Mặt trăng.
Tà nguyệt là bóng trăng xế lặn, trăng tàn.
Hóa công sao khéo trêu ngươi,
Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi
ký sinh.
(Cung Oán ngâm Khúc).
Cửa Hàm quan khi chói lói ngọn đào,
rèm tà nguyệt ố màu la ỷ
cũ.
(Tần Cung Nữ).
TẢ ĐẢN 左 袒
Hay “Hữu đản 右 袒”.
Tả hữu:
Trái và phải. Đản: Tay áo.
Sau khi Hán Cao Tổ mất, bà Lữ hậu muốn chiếm quyền để đưa họ Lữ lên.
Trong triều có Thái uý Châu Bột trung thành với họ Lưu nên muốn tiêu diệt họ Lữ. Châu Bột ra lịnh với ba quân: Kẻ nào theo họ Lữ thì tay áo bên mặt xăn lên và đứng riêng một bên, kẻ nào theo họ Lưu thì tay áo bên trái xăn lên và qua đứng bên kia. Ta sẽ giết những người theo họ Lữ và thưởng cho những người theo họ Lưu. Quân lính nghe vậy đều ùa nhau theo họ Lưu, nhờ vậy mà Châu Bột trừ được họ Lữ.
Sau này, khi thiên vị để giúp đỡ người nào thì gọi là tả đản (Hoặc đản hộ), còn không muốn giúp bên nào thì gọi là bất tả hữu đản.
Nhân khi ra đánh Thái bình,
Vén tay tả đản , về thành
tập công.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TẢ NHẪM 左 衽
Tả:
Bên trái. Nhẫm: Vạt áo.
Vạt áo khuy cài về phía tả. Ngày xưa người Tàu gọi bọn man di mọi rợ là tả nhẫm, tức áo cài phía tay tả. Người Tàu cài phía bên hữu.
Trong Luận Ngữ đức Khổng Tử có nói: Không có Quản
Trọng thì chúng ta sẽ khép vạt áo bên tả hết, ý muốn nói không có Quản Trọng
thì phong hoá suy đồi, văn minh sẽ thành mọi rợ hết.
Tay tả nhẫm áo kia khỏi mặc,
việc ấy bởi vì ai,
đọc Luận Ngữ cớ sao chê Quản Trọng.
(Gia Định Thất Thủ Phú).
TẢ TƠI
NỖI MẸ
Tả tơi là rách rưới, tan nát.
Tả tơi nỗi mẹ ý muốn nói tình cảnh của bà mẹ khổ
sở, chịu cảnh rách rưới, tả tơi.
Còn thân thiếp chịu khốn nàn,
Tả tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TẢ XUNG
HỮU ĐỘT 左 衝 右 突
Hay “Tả đột hữu xông 左 突 右 衝”.
Tả hữu:
Bên tay trái và tay phải. Xung (Hay
xông) đột: Va chạm, hay xông vào đánh
nhau.
Tả xung hữu đột hay tả đột hữu xông là đánh bên tả rồi thọc bên hữu một cách dũng mãnh, khiến đối phương luống cuống.
1.- Tả xung hữu đột:
Đà hết sức tả xung hữu đột,
Lại vô phương đông đãng tây trừ.
(Nhạc Hoa Linh).
2.- Tả đột hữu xông:
Vân Tiên tả đột hữu xung
Khác nào Triệu Tử mở vòng Ðương Dương.
(Lục Vân Tiên).
TẠ ĐẠO
UẨN 謝 道 韞
Tạ Đạo Uẩn có chồng là Vương Ngưng Chi đời nhà Tấn, cháu của Tạ An. Nàng là một người thông minh học rộng, có tài biện bác. Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Hiến Chi nói chuyện, hay tranh luận với khách thường lý lẽ không được thông suốt, lập luận kém cỏi, nàng bảo thị tỳ thưa với Hiến Chi làm một cái màng che lại, nàng ngồi sau màn nhắc cho em chồng. Nhờ có Đạo Uẩn mà Hiến Chi khuất phục được tân khách.
Gái như Tạ Đạo Uẩn,
gái mà hay vịnh tuyết thành thơ;
Gái như Thái Văn Cơ,
gái mà biết phân cầm nên khúc.
(Sãi Vãi).
TẠ GIA
BÁU
Cây báu của nhà họ Tạ, chỉ người tài giỏi, quý giá.
Tạ Huyền là người tài giỏi, được người chú rất quý
mến, ví như cây báu trong sân nhà họ Tạ.
Tạ gia báu ấy khôn noi,
Láng giềng Mạnh Mẫu tạm nguôi tấc thành.
(Thơ Lãng Nhân).
TẠ NỮ 謝 女
Tạ nữ là con gái nhà họ Tạ, tức là nàng Tạ Đạo Uẩn, một người con gái nổi tiếng về văn thơ, vợ của Vương Ngưng Chi đời nhà Tấn.
Xem: Tạ Đạo Uẩn.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ, cũng tày Từ phi.
(Lục Vân Tiên).
TẠ PHÓ 謝 傅
Tức là Tạ An, tự An Thạch, người đời Tấn. Tạ Phó từ lúc nhỏ đã nổi tiếng là người tài giỏi, nhưng đến lúc lớn lên không chịu ra làm quan.
Đến năm 40 tuổi, Tạ An mới chịu ra nhận chức Tư
Mã, sau cùng với cháu là Tạ Huyền đem quân đi dẹp giặc, lập được công rất lớn,
được phong đến chức Thái Phó thì mất.
Đánh dây cương cửa tường Tạ Phó,
Người phong lưu mới đó thấy chi.
(Hoài Nam Ca Khúc).
TẠ
VƯƠNG 謝 王
Tạ, Vương là hai thế gia ở Ô Y hạng của đời nhà Tấn. Hai họ nổi tiếng giàu sang, và đời đời kế tiếp nhau làm quan to trong triều đình.
Xem: Vương Tạ.
Trập trùng quán thấp lầu cao,
Tạ Vương mấy chốn, Nguyễn, Đào mấy nơi.
(Nhị Độ Mai).
TÁC CHỪNG
Xem hình dáng của người để phỏng định về tuổi đời của người đó, gọi là “Tác chừng”.
Một người ở phủ Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi
mươi.
(Lục Vân Tiên).
TÁC HỢP 作 合
Hay “Tác Hiệp”.
Tác hợp là làm cho đôi trai gái kết hợp thành vợ
chồng. Trong Kinh Thi có câu: Thiên tác chi hiệp 天 作 之 合,
nghĩa là Trời làm cho hai bên trái gái hợp lại với nhau. Nghĩa bóng: Làm cho
đôi trai gái thành vợ chồng.
Đã rằng: Tác hợp duyên trời,
Làm chi cho vẩn lòng người lắm nao?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Đường tác hợp trời kia run
rủi,
Trốn làm sao cho khỏi nhân tình.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
TÁC THIỆN 作 善
Tác thiện là làm việc thiện, tức làm lành.
Sách Thượng Thư cũng nói rằng: Tác thiện
giáng chi bá tường; tác bất thiện giáng chi bá ương 作 善 降 之 百 祥; 作 不 善 降 之 百 殃,
nghĩa là hễ ai làm việc lành thì Trời ban cho trăm điều phước; hễ ai làm việc
chẳng lành thì Trời xuống cho trăm điều họa.
Hoá cơ vãng phục chẳng lầm,
Để cho tác thiện lục trầm lẽ đâu.
(Tự Tình Khúc).
TẠC
CANH 鑿 耕
Tạc:
Đào, xoi. Canh: Cày cấy.
Tạc canh là đào giếng và cày ruộng.
Bài “Khang cù” do dân hát trong đời vua Nghiêu có
câu: Canh điền nhi thực, tạc tỉnh nhi ẩm 耕 田 而 食 鑿 井 而 飲,
nghĩa là cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống. Ý nói đời thái bình an lạc, không
có gì phải lo lắng, sợ sệt.
Ngẫm nay đà vui thú tạc canh,
Đành chốn chốn cũng ca đồng vũ tẩu.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
TẠC DẠ
GHI XƯƠNG
Tạc dạ:
Khắc vào lòng dạ. Ghi xương: Ghi vào xương cốt.
Tạc dạ ghi xương có nghĩa là khắc vào xương cốt ghi vào lòng dạ, ý nói ghi sâu trong tâm khảm.
Tôi nghe lòng những lo lường,
Cúi xin tạc dạ ghi xương trọn
đời.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TẠC THÙ 酢 酬
Tạc:
Khách rót rượu mời lại chủ. Thù: Chủ rót rượu mời khách.
Tạc thù hay thù tạc là chủ khách mời rượu nhau.
Nghĩa rộng: Vui vẻ mời mọc nhau.
Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
(Truyện Kiều).
Toà đá nọ hãy nghi câu canh hoạ,
Dòng nước kia đương nổi chén tạc
thù.
(Tụng Cảnh Tây Hồ Phú).
TẠC TỈNH 鑿 井
Bởi câu “Tạc tỉnh nhi ẩm 鑿 井 而 飲”, nghĩa là đào giếng mà uống.
Tạc tỉnh có ý nói đời thái bình an lạc, sống tự tại an nhàn, nên tự cày mà ăn, tự đào mà uống.
Xem: Canh tạc.
Ruộng nhiều quê tổ năm ba thủa,
Tạc tỉnh canh điền tự tại nhàn.
(Quốc Âm Thi Tập).
TAI BAY
HOẠ GỬI
Tai bay:
Tai ách bay đến. Hoạ gửi: Hoạ hại gửi vào. Tai bay họa gửi ý nói tai hoạ đến một
cách thình lình, vô can mà phải nhận lãnh.
Mấy thu dư ân đội nghĩa mang,
Nay một phút tai bay họa gởi.
(Nhạc Hoa Linh),
TAI HOẠ 災 禍
Tai:
Cái tai ách. Hoạ: Điều tổn hại.
Tai họa là những thứ rủi ro lớn lao đưa đến khiến người ta phải chịu tổn hại và khốn khổ.
Biết mưu chi cứu khỏi rạc ràng,
Cho Mẫu Hậu thoát nơi tai họa.
(Nhạc Hoa Linh).
Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai họa trả liền
(Kinh Sám Hối).
TAI MẮT
THÔNG MINH
Bởi câu “Nhĩ mục thông minh nam tử thân, hằng quân phú dữ bất vi bần 耳 目 聰 明 男 子 身, 恆 君 賦 與 不 為 貧, nghĩa là tai mắt sáng suốt là thân người con trai, trời phú bẩm cho chẳng phải hèn kém.
Phú cho tai mắt thông minh,
Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
(Gia Huấn Ca).
TAI MÈO
Tai mèo là một loại đá có hình dạng nhỏ tròn và nhọn giống như tai con mèo. Do vậy, người ta mượn chữ “Tai mèo” để diễn tả đường đá tai mèo đi quanh co, khó khăn, vất vả.
Bước cao bước thấp gập ghềnh,
Quăn queo đuôi chuột, chênh vênh tai
mèo.
(Nhị Độ Mai).
TAI
ƯƠNG 災 殃
Tức là tai nạn hoạ ương, như cháy nhà, đại hạn, bảo lụt…
Kinh thư có câu: Tác bất thiện thọ chi bá
ương 作 不 善 受 之 百,
nghĩa là làm việc chẳng lành thọ lấy trăm điều tai hoạ.
Vân Tiên nghe nói thảm thương,
Lại bày mọi khúc tai ương phận mình.
(Lục Vân Tiên).
Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại.
Độ kẻ lành chế cải tai ương.
(Kinh Tận Độ).
Như nhiên lành phước dữ tai ương,
Một trả một vay cũng lẽ thường.
(Đạo Sử).
TAI
VÁCH MẠCH RỪNG
Bởi câu tục ngữ “Vách có tai rừng có mạch”.
Tai vách mạch rừng tức là kín như vách cũng có thể
nghe được, rậm như rừng cũng có mạch nhỏ (lối đi), ý nói chuyện gì cũng không
thể giữ bí mật, bởi ở đâu dù nơi vắng vẻ, cũng có người nghe, biết được cả.
Ở đây tai vách mạch rừng,
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
(Truyện Kiều).
Chỉn e tai vách mạch rừng,
Làm cho kín mít như bưng mới là.
(Nhị Độ Mai).
TÁI ÔNG
ĐƯỢC NGỰA
Bởi tích “Tái ông thất mã 塞 翁 失 馬”, tức là ông lão ở gần quan ải bị mất ngựa, người trong làng cho ông gặp rủi. nhưng theo ông trong rủi có may. Thật vậy, sau con ngựa trở về dẫn theo một con ngựa khác, đó là điều may. Nhưng trong may có rủi, trong rủi lại có may, cứ thế may rủi lần lượt đến với ông.
Xem: Tái ông thất mã.
Cho hay hoạ phúc bất kỳ,
Tái ông được ngựa lộ kỳ mất dê.
(Hoài Nam Ca Khúc).
TÁI ÔNG
THẤT MÃ 塞 翁 失 馬
Ông lão gần nơi quan ải bị mất ngựa.
Do tích: Tái ông là một người ở gần nơi quan ải.
Con ngựa ông vô cớ đi mất. Mọi người nghe tin, đến chia buồn. Ông lão nói:
Không có chi, biết đâu chẳng phải là điều may. Mấy tháng sau, ngựa trở về mang
theo một con ngựa tốt khác. Mọi người nghe tin đến chúc mừng, ông lão nói:
Không có gì vui, biết đâu chẳng phải là điều hoạ. Ít lâu sau, con ông lão Tái
ông bắt con ngựa hay cỡi, ngựa té gãy đùi. Mọi người nghe tin đến chia buồn.
Tái ông nói: Không có gì, biết đâu chẳng phải là điều may?. Năm sau, giặc Hồ
tràn vào cửa ải, trai tráng phải ra chiến đấu. Người ở làng mười chết hết chín,
con Tái ông vì cỡi ngựa bị què chân nên không bị ra chiến trận, vì thế vẫn còn
sống sót. Cho nên người xưa nói: Trong phúc có hoạ, trong hoạ có phúc.
Hàn Tín nên công chưa cả mặt,
Tái ông thất mã hoá chau mày.
(Bạch Vân Quốc Ngữ).
TÁI
SINH 再 生
Hay “Tái sanh”.
Tái:
Lại một lần nữa. Sinh: Sanh ra đời.
Tái sinh tức là sinh lại một lần nữa. Hoặc nói về kiếp sau.
Tái sinh chưa dứt hương thề.
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
(Truyện Kiều).
Dầu đoạt vị ở an Thiên cảnh,
Dầu tái sanh mở cảnh siêu
phàm.
(Kinh Thế Đạo).
TÁI TIẾU 再 醮
Tái:
Lại một lần nữa. Tiếu: Rót rượu đưa cho con gái uống trong ngày rước dâu để
khuyên bảo trước khi con gái về nhà chồng.
Tái tiếu là người đàn bà uống rượu về nhà chồng lần nữa, tức là đàn bà lấy chồng lần thứ hai.
Ví dầu đứt mối, tối nằm
Đã rằng tái tiếu cho nhằm
sách xưa.
(Huấn Nữ Ca).
TÁI TU 再 修
Tái:
Lại lần nữa. Tu: Sửa sang.
Tái tu là sửa sang lại một lần nữa.
Đại La mới đắp lũy vòng,
Ái, Hoan thành cũ đều cùng tái tu.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TÁI THẾ 再 世
Tái: Lại một lần nữa. Thế: Đời.
Tái thế là đến thế gian một lần nữa, tức ra đời lần thứ hai, sống lại lần thứ hai.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế ngựa
trâu công đền.
(Kinh Sám Hối).
TÁI THẾ
TƯƠNG PHÙNG 再 世 相 逢
Tái thế:
Ra đời lần thứ hai, sống lại lần thứ hai. Tương phùng: Gặp gỡ
nhau.
Tái thế tương phùng là gặp nhau ở đời thứ hai, ý nói chết đi rồi được sống lại để gặp gỡ gia đình hay người thân quen.
Được rày tái thế tương phùng.
Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
(Truyện Kiều).
TÀI HOA 才 華
Tài:
Hay, giỏi. Hoa: Rực rỡ.
Tài hoa là người tài giỏi, có tài năng rực rỡ phát lộ ra bên ngoài.
Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
(Truyện Kiều).
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
(Truyện Kiều).
Quan lão luyện, khách tài hoa,
Cuộc cờ trên lái, đường tơ dưới lèo.
(Nhị Độ Mai).
TÀI MẠO 才 藐
Tài:
Hay, giỏi. Mạo: Dáng dấp bề ngoài, mặt mày.
Tài mạo là nói người có tài hoa và dung mạo, tức có tài năng lẫn dáng vẻ trang nhã bên ngoài.
Phong tư tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
(Truyện Kiều).
Phúc lành nhờ ấm xuân huyên,
So trong tài mạo kiêm tuyền
kém ai.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Văn chương tài mạo ai bì,
Có chăng là một chữ "thì " kém
ta.
(Nhị Độ Mai).
Khi gặp đặng phải trang tài mạo,
Hoặc trao trâm đắp áo làm tin.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÀI MỆNH
GHÉT NHAU
Hay “Tài mạng ghét nhau”.
Bởi chữ “Tài mệnh tương đố 才 命 相 妒” nghĩa là tài năng và vận mệnh hay khắc với nhau, tức người tài giỏi thường gặp phải mạng xấu, hay vận bĩ.
Minh Thi có câu: Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương 古 來 才 命 兩 相 妨, nghĩa là xưa nay tài mệnh không ưa nhau.
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo
là ghét nhau.
(Truyện Kiều).
Tài mạng thường hay ghét lẫn nhau,
Hễ là có nhọc mới danh cao.
(Đạo Sử).
TÀI SẮC 才 色
Tài:
Hay giỏi. Sắc: Chỉ sắc đẹp.
Tài sắc là người có tài năng và sắc đẹp.
Thúy Kiều tài sắc ai bì,
Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ.
(Truyện Kiều).
Tài sắc thương thay cũng một đời,
Lầu xanh lần lữa buổi hôm mai.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
Hồng quần tài sắc đa
truân,
Vào vòng bạc phận, chi mong trọn quyền.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÀI TÁN DÂN TỤ 財 散 民 聚
Tài tán:
Tài sản phân chia ra. Dân tụ: Dân chúng nhóm họp lại.
Nếu đem của cải mà phân chia ra thì dân chúng ắt tụ họp về tùng phục.
Sãi muốn nói một chuyện:
“Tài tán tắc dân tụ” cho Vãi
hay,
thì Châu làm sao nên hưng mà phải thuyết.
(Sãi Vãi).
TÀI TỤ
DÂN TÁN 財 聚 民 散
Tài tụ:
Gom tiền bạc, của cải lại. Dân tán: Dân chúng tản mác ra.
Nếu tiền bạc, của cải gom vào vào kho thì dân chúng không được gì, ắt phải bỏ ra đi tứ tán.
Sãi muốn nói một chuyện:
“Tài tụ tắc dân tán” cho Vãi biết
thì Thương làm sao nên mất mà phải bày.
(Sãi Vãi).
TÀI TỬ
GIAI NHÂN 才 子 佳 人
Tài tử:
Người có tài xuất sắc. Giai nhân: Người đàn bà đẹp.
Tài tử giai nhân nghĩa là trai tài gái sắc, chỉ trai gái xứng đôi vừa lứa.
Xem: Giai nhân tài tử.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
(Truyện Kiều).
Thật là tài tử giai nhân,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
(Truyện Kiều).
Mấy vàng đổi được khắc xuân.
Xưa nay tài tử, giai nhân lạ
gì?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Thực là tài tử giai nhân,
Hình dung tướng mạo mười phân chỉnh tề.
(Nữ Tú Tài).
TẠI GIA
TÒNG PHỤ 在 家 從 父
Tại gia tòng phụ là nết thứ nhứt trong đạo tam tòng của phụ nữ. Đạo tam tòng gồm có: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử 在 家 從 父, 出 嫁 從 夫, 夫 死 從 子, nghĩa là ở nhà theo lời dạy của cha, lấy chồng theo chồng, Chồng chết theo con.
Thủa tại gia phải tòng
phụ giáo,
Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên.
(Gia Huấn Ca).
TAY
NÂNG NGANG MÀY
Bởi chữ “Cử án tề my 舉 案 齊 眉”, tức là nâng bát ngang mày, chỉ sự lễ độ, cung kính của người đàn bà hoặc người vợ đối với chồng.
Do tích Mạnh Quang khi về làm vợ Lương Hồng, mặc
áo vải, giày gai, đi giã gạo thuê, về nhà lo việc cơm nước, mỗi lần dọn cơm cho
chồng, tay nàng nâng bát lên ngang mày.
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày.
(Truyện Kiều).
TÀY NON
TỢ BIỂN
Tày non:
Bằng núi non. Tợ biển: Như biển cả.
Tày non tợ biển là bằng với núi tựa như biển, ý nói tình cảm, hay ơn nghĩa cao nặng như núi non, sâu rộng như biển cả.
Tình huynh đệ tày non tợ biển,
Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.
(Giới Tâm Kinh).
TAM
BÀNH 三 彭
Tam:
Ba. Bành: Tên vị Thần.
Theo Kinh sách Phật, mỗi con người chúng ta đều có ba vị Thần là Bành Kiêu, Bành Cứ và Bành Chất, chúng thường xúi dục ta làm điều xằng bậy, rồi cứ đến ngày canh thân thì lên tâu với Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Còn sách Đại Giáo gọi là Tam thi.
Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:
(Truyện Kiều).
Thuận lòng bao quản sang hèn,
Tam bành bà đã nổi lên một hồi.
(Nhị Độ Mai).
Nổi tam bành xô hất khỏi
mùng,
Chừng ấy khóc lo chung xuống ghế.
(Phương Tu Đại Đạo).
TAM BẢO 三 寶
Theo giáo lý Phật, tam bảo là Phật, Pháp, Tăng.
- Phật là bậc đã giác ngộ hoàn toàn, tự mình giác ngộ (Tự giác), đem chân lý ấy chỉ dạy cho người khác cũng được giác ngộ (Giác tha), thành tựu công hạnh trọn vẹn (Giác hạnh viên mãn).
- Pháp là những lời Phật dạy, những kinh sách, giới luật, phương pháp tu hành.
- Tăng là đoàn thể những người tại gia hoặc xuất
gia nguyện cùng tu học.
Trên tam bảo dưới tam đồ,
Lòng tin hai chữ nam mô báo đền.
(Truyện Phan Trần).
Giàu sang no ấm thong dong,
Tam bảo tôn sùng, cúng thí, trì trai.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TAM BẤT
HIẾU 三 不 孝
Ba điều bất hiếu.
Mạnh tử nói: Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại 不 孝 有 三, 無 後 為 大, nghĩa là có ba tội bất hiếu, tội lớn hơn cả là không con nối dòng.
Theo Lễ có ba điều đáng gọi là bất hiếu: 1.-Không con nối dòng, 2.-không biết can ngăn cố chiều theo ý của cha mẹ để cho cha mẹ mắc điều bất nghĩa, 3.-Nhà nghèo cha mẹ già, không ra làm quan để hưởng bổng lộc nuôi cha mẹ.
Hữu tam bất hiếu đã đành,
Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.
(Lục Vân Tiên).
TAM CỐ
THẢO LƯ 三 顧 草 蘆
Ba lần tìm đến lều tranh.
Theo sách Tam Quốc Chí: Từ Thứ đề nghị với Lưu Bị
là phải thân hành đến cầu Khổng Minh mới mong được gặp, chứ không bao giờ Gia
Cát Lượng lại chịu khuất thân tìm đến. Lưu Bị nghe theo, bèn cùng với hai
em là Quan Vân Trường và Trương Dục Đức lên núi Ngoạ Long cầu Gia Cát Lượng về
giúp nhà Hán. Đi hai lần đầu đều không gặp và qua lần thứ ba, Khổng Minh mới
chịu tiếp kiến, rồi sau về làm quân sư cho Lưu Bị.
TAM CÔNG 三 公
Tức là ba chức to nhất trong triều đình thời xưa.
Đời nhà Châu: Thái Sư, Thái phó, Thái bảo. Đời Tây
Hán: Đại Tư Mã, Đại Tư Đồ, Đại Tư Không. Đời Đông Hán: Thái uý, Tư đồ, Tư
không.
Tam công chẳng đổi một ngày,
Chuyện xưa còn để đến rày sao nên.
(Hoa Tiên Truyện).
TAM
CƯƠNG 三 綱
Hay “Tam cang”.
Ba giềng mối.
Người xưa quan niệm rằng cái giềng lưới rất quan trọng, chỉ cần nắm bốn cái giềng lưới thì tất cả các mắt lưới đều dương ra hết.
Nghĩa bóng: Ba giềng mối quan hệ trong đạo nhân
luân, đó là quân thần (Vua tôi), Phụ tử (Cha con), Phu phụ (Vợ chồng).
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe chuyện kể tam cương.
(Gia Huấn Ca).
Tình phu phụ, nghĩa quân thân,
Trong tam cương ấy,
xem phần nào hơn?
(Hoa Tiên Truyện).
Nguyện tam cang gìn tâm trọn
đạo,
Nguyện ngũ thường hiếu thảo làm khuôn.
(Kinh Thế Đạo).
TAM ĐA 三 多
Tam đa là ý mong được ba cái nhiều: Đa tử 多 子 nhiều con, đa thọ 多 壽 nhiều tuổi thọ, đa phú quý 多 富 貴 nhiều sang giàu.
Có người lại cho tam đa là nhiều phúc, nhiều tuổi
thọ và nhiều con trai.
Thong dong rượu đến tuần ba,
Dạo đàn hát chữ tam đa mấy lời.
(Thanh Hoá Quan Phong).
TAM ĐẠI 三 代
1.- Tam đại là ba đời trong gia tộc, đó là đời cha (Phụ), đời ông (Tổ), đời cố (Tằng tổ).
2.- Tam đại là ba đời vua: Nhà Hạ, nhà Thương, nhà
Chu.
Hai mươi năm lẽ kiền khôn.
Đã sau Tam Đại, hãy còn Thành, Khang.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
TAM ĐẢO 三 島
Ba hòn đảo, dùng để gọi ba trái núi thần tiên.
Tam đảo gồm có Bồng đảo (Bồng lai), Phương đảo
(Phương trượng), Doanh đảo (Doanh châu) ở trong biển Bột Hải. Theo truyền
thuyết trên Tam đảo có các vị tiên thường ở đấy.
Trên tam đảo dưới cửu tuyền,
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
(Truyện Kiều).
TAM ĐỒ 三 途
Ba con đường.
Theo giao lý Phật giáo, những người sống trên
dương thế có hành vi hung bạo, ác đức, phải chịu đoạ xuống ba đường: Địa ngục,
ngạ quỷ, súc sinh. Trong kinh Phật nói rằng: Địa ngục tên là hỏa đồ, ngạ quỷ
tên là đạo đồ, súc sanh tên là huyết đồ.
Trên tứ bảo, dưới tam đồ,
Lòng tin hai chữ nam mô báo đền.
(Truyện Phan Trần).
Tam đồ lục đạo đâu ngoa,
Kinh xưa truyền bảo chắc đà không sai.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi,
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên.
(Phật Nói Vu Lan).
TAM
GIÁO 三 教
Tam giáo, lúc đầu là ba học thuyết, sau trở thành ba nền Tôn giáo lớn ở Trung Hoa và Việt Nam, đó là Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo.
Trong đám cửu lưu đều nói tổ,
Bên đường Tam giáo cũng
xưng thầy.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Nam Mô Tam giáo diệu huyền,
Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.
(Kinh Tận Độ).
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam giáo đọa đày
thế ni.
(Kinh Sám Hối).
Trong Tam giáo có lời khuyến
dạy
Gốc bởi lòng làm phải làm lành
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Tam giáo lành khen cùng ác trị,
Dạy đời biết trọng lấy ân Thiên.
(Đạo Sử).
TAM GIỚI 三 界
Ba cõi giới. Theo nhà Phật, ba cõi giới đó là:
- Dục giới 欲 界: Cõi sống của chúng sinh còn ham muốn vật chất và dục vọng, tức là
còn trong vòng tình dục.
- Sắc giới 色 界: Cõi sống của chúng sinh đã thanh tịnh hơn, không còn tham dục nhưng còn hình thể sắc tướng.
- Vô sắc giới 無 色 界: Cõi không có hình thể, sắc tướng, không có dục vọng.
Nếu phân chia theo Thần thoại dân gian, ba cõi giới đó là: Thượng giới, Trung giới và Hạ giới.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập
phương.
(Thập Loại Chúng Sinh).
Trong ba ngàn, Sãi vui để một bầu;
Ngoài sáu đạo, Sãi vui với tam giới;
(Sãi Vãi).
TAM
HOÀNG 三 皇
Ba vị vua Thánh thời thượng cổ của Trung Quốc.
Về Tam Hoàng nhiều thuyết khác nhau, có sách nói là Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhơn Hoàng.
Cũng có sách viết Tam Hoàng là Phục Hy, và Thần Nông và Hoàng Đế.
Sãi thương Đấng Tam Hoàng;
Sãi thương ngôi Ngũ Đế.
(Sãi Vãi).
Dẫn rằng: Người thuở Tam Hoàng,
Có ông Tựu Thải mở mang mối đầu.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
TAM KỲ
LỘ 三 岐 路
Tam:
Ba. Kỳ lộ: Đường có nhiều rẽ.
Tam kỳ lộ là đường có ba ngã rẽ.
Do sách Liệt Tử chép: Người hàng xóm của Dương Chu mất dê, phải huy động nhiều người đi tìm. Dương Chu hỏi: Tại sao mất một con dê mà phải đi tìm đông người như vậy? Người hàng xóm đáp: Vì đường có nhiều ngã rẽ quá. Sau đó những người đi tìm dê trở về không, Dương Chu hỏi vì sao, họ trả lời: Trong những con đường ấy lại còn có những con đường rẽ khác, nên không biết dê chạy đường rẽ nào.
Câu chuyện trên cho thấy đạo Thánh hiền chỉ có một nhưng về sau thay đổi nhiều đường lối khiến người theo học dễ bị lầm lạc.
Xem: Ba ngã người Chu khóc.
Xảy vừa tới chốn tang trung,
Thấy tam kỳ lộ trong lòng sanh nghi.
(Dương Từ Hà Mậu).
TAM KIỆT 三 傑
Ba vị hào kiệt giúp cho Lưu Bang lập được nhiều công lớn trong việc dựng nên nghiệp nhà Hán: Đó là Trương Lương, Hàn Tín và Tiêu Hà.
So Tam kiệt ai bằng Hàn
Tín,
Một tay thu muôn dặm nước non.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
TAM
KHÔI 三 魁
Tam:
Ba. Khôi: Đứng đầu.
Tam khôi là ba bậc đỗ đầu trong kỳ thi đình, đó là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
Công danh ai dễ nhường ai,
Hai chàng cùng chiếm tam khôi bảng
vàng.
(Nữ Tú Tài).
TAM LƯỢC
LỤC THAO 三 略 六 韜
Tam lược:
Tên sách do Hoàng Thạch Công soạn. Sách này theo Sử Ký chép, Hoàng Thạch Công
đã trao cho Trương Lương ở cầu Hạ Bì.
Lục thao:
Tên cuốn sách của Thái Công Vọng soạn, chia thành Văn thao, Võ thao, Long
thao, Hổ thao, Báo thao và Khuyển thao.
Tam lược lục thao tức là lược thao, dùng để chỉ người giỏi về mưu kế binh pháp.
Xem: Sáu thao ba lược..
Lại cho đó có ròng tam lược,
Sao bằng đây làu thuộc lục thao?
(Nhạc Hoa Linh).
TAM MUỘI 三 昧
Tam:
Ba. Muội: Tăm tối, mê tối.
Theo Phật, tam muội là ba điều mê tối là tham, sân, si. Nếu không diệt được ba điều này, nó sẽ trở thành thứ lửa mà Phật gọi là lửa tam mụội. Vì thế người tu phải vượt khỏi ba điều mê muội ấy.
Ước siêu tam muội,
Ngõ thoát cửu huyền.
(Sãi Vãi).
TAM
NGUYÊN 三 元
Tam nguyên là người đỗ đầu luôn hết ba khoa: Thi hương, thi hội, và thi đình.
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp,
Khoét thằng mặt trắng lấy tam
nguyên.
(Thơ Nguyễn Khuyến)
TAM
PHÁP 三 法
Tức “Tam pháp ty 三 法 司”, tên một toà án đặc biệt, mỗi khi có việc xét xử gì quan trọng mới lập để xét xử những vụ trọng phạm, gồm có quan chức ba tòa: Bộ Hình, Đại Lý Tự, Đô Sát Viện họp với nhau để phán xét, người ta quen gọi là "Ba tòa".
Nhàm tai chẳng nói chi dài,
Giao tam pháp nghị rạch
ròi sẽ tâu.
(Nhị Độ Mai).
TAM
PHÂN 三 分
Do chữ “Đỉnh túc tam phân 鼎 足 三 分”, là nói cái thế chia ba thiên hạ như hình chân vạc, tức ba phe có thế lực ngang nhau, đó là Thục của Lưu Bị, Nguỵ của Tào Tháo, Ngô của Tôn Quyền, sử gọi là đời Tam Quốc.
Tam phân gặp buổi đương tranh vạc,
Ngũ trượng ngờ đâu bóng tối sao.
(Thơ Lê Quý Đôn).
TAM
QUAN 三 關
Tam:
Ba. Quan: Cửa cổng.
Tam quan là tên một cái cửa lớn (Cổng), phần nhiều là cửa chùa, cửa các phủ thờ, có ba lối đi: Cửa giữa rộng, hai bên là cửa tả hữu, trên thì có mái che.
Tam quan ra ở mái ngoài,
Kẻo e miệng thế mỉa mai đến thầy,
(Quan Âm Thị Kính).
Phút lòng buồn bực chẳng an,
Dạo chơi ra chốn tam quan một
hồi.
(Dương Từ Hà Mậu).
Thấy người trước cửa tam quan,
Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể tam quan.
(Kinh Sám Hối).
TAM
QUANG 三 光
Tam:
Ba. Quang: Ánh sáng.
Tam Quang là ba nguồn ánh sáng là mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao (nhật, nguyệt, tinh).
Xem: Ngũ nhạc Tam quang.
Xen hình hơi chính trôi ra,
Dưới là Ngũ Nhạc, trên là Tam Quang.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Tam quang choi chói sắc chiêu minh,
Nay nảy đoan dương giữa tiết lành.
(Hồng Đức Quốc Âm).
TAM
QUÂN 三 軍
Tam:
Ba. Quân: Binh lính. Tam quân là ba đạo binh lính.
Ngày xưa, trong chế độ quân chủ, vua thì có lục quân, chư hầu thì tam quân. Về sau, chữ “Tam quân” dùng để gọi chung quân đội. Sách Luận ngữ có câu: Tam quân khả đoạt soái giả 三 軍 可 奪 帥 者, nghĩa là giữa chốn ba quân có thể bắt được viên chủ soái.
Xem: Ba quân.
Uy phong lừng lẫy tam quân,
Cõi Hồ bụi đục ải Tần quấy tanh.
(Cai Vàng Tân Truyện).
Truyền tam quân sát nhập tứ
vi,
Vân thê khởi thượng thành hãm chiến.
(Nhạc Hoa Linh).
TAM QUY
NGŨ GIỚI 三 皈 五 戒
Tam quy:
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Ngũ giới:
Năm điều giới cấm mà người tu hành không được phạm vào: 1). Bất sát sinh: Không
giết sinh vật, 2). Bất du đạo: Không trộm cắp, 3). Bất tà dâm: Không tà dâm,
4). Bất vọng ngữ: Không nói láo, 5). Bất tửu nhục: Không uống rượu, thịt.
Đưa nàng đến trước Phật đường,
Tam quy, ngũ giới cho nàng xuất gia.
(Truyện Kiều).
Tam quy, ngũ giới chứng minh,
Xem câu nhân quả, niệm kinh Di Đà.
(Truyện Phan Trần).
Ngày nay mộ đạo Di Đà,
Tam quy ngũ giới, bước ra phàm trần.
(Tội Vợ Vợ Chịu).
TAM
SINH 三 生
Hay “Tam sanh”.
Nhân duyên ba kiếp sống.
Do điển: Viên Trạch đời nhà Đường đi chơi với bạn là Lý Nguyên ở núi Tam Giáp, gặp một người đàn bà gánh nước giếng.Viên Trạch nói: Bà này có mang đã ba năm, đợi tôi vào làm con, tôi xin hẹn anh mười ba năm sau sẽ gặp nhau ở chùa Thiên Trúc, tỉnh Hàng Châu. Đêm đó Viên Trạch mất. Mười ba năm sau, Lý Nguyên tìm đến nơi đã hẹn, gặp một đứa bé chăn trâu, nghêu ngao hát rằng: Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn, Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân. Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng, Thử thân tuy dị tính trường tồn 三 生 石 上 舊 精 魂, 賞 月 吟 風 不 要 論. 慚 愧 情 人 遠 相 訪. 此 身 雖 異 性 長 存, nghĩa là ba sinh đá ấy cựu tinh hồn, Ngâm gió thưởng trăng khó nỗi bàn. Thẹn gặp người xưa thăm hỏi tớ, Thân này tuy khác, tính linh còn. Hát xong, đứa bé bèn quày quả đi. Lý Nguyên biết đứa bé chăn trâu đó chính là hậu thân của Viên Trạch.
Xem: Ba sinh.
Song ân tình vẫn chưa nguôi,
Tủi người nhất tử bẽ người tam sinh.
(Sơ Kính Tân Trang).
TAM
SINH 三 牲
Hay “Tam sanh”.
Tam:
Ba. Sinh: Con vật dùng để tế thần.
Tam sinh là ba con vật mà người xưa dùng để tế Thần và tế các vong linh ông bà. Ba con sinh đó là trâu, heo, dê.
Ngựa tuy rằng hình tượng lớn cao.
Tam sinh lễ ai dùng đến ngựa?
(Lục Súc Tranh Công).
Theo nho dùng lễ tam sinh,
Đọc bài văn tế phỉ tình cha con.
(Dương Từ Hà Mậu).
TAM SAO
THẤT BỔN 三 抄 失 本
Hay “Tam sao thất bản”.
Tam sao:
Chép ba lần. Thất bổn: Mất bản chính.
Tam sao thất bổn dùng để nói về sử sách, kinh truyện được chép đi chép lại nhiều lần thì sai hẳn, không còn giống bản chính nữa.
Hoặc câu bằng trắc sai di,
Tam sao thất bổn thế thì chẳng không.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TAM TÀI 三 才
Ngôi Tam tài: Thiên, địa, nhân.
Người xưa thường nói: Thiên địa dữ nhân vị chi Tam tài 天 地 與 人, 謂 之 三 才, tức là trời đất và người, gọi là ngôi Tam tài.
Trời có công năng che muôn vật, đất có công năng đỡ muôn vật, bậc Thánh nhân tự đặt thành người phụ tá, để giúp vào cái chỗ bất cập của trời đất mà thành tựu muôn vật.
Muôn vật quần trong trời đất, chỉ có con người là
quý hơn hết, cho nên con người khôn thiêng hơn muôn, vật, bẩm thụ đầy đủ âm
dương, nắm giữ đạo đức, hoá dục, giúp muôn vật sinh sôi nẩy nở không ngừng,
sánh bằng trời đất, nên được liệt vào ngôi Tam tài.
Vậy cũng gọi mình hay ngủ kỹ,
Vẫn cũng khoe ngồi trước tam tài.
(Nguyễn Đình Chiểu).
TAM TẠNG 三 藏
Ba tạng kinh điển của đạo Phật, gồm: tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận.
Kinh tạng: Những bài thuyết pháp của Phật hoặc các đại đệ tử.
Luật tạng: Những giới luật làm khuôn phép cho sinh hoạt tu học của tăng chúng.
Luận tạng: Những bộ sách giải thích rõ ràng thêm
nghĩa lý, triết học và trình bày giáo lý đạo Phật một cách có hệ thống.
Chơn Tông Tam Tạng truyền ghi,
Dự phần giải thuyết tùy thì ứng cơ
(Hứa Sử Tân Truyện).
TAM
TÒNG 三 從
Hay “Tam tùng”.
Ba điều mà người đàn bà, con gái theo lễ giáo xưa
phải giữ, đó là: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử 在 家 從 父, 出 嫁 從 夫, 夫 死 從 子,
nghĩa là ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con.
Giữ bề tứ đức tam tòng,
Xướng tuỳ cho vẹn đạo trong cương thường.
(Sơ Kính Tân Trang).
Phận gái tam tùng cùng tứ
đức,
Tề gia nội trợ vẹn là ngoan.
(Giới Tâm Kinh).
Chuyên gìn Tứ đức với tam tùng,
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
(Đạo Sử).
Dạy rõ nghĩa tam tùng tứ đức,
Trăm việc nhà sau trước nhắm xem.
(Phương Tu Đại Đạo).
TAM
THANH 三 清
Tam Thanh là ba ngôi phẩm gồm Thái Thanh. Thượng Thanh Ngọc Thanh. Thái Thanh màu vàng, thuộc Phật, Thượng Thanh màu xanh, thuộc Tiên, Ngọc Thanh màu đỏ thuộc Thánh.
Trong truyện Phong Thần, khi phá trận Tru Tiên,
Lão Tử dùng huyền diệu nguơn khí biến hóa ra Tam Thanh, tức ba người là
Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái Thanh để xông vào ba cửa trận, cùng giúp Lão Tử
đánh Thông Thiên Giáo Chủ. Tam Thanh đây cũng là ba sắc hào quang hay nguơn
tinh, nguơn khí, và nguơn thần của Thái Thượng Lão Quân: Ngọc Thanh màu hồng,
Thượng Thanh màu xanh, Thái Thanh màu vàng. Trong truyện có bài thơ xưng tụng
Đức Thái Thượng như sau: “Hồng Quân truyền phép Đạo đã thành, Làm
chủ Thần Tiên độ chúng sanh. Biến thử ba hình ai dễ biết, Cho
hay Ngươn khí hóa Tam Thanh”.
Đạo cao nhất khí,
Diệu hóa Tam Thanh.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Lão Quân ứng hóa Tam Thanh,
Khuyến răn nhơn vật lòng lành chớ xao.
(Xưng Tụng Công Đức).
TAM THỪA 三 乘
Tam:
Ba. Thừa: Cỗ xe.
Chữ của nhà Phật, tam thừa là ba cỗ xe dùng để chuyên chở. Vì các tu sĩ năng lực khác nhau, nên mới chia làm ba thừa, gồm có Bồ tát thừa, Tích chi thừa, và Thanh văn thừa. Tích chi và Thanh văn chỉ đủ sức để tự độ mình, còn Bồ tát thừa thì giúp cả chúng sanh.
Vầng trăng bạc, ngọn đèn xanh,
Dâng hương ngũ vị, tụng kinh tam thừa.
(Truyện Phan Trần).
Tam thừa, tứ quả đều chầu,
Phân ban liệt vị số nhiều hằng sa.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TAM
VƯƠNG 三 王
Tam:
Ba. Vương: Vua.
Tam vương là ba vị vua Thánh của ba đời Hạ, Thương, Châu. Đó là vua Đại Võ nhà Hạ, vua Thành Thang nhà Thương, và vua Võ Vương nhà Châu.
Nhờ hơi quang nhạc sáng đồng,
Ở đời Ngũ đế tam vương trị
vì.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Tam vương người tu nhân,
Mà muôn dân đều trị.
(Sãi Vãi).
TÁM ĐẤU
Dịch từ chữ “Bát đẩu 八 斗”.
Do câu nói của Tạ Linh Vận khen Tào Thực: Tài năng trong thiên hạ cộng lại là một thạch tức mười đấu, riêng Tào Tử Kiến (Tức Tào Thực) chiếm hết tám đấu, ý muốn nói Tào thực là người đọc nhiều hiểu rộng.
Nghĩa bóng: Chỉ những người tài giỏi.
Nhà nho đèn sách công dày,
Tài kiêm tám đấu, sách đầy năm
xe.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
TÁM ĐỒ
BÀY TRẬN
Bởi chữ “Bát trận đồ 八 陣 圖”.
Bát trận đồ tức là trận đồ gồm tám cửa, do quân sư Khổng Minh lập ra để bắt tướng Đông Ngô là Lục Tốn.
Xem: Tám trận.
Hai biểu ra quân lòng đã rõ,
Tám đồ bày trận giá càng cao.
(Thơ Lê Quý Đôn).
TÁM LẠNG
NỬA CÂN
Ý muốn nói bằng nhau.
Theo đơn vị cân lường ngày xưa thì một cân bằng
mười sáu lạng. Như vậy tám lạng bằng nửa cân.
So ra ai đã kém ai,
Kẻ kia tám lạng, kẻ này nửa cân.
(Bần Nữ Thán).
TÁM TRẬN
Tám trận tức là trận đồ có hình thế gồm tám cửa, gọi là “Bát trận đồ 八 陣 圖”. Bát trận đồ do Gia Cát Lượng Khổng Minh đời Tam Quốc lập nên. Bát trận đồ lập ra dùng để bắt tướng Lục Tốn của Đông Ngô.
Xem: Khổng Minh.
Một lần hoạ biết bầu Nhan Tử,
Tám trận không hay chước Khổng Minh.
(Quốc Âm Thi Tập).
TẠM
LÃNH 暫 領
Hay “Tạm Lĩnh”.
Tạm:
Chốc lát. Lãnh: Nhận người hay một vật gì.
Tạm lãnh tức là tạm thời nhận lãnh, hay tạm thời bảo lãnh cho tội phạm.
Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lãnh Vương ông
về nhà.
(Truyện Kiều).
TẠM NGỘ 暫 誤
Tạm:
Chốc lát. Ngộ: Lầm lẫn.
Tạm ngộ là lầm lẫn trong chốc lát.
Mới rồi hẳn nghỉ chẳng sai,
Hôm tăm tạm ngộ, biết ai đó mà!
(Hoa Tiên Truyện).
TẢN ĐÀ
Tức Nguyễn Khắc Hiếu, một nhà thơ sinh tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, một làng trù phú bên dòng Đà Giang và cánh đồng bát ngát chạy dài đến chân núi Tản Viên.
Vì nơi quê hương ông có núi Tản sông Đà, nên nhà
thơ mới lấy bút hiệu là Tản Đà
Này vẫn bác Tản Đà năm trước,
Thuở xuân xanh thề ước non sông.
(Thơ Tản Đà).
TẢN HOÈ
Tản hoè là cành lá cây hoè xum xuê tươi tốt. Chỉ gia đình có danh tiếng về học hành, khoa cử.
Do điển nhà Vương Hựu đời Tống có trồng ba cây hoè
trước sân mà gia đình con cái lại học hành nên danh hiển hách.
Tản hòe vàng chất sây cành,
Trước sân vào gởi đăng trình ra thi.
(Hoa Tiên Truyện).
TANG BỘC 桑 濮
1. Do chữ “Bộc thượng tang gian 濮 上 桑 間”, tức trên Bộc trong dâu, bởi tích trong Kinh Thi nói trai gái nước Trịnh và nước Vệ thường hẹn hò nhau trên sông Bộc và ruộng dâu để tư tình.
2. Còn một thuyết nói đời Xuân Thu, vua nước Vệ đi
qua sông Bộc, nghe có ai đánh đàn, tiếng nghe dâm ô lắm. Vua hỏi ra thì trước
đây có quan Thái sử của vua Trụ trầm mình ở đấy. Quan Thái sử lúc sanh thời
thường hay đàn những bản dâm ô cho vua Trụ nghe. Những bản đàn này còn lưu
truyền trong dân gian trên bãi sông Bộc.
Ví đem tang bộc thói thường,
Xưa nay dạ sắt gan vàng như không.
(Truyện Trinh Thử).
TANG BỒNG 桑 蓬
Tang:
Cây dâu. Bồng: Cỏ bồng.
Do thành ngữ “Tang bồng hồ thỉ 桑 蓬 弧 矢” là cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng.
Ngày xưa, tục Trung Hoa hễ đẻ con trai thì dùng cung bằng cành dâu, tên bằng cỏ bồng bắn sáu phát trên trời dưới đất và ra bốn phương. Vì thế người ta dùng thành ngữ Tang bồng hồ thỉ để nói về sự vẫy vùng của người con trai có chí khí.
Xem: Hồ thỉ.
Bấy lâu đèn sách gia công,
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?
(Lục Vân Tiên).
Thề xưa đã nặng với lòng,
Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới
thôi.
(Bích Câu Kỳ ngộ).
Rắp toan tìm thú cỏ hoa,
Tang bồng gác mái yên hà cùng cao.
(Thơ Bùi Kỷ).
Đại quân tử tang bồng gánh
nợ,
Nhờ vợ hiền mới đỡ đôi vai.
(Phương Tu Đại Đạo).
TANG DU 桑 榆
1.- Tang du là tên một loại cây, dùng để nói về mặt trời xế chiều, trời lặn.
Trong Sử Ký chép: Niên tuế hữu ngật, tang
du hành tận 年 歲 有 汔 桑 榆 行 盡,
nghĩa là năm tháng đã hết, cảnh trời chiều tắt.
Dặm trường luống vắt chân lừa,
Thật qua quý quận ác vừa tang du.
(Lưu Nữ Tướng).
2.- Tang du dùng để ví với tuổi già.
Có sách lại chép: Ở góc biển phương tây, có cây tang du, hễ mặt trời đến đó thì lặn, nên người ta nói cảnh tượng người già gần chết thì nói: “Tang du vãn cảnh 桑 榆 晚 境”.
Sinh ly xa cách huyên đình,
Một cây bóng ngả mấy cành tang du.
(Nhị Độ Mai).
Chạnh niềm hoa liễu vài câu kệ,
An giấc tang du một chữ
nhàn.
(Thơ Tôn Thọ Tường).
TANG ĐIỀN 桑 田
Tang điền là ruộng dâu, do câu “Thương hải tang điền 蒼 海 桑 田”, tức biển xanh ruộng dâu. Ý nói cuộc đời có sự thay đổi lớn lao.
Xem: Thương hải tang điền.
Ngọn gió đông ngảnh lại lệ đầm khăn,
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.
(Thơ Nguyễn Khuyến).
TANG HẢI 桑 海
Tang hải là biển dâu, do chữ: “Tang hải thương điền 桑 海 蒼 田”, tức biển dâu ruộng xanh.
Theo Thần tiên truyện: Tam thập niên vi nhất biến, thương hải vi tang điền 三 十 年 為 一 變, 蒼 海 為 桑 田, nghĩa là cứ ba chục năm lại có một lần thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu.
Nghĩa bóng: Một cuộc biến đổi lớn lao.
Buổi ấy cũng góp phần tang hải,
Sáu thu trời bao xiết nỗi hoang khô!
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình
trong giấc mộng.
(Thơ Chu Mạnh Trinh)
TANG Y 喪 衣
Tang:
Đám ma. Y: Áo quần.
Tang y là loại quần áo mặc trong lúc nhà có tang.
Xem: Tang phục.
Một thân góa tang y lại mặc,
Chống gậy lê nhúc nhắc đưa linh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TANG PHỤC 喪 服
Tang phục, cũng như “Tang y 喪 衣”, là loại quần áo dành cho người có tang mặc. Người xưa chế định tang phục bằng vải trắng, thô, và tuỳ theo thân sơ, hay ân tình đối với người đã khuất mà định năm loại tang phục gọi là ngũ phục: Đó là Trảm thôi, tư thôi, Đại công, Tiểu công, Tư ma.
Xem: Ngũ phục.
Bây giờ kíp rước thợ may,
Sắm đồ tang phục, nội ngày cho xong.
(Lục Vân Tiên).
Ba năm tang phục cha rồi,
Văn Quới tuổi đã gần vời mười lăm.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TANG TỬ 桑 梓
Cây dâu và cây thị.
Kinh Thi có câu: Duy tang dữ tử tất cung kính chi 維 桑 與 梓 必 恭 敬 之, nghĩa là phải cung kính nơi trồng cây dâu cây thị. Bởi vì cây dâu cây thị do cha mẹ trồng nên phải cung kính.
Sau này, vì cây dâu cây thị thường trồng nhiều trong làng nên hai chữ “Tang tử” được người ta dùng để chỉ làng xóm.
Cành mai chếch mác càng thương,
Câu thơ tang tử giữa đàng
càng đau.
(Tự Tình Khúc).
TANG
THƯƠNG 桑 蒼
Tang thương là dâu bể.
Tang thương do chữ: “Thương hải tang điền 蒼 海 桑 田”, tức biển xanh ruộng dâu.
Theo Thần tiên truyện: Tam thập niên vi nhất biến, thương hải vi tang điền 三 十 年 為 一 變, 蒼 海 為 桑 田, nghĩa là cứ ba chục năm lại có một lần thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu. Nghĩa bóng: Một cuộc biến đổi lớn lao.
Xem: Thương hải tang điền.
Chưa đầy một cuộc tang thương,
Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Xây vần trong cuộc tang thương,
Trải bao phân loạn mới sang trị bình.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Đau khổ rán gìn nhơn nghĩa vẹn
Tang thương chờ hưởng huệ ân riêng
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tang thương lúc biến khi dời,
Trăm năm e cũng một đời thế thôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TANG
TRAI 喪 齋
Tang:
Đám ma. Trai: Làm chay.
Thường trong đám tang, người ta mong muốn hồn người đã khuất được siêu thoát, nên người ta hay ăn chay và mời thầy đến tụng kinh, gọi là tang trai.
Di hài nhặt gói về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
(Truyện Kiều).
TÁNH HẠNH 性行
Hay “Tính hạnh”.
Tánh:
Tánh tình. Hạnh: Hạnh kiểm.
Tánh hạnh là tánh nết và cách cư xử ở đời của mỗi con người.
Trên đầu có bủa giăng Thần, Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ
hiền.
(Kinh Sám Hối).
Tánh hạnh khá trau thuần hậu lại,
Nên danh có thuở đặng nên thời.
(Đạo Sử).
Đờn bà hay quen tánh nhúng trề,
Ở chiều dạ đừng chê tánh hạnh.
(Phương Tu Đại Đạo).
TÁNH
LINH HƠN VẬT
Con người là một yếu tố trong Tam tài: Thiên, địa, nhơn (Trời, đất, người). Sở dĩ con người đạt được địa vị ấy là vì con người được Trời đất sinh ra và ban cho một đức tính rất cao quí, rất thiêng liêng, hay nói khác đi người chịu cái đức của Trời đất. Ngoài ra, con người còn được hấp thụ hoàn toàn cái tinh thần linh diệu và cái khí chất tinh túy của Trời đất, nên con người linh hơn, sáng suốt hơn vạn vật. Chính nhờ cái sáng suốt này mà con người phân biệt được điều hay dở, lẽ phải trái. Cái sáng suốt ấy có sẵn trong mỗi người được gọi là trực giác, hay lương tri, hay minh đức.
Theo triết lý Cao Đài, con người có tam hồn: Sanh
hồn, Giác hồn và Linh hồn. Con người nhờ Sanh hồn mới có được sự sống, Giác hồn
mới có cảm giác, biết đau đớn khổ sở và Linh hồn mới khôn ngoan, biết đạo lý,
suy xét đủ điều, cho nên con người tánh linh hơn vật.
Con người có trí khôn ngoan,
Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi,
(Kinh Sám Hối).
TAO
KHƯƠNG 糟 糠
Hay “Tao khang”.
Tao (Tào): Hèm rượu. Khương (Khang): Cám.
Tao khương hay tao khang là tấm cám hoặc hèm rượu và cám, thức ăn của những người nghèo khổ.
Vợ tấm cám (Tao khang chi thê) là vợ lấy nhau từ lúc còn nghèo khổ, từng chịu ăn tấm cám với nhau.
Lời của Tống Hoằng vua nhà Hán: Tao khương chi thê bất khả hạ đường 糟 糠 之 妻 不 可 下 堂, nghĩa là vợ chồng hồi tấm mẳn đã có, chẳng khá bỏ nhau.
Vợ chồng là đạo tao khương,
Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
(Lục Vân Tiên).
Trăm năm duyên sánh phượng loan,
Tao khang hai chữ, Trần Phan dõi truyền.
(Truyện Phan Trần).
Chưa cầm sắt, cũng tao khang,
Nỗi dây thế chẳng vội vàng lắm ru.
(Hoa Tiên Truyện).
Thà cháo rau trọn đạo tào khương,
Hơn sang cả người thương đành phụ rãy.
(Phương Tu Đại Đạo).
Đạo vợ chồng là đạo tào khương,
Mình đi nỡ cậy nương ai lập sẵn.
(Phương Tu Đại Đạo).
TAO
NHÂN 騷 人
Tao:
Có nghĩa thi ca. Nhân: Người.
Tao nhân là người văn hay, phong cách tao nhã.
Hoàn thiên tẩu bút một thơ,
Quê đâu chữa đó là nhờ tao nhân.
(Mai Đình Mộng Ký).
TAO
PHÙNG 遭 逢
Tao:
Gặp gỡ. Phùng: Gặp nhau.
Hai người xa cách nhau lâu, tình cờ gặp gỡ nhau gọi là tao phùng.
Cổ ngữ có câu: Minh quân lương tể tao
phùng dị, tài tử giai nhân tế ngộ nan 明 君 良 宰 遭 逢 易, 才 子 佳 人 際 遇 難,
nghĩa là vua sáng tôi hiền gặp nhau dễ, tài tử giai nhân khó hội ngộ.
Đến đây hỏi khách tao phùng,
Chim chi một cánh bay vùng nước non.
(Ca Dao).
TÀO ĐẠI
CÔ 曹 大 姑
Tên hiệu vua ban tặng cho Ban Chiêu.
Hán Thư chép: Em gái của Ban Cố là Ban Chiêu, được
gả cho Tào Thái Thúc, nhưng goá chồng sớm. Ban Cố viết bộ Hán Thư, chưa rồi mà
chết. Vua Hoà Đế chiếu triệu nàng Ban Chiêu viết nối theo để được hoàn thành.
Vua thường triệu vào cung dạy Hoàng hậu và các Quý nhân trong cung, dạy
phải lấy lễ thầy mà thờ. Vua ban hiệu là Tào Đại Cô.
TÀO MAN 曹 蠻
Tào Tháo, tự Mạnh Đức, tiểu tự là A Man, vốn họ Hạ Hầu, vì làm con nuôi Tào Đằng, nên đổi thành họ Tào. Tháo là người giỏi quyền biến, nhiều cơ mưu, nhưng có tánh đa nghi, nổi tiếng là gian hùng. Khi Đổng Trác âm mưu làm loạn triều đình, Tháo bán hết gia tài, mộ binh đánh Trác. Sau Tháo về Lạc Dương, Hiến Đế ban cho Tháo coi tòa Thượng Thư. Bấy giờ Lạc Dương bị bắn phá, Tháo bức Hiến Đế dời Kinh về Hứa Đô. Tháo khuynh loát triều đình nhà Hán từ đó. Khi đánh thắng Viên Thiệu, Viên Thuật, Tháo được phong làm đại tướng quân, rồi dần giữ chức Thừa tướng.
Tào Tháo cùng với Lưu Bị và Tôn Quyền chia ba
thiên hạ, nên sử gọi là thời Tam Quốc.
Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua,
Chi để Tào man dòm vạc Hán.
(Hịch Tây Sơn).
TẢO MỘ 掃 墓
Tảo:
Quét. Mộ: Mồ mả.
Tảo mộ là quét dọn mồ mả cho sạch sẽ, hoặc sơn phết mộ lại cho mới.
Thường thường vào tiết thanh minh (Tháng ba), hay
trước tết âm lịch, người xưa có tục đi tảo mộ.
Thanh minh là tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
(Truyện Kiều).
Kìa xóm rẫy nấm mồ lố xố,
Nơi đôi ta tảo mộ đạp
thanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TẢO PHẦN 掃 墳
Tảo:
Quét. Phần: Mồ mã.
Tảo phần đồng nghĩa với chữ “Tảo mộ” là quét và dọn dẹp xung quanh mồ mả.
Xem: Tảo mộ.
Trạng nguyên mặc áo thôi ma,
Trước vào lễ phật, sau ra tảo phần.
(Nhị Độ Mai).
TẢO TẦN 藻 蘋
Tảo tần là rau tảo rau tần.
Bài “Thái Tần” trong Kinh Thi có câu: Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân, vu dĩ thái tảo, vu bỉ hàng lạo, 于 以 釆 蘋, 南 澗 之 濱. 于 以 釆 藻, 于 彼 行 潦, nghĩa là Đi hái rau tần, bên bờ khe phía nam. Đi hái rau tảo, bên lạch nước kia. Bài này ca ngợi người vợ hiền dâu thảo, chăm hái rau tảo rau tần về nhà lo làm lễ cúng tổ tiên.
Ngoài ra, chữ tảo tần còn dùng để chỉ sự vất vả, cực khổ.
Mẹ con khuya sớm tảo tần,
Cháo rau đỡ dạ dưỡng thân tháng ngày.
(Thạch Sanh Lý Thông).
Tảo tần sớm dưỡng chiều nuôi,
Thế chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Thà tảo tần mơi cháo, chiều
rau,
Biết thủ nghĩa hơn nhà cao cửa rộng.
(Phương Tu Đại Đạo).
TẢO
THANH 掃 清
Tảo:
Quét. Thanh: Trong sạch.
Tảo thanh là quét sạch hết không còn gì. Tiếng dùng để chỉ việc thanh lọc những tệ nạn xã hội.
Tả biểu văn hồi tấu cửu trùng,
Ra sức mọn tảo thanh hồ lỗ.
(Nhạc Hoa Linh).
TẢO VÃN 早 晚
Tảo:
Sớm. Vãn: Chiều.
Tảo vãn là sớm chiều, ý nói chẳng chóng thì chầy, không sớm thì muộn.
Nghĩ trong tảo vãn cũng
là,
Bằng bay, côn nhảy còn chờ hội sau.
(Nhị Độ Mai).
TẠO
ĐOAN 造 端
Tạo:
Mở đầu. Đoan: Mối.
Tạo đoan là mở đầu mối.
Sách có câu: Thiên địa chi đạo, tạo đoan
hồ phu phụ 天 地 之 道 造 端 乎 夫 婦,
nghĩa là đạo trời đất gây ra cái mối đầu từ đạo vợ chồng.
Vợ chồng đạo cả lẽ hằng,
Tạo đoan lẽ ấy há rằng phải chơi.
(Truyện Trinh Thử).
Nhứt khí tạo đoan cả Ðịa Cầu,
Nương theo Mẹ cả giảng vài câu.
(Đạo Sử).
TẠO HOÁ 造 化
Tạo:
Làm ra. Hoá: Thay đổi.
Tạo hoá là tiếng dùng để chỉ ông Trời tạo ra càn khôn vũ trụ và biến hoá ra vạn vật.
Phú Giả Nghị có câu: Thiên địa vi lô hề,
tạo hoá vi công, âm dương vi thán hề, vạn vật vi đồng 天 地 為 爐 兮, 造 化 為 工, 陰 陽 為 炭 兮, 萬 物 為 銅,
nghĩa là trời đất làm lò hề, tạo hoá làm thợ, âm dương làm than hề, vạn vật làm
đồng.
Ngẫm cơ Tạo hóa khôn lường,
Trải xem trị loạn lẽ thường xưa nay.
(Hạnh Thục Ca).
Chẳng hay duyên phận bởi trời,
Mượn cơ tạo hoá thay lời
nhân gian.
(Nữ Tú Tài).
Ơn Tạo hóa tha tiền khiên
trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
(Kinh Thế Đạo).
Hiệp Tạo hóa cầm quyền
chuyển thế,
Dạy vạn linh dụng thế từ bi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cơ chuyển thế nơi tay đã quả,
Thay mặt cho Tạo hóa dựng
đời.
(Phương Tu Đại Đạo).
TẠO HOÁ
TIỂU NHI 造 化 小 兒
Tức là trẻ tạo hoá, dùng chỉ tạo hoá với nghĩa cuồng phóng, có ý nói hay đặt bày cho người đời nhiều điều oái oăm.
Đỗ Thẩm Ngôn đời Đường bị bịnh nặng. Tống Chi Vấn
và Võ Bình Nhất đến thăm. Thẩm Ngôn nói: Thậm vi tạo hoá tiểu nhi sở
khổ, thượng hà ngôn 甚 為 造 化 小 兒 所 苦, 尚 何 言,
nghĩa là thật bị trẻ tạo hoá làm khổ sở, còn có thể nói gì nữa.
Này hay tạo hoá tiểu nhi,
Rủ bầy con nít đều đi bỏ mình.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
TÁT BIỂN
ĐÔNG
Bởi câu tục ngữ “Đồng vợ đồng chồng, tát biển Đông cũng cạn”.
Tát biển Đông dùng để nói vợ chồng hoà hợp, yêu
thương, đồng lòng cùng nhau làm việc thì có thể làm nên việc lớn.
Nguyên tình chớ khá để riêng lòng,
Muốn tát cho cùng nước biển Ðông.
(Đạo Sử).
Hiệp sức làm đôi tát biển Ðông,
Tuy không phải vợ cũng ông chồng.
(Đạo Sử).
TẮC TIẾT 稷 薛
Hay “Tắc Khiết”.
Tên hai vị hiền thần thời Ngu Thuấn.
Tắc là Hậu Tắc tên Khí, thuỷ tổ của nhà Châu, làm quan nông sư, tức coi về việc nông đời vua Thuấn.
Xem:Hậu tắc.
Tiết con của Cao Tân Thị, làm quan Tư đồ thời vua Thuấn, dạy nhân luân cho dân chúng. Ông có công giúp vua Võ trị thuỷ, nên được phong ở đất Thương. Ông là tổ của nhà Thương.
Nghĩa bóng: Chữ “Tắc Tiết” dùng để tán tụng quan
giỏi.
Ấy là chế độ kỷ cương,
Ấy người Tắc Tiết ấy làng Lỗ Trâu.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
Chúa sánh chúa Đường Ngu;
tôi ví tôi Tắc Tiết.
(Sãi Vãi).
TĂM CÁ
Bởi thành ngữ “Bóng chim tăm cá” chỉ tin tức.
Tăm cá là tăm tích của cá, lấy điển từ tin cá, ý nói về thư từ, tin tức.
Xem: Tăm cá bóng chim.
Khích điều nguyệt biếng tìm tăm cá,
chữ tam mô bàn bạc với tiều phu.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
TĂM CÁ
BÓNG CHIM
Cá và chim là tiếng thường được dùng để nói đến thư từ, tin tức.
Tăm cá bóng chim có nghĩa là tăm dạng của cá, hình bóng của chim, có ý nói thư từ, tin tức do chim nhạn, hồng, hay cá mang đến. Cùng nghĩa với “Tin chim thư cá”.
Xem: Tin chim thư cá.
Lầu canh chiêng lặng, điêu chìm,
Tịt mù tăm cá bóng chim mấy
trùng.
(Hoa Tiên Truyện).
Đã đành mặt nước nổi chìm,
Biết đâu tăm cá bóng chim bây
giờ.
(Hoa Tiên Truyện).
TĂM NGƯ
Nghĩa từ chữ “Ngư tín 魚 信”, tức là tin cá.
Tăm ngư là tăm tích của cá, hay tin cá, dùng để nói về thư từ tin tức.
Xem: Tin cá.
Đã nhiều khắc đợi giờ trông,
Tăm ngư chìm nước bóng hồng khuất mây.
(Ngọc Kiều Lê).
TẮM MƯA
TRẢI GIÓ
Tắm mưa trải gió là một thành ngữ dùng để chỉ sự nhọc nhằn, vất vả.
Do câu: “Mộc vũ trất phong, vị phong trần chi lao khổ 沐 雨 櫛 風, 謂 風 塵 之 勞 苦”, tức là tắm mưa trải gió là nói sự gian lao, cực khổ.
Xem: Mộc vũ trất phong.
Tắm mưa, trải gió chi nài,
Đạp tuyết, giày sương chi sá.
(Lục Súc Tranh Công).
Tắm mưa trải gió sụt sùi,
Cảm thương gia lão ngậm ngùi lòng son.
(Nhạc Hoa Linh).
TĂNG
SÂM 曾 參
Tăng Sâm, tự là Tử Dư, người nước Lỗ, đời Xuân Thu, học trò giỏi của Đức Khổng Tử, tác giả quyển Đại học.
Tăng Sâm được liệt vào hàng tứ phối, thờ chung với đức Khổng Tử. Tăng là người rất có hiếu, được liệt vào một trong hai mươi bốn người con hiếu (Nhị thập tứ hiếu).
Truyện kể rằng: Ông thờ cha mẹ rất có hiếu, bữa ăn nào cũng có rượu thịt. Khi cha mẹ ăn xong, còn thừa lại món ăn, ông hỏi cha mẹ bảo để cho ai, thì ông vâng theo lời mà cho người ấy. Một hôm ông đi vào rừng đốn củi, ở nhà có khách đến chơi, mẹ không biết làm thế nào cho ông về nhà ngay, bèn cắn ngón tay mình, để cho động lòng con, quả thật, ông ở trong rừng thấy quặn đau trong dạ, ông vội gánh củi về ngay. Sách có bài thơ: Mẫu chỉ tài phương khiết, Nhi tâm thống bất câm. Phụ tân quy vị vãn, Cốt nhục chí tình thâm 母 指 纔 方 喫, 兒 心 痛 不 禁. 負 薪 歸 未 晚, 骨 肉 至 情 深. Dịch nôm: Mong con vừa cắn ngón tay, Trong rừng con bỗng dạ này quặn đau. Vội vàng đội củi về mau, Cho hay cốt nhục tình sâu lạ nhường.
Đôi hàng ai luỵ,
lệ Tăng Sâm rày chẳng thấy
đoái hoài;
Mấy tiết sum vầy,
do Lão Tử chẳng cùng ai vui vẻ.
(Tử Tế Mẫu Văn).
TĂNG TỬ 曾 子
Tăng Tử tức là Tăng Sâm, học trò giỏi của Đức Khổng Tử, tác giả của quyển Đại Học. Tăng Tử là người con rất có hiếu, được xếp vào một trong hai mươi bốn người con hiếu.
Xem: Tăng Sâm.
Đại học, Tăng Tử dò lưa,
Tu thân bình trị xếp vừa mười chương.
(Tam Tự Kinh).
Đời Chu mạt có thầy Tăng Tử,
Thờ mẹ cha thời giữ chí thành.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
TĂNG TRỰC 曾 直
Tăng Trực tức là Hoàng Đình Kiên, sinh vào đời nhà Đường, làm quan đến chức Thái sử, tức quan coi việc chép sử. Ông là người thờ cha mẹ rất có hiếu, tuy mình làm quan sang, có nhiều đầy tớ hầu hạ, nhưng các đồ dơ của cha mẹ dùng để đại tiểu tiện, dù dơ bẩn đến đâu, ông cũng tự tay rửa lấy, không sai người nhà làm bao giờ.
Triều Nguyên Hựu có thầy Tăng Trực,
Là họ Hoàng ngồi chức sử thần.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
TẤC
BÓNG
Tấc bóng là chỉ bóng cây trên mặt đất, do ánh sáng mặt trời chiếu xuống, dùng để nói thời gian, ngày giờ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa.
(Thơ Nguyễn Khuyến).
TẤC CỎ
BA XUÂN
Do chữ “Thốn thảo, tam xuân 寸 草 三 春”, thơ Mạnh Giao đời Đường có câu: Dục tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân huy 欲 將 寸 草 心, 報 答 三 春 輝, nghĩa là ai bảo cái lòng của ngọn cỏ một tấc báo đáp được ánh sáng ấm áp của ba tháng xuân, chỉ lòng người con lo báo đền công cha mẹ. Tấc cỏ: Ví với người con. Ba xuân: Ví với công ơn cha mẹ.
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba
xuân.
(Truyện Kiều).
Môn mi mong những nhờ duyên,
Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba
xuân.
(Nhị Độ Mai).
TẤC ĐẤT
NGỌN RAU
Trong chế độ vương quyền ngày xưa, đất đai thuộc về nhà vua, vua mới ban cấp lại cho dân để có điều kiện sinh sống. Do vậy, dù một ngọn rau hay một tấc đất cũng là thọ ơn của nhà vua.
Ngọn rau tấc đất chỉ ơn nghĩa của nhà vua hay của đất nước.
Xem: Ơn tấc đất ngọn rau.
Tấc đất ngọn rau ơn chúa,
tài bồi cho nước nhà ta,
Bát cơm manh áo ở đời,
mắc mỏ chi ông cha nó?
(Văn Tế Nghĩa Sĩ).
Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,
Đạo quân vương chữ dặn nơi lòng.
(Kinh Thế Đạo).
Cả anh em nương níu lấy nhau,
Nhớ tấc đất ngọn rau, cũng công
lao cha mẹ.
(Phương Tu Đại Đạo).
TẤC HƠI
Tức là hơi thở, chỉ sự sống.
Do câu: Tam thốn khí tại thiên ban dụng,
nhất đán vô thường vạn sự hưu 三 寸 氣 在 千 般 用, 一 旦 無 常 萬 事 休,
nghĩa là “ba tấc hơi” còn thì mình còn dùng làm ngàn việc, một sớm không thường
thì muôn việc đều thôi nghỉ.
Tuổi già mà lại hay đau,
Tấc hơi khó nỗi ngồi lâu chờ chồng
(Dương Từ Hà Mậu).
TẤC
LÒNG
Bởi chữ “Thốn tâm 寸 心”.
Tấc lòng, cùng nghĩa với “Tấc dạ”, dùng để chỉ tấm
lòng, hay lòng dạ.
Tấc lòng đòi đoạn đau thương,
Chơn mây vái với hương hồn hiển linh.
(Kinh Thế Đạo).
TẤC QUỲ
Tấc quỳ tức là tấc lòng của hoa quỳ, một loài hoa luôn hướng về phía mặt trời, gọi là hoa hướng dương, để ví với tấm lòng trung thành.
Tâu rằng: Vạn lý quân môn,
Tấc quỳ chăm chắm vầng son đã tường.
(Lưu Nữ Tướng).
TẤC SON
Tấc son là tấc lòng son để chỉ tấm lòng như màu son, không bao giờ phai lợt.
Tấc son dùng để chỉ tấm lòng gắn bó sắt son, không bao giờ thay đổi.
Xem: Lòng son.
Được lời như cởi tấc son,
Vó câu chẳng ruổi nước non quê người.
(Truyện Kiều).
Mấy mươi năm phơi trải tấc son,
Trọn một kiếp bảo tồn phong hóa.
(Thơ Đức Hộ Pháp).
TẤC
THÀNH
Tấc thành, như chữ tấc son, là tấc lòng thành thật, hay lòng trung thành.
Xem: Tấc son.
Khuôn thiêng dù phụ tấc thành,
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
(Truyện Kiều).
Châu công rằng: Lẽ gọi là,
Kính dâng một lễ, gọi đưa tấc thành.
(Nhị Độ Mai).
TÂY
PHƯƠNG 西 方
1.- Tây phương tức là hướng tây, dùng để chỉ xứ Tây trúc, tức nước Ấn Độ, quê hương của Đức Thích Ca Mâu Ni.
Vả xưa Phật ở Tây phương.
Sống không biết lẽ cang thường là chi
(Dương Từ Hà Mậu).
2.- Tây phương còn dùng để chỉ cõi Tây phương Cực
Lạc, hay Cực Lạc Quốc.
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về Tây phương.
(Thập Loại Chúng Sinh).
Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.
(Kinh Thế Đạo).
TÂY PHƯƠNG PHẬT TỔ 西 方 佛 祖
Đức Thích Ca Mâu Ni là một vị Tổ Sư, sáng lập ra Phật giáo ở phương tây thuộc nước Ấn Độ, nên được gọi là Tây Phương Phật Tổ.
Xem: Thích Ca.
Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,
A Di Đà Phật độ chúng dân,
(Kinh Tận Độ).
TÂY
SƯƠNG 西 廂
Tây:
Hướng tây. Sương: Mái, chái.
Tây Sương là mái tây, tức là cái chái nhà nằm về hướng tây.
Nghe rằng công tử họ Lương,
Sang hầu, dạy ngụ tây sương mái
ngoài.
(Hoa Tiên Truyện).
TÂY TÂN 西 賓
Người khách ngồi ở mé tây.
Sách Xứng Vị Lục chép: Vua Hán Minh Đế tôn Hoàng Vinh làm bậc thầy. Một hôm, Ngài đến thăm bảo Vinh ngồi hướng tây, xây mặt qua hướng đông. Cho nên “Tây tân” dùng để gọi ông thầy.
Xem: Tây tịch.
Cửa Trình thoắt đã gần gần,
Năm lâu dường tính tây tân kén
tài.
(Sơ Kính Tân Trang).
TÂY TỊCH 西 席
Tây tịch là chiếu tây, tức chỗ ngồi ở hướng tây.
Do vua Minh Đế nhà Hán lấy lễ tôn Hoàng Vinh làm
bậc thầy và đặt Vinh ngồi về hướng tây, mặt quay về đông. Tây tịch chỉ ông
thầy.
Hớ hênh được kẻ hư danh,
Tôn nhường tây tịch rắp ranh đông sàng.
(Ngọc Kiều Lê).
TÂY TỬ 西 子
Tức Tây Thi, người con gái đẹp đời Xuân Thu. Việt Vương Câu Tiễn bị Ngô Vương Phù Sai đánh thua, đem Tây Thi dâng cho vua Ngô để cầu hòa. Vua Ngô bị Tây Thi mê hoặc mà bỏ phế triều chính, đến nỗi lại bị Việt Vương Câu Tiễn đánh thua, suýt phải mất nước.
Xem: Tây Thi.
Con ta yểu điệu khuê phòng,
Có Tây Tử đó, thiếu đông sàng nào!
(Nhị Độ Mai).
TÂY THI 西 施
Tây Thi là một người con gái có nhan sắc tuyệt trần ở Trữ La thôn. Đời Xuân Thu, Việt Vương Câu Tiễn đánh thua vua Ngô Phù Sai, mới dùng mỹ nhân kế, nhờ Phạm Lãi đi kiếm gái đẹp dâng cho vua Ngô, trong ấy tuyển được nàng Tây Thi làm cho vua Ngô say mê mà bỏ phế việc triều chính, nhờ vậy Việt Vương Câu Tiễn mới đánh bại được Ngô Phù Sai mà báo thù.
Sau khi diệt được vua Ngô, Phạm Lãi mới mang nàng
Tây Thi đi chơi Ngũ hồ, rồi mất tích. Có sách cho rằng Tây Thi bị vứt xuống
sông chết chìm, còn Phạm Lãi đi khắp ngũ hồ.
Cung Quán Giai, lang hưởng điệp,
Tây Thi chỉn ấy thế loàn;
Thang đậu khấu, quê ôn nhu,
Triệu Thị thật là nước họa.
(Cung Trung Bảo Huấn).
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Bởi Cung Quảng bóng Hằng nhấp nhóa,
Bởi đền Ngô nghe gã Tây Thi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tưởng sắc đẹp Tây Thi là
quí,
Chẳng học đòi mưu trí Lệ Quân.
(Phương Tu Đại Đạo).
TÂY UYỂN 西 苑
Tây:
Hướng tây. Uyển: Vườn.
Tây Uyển là cái vườn rất đẹp, do vua Tuỳ Dạng Đế lập ra, trong đủ cả cây cảnh chim muông. Vua thường cùng các cung nhân nô đùa yến ẩm tại đây.
Vườn Tây Uyển khúc trùng
Thanh Dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
TẨY OAN 洗冤
Tẩy:
Rửa sạch. Oan: Oan ức, tức việc không có mà bị nghi rằng có.
Tẩy oan là rửa sạch nỗi oan ức.
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy
oan.
(Truyện Kiều).
TÂM ẨN
ÁI 心 隱 愛
Tâm:
Lòng. Ẩn ái: Lòng trắc ẩn và yêu thương.
Tâm ẩn ái là tấm lòng trắc ẩn và thương yêu tất cả mọi người.
Mạnh Tử cho rằng: Khi trông thấy một đứa bé sắp
rơi xuống giếng, mỗi người đều có lòng run sợ, đó gọi là “Trắc ẩn chi tâm 惻 隱 之 心”.
Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,
Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÂM ĐẦU
Ý HIỆP 心 投 意 合
Tâm đầu:
Tâm hợp nhau. Ý hiệp: Ý hoà hiệp nhau.
Hai người giao thiệp nhau có tâm và ý hoà hợp nhau được gọi là “Tâm đầu ý hiệp”.
Duyên dầu đặng tâm đầu ý hiệp,
Cũng ngại lo chầy kíp phụ phàng nhau.
(Phương Tu Đại Đạo).
TÂM CƠ 心 機
Tâm:
Lòng. Cơ: Máy móc.
Tâm cơ là lòng lo nghĩ cảm xúc, phát động ra ngoài cũng giống như máy móc chuyển động. Tâm cơ còn có nghĩa là lo lắng.
Tâm cơ vốn sẵn lẽ trời,
Mới hay trọng đạo ai ai cũng lòng.
(Nhị Độ Mai).
TÂM HOẢ 心 火
Tâm:
Trái tim. Hoả: Lửa.
Nỗi uất hận, bực tức nung nấu cõi lòng không khác gì bị lửa thiêu đốt, đó gọi là “Tâm hoả”.
Nguyên Chân có câu: Tâm hoả tự sinh hoàn
tự diệt 心 火 自 生 還 自 滅,
nghĩa là tâm hoả tự nó sinh ra rồi tự nó tắt.
Ngọn tâm hỏa đốt rầu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
TÂM HỒN
GIÓ TUYẾT
Như thành ngữ “Tâm hồn băng giá” là nói lòng lạnh lẽo băng giá, tình yêu không còn sôi nổi nữa.
Thôi đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết tam tùng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÂM
HƯƠNG 心 香
Tâm:
Lòng. Hương: Thơm tho.
Tâm hương là tấm lòng thơm tho, tức là lấy cái lòng thành thật để làm hương dâng cúng.
Lời Phật dạy: Lòng tinh thành tức nhiên cảm đến
Phật, không khác nào đốt hương để dâng Phật vậy.
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.
(Truyện Kiều).
Nhớ nỗi hiếu khó ngăn nét thảm,
Tưởng nguồn ân đốt nắm tâm hương.
(Kinh Thế Đạo).
TÂM
MINH 心 盟
Tâm:
Lòng. Minh: Thề thốt.
Tâm minh tức là lấy tấm lòng ra mà thề thốt nguyện giữ sự thuỷ chung.
Dù ai lòng có sở cầu,
Tâm minh xin quyết với nhau một lời.
(Truyện Kiều).
TÂM
PHÚC 心 腹
Tâm:
Tấm lòng. Phúc: Ruột.
Tâm phúc là người thân thiết, trung thành, có thể hiểu thấu lòng dạ (Tâm phúc) của mình, và mình có thể bộc lộ những nỗi niềm thầm kín trong lòng.
Từ rằng: Tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
(Truyện Kiều).
TẤM
LÒNG TẤC CỎ
Tấm lòng của người con mong báo đền ơn cha mẹ, cũng như tấm lòng của tấc cỏ báo đáp ánh sáng ba tháng xuân.
Xem: Tấc cỏ ba xuân.
Hoặc là thấu đến cao sâu,
Tấm lòng tấc cỏ mai sau còn rành.
(Tự Tình Khúc).
TẤM MẲN
Do chữ “Tao khương 糟 糠” là tấm cám hay tấm mẳn, thức ăn của người nghèo. Ý nói vợ chồng lấy nhau từ lúc còn khổ sở.
Lời của Tống Hoằng nói với vua Hán: Tao khương chi thê bất khả hạ đường 糟 糠 之 妻 不 可 下 堂, nghĩa là vợ chồng hồi tấm mẳn chẳng khá bỏ nhau.
Xem: Tao khương.
Giữ nghĩa xưa còn chia tấm mẳn,
Nay không đành kết bạn đua lành.
(Đạo Sử).
TẤM SON
Hay “Tấm lòng son”.
Lòng son do chữ đan tâm 丹 心 chỉ tấm lòng như màu son đỏ, chẳng bao giờ phai lợt.
Tấm son dùng để chỉ tấm lòng trung thành không thay đổi, trước sau như một.
1.- Tấm son:
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
(Truyện Kiều).
Nàng rằng xin quyết gieo cầu,
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy,
Lửa hoàng hôn như cháy tấm son.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
(Gia Huấn Ca).
2.- Tấm lòng son:
Cho biết trăm năm là cõi tạm,
Hơn nhau chỉ một tấm lòng son.
(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).
TẦM
DƯƠNG 潯 陽
Bến Tầm Dương tức là bến sông Bồn thuộc quận Cửu Giang, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Vào mùa thu nhân một đêm ra tiễn khách, Bạch Cư Dị tình cờ gặp một con hát trên thuyền ngồi đàn tỳ bà, khiến lòng ông cảm xúc mà sáng tác nên bài “Tỳ bà hành”.
Bến Tầm Dương canh khuya
đưa khách,
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
(Tỳ Bà Hành).
TẦM
LONG ĐIỂM HUYỆT 尋 龍 點 穴
Tầm long:
Tìm long mạch, tức là tìm mạch đất tốt. Điểm
huyệt: Tìm chỗ kết phát của mạch đất đó
để chôn cất người chết.
Tầm long điểm huyệt là tiếng dùng trong môn phong thuỷ để chọn những cuộc đất tốt.
Khoe khoang rằng học phép tiên,
Tầm long điểm huyệt chôn liền giàu sang.
(Dương Từ Hà Mậu).
TẦM THUỶ 潯 水
Tầm thủy tức là sông Tầm, bên Tàu có hai con sông là Tầm Giang thuộc tỉnh Quảng Tây và Tầm Dương thuộc tỉnh Giang Tây, nơi Bạch Cư Dị bị biếm.
Nực cười thay! thú ngư gia,
Sớm qua Tầm Thuỷ, tối về Hàn
San.
(Nhị Độ Mai).
TÂN DÂN 新 民
Tân:
Mới. Dân: Người dân.
Tân dân là người dân sống theo trào lưu mới, tức là người dân biết trau giồi trí thức và tinh thần của mình mỗi ngày một mới, theo trào lưu tiến hoá của xã hội.
Cơ Trời xây đổi lập Tân Dân,
Cái hủ tệ xưa phải bỏ lần.
(Đạo Sử).
TÂN KHỔ 辛 苦
Tân:
Cay, dùng để chỉ sự cực khổ. Khổ: Đắng, dùng để chỉ sự khó nhọc.
Tân khổ tức là cay đắng, ý muốn nói cuộc đời đầy khó nhọc, cực khổ.
Áo Trọng Do bạc thếch,
giãi xuân thu cho được sắc cần lao.
Cơm Phiếu mẫu hầm sì,
đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.
(Tài Tử Đa Cùng Phú).
Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Trải biết bao tân khổ gian
nan,
Đem chân lý mà mở mang phường hậu giác.
(Huỳnh Thúc Kháng).
TÂN
LANG 新 郎
Tân:
Mới. Lang: Chàng.
Đời nhà Đường, chữ tân lang dùng để chỉ những người thi đỗ. Đến đời Tống, tân lang được dùng để chỉ người mới cưới vợ, hay chàng rể mới.
Lả lơi bên nói bên cười,
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
TÂN
TOAN 莘 酸
Tân:
Cay. Toan: Chua.
Tân toan là cay và chua, dùng để chỉ sự buồn rầu, vất vả hay đau khổ.
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường
này.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Thà rằng một giấc cho an,
Chẳng thà chịu nhục tân toan ở
đời.
(Hạnh Thục Ca).
Lệ dầm, cất bút tân toan,
Viết trong trạng cáo sự oan tỏ tường.
(Tội Vợ-Vợ Chịu).
Tân toan khổ hạnh phải trau giồi,
Bước tới đường dài chớ trở lui.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
TẤN
DƯƠNG 晉 陽
Tấn Dương là nơi vua Đường Cao Tổ dấy binh đánh nhà Tùy, lên ngôi dựng nên nghiệp đế. Đất Tấn Dương nay thuộc huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.
Thưa rằng: Lượng cả bao dong,
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
(Truyện Kiều).
TẤN TẦN 晉 秦
Chỉ sự kết duyên vợ chồng.
Do điển Tấn Huệ Công phụ ước với vua Tần, bị Tần đem quân đánh, bắt Thái tử Ngữ làm con tin. Sau Công chúa Hoài Danh được vua Tần Mục Công gả cho Thái tử Ngữ và cho trở về Tấn. Từ đó về sau, con cháu hai nước cưới gả cho nhau rất tốt đẹp, nên người đời sau gọi là duyên Tấn Tần.
Xem: Tần Tấn.
Trộm toan kén lứa chọn đôi,
Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa.
(Hoa Tiên Truyện).
Nguyền xưa mong vẹn Tấn Tần,
Hai non ngảnh lại cho gần cả hai.
(Quan Âm Thị Kính).
Muốn khuyên giảm bớt ái ân,
Lại e giục kẻ Tấn Tần chia
phôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TẤN
THÂN 縉 紳
Tấn:
Cái hốt hay lụa sắc đỏ. Thân: Cái đai.
Ngày xưa kẻ sĩ thường lấy cái hốt nhét vào đai, nên chữ “Tấn thân” dùng để chỉ kẻ sĩ ra làm quan, hay nói bóng về những nhà có người ra làm quan.
Ngòi Đức thuỷ khỏi dòng kinh sử,
Phả Cao dương treo chữ tấn thân.
(Tự Tình Khúc).
TẦN CỐI 秦 檜
Tần Cối là người Giang Ninh, làm quan đến chức Tể tướng đời Tống. Ông dựa thế lực của nước Kim để củng cố địa vị của mình, vì thế ông chủ trương hoà hoãn với Kim và tìm cách vu khống giết hại Nhạc Phi, là một vị trung thần của nhà Tống. Tần Cối làm Tể tướng suốt 19 năm, đã tìm cách giết hại biết bao nhiêu tôi trung và tướng giỏi. Sau ông bị giết chết và bị người đời liệt vào người nham hiểm, nịnh hót nhứt.
TẦN HOẮC 秦 霍
Tần Hoắc là hai vị công thần.
Tần tức là Tần Quỳnh, tự là Thúc Bảo, người đời Đường, ở đất Lịch Thành. Tần Thúc Bảo phò vua Đường Thái Tông, đánh bọn Vương Thế Sung, lập nhiều chiến công, được phong tước Hồ Quốc Công và tặng chức Từ Châu Đô Đốc.
Hoắc tức là Hoắc Quang, tự là Tử Mạnh, người có công giúp Hán Chiêu Đế đón Thái tử Xương Ấp về lên nối ngôi, sau lại bỏ Xương Ấp lập Tuyên Đế. Ông là một tôi thần giúp nước lâu và giữ một lòng trung nghĩa, nên sau Tuyên Đế sai người vẽ tượng Hoắc Quang ở Kỳ Lân Các để ghi nhớ công nghiệp to lớn.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
TẦN
LÃNH 秦 嶺
Tần Lãnh là tên một quả núi.
Thơ Hàn Dũ có câu: Vân hoành Tần Lãnh gia hà tại? 雲 橫 秦 嶺 家 何 在, nghĩa là Núi Tần mây phủ nhà đâu nhĩ?. Vì vậy, Tần lãnh hay mây Tần được dùng để nói việc nhớ nhà, nhớ quê hương.
Xem: Mây Tần.
TẦN TẢO 蘋 藻
Tức rau tần, rau tảo, thứ rau ở dưới nước, dùng vào việc cúng tế. Tần tảo đây trỏ vào người nôi trợ trông coi việc nấu nướng, thờ cúng tổ tiên.
Xem: Tảo tần.
Nhà lan sum họp ban mai,
Đã trong tần tảo, lại ngoài ty ca.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua
lúc này.
(Gia Huấn Ca).
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo.
(Gia Huấn Ca).
TẦN TẤN 秦 晉
Nước Tần và nước Tấn.
Đời Xuân Thu hai nước Tần Tấn nối tiếp gả con cho
nhau. Do đó, chữ “Tần Tấn” dùng để chỉ duyên vợ chồng. Xem: Tấn Tần.
Tần Tấn duyên ưa thông ải sử,
Bắc nam ước cũ xếp can qua.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Trước ưng chịu duyên vầy Tần Tấn,
Hơn thua chi còn lấn hiếp nhau.
(Phương Tu Đại Đạo).
TẦN THỈ
Tức Tần Thuỷ Hoàng Đế 秦 始 皇 帝, một ông vua đời Chiến Quốc, gồm thâu được sáu nước, thống nhất thiên hạ, lập nên nhà Tần. Ông là vị vua có tính bạo ngược và hà khắc nên khi lên làm vua, ra lịnh gôm hết sách vở trong nước đốt đi và chôn sống hơn bốn trăm Nho sĩ, mà sử gọi là nạn “Phần thư khanh nho 焚 書 坑 儒”.
Xem: Tần Thuỷ Hoàng.
Sang như Tần Thỉ lúc đương hưng,
Chừng quá ba đời hết các lân.
(Đạo Sử).
TẦN THUỶ
HOÀNG 秦 始 皇
Tần Thuỷ Hoàng là vị vua nhà Tần, tên Chính, là người thông minh, có tài, nhưng tính hà khắc và bạo ngược, lên ngôi vua lúc 13 tuổi. Năm 221 trước công nguyên, gồm thâu được sáu nước đời Chiến Quốc mà thống nhất Trung Hoa, lo chỉnh đốn lại việc nước. Bỏ phong tục cũ, thu sách vở trong nước đem đốt đi và chôn sống hơn bốn trăm Nho sĩ.
Trong thời gian cai trị vua sai Mông Điềm đắp Vạn
Lý Trường Thành để phòng giữ giặc Hung Nô, dựng cung A Phòng, xây Hoàng Lăng ở
Ly Sơn tốn đến sáu bảy vạn dân công. Đúc 12 người ta bằng đồng, nặng 24 ngàn
cân để trong cung đình. Trong một cuộc xuất du, vua bị bịnh mà mất lúc còn đang
đi đường.
Kìa như Hán Võ Đế,
đã nên đứng Minh vương,
Nọ như Tần Thuỷ Hoàng,
rất nên trang hung bạo.
(Sãi Vãi).
TẬN
PHÁP 盡 法
Tận:
Hết. Pháp:Luật pháp.
Tận pháp là hết sức đúng với pháp luật.
Này đồ phụng chỉ ban ra,
Sao cho tận pháp mới là
công minh.
(Nhị Độ Mai).
TẬP
CÔNG 襲 攻
Tập:
Đánh úp. Công: Tấn công.
Tập công là thình lình đánh úp, tức là nhân khi quân địch bất ngờ mà đánh.
Nhân khi ra đánh Thái bình,
Vén tay tả đản , về thành tập công.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TẬP THIẾU
LĂNG
Tức là tập thơ của ông Thiếu Lăng, tên hiệu của Đỗ Phủ, một thi hào đời nhà Đường bên Tàu. Ông là người học thức uyên bác, thi ca rộng rãi, tiếng tăm lừng lẫy ít ai sánh kịp.
Xem: Đỗ Phủ.
Tráp Vĩnh Thúc tay phong tay mở,
Tập Thiếu Lăng câu lựa câu ngâm.
(Tự Tình Khúc).
TẤT
GIAO 漆 膠
Tất giao là sơn với keo, hai thứ kết dính với nhau rất khắn, dùng để chỉ sự giao tình gắn bó, bền chặt, không thể chia lìa nhau được.
Thơ xưa có câu: Dĩ giao đầu tất trung, thuỳ năng biệt ly thử 以 膠 投 漆 中, 誰 能 別 離 此, nghĩa là lấy keo bỏ vào trong sơn, ai làm cho chia rẻ được.
Xem: Giao tất.
Một lời gắn bó tất giao,
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
(Truyện Kiều).
Đinh ninh gắn bó tất giao,
Trước sau nối gót trướng đào song song.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
TẤU VĂN
Tấu văn gồm có hai nghĩa:
Bài biểu văn tâu về triều gọi là “Tấu Văn 奏 文”, hay bài biểu tâu về cho vua hay biết gọi là “Tấu văn 奏 聞”.
Cửa doanh liễu mới rước xuân,
Biên thư đã thấy tấu văn bệ thiều.
(Truyện Kiều).
TẨU THẠCH
PHI SA 走 石 飛 沙
Tẩu thạch: Đá chạy. Phi sa: Cát bay.
Tẩu thạch phi sa là một pháp thuật rất thần thông có thể làm cho đá chạy cát bay đầy trời.
Chín trời tẩu thạch phi sa,
Con trùng tuyệt tích người ta lắc đầu.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
TÊN CỎ
CUNG DÂU
Bởi chữ “Tang hồ bồng thỉ 桑 弧 蓬 矢” là cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng,
Tên cỏ cung dâu dùng để chỉ người có chí tung hoành, vùng vẫy bốn phương trời đất.
Xem: Cung dâu tên cỏ
Tên cỏ cung dâu là chí trẻ,
Danh mà chi đó, lợi mà chi?
(Thơ Tôn Thọ Tường).
TẾ BẠT 濟 拔
Tế:
Cứu giúp. Bạt: Chọn để cất nhắc lên.
Tế bạt là cứu giúp để cất nhắc lên, có nghĩa là cầu xin cất nhắc các vong hồn cho được siêu thoát.
Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Bố từ bi tế bạt vong hồn,
(Kinh Tận Độ).
TẾ ĐỘ 濟 度
Tế:
Đưa đò qua sông. Độ: Giúp đỡ.
Theo Phật, thế gian là một biển khổ, Phật pháp như một con đò cứu vớt chúng sanh vượt qua biển khổ để đưa sang bên kia bờ giác ngộ.
Nghĩa rộng: Cứu giúp.
Đánh liều nhắn một hai lời,
Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
(Truyện Kiều).
Bể trầm luân biết đâu là bến,
Tế độ nhờ tay bắc lấy cầu.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ ấy thì lòng
nhơn.
(Kinh Sám Hối).
Dìu dắt sanh linh lo tế độ,
Thiên niên danh tạc chốn Vân Ðài.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Biển khổ mang bầu chờ tế độ,
Giựt giành chi khỏi trả rồi vay.
(Đạo Sử).
TẾ LIỄU
DINH 細 柳 營
Đời Hán Văn Đế, quan Tông Chính Lưu Lễ đóng binh ở Bá Thượng, Tướng quân Từ Lệ đóng quân Kích Môn, Thái Thú Chu Á Phu đóng quân ở Tế Liễu, chung nhau ngừa rợ Hồ.
Vua sang khao quân, đến Bá Thượng và Kích Môn, đều chạy ngay vào. Còn khi đến dinh Tế Liễu thì không vào được. Vua sai sứ cầm cờ tiết, trao tờ chiếu cho Chu tướng quân. Lúc đó ông Á Phu mới mở cửa dinh, xin lấy quân lễ ra mắt. Vua tấm tắt nói: Đây mới thiệt là tướng quân vậy! Người đời sau nhơn đó khen quân dinh nào có kỷ luật gọi là “Tế liễu dinh”, hay “Doanh liễu”.
Xem: Doanh liễu.
TẾ NGỘ 際 遇
Tế:
Hai bên tiếp xúc với nhau. Ngộ: Gặp gỡ.
Tế ngộ là hai bên gặp gỡ tiếp xúc với nhau.
Cổ ngữ có câu: Minh quân lương tể tao phùng dị,
tài tử giai nhân tế ngộ nan 明 君 良 宰 遭 逢 易, 才 子 佳 人 際 遇 難,
nghĩa là vua sáng tôi hiền gặp nhau dễ, tài tử giai nhân khó hội ngộ.
Duyên tế ngộ, hội công danh,
Là hai, với nghĩa chung tình là ba.
(Mai Đình Mộng Ký).
TẾ NHUYỄN 細 軟
Tế:
Nhỏ. Nhuyễn: Mềm.
Tế nhuyễn chỉ những đồ vật nhỏ, gọn như quần áo có thể mang theo bên mình được.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
(Truyện Kiều).
TẾ SINH
HOẠT MỆNH 濟 生 活 命
Tế sinh:
Cứu giúp. Hoạt mệnh: Mạng sống.
Tế sinh hoạt mệnh tức là cứu sống sinh mệnh cho con người.
Kỳ rằng: Sách đặt có câu:
Tế sinh hoạt mệnh sách đầu đạo y.
(Dương Từ Hà Mậu).
TẾ TỰ 祭 祀
Tế:
Cúng một cách long trọng. Tự: Thờ cúng.
Tế tự là chỉ chung về sự thờ tự và cúng tế.
Ngày xưa người ta phân biệt: Cúng Thần trên Trời
là tự 祀, cúng Thần dưới đất là
tế 祭. Về sau, hai chữ này chỉ còn nghĩa
là cúng một cách trọng thể các Đấng Thiêng Liêng.
Khi tế tự chớ lờn chớ dể,
Việc quan, hôn thủ lễ nghiêm trang.
(Kinh Sám Hối).
TẾ THẾ 濟 世
Tế:
Giúp đỡ. Thế: Đời.
Tế thế là giúp đời, cứu đời.
Đã hay rằng nam tử, thì có chí kinh luân;
Song le đấng phụ nhân, cũng ghen tài tế
thế.
(Sãi Vãi).
TỀ GIA
TRỊ QUỐC 齊 家 治 國
Tề gia:
Sắp đặt việc nhà cho gọn gàng. Trị quốc: Sửa sang việc nước.
Tề gia trị quốc tức là sắp đặt việc nhà cho gọn gàng rồi mới sửa sang (Cai trị) việc nước.
Tu minh đức để mà tân dân;
Tu tề gia để mà trị
quốc.
(Sãi Vãi).
TỀ GIA
NỘI TRỢ 齊 家 內 助
Tề gia:
Sắp đặt việc nhà cho gọn gàng. Nội trợ: Giúp việc bên trong gia đình.
Tề gia nội trợ là nói bổn phận lo sắp đặt mọi việc trong gia đình của người đàn bà đảm đang.
Phận gái tam tùng cùng tứ đức,
Tề gia nội trợ vẹn là ngoan.
(Giới Tâm Kinh).
Tập cho biết tề gia nội trợ,
Mình đờn ông hay dở hiểu đờn ông.
(Phương Tu Đại Đạo).
TỀ MY 齊 眉
Ngang mày.
Do điển tích “Cử án tề mi 舉 案 齊 眉”, nghĩa là đưa bát đựng thức ăn lên ngang mày. Nàng Mạnh Quang ở đời Hậu Hán tánh nết đoan trang, đối với chồng là Lương Hồng rất nên cung kính, mỗi khi dâng cơm cho chồng không dám nhìn thẳng mặt mà để bát ngang mày. Chỉ sự cung kính của người vợ đối với chồng.
Xem: Cử án tề my.
Dầu chàng đổi dạ én anh,
Tề my vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Mạnh Quang tích trước ghi tài,
Tề my vẹn đạo chẳng nài khổ thân
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đạo chồng vợ muốn bền tơ tóc,
Gương tề my khá học Mạnh
Quang.
(Phương Tu Đại Đạo).
TỀ
NGUƠN 齊 元
Hay “Tề Nguyên”.
Tề Nguơn Đế là vua Bắc Tề, tên Cao Vĩ, rất sùng
bái Đạo Lão, đến đổi quân của Võ Văn nhà Châu đã vây chặt thành Bình Dương mà
trong thành vẫn còn tựa án giảng đạo.
Châu Sư đã vang dầy tên pháo,
sao Tề ngươn còn giảng đạo hoài hoài.
(Sãi Vãi).
TỀ PHỤ
HÀM OAN 齊 婦 含 冤
Người đàn bà nước Tề bị hàm oan.
Do điển chép từ Hán Thư: Huyện Đông Hải có nàng dâu thảo, tên là Đậu Thị, nuôi mẹ chồng rất kính cẩn. Chồng chết không cải giá. Mẹ chồng nói: Ta già yếu làm cực đời con quá! Bèn thắt họng chết. Người em chồng cáo nàng Đậu Thị giết mẹ. Nàng bị gán ép chịu tội, ông cai ngục Vu Công minh oan không được, rốt cuộc quan Quận thú xử tử, trong quận bắt đầu bị hạn ba năm. Về sau quan Quận thú đến viếng ngục, Vu Công trình rõ bằng cớ bị oan ức. Quận thú thấy án bị oan sai, liền thiết lễ cúng tế mộ nàng Đậu Thị. Trời liền mưa.
Do vậy, người sau nói: Tề phụ hàm oan tam niên bất vũ 齊 婦 含 冤, 三 年 不 雨, nghĩa là người đàn bà nước Tề chịu hàm oan, trời phạt ba năm không mưa.
In như Tề phụ chịu hàm
oan,
Nết Thánh mà ai cũng gọi phàm.
(Đạo Sử).
TỀ
TUYÊN 齊 宣
Tề Tuyên là tên một vị vua trong thời Chiến Quốc, ham mê sắc đẹp và thích dâm dục. Khi Mạnh Tử đến gặp Tề Tuyên để bàn về chính trị, vua Tề có nói: Quả nhân hữu tật, quả nhân hiếu sắc 寡 人 有 疾, 寡 人 好 色, nghĩa là quả nhân có tật xấu,quả nhân ham mê sắc đẹp. Vì thế, chữ “Bệnh Tề Tuyên” được dùng để chỉ bệnh hiếu sắc.
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên
đùng đùng.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
TỂ TƯỚNG 宰 相
Tể:
Sửa sang, cai trị. Tướng: Chức quan lớn, đứng đầu trong triều đình.
Tể tướng là một chức quan lớn hơn hết trong bá quan, giúp vua điều hành và cai trị việc nước.
Làm quan Tể tướng sang
yêu,
Trăm hầu nghìn hạ dập dìu vào ra.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
TỂ TƯỚNG
SƠN TRUNG 宰 相 山 中
Hay “Sơn Trung Tể Tướng 山 中 宰 相” là tôn hiệu của ông Đào Hoàng Cảnh, người thời Nam Bắc triều, ở ẩn trong núi sâu. Đời Lương Vũ Đế, triều đình có việc lớn thường đến hỏi ý kiến ông, do đó, ông được tôn xưng là “Sơn Trung Tể Tướng”, tức là quan tể tướng ở trong núi.
Họ Đào Tể tướng sơn trung,
Chúa Lương khuất lễ mới dùng đặng va.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
TY LA 絲 蘿
Dây tơ hồng và sắn bìm, chỉ việc hôn nhân.
Ty là dây tơ hồng, tức là dây thố ty, có hột gọi là “Thố ty tử”, vị thuốc. Dây tơ hồng có màu vàng và bò dài như sợi tơ, nó chỉ dựa vào cây khác mà sống. La là thứ dây chùm gởi, cũng là thứ dây nương nhờ cây khác mà tươi tốt.
Ngày xưa người con gái có chồng, hoàn toàn gửi thân phận cho chồng, cho nên nói “Ty la gởi phận”. Theo lời tục của người Việt thì gọi người con gái trao phận cho chồng là “Sắn bìm nương bóng tùng quân”.
Sơn Đông dẫn chuyện khúc nhôi,
Khi lời côn hữu khi lời ty la.
(Ngọc Kiều Lê).
TY TRÚC 絲 竹
Ty:
Dây đàn, tiêu biểu cho lọai nhạc khí. Trúc: Cây trúc, đùng để chỉ loại nhạc khí làm bằng trúc như ống
sáo, ống địch…
Ty trúc gọi chung các lọai đàn sáo.
Trong quân mở tiệc hạ công,
Xôn xao ty trúc hội đồng
quân quan.
(Truyện Kiều)
TÝ DÂN 庇 民
Tý:
Che chỡ. Dân: Người dân.
Tý dân là che chỡ, hay bảo vệ cho dân chúng.
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,
Sức tý dân dường sắt trơ
trơ.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
TỲ BÀ 琵 琶
Tên một cây đàn.
Ngày xưa, lúc Chiêu Quân từ giã vua Hán Nguyên Đế
đi cống hồ, khi ra khỏi cửa ải Vân Quan, nàng ngồi trên ngựa, gảy đờn tỳ bà
giọng rất ai oán.
Ải Vân oán điệu tỳ bà,
Giấu giày non mã sương pha nên đồ.
(Hoa Tiên Truyện).
Đồ thờ cắm giá án tiền,
Một bên bảo kiếm, một bên tỳ bà.
(Nhị Độ Mai).
Tỳ bà nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
(Tỳ Bà Hành).
TỲ HƯU 貔 貅
Tỳ hưu là tên một loài mãnh thú giống như loài cọp hoặc loài gấu, con đực gọi là tỳ, con cái gọi là hưu.
Tỳ hưu được người ta ví với đội quân thiện chiến,
hùng mạnh.
Bởi vì thương muôn mệnh tỳ hưu,
Thà nhất tử để cho toàn tướng sĩ.
(Văn Tế Võ Tánh).
TỲ LƯ 毘 盧
Tỳ lư là một thứ mão dành cho các nhà sư đội. Mão có hình tròn như quả dừa, trên có gắn tượng đức phật Tỳ Lư. Các sư trưởng ở ngôi chùa thường đội mão Tỳ lư.
Mũ tỳ lư rập tăm tắp vỏ dừa,
đội khi hầu nắng;
Gậy tích trượng chỉn lô nhô đốt trúc,
chống thuở còn sương.
(Thập Giới Cô Hồn).
TỲ TẤT 婢 膝
Tỳ:
Đầy tớ gái. Tất: Đầu gối.
Đầy tớ gái thường hầu hạ dưới gối chủ nhân, nên được gọi là tỳ tất.
Thưa rằng: Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Còn con tỳ tất tên là Kim
Liên.
(Lục Vân Tiên).
TỶ DỰC
LIÊN CHI 比 翼 連 枝
Tỷ dực điểu là chim liền cánh.
Tỷ dực bởi điển ở phương nam nước Tàu có loài tỷ dực điểu (Chim liền cánh), nếu chúng không chắp liền cánh với nhau thì không chịu bay.
Liên chi do tích vợ chồng Hàn Bằng bị Tống Khang Vương hại chết, rồi chôn hai người cách xa nhau. Sau người ta thấy mỗi cái mộ mọc lên một cây to, trên thì có cành giao nhau, còn dưới thì rể ăn liền nhau.
Trong bài Trường Hận Ca của Đỗ Phủ có câu: Tại
thiên nguyện tác tỷ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi 在 天 願 作 比 翼 鳥, 在 地 願 為 連 裏 枝,
nghĩa là trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền
cành.
Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ.
Đồ liên chi lần trỏ hoa kia.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
TỶ
XƯƠNG TỶ XÍ 蓰 昌 蓰 熾
Tỷ:
Gia gấp lên. Gấp một lần là bội; gấp năm lần là tỷ. Xương: Thạnh vượng. Xí: Lửa đương bốc
lên.
Tỷ xương tỷ xí chỉ cảnh thạnh vượng thái bình.
Chốn chốn đều tư tái tư tam,
Nhà nhà cũng tỷ xương tỷ xí
(Sãi Vãi)
TỴ ÁC 避 惡
Tỵ:
Tránh xa. Ác: Hung tợn.
Tỵ ác là là tránh điều hung tợn, hay xa lánh người dữ. Sách Nho có câu: Tỵ ác như uý xà yết 避 惡 如 畏 蛇 蠍, nghĩa là tránh người dữ như sợ rắn rết.
Tỵ ác thân hiền mới phải trang,
Cũng trong xã hội một quan làng.
(Đạo Sử).
TỴ HIỀM 避 嫌
Tỵ:
Tránh. Hiềm: Nghi ngờ.
Tỵ hiềm là tránh để khỏi bị nghi ngờ.
Tỵ hiềm đừng để khí xung thiên,
Danh của Thầy con nhớ liệu nên.
(Đạo Sử).
Tỵ hiềm chi những tiếng gièm pha,
Ngó vách chưa hay đã khỏi nhà.
(Đạo Sử).
TỴ TẦN 避 秦
Tỵ:
Lánh, tránh. Tần: Nhà Tần.
Tỵ Tần là lánh nạn trong triều đại nhà Tần
Theo bài “Đào hoa nguyên ký 桃 花 源 記”
của Đào Tiềm, đời nhà Tấn, kể lại một người quê ở Võ Lăng làm nghề đánh cá, đi
lạc vào động Đào Nguyên, trong động ấy, có một nhóm người đang sinh sống, mà
trước đây tổ tiên của họ trốn loạn đời nhà Tần, đến đó ở biệt lập hẳn với người
đời bên ngoài động đã từ lâu rồi. Động ấy sau trở thành động Tiên ở.
Đã cam hai chữ "tỵ Tần",
Nguồn Đào tìm dấu, non xuân ruỗi miền.
(Dương Từ Hà Mậu).
TÍCH ÁC
PHÙNG ÁC 積 惡 逢 惡
Tích ác:
Chứa đựng điều ác, xấu. Phùng ác: gặp những việc dữ xấu.
Tích ác phùng ác tức là chứa đựng những điều xấu xa hung ác thì sẽ gặp những điều xấu xa hung ác trả lại.
Ví bằng khẩu độc tâm ky,
Tích ác phùng ác, kêu chi Phật Trời.
(Huấn Nữ Ca).
TÍCH ĐỨC
TU NHÂN 積 德 修 仁
Tích đức:
Làm việc thiện để chứa điều phước đức. Tu
nhân: Tu sửa để thành người nhơn.
Tích đức tu nhân tức là chứa đựng nhiều điều tốt lành, phúc đức, tu sửa để thành người nhơn.
Xem: Tu nhân tích đức.
Những người tích đức tu nhân,
Phật Trời phò hộ, quỉ thần kỉnh thương.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TÍCH LỊCH 霹 靂
Tích lịch tức là sấm sét.
Mấy phút âm thầm dường tích lịch,
Một cơn lừng lẫy tựa phong ba.
(Quốc Âm Thi Tập).
TÍCH LỤC
THAM HỒNG 惜 綠 貪 紅
Tích lục:
Tiếc màu xanh. Tham hồng: Tham màu đỏ, màu hồng.
Tích lục tham hồng là có ý nói người tiếc màu xanh ham màu đỏ, nghĩa bóng là ham mê, mến tiếc đàn bà con gái đẹp.
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tích lục tham hồng là
ai?
(Truyện Kiều).
TÍCH
THIỆN CHI GIA 積 善 之 家
Tích thiện chi gia có nghĩa là những nhà chuyên làm việc phước thiện để tích trữ công đức.
Sách Minh Tâm Bửu Giám có câu: Tích thiện
chi gia tất hữu dư khánh 積 善 之 家 必 有 餘 慶,
nghĩa là nhà chứa điều lành ắt sẽ có nhiều điều tốt.
Chữ rằng: Tích thiện chi gia,
Đường kia nỗi nọ chẳng qua nợ nần.
(Thanh Hoá Quang Phong).
Có câu: Tích thiện chi gia,
Tất hữu dư khánh, việc nhà đã an.
(Tội Vợ Vợ Chịu).
TÍCH
THIỆN PHÙNG THIỆN 積 善 逢 善
Tích thiện: Chứa điều lành. Phùng
thiện: Gặp điều lành. Tích thiện phùng
thiện là làm điều lành thì sẽ gặp lại việc lành.
Sách Minh Tâm Bảo Giám có câu: Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác, tử tế tư lương, thiên địa bất thác 積 善 逢 善, 積 惡 逢 惡, 仔 細 思 量, 天 地 不 錯, nghĩa là làm điều lành thì gặp việc lành, làm điều ác thì gặp việc ác, suy tính lo lường, trời đất không hề sai lầm.
Luống tích thiện sao
không phùng thiện?
Chửa minh oan lại đến hàm oan.
(Tự Tình Khúc).
TÍCH
TRƯỢNG 錫 杖
Tích:
Thiếc. Trượng: Gậy.
Tích trượng là cây gậy của nhà sư, còn gọi là thiền trượng, trên đầu gậy có bốn hoa thị hàn dính từ cặp hai cái để thẳng góc nhau, trên nhìn xuống giống như ngôi sao bốn cánh. Chỗ hoa thị giáp nhau có treo một cái khoen bằng thiếc. Tích trượng có gắn chuông nhỏ để khi khất thực đến trước nhà rung chuông cho chủ biết.
Nguyên tích trượng là một bửu pháp của Địa Tạng
Vương Bồ Tát, có thể mở cõi Địa ngục ở Âm Phủ và cứu linh hồn khỏi các hình
phạt ở nơi ấy.
Thiếu bê son bình sái;
Thiếu tích trượng ca sa.
(Sãi Vãi).
Mũ tì lư rập tăm tắp vỏ dừa,
đội khi hầu nắng;
Gậy tích trượng chỉn lô
nhô đốt trúc,
chống thuở còn sương.
(Thập Giới Cô Hồn).
TỊCH CỐC 辟 穀
Không ăn gạo cơm, thay thế bằng hoa quả.
Ngày xưa Trương Lương, tướng của Hán Cao Tổ, theo tư tưởng đạo gia là “Công thành thân thối 功 成 身 退” nghĩa là công đã thành rồi thì thân phải trở về dân. Nên khi bình định được thiên hạ rồi, ông giả chước tịch cốc theo tiên để có cớ ẩn dật, hầu tránh hiềm nghi của nhà vua có hại về sau.
Xem: Trương Lương.
Xuy tiêu khiến giặc lòng sinh chán,
Tịch cốc theo tiên kế rất mầu.
(Thơ Lê Quý Đôn).
TỊCH
DƯƠNG 夕 陽
Tịch:
Buổi chiều. Dương: Mặt trời.
Tịch dương là mặt trời buổi chiều.
Trong bài “Ô Y Hạng” của Lưu Vĩ Tích có câu: Chu
tước kiều biên dã thảo hoa, Ô y hạng khẩu tịch dương tà 朱 雀 橋 邊 野 草 花, 烏 衣 巷 口 夕 陽 斜,
nghĩa là cầu Chu Tước, cỏ trổ hoa, Cửa Ô Y Hạng chiều tà phủ vây.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
(Thơ Huyện Thanh Quan).
TỊCH ĐIỀN 籍 田
Tịch điền là một thủa ruộng do nhà vua tự thân đốc suất việc cày bừa, làm lúa, rồi thu hoạch lấy thóc để cúng tế.
Hán Thư chép: Kỳ khai tịch điền trẫm thân
suất canh 期 開 籍 田, 朕 身 率 耕,
nghĩa là khai ruộng tịch điền, trẫm tự đốc suất việc cày cấy.
Ban hình luật, canh tịch điền,
Mở đồ nhất thống cầm quyền tứ chinh.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TỊCH MỊCH 寂 寞
Tịch:
Lặng lẽ. Mịch: Yên lặng, không hơi tiếng.
Tịch mịch là im lặng, không có tiếng động.
Chiều tịch mịch đã gầy
bóng thỏ,
Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Đèn cỏn con, có chiếc chiếu lôi thôi,
Đêm tịch mịch, soi chung vừng
trăng tỏ.
(Tài Tử Đa Cùng Phú).
TIỆC
HOA
Tiệc hoa là tiếng dùng để nói một buổi tiệc thịnh soạn, linh đình cho đẹp lời.
Một nhà về đến quan nha,
Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui
vầy.
(Truyện Kiều).
Mời nhau lần lượt tiệc hoa,
Thôi bên Trần thị, lại toà Khâu công.
(Nhị Độ Mai).
TIỀM
LONG 潛 龍
Tiềm:
Ẩn núp. Long: Con rồng.
Tiềm long là rồng còn ẩn núp. Quẻ Kiền trong Kinh Dịch nói con rồng còn ẩn núp dưới vực, ý nói chưa gặp được thời.
Rồng là vật tượng cho vua. Rồng cò ẩn núp chưa vẫy
vùng, ý chỉ vua chưa gặp thời.
Đức đại thánh họ Ngu vua Thuấn,
Buổi tiềm long gặp vận hàn vi.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
TIỀM
MƯU 潛 謀
Tiềm:
Ngầm. Mưu: Tính kế.
Tiềm mưu là bày mưu tính kế một cách ngấm ngầm, không cho ai hay biết.
Chia quân cấm lữ về nhà,
Tiềm mưu mới họp năm ba đại thần.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TIÊN
BANG 仙 邦
Tiên: Thần tiên. Bang: Nước.
Tiên bang đồng nghĩa với Thiên quốc, là chỉ cõi
Tiên, tức cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Tình ái nhành dương đem rưới tắt,
Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.
(Đạo Sử).
TIÊN
HOA 戔 花
Tiên:
Một loại giấy viết thư ngày xưa. Hoa: Bông.
Tiên hoa là giấy viết thư có vẽ hình bông hoa.
Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
(Truyện Kiều).
Khách đâu bên giậu chơi nhà,
Mệnh đề truyền lấy tiên hoa vội
vàng.
(Hoa Tiên Truyện).
TIÊN
HOÀNG 先 皇
Tiên:
Chữ dùng để chỉ người đã chết. Hoàng: Vua.
Tiên hoàng là vị vua đã chết.
Tưởng Tiên hoàng lệ nhỏ chứa
chan,
Thương cơ nghiệp ngừng sa nước mắt.
(Nhạc Hoa Linh).
TIÊN
HƯƠNG 仙 鄉
Tiên:
Thần tiên. Hương: Làng.
Tiên hương là quê hương trên cõi tiên, Phật, tức chỉ cõi trở về của người đạo đức, tu hành chết.
Não người thay, cảnh tiên hương,
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng
trông.
(Ai Tư Vãn).
Mẹ cha về chốn Tiên hương,
Nay con chẳng khá khóc than buồn rầu.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TIÊN
MAI 戔 梅
Tiên 戔 là một loại giấy ngày xưa dùng để viết thư, hay chép thơ văn.
Tiên mai là giấy có vẽ hình hoa mai.
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành tích việt có hai chữ đề.
(Truyện Kiều).
TIÊN
NGHIÊM 先 嚴
1.- Tiên: Chữ dùng để chỉ những người đã qua đời. Nghiêm: Oai nghiêm, dùng để chỉ người cha.
Tiên nghiêm chỉ người cha đã mất.
Những từ khuất bóng tiên nghiêm,
Theo từ thân lấy sách đèn khuyên nhau.
(Ngọc Kiều Lê).
2.- Tiên: Trước. Nghiêm: Oai nghiêm, làm cho người kính sợ.
Tiên nghiêm là hiệu lịnh báo trước để mọi người biết mà chuẩn bị cho tề chỉnh.
Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi,
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
(Truyện Kiều).
TIÊN PHẦN 先 墳
Tiên:
Chữ dùng để chỉ những người đã qua đời. Phần: Mồ mả.
Tiên phần là mồ mả của cha.
Nơi tiên phần còn gửi mây
xanh,
Xót thân lưu lạc phù bình bấy lâu.
(Tự Tình Khúc).
TIÊN
PHONG 先 鋒
Tiên:
Trước. Phong: Một thứ binh khí, mũi nhọn.
Tiên phong tức là toán quân ra trận như một mũi nhọn đi trước nhất.
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.
(Truyện Kiều).
TIÊN SƯ 先 師
Tiên sư là người gầy dựng ra một thuyết, hay vị tổ sư của nghiề nghiệp. Mỗi nghề đều có thờ một vị tổ của nghề nghiệp, gọi là tiên sư.
Lầu xanh quen lối xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư,
(Truyện Kiều).
TIÊN
TÂN 鮮 新
Tiên:
Tươi tốt. Tân: Mới mẻ.
Tiên tân có nghĩa là tươi tốt, mát mẻ.
Một vườn cảnh vật tiên tân,
Mõ xa cành biếc, kệ gần lưỡi oanh!
(Nhị Độ Mai).
TIÊN THỀ
Một loại giấy hoa ngày xưa, dùng để ghi chép lời thề nguyền của đôi trai gái.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
(Truyện Kiều).
TIẾN
PHÚC BIA
Bởi chữ “Tiến phúc bi 荐 福 碑” tức là bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây đời Tống, Phạm Trọng Yêm làm Thứ sử Nhiêu Châu chữ viết rất đẹp. Một hôm có người bạn đến xin chữ, Phạm bảo nên đến chùa Tiến Phúc giập chữ ở bia quý hơn. Khi bạn đến chùa thì gặp cơn mưa, sấm sét ầm ầm đánh tan mất tấm bia.
Mạnh như sấm phũ phàng xé đá,
Tiến Phúc bia nổ phá ầm ầm.
(Thơ Học Canh).
TIẾN THẢO 進 討
Tiến:
Đi tới. Thảo: Đem quân đi đánh kẻ có tội.
Tiến thảo là kéo quân đi đánh dẹp kẻ có tội, tức đem quân đi đánh giặc.
Chàng từ sang đông nam khơi nẻo,
Biết nay chàng tiến thảo nơi
nao?
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Ải quan rợ Thát quấy rầu,
Định ngày tiến thảo ngõ hầu
an biên.
(Nhị Độ Mai).
TIỀN
DÂM HẬU THÚ 前 淫 後 娶
Tiền dâm:
Ăn ở nhau trước khi cưới. Hậu thú: Sau mới làm đám cưới.
Tiền dâm hậu thú tức là trai gái ăn nằm với nhau trước, sau đó mới làm đám cưới.
Dâu người phải giữ cho người,
Tiền dâm hậu thú một đời ô danh.
(Huấn Nữ Ca).
TIỀN
DUYÊN 前 緣
Tiền:
Trước, đời trước. Duyên: Mối dây ràng buộc được định sẵn.
Tiền duyên là mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước, từ kiếp trước.
Rằng: Đây lầm xuống mê tân,
Tiền duyên xin để kim thân tu đền.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Tiền duyên hậu vận rất vừa nhau,
Chẳng có một ai gọi khởi đào.
(Đạo Sử).
TIỀN ĐỊNH 前 定
Sự sắp xếp từ trước.
Theo Mạnh Tử, giàu sang hay nghèo hèn đều do số
mệnh đã định từ trước, không phải do ta muốn mà được. Kể cả việc ăn uống cũng
vậy, đều có sự sắp xếp cả, như câu: Nhât ẩm nhất trác, sự giai tiền
định 一 飲 一 啄, 事 皆 前 定, nghĩa
một cái ăn một việc uống đều do sự định trước.
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định khá thương, lọ là.
(Cung Oán ngâm Khúc).
TIỀN HÔ HẬU ỦNG 前 呼 後 擁
Tiền hô:
Đi trước la hét để dẹp đường. Hậu ủng: Theo sau để bảo vệ.
Ngày xưa, mỗi khi vua và các quan lớn ra đường đều có quân lính đi trước la hét để dân biết mà tránh, và đằng sau có quân lính theo hộ vệ, nghi vệ đó gọi là tiền hô hậu ủng.
Tiền hô hậu ủng chật lèn,
Phủ Lư mới tỏ hiệu đèn là đây.
(Nhị Độ Mai).
Cờ đề hai chữ: Cầm vương,
Tiền hô, hậu ủng ra tuồng uy nghi.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
TIỀN
KHIÊN 前 愆
Tiền:
Trước. Khiên: Lỗi lầm.
Tiền khiên là điều lỗi lầm đã gây ra ngày trước hay kiếp trước.
Tiền khiên đã mãn nghiệp căn xưa
Phải biết ăn năng chiếm thượng thừa
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Toan để bút ngăn vòng chồng vợ,
Thì lại e nghịch nợ tiền khiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phàm thân thương kẻ lắm lao đao,
Bởi kiếp tiền khiên trả chớ
sao.
(Đạo Sử).
TIỀN
NHÂN HẬU QUẢ 前 因 後 果
Tiền Nhân: Nguyên nhân đời
trước. Hậu quả: Kết quả đời sau.
Tiền nhân hậu quả là nguyên nhân đời trước và kết quả đời sau.
Sách Truyền Đăng Lục của nhà Phật viết: Dục
tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị, dục tri lai sinh quả, kim sinh tác giả
thị 欲 知 前 世 因, 今 生 受 者 是. 欲 知 來 生 果, 今 生 作 者 是,
nghĩa là muốn biết nguyên nhân đời trước ta thế nào, thì cứ xem hưởng thụ của
ta đời nay. Muốn biết kết quả đời sau thế nào, ta cứ xem việc ta làm ngày nay
đó. Nếu đời trước làm việc thiện thì đời nay được hưởng việc lành, nếu đời nay
làm điều ác, ắt đời sau sẽ bị khổ.
Hẳn túc trái làm sao đây tá,
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
TIỀN
NHÂN TÚC TRÁI 前 因 夙 債
Tiền nhân: Nguyên nhân đời trước. Túc
trái: Nợ đã sẵn có, tức nợ tiền kiếp.
Tiền nhân túc trái là nguyên nhân và nợ nần từ nhiều đời trước, tức thời của ông cha còn để lại cho con cháu.
Tiền nhân túc trái sao đây?
Không dưng người biết chốn này là đâu.
(Mai Đình Mộng Ký).
TIỀN
SEN
Tiền sen là lá sen như đồng tiền.
Lá sen khi còn nhỏ nổi trên mặt nước hình tròn như
đồng tiền, nên người ta gọi là “Tiền sen”.
Của chung huy hoắc đâu bằng.
Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
Tiền sen này đã nẩy là ba.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Tiền sen tích để bao nhiêu thúng,
Vàng cúc đem cho biết mấy bình.
(Quốc Âm Thi Tập).
TIỆN ĐIỆN 便 殿
Tiện:
Tiện lợi, thuận lợi. Điện: Cung điện.
Tiện điện là một cung điện riêng để người ta vào ra cho tiện, không có tính cách công cộng như ở chốn triều đình. Tiện điện cũng là nơi vua thường đến đó để nghỉ ngơi.
Nghe lời vội thảo bản tâu,
Vào trong tiện điện buổi
sau tiến trình.
(Hoa Tiên Truyện).
TIỆN
HÀNH 便 行
Tiện:
Thuận lợi. Hành: Làm.
Tiện hành tức là tiện lợi cho làm một công việc gì, tức thuận lợi cho công việc.
Một mình quyền được tiện hành,
Thẳng tay nẩy mực, công bình cầm cân.
(Nhị Độ Mai).
TIỆN HỒNG 便 鴻
Tiện hồng tức là nhờ có chim hồng, chim nhạn thuận đường mang thư, tức là phương tiện trong việc gửi thư tín.
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang.
(Truyện Kiều).
TIỆN KỸ 賤 技
Tiện:
Hèn. Kỹ: Nghề.
Tiện kỹ là nghề hèn hạ. Tiện kỹ còn là chữ dùng để nói về nghề của mình một cách khiêm nhường.
Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi,
Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng.
(Truyện Kiều).
TIỆN
NGHI 便 宜
Tiện nghi là thích đáng, vừa phải, tức là tuỳ theo tình hình mà tìm cách xử lý.
Hán Thư chép: Thần nguyện kiến Thượng ngôn
tiện nghi 臣 願 見 上 言 便 宜,
nghĩa là thần nguyện gặp Hoàng thượng sẽ tâu những điều tiện nghi.
Đến đâu quyền được tiện nghi,
Một tay thưởng phạt hai bề công minh.
(Nhị Độ Mai).
Quyền họa phúc trời tranh mất cả,
Chút tiện nghi chẳng trả
phần ai,
(Cung Oán Ngâm Khúc).
TIỆN TỲ 賤 婢
Tiện:
Hèn. Tỳ: Đày tớ gái.
Tiện tỳ là người đày tớ gái hèn mọn. Tiện tỳ còn là tiếng dùng để chửi mắng người đàn bà con gái.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng bì đồng nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TIỆN
THIẾP 賤 妾
Tiện:
Hèn. Thiếp: Đàn bà chịu phận lẻ mọn.
Tiện thiếp là phận đàn bà hèn mọn. Đây là tiếng tự xưng một cách khiêm nhượng của người đàn bà con gái.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi
sẽ thưa.
(Lục Vân Tiên).
TIẾNG
CHÀY NỆN SƯƠNG.
Tiếng chày đánh vào chuông vào lúc sáng sớm, sương còn đọng trên đầu cây ngọn cỏ, tức là tiếng chuông trong sương sớm.
Sớm khuya lá bối phướn mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện
sương.
(Truyện Kiều).
TIẾNG
HÀ ĐÔNG
Tức tiếng “Sư Tử Hà Đông 獅 子 河 東” dùng để chỉ người đàn bà tính hung dữ và hay ghen.
Trần Quý Thường, bạn Tô Đông Pha, có người vợ họ Liễu tính hay ghen. Mỗi khi Tô Đông Pha đến chơi thường hay nghe tiếng bà quát tháo ầm ĩ. Tô Đông Pha mới làm bài thơ đùa bỡn Quý Thường như sau: Hốt văn Hà Đông sư tử hống, trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên 忽 聞 河 東 獅 子 吼, 拄 杖 落 手 心 茫 然, nghĩa là bỗng nghe sư tử Hà Đông rống, trong tay gậy rớt lòng hoảng kinh.
Nghĩa bóng: Chỉ đàn bà hung dữ, tính hay ghen.
Xem: Hàm sư tử.
Hầu hạ đã cam phần cát luỹ,
Nhặt khoan còn ởi tiếng Hà Đông.
(Thơ Trần Tế Xương).
TIẾNG HẠC
TIẾNG ĐÀN
Bởi chữ “Cầm hạc 琴 鶴” là cây đàn và chim hạc, chỉ cảnh làm quan thanh nhàn.
Do tích Triệu Biện quan Ngự sử, khi đi nhậm chức, chỉ mang theo cây đàn và con chim hạc.
Xem: Cầm hạc.
Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng hạc, tiếng đàn tiêu
dao.
(Truyện Kiều).
TIẾNG
MUÔNG GIỌNG LỢN
Muông lợn là chỉ loài thú, loài heo. Tiếng, giọng ý nói buông giọng nỉ non, rù quến.
Tiếng muông tiếng lợn dùng để nói người hay buông
lời bỡn cợt, rù quến đàn bà con gái.
Chỉ cho rõ tiếng muông giọng lợn,
Đờn nỉ non cợt bỡn đờn bà.
(Phương Tu Đại Đạo).
TIẾNG
SEN
Tiếng sen là tiếng gót chân người con gái đi.
Trong văn chương, người ta gọi gót chân phụ nữ là
gót sen, nên tiếng sen có nghĩa là tiếng bước chân người đẹp.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
(Truyện Kiều).
TIẾNG
TIÊU KHẢI PHỤNG
Tức là tiếng tiêu thổi vang lên có khả năng làm cho chim phụng bay đến cùng hót và nhảy múa, như tiếng tiêu của Tiêu Sử và Lộng Ngọc ở Phụng lầu.
Tiếng tiêu khải phụng được ví với lời có sức
thuyết phục người nghe.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TIẾNG
TIÊU NGŨ TỬ
Tức là tiếng tiêu của Ngũ Tử Tư.
Tử Tư muốn mưu việc báo thù cho cha và anh, bèn bỏ nước Sở để sang nước Ngô, giữa đường bị bịnh, ông phải vào chợ thổi tiêu để độ nhựt.
Xem: Ngũ Viên.
Xót than khóc tủi buồn thầm,
Tiếng tiêu Ngũ Tử khúc cầm Ủng Môn.
(Hoài Nam Ca Khúc).
TIẾNG U
MINH
Tiếng:
Âm thanh. U minh: Chuông U minh, là một cái chuông lớn, còn gọi là Đại Hồng
chung.
Đại Hồng chung là một cái chuông lớn, được treo trên một cái giá, miệng chuông úp xuống, khi dọng tiếng chuông có hiệu lực truyền xuống cõi U minh (Cõi người chết) để thức tỉnh các tội hồn sớm giác ngộ, ăn năn sám hối, nên còn được gọi là chuông U minh.
Tiếng U minh tía lia gợi thảm,
Giọng kình khua cửa phạm dập dồn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TIẾNG ỨNG
HƠI TÌM
Dịch từ câu: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu 同 聲 相 應, 同 氣 相 求” nghĩa là đồng tiếng thì hưởng ứng nhau, đồng hơi thì tìm nhau.
Tiếng ứng hơi tìm nghĩa bóng: Tình ý như nhau.
Sinh rằng: Khiến cải xui kim,
Là trong tiếng ứng hơi tìm biết đâu.
(Hoa Tiên Truyện).
TIẾP
TÚC TUỲ TÒNG 接 足 隨 從
Tiếp túc:
Chân bước tiếp theo. Tuỳ tòng: Đi theo.
Tiếp túc tuỳ tòng chân tiếp tục đi theo.
Hoang mang tiếp túc tùy tòng,
Khẩn cấp tất lai các hạ.
(Nhạc Hoa Linh).
TIẾP
THÙ 接 酬
Tiếp:
Đón rước. Thù: Chủ khách mời rượu nhau.
Tiếp thù là tiếp đón và thù tạc với nhau.
Tân bằng mừng rỡ chật nhà,
Tiếp thù ông bận những là hàn ôn.
(Nhị Độ Mai).
TIỆP DƯ 捷 予
Tức “Ban Tiệp Dư 班 捷 予”.
Ban Tiệp Dư là một cung nữ được ban cho chức Tiệp Dư, học giỏi hay thơ, có quyền xem xét trong cung cấm vào đời vua Thành Đế đời nhà Hán.
Sau vì bị Triệu Phi Yến gièm pha nên vua ghét bỏ, phế ra chầu Thái hậu ở cung Trường Tín. Nàng mới làm bài thơ tựa là “Thu Phiến” 秋 扇 (Quạt thu) để ví cuộc đời mình. Bài thơ ấy như sau: Tân chế, Tề hoàn tố, Hạo khiết như sương tuyết. Tài thành hợp hoan phiến, Đoàn đoàn tự minh nguyệt, Xuất nhập quân hoài tụ. Động dao vi phong phát, Thường khủng thu tiết chí. Lương viêm đoạt viêm nhiệt, Khí quyên giáp tư trung, Ân tình trung đạo tuyệt 新 製 齊 紈 素 皓 潔 如 霜 雪. 裁 成 合 歡 扇, 團 團 似 明 月, 出 入 君 懷 袖. 動 搖 微 風 發, 常 恐 秋 節 至. 涼 颭 奪 炎 熱, 棄 捐 夾 笥 中, 恩 情 中 道 絕. Nghĩa là: Mới chế lụa Tề trắng, Trong sạch như sương tuyết, Kết thành quạt hợp hoan. Tròn mình như mặt nguyệt, Ra và trong tay vua. Phe phẩy sinh gió mát, Chỉ sợ tiết thu sang. Khí mát cướp viêm nhiệt, Ném cất vào xó rương. Nửa đường ân ái tuyệt.
Yến từ nẻo lạc nhà Vương, Tạ,
Quạt để hầu thu lòng Tiệp Dư.
(Quốc Âm Thi Tập).
TIỆP
THƯ 捷 書
Tiệp:
Thắng trận. Thư: Bức thư.
Tiệp thư là bức thư báo tin thắng trận.
Quân phù vâng lệnh chỉ huy,
Tiệp thư sai một tiểu ty về chầu.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TIẾT CHẾ 節 制
Ngày xưa khi đăng đàn bái tướng, tức là lạy vua để nhận chức Đại tướng chỉ huy quân binh, vua sẽ ban cho “Tiết chế” để tỏ ra có quyền hành lớn lao.
Khoan thai lĩnh ấn nguyên nhung,
Thiên tử nghiêng mình trao tiết chế.
(Hàn Vương Tôn Phú).
Thử binh giao lão tướng quản đương,
Đeo ấn tướng tạm vi tiết chế.
(Nhạc Hoa Linh).
TIẾT HẠNH 節 行
Tiết:
Những điều mà con người phải giữ để bảo vệ thanh danh. Hạnh: Nết na.
Tiết hạnh là tính nết mà người đàn bà, con gái biết giữ gìn, không làm điều tà hạnh.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu
trau mình.
(Lục Vân Tiên).
Gái tiết hạnh giữ tròn
danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
(Kinh Sám Hối).
Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh,
Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Dạy đừng dùng tiếng ngọt lời ngon,
Làm nhục kẻ lòng son gìn tiết hạnh.
(Phương Tu Đại Đạo).
TIẾT KIỆM 節 儉
Tiết:
Hạn chế, có chừng mực. Kiệm: Tiện tặn, không hoang phí.
Tiết kiệm tức là ăn xài có chừng mực, không tiêu xài hoang phí.
Người xưa thường dạy: Cẩn tắc vô ưu, nhẫn
tắc vô nhục, tịnh tắc thường an, kiệm tắc
thường túc 謹 則 無 憂, 忍 則 無 辱; 靖 則 常 安, 儉 則 常 足,
nghĩa là cẩn thận thì khỏi lo, nhẫn nhịn thì khỏi nhục, tĩnh lặng thường
yên, cần kiệm thường đủ.
Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lũ làm ăn.
(Kinh Sám Hối).
TIẾT
MAO 節 旄
Hay “Mao Tiết 旄 節”.
Tiết:
Cái đốt tre. Mao: Cờ mao.
Vật dùng trong quân đội để tượng trưng cho quân quyền gồm một cái cán đầu uốn cong, có chín đốt, đầu cán cột một sợi dây bỏ thòng xuống, có kết những chùm lông bằng tơ.
Tiết mao cắm vào một cái giá. Trong những buổi lễ
quan trọng người ta thường đem tiết mao theo để thay thế cho sự hiện diện của
nhà vua.
Gia quan cho lĩnh tiết mao,
Đặt quân Tĩnh hải biên vào bản chương.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TIẾT
NGHĨA 節 義
Tiết:
Khí tiết. Nghĩa: Việc theo đường lối phải.
Tiết nghĩa là nói người đàn ông hay đàn bà biết giữ thanh danh, và hành động theo đường lối phải.
Anh hùng mạc bả doanh du luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.
(Thơ Nguyễn Hữu Huân).
Lợi lộc chê hơn câu tiết nghĩa,
Ðừng qua nửa bước quá rừng thiền.
(Đạo Sử).
TIẾT PHỤ 節 婦
Tiết:
Cái khí tiết của con người phải giữ vững để bảo vệ thanh danh. Phụ: Người đàn bà.
Tiết phụ là người đàn bà biết giữ gìn tiết hạnh.
Giận rằng vợ kẻ nghịch thần,
Thương vì tiết phụ mười
phân trọn mười.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
TIẾT QUỲ 薛 夔
Hai vị tôi thần của vua Thuấn.
Tiết là quan Tư đồ thời vua Thuấn, có công giúp vua Võ trị thuỷ, nên được phong ở đất Thương. Ông là tổ của nhà Thương.
Còn ông Quỳ giữ chức quan lo việc điển nhạc, tức là lấy âm nhạc mà dạy con em trong thiên hạ để mọi người sửa cho ngay thẳng và rộng lượng.
Xem: Tắc Tiết, Cao Quỳ.
Sân Nghiêu một Tiết một Quỳ,
Trần Thị Ngữ Sử Trương thì thượng thư.
(Phương Hoa).
TIẾT SẠCH
GIÁ TRONG
Bởi chữ “Băng thanh ngọc khiết 冰 清 玉 潔”, nghĩa là trong như giá, sạch như ngọc.
Người xưa thường dùng tuyết sạch giá trong là chất trắng trong để ví với đức hạnh của con người.
Nghĩa rộng: Chỉ khí tiết thanh bạch
Miễn nàng tiết sạch giá trong,
Vàng không thẹn lửa sen không nệ bùn.
(Truyện Phan Trần).
TIẾT
TRINH 節 貞
Tiết:
Những điều mà con người phải giữ để bảo vệ thanh danh. Trinh: Con gái chưa
chung đụng với đàn ông, hoặc đàn bà thủ tiết với chồng.
Tiết trinh là giữ gìn trinh tiết.
Tiết trinh khôn đổi được đâu,
Vóc thiêng ngược nước trở đầu về nam.
(Nhị Độ Mai).
Này là quen xấu máu dâm,
Thấy trai lấp lẻm khôn cầm tiết
trinh.
(Huấn Nữ Ca).
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết
trinh.
(Kinh Thế Đạo).
Còn một nỗi gian dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
(Kinh Sám Hối).
Làu làu một tấm tợ đài gương,
Trung, hiếu, tiết trinh vẹn
mọi đường.
(Giới Tâm Kinh).
TIẾT VIỆT 節 越
Tức là “Phù tiết 符 節” và “Phủ việt 斧 越”.
Ngày xưa, mỗi khi vị đại tướng quân đăng đàn bái
tướng, tức là lạy vua để nhận lãnh chức đại tướng, vua ban cho “Tiết việt” để
thể hiện cái uy quyền lớn lao.
Đầu sai Thạch Đái trị dân,
Cầm quyền tiết việt giữ phần phong cương.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TIÊU
DAO 逍 遙
Hay “Tiêu diêu”.
Thong thả, rảnh rang, đi đây đi đó, không bị ràng
buộc. Kinh Thi có câu: Hà thượng hề tiêu dao 河 上 兮 逍 遙,
nghĩa là trên sông tiêu dao hề.
Thà mượn thú tiêu dao của Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong,
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Tiêu diêu định tánh nắm phan,
Do theo Cực Lạc đon đàng siêu thăng.
(Kinh Thế Đạo).
Am tự đóng chặt gài bước tục,
Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TIÊU DIỄN 蕭 衍
Tiêu Diễn tức là Lương Võ Đế. Lúc ban đầu làm quan nước Tề. Vua Tề vô đạo giết anh, Tiêu Diễn khởi binh vây hãm Kinh đô, rồi lập Hòa Đế lên ngôi. Hòa Đế phong Tiêu Diễn làm Lương Vương. Năm 502, vua Tề nhường ngôi cho, đặt quốc hiệu là Lương. Sau bị Hầu Cảnh làm phản, vây hãm Đài Thành, Lương Võ Đế phải chết đói. Lương Võ Đế là người rất hâm mộ đạo Phật.
Cảm thương Tiêu Diễn công
tu,
Bỏ mình ba thứ theo cầu Thích Ca.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
TIÊU DIỆN
ĐẠI VƯƠNG 蕉 面 大 王
Tên một vị Thần (Hay thiên vương) có gương mặt xanh như tàu lá chuối, nên gọi là Tiêu diện (Tức là mặt xanh như tàu chuối). Trong các đàn chay thường có dựng tượng Tiêu Diện Đại vương (Hay Tiêu Diện Đại Sĩ) để trấn áp các cô hồn, ma quỷ. Có sách còn cho rằng Tiêu Diện Đại Sĩ là hoá thân của Quan Thế Âm Bồ Tát.
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
(Thập Loại Chúng Sinh).
TIÊU HÀ 蕭 何
Tiêu Hà là người đời Hán, quê ở đất Bái, theo giúp Cao Tổ khởi binh từ thuở hàn vi. Khi Cao Tổ vào Kinh đô nhà Tần, các tướng tranh nhau lấy châu báu vàng bạc, riêng Tiêu Hà lo thu giữ các sổ sách và bản đồ. Lúc Cao Tổ làm Hán Vương, Tiêu Hà giữ chức Tể tướng.
Hán Vương đánh với Hạng Võ, giao cho Tiêu Hà giữ
quân Trung, coi việc tiếp tế cho quân lính. Đến khi định được thiên hạ, Tiêu Hà
đứng đầu công, được phong làm Tán Hầu. Tiêu Hà định ra hầu hết các điển chế
luật lịnh của nhà Hán.
Nghiệp Tiêu Hà làm khá kịp,
Xưa nay cùng một sử xanh truyền.
(Quốc Âm Thi Tập)
TIÊU
HAO 消 耗
Tiêu:
Tin tức. Hao: Âm hao, chỉ tin tức.
Tiêu hao có nghĩa là tin tức.
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
Hoặc là trong có làm sao chăng là.
(Truyện Kiều).
Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,
Lòng riêng chàng luống lao đao thẩn thờ.
(Truyện Kiều)
Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm nào có tiêu hao.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
TIÊU
LANG 蕭 郎
Tiêu lang tức là Tiêu Sử, người đời Chu, làm sử quan, thời Chu Tuyên Vương mới lấy chữ Sử mà đặt tên cho, gọi là Tiêu Sử, có biệt tài thổi ống tiêu. Con gái vua Tần Mục Công là nàng Lộng Ngọc kết duyên với Tiêu Sử và được vua xây Phượng Đài cho hai vợ chồng ở đó. Tiêu Sử dạy vợ thổi ống tiêu và mỗi lần vợ chồng hoạ với nhau, có chim phượng bay xuống chầu.
Một hôm, hai vợ chồng đang thổi tiêu thì có rồng
đỏ và phượng tía bay đến. Lộng Ngọc cỡi con tử phụng, Tiêu Sử cỡi con xích long
bay thẳng lên trời, đều thành tiên cả.
Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã,
Địch lầu thu đường gã Tiêu Lang.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
TIÊU
PHÒNG 椒 房
Tiêu:
Hạt tiêu. Phòng: Buồng.
Ngày xưa, phòng của Hoàng hậu, Phi tần trong nội cung thường dùng vôi trộn với hạt tiêu đâm nhuyễn để mùa lạnh nhờ hơi tiêu mà ấm áp.
Sách Hán quan ghi chép: Tiêu phòng thị Hoàng hậu sở cư 椒 房 是 皇 后 所 居, tức là phòng tiêu là chỗ ở của Hoàng hậu.
Về sau, chữ “Tiêu phòng” dùng chung cho hạng quyền quý, trưởng giả.
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà
ra!
(Cung Oán Ngâm Khúc).
TIÊU
PHƯỢNG 簫 鳳
Tiếng tiêu lãnh lót như tiếng chim phượng hót, nói tiếng tiêu hay. Tiêu Sử là người đời Xuân Thu, có tài thổi tiêu, được vua Tần Mục Công gả công chúa Lộng Ngọc cho. Hai vợ chồng ở tại Phụng lầu thường thổi ống tiêu, chim phượng nghe tiếng bay xuống lầu cùng nhảy múa. Sau hai vợ chồng cỡi rồng và phụng lên tiên.
Tiêu đâu rủ phượng véo von,
Một xoang như gợi nước non mấy niềm.
(Hoa Tiên Truyện).
TIÊU
QUAN 蕭 關
Tiêu Quan là một trong bốn cửa ải trọng yếu của đất Quan Trung, về phía đông nam tỉnh Cam Túc. Đời Hán, Hung Nô thường qua cửa quan này vào Trung Quốc, đến các đời Đường, Tống xây đồn đắp lũy để chống rợ thổ phồn ở đấy.
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hàn Hải thì miền Tiêu
Quan.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
TIÊU
SÁI 蕭 灑
Tiêu:
Lặng lẽ. Sái: Không câu thúc ràng buộc.
Tiêu sái là ung dung không bị ràng buộc, thanh thoát, xa bụi bặm trần thế.
Tiêu sái mấy lòng đà mạc được,
Bảo chăng khứng mặc một lòng thơm.
(Quốc Âm Thi Tập).
Tiêu sái tự nhiên ắt nhẹ mình,
Nài bao quyền cả áng công danh.
(Bạch Vân Quốc Ngữ)
Dưới thì tiêu sái mọi bề,
thanh tao nhiều cuộc.
(Ngã Ba Hạc Phú).
TIÊU SƠ 蕭 疏
Tiêu:
Xơ xác. Sơ: Thưa thớt.
Tiêu sơ là lá rụng có vẻ tiêu điều buồn bã.
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
(Thơ Huyện Thanh Quan)
TIÊU
TAO 蕭 騷
Tiêu:
Buồn, phiền não. Tao: Buồn rầu.
Tiêu tao là buồn phiền áo não.
Lựa chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người.
(Truyện Kiều).
TIÊU
TƯƠNG 瀟 湘
Sông Tiêu và sông Tương hợp lưu lại với nhau ở tỉnh Hồ nam, Trung Quốc. Ngày xưa vua Thuấn đi tuần thú ở Thương Ngô và chết ở đấy. Hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm chồng đến sông Tiêu Tương, ngồi bên bờ mà khóc, nước mắt vấy vào hàng tre ở bờ sông, nên tre ở đấy bị lấm tấm như da đồi mồi, đời sau gọi là Tương trúc.
Sông Tiêu Tương thường được đem ví với sự thương
nhớ của đôi vợ chồng hay trai gái yêu nhau.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại,
Bến Tiêu tương thiếp hãy trông sang!
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
Kìa đâu trúc lệ nhuộm thâu,
Tiêu tương lích chích, mưa mau canh chầy.
(Truyện Hoa Tiên)
Ngàn nọ so miền Thái Thạch,
Làng kia mở cảnh Tiêu tương.
(Thơ Nguyễn Trãi).
Bắc thông Vu giáp non cao,
Phía nam suối chảy ào ào: Tiêu
tương.
(Thơ Lãng Nhân).
TIÊU TƯỜNG 蕭 牆
Tiêu:
Kính trọng. Tường: Bức bình phong.
Tiêu tường chỉ chỗ vua tiếp xúc với kẻ bề tôi. Kẻ bề tôi khi đi đến bức bình phong, tức chỗ vua thì tăng thêm phần kính trọng.
Luận Ngữ: Chuyên Du là một nước phụ thuộc nước Lỗ, họ Quý Thị định đưa quân sang đánh, Nhiễm Hữu đến báo với Khổng Tử. Khổng Tử nói: Ngô khủng Quý tôn chi ưu, bất tại Chuyên Du, nhi tại tiêu tường chi nội dã 吾 恐 季 孫 之 憂, 不 在 顓 臾, 而 在 蕭 牆 之 內 也, nghĩa là ta sợ rằng mối lo của Quý tôn không phải là ở Chuyên Du, mà là ở bên trong tấm bình phong. Ý muốn nói mối lo của Quý thị chính là mối lo đối với vua nước Lỗ. Vì Quý thị sợ vua Lỗdựa vàothế Chuyên Du mà tước quyền mình, nên mới đem quân đánh Chuyên Du.
Tiêu tường nghĩa rộng là loạn nổi lên ở bên trong.
Năm sau từ lìa bụi tiêu tường,
ba thước nước khôn cầm màu hiệu khiết.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
TIÊU
THIỀU 簫 韶
Tiêu:
Ống sáo. Thiều: Nhạc Thiều, nhạc của vua Thuấn dùng trong việc cúng lễ.
Trong Kinh Thư có câu: Tiêu thiều cửu thành, phụng hoàng lai nghi 簫 韶 九 成, 鳳 凰 來 儀, nghĩa là nhạc tiêu thiều tấu chín khúc, thì có chim phượng hoàng bay đến.
Tiêu thiều ánh ỏi giọng sầu,
Một dây bạch bố bắc cầu đô vong.
(Quan Âm Thị Kính).
Nhạc Tiêu thiều còn lõm
bõm khúc xưa,
Tiếng thanh điểu gọi người đi kẻ lại.
(Phản Tây Hồ Tụng).
Tiên nga nâng chén quỳnh tương,
Tiêu thiều nhạc múa thái dương khí hoà.
(Tư Dung Vãn)
TIẾU TỬ 肖 子
Tiếu:
Giống in. Tử: Con.
Con giống in như cha. Nghĩa bóng: Con có hiếu.
Mạnh Tử có câu: Đan Chu chi bất tiếu, Thuấn chi tử diệc bất tiếu 丹 周 之 不 肖, 舜 之 子 亦 不 肖, nghĩa là Đan Chu bất hiếu, con vua Thuấn cũng bất hiếu. Bởi vì Đan Chu là con vua Nghiêu nhưng không giống cha về phương diện hiền đức, nên vua Nghiêu không truyền ngôi cho. Con vua Thuấn cũng không giống cha về đạo đức, nên vua Thuấn nhường ngôi cho vua Võ.
Sau này, người ta dùng chữ “Bất tiếu” (Không giống) để chỉ con bất hiếu và có hiếu thì gọi là “tiếu tử”. Xem: Bất tiếu.
TIỂU KIỀU 小 嬌
Tiểu:
Nhỏ. Kiều: Người con gái đẹp.
Tiểu kiều dùng để chỉ người con gái nhỏ đẹp.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.
(Truyện Kiều).
TIỂU
KHOA 小 科
Hay “Tiểu đăng khoa 小 登 科” là Cưới vợ.
Quan niệm ngày xưa cưới vợ cũng vui mừng như đi
thi đỗ vậy. Thi đỗ thì nên danh phận, còn cưới vợ thì nên gia thất. Mà nên danh
phận là cái vui lớn nhứt, do vậy gọi là Đại Đăng Khoa, còn cưới vợ thì gọi Tiểu
Đăng Khoa.
Phu nhân lại dạy chuyện nhà,
Đại khoa nhân thể Tiểu khoa cũng vừa.
(Hoa Tiên Truyện).
Tiên rằng: Nhờ lượng nhạc gia,
Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo
gì.
(Lục Vân Tiên).
Đại khoa, trước đặng nên mình,
Tiểu khoa sau lại phỉ tình bách niên.
(Dương Từ Hà Mậu).
TIỂU LẠC 小樂
Tức là Tiểu Lạc Vương, hiệu của Nguyên Cát, con của vua Đường Cao Tổ, anh ruột của Đường Thế Dân. Nguyên Cát cùng với Thái tử Kiến Thành âm mưu giết Lý Thế Dân, nhưng mưu ấy bị bại lộ, nên Thế Dân giết chết và lấy luôn người vợ của Tiểu Lạc Vương.
Xem: Thế Dân.
Hay là học thói Ðường cung,
Vợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế Dân.
(Lục Vân Tiên).
TIỂU
LÂN 小 憐
Tiểu Lân họ Phùng, hiệu Tục Mệnh, vợ vua Tề Hậu Chủ đời nam Bắc triều. Nàng thông minh, giỏi ca vũ, nổi tiếng đàn hay. Sau khi Tề bị Chu diệt, Tiểu Lân bị bắt về Chu. Chu Vũ Đế gả nàng cho người khác.
Nhân lúc đàn, dây đàn đứt, nàng cảm xúc làm hai
câu thơ tỏ ý thương xót người chồng cũ: Dục tri tâm đoạn tuyệt, ưng
khán tất thượng huyền 欲 知 心 斷 絕, 應 看 膝 上 弦,
nghĩa là muốn biết tơ lòng đứt, thì xem dây đàn trên gối.
Còn chi nữa cánh hoa tàn,
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân.
(Truyện Kiều)
TIỂU MẠCH 小 麥
Một trong năm loại ngũ cốc, dùng để làm lương thực: Đạo là lúa gạo, lương là lúa nếp, thúc là đậu, mạch là lúa mì, tắc là hạt kê.
Tiểu mạch là tên một thứ lúa mì.
Chồi tiểu mạch vừa chừng hơn trước,
(Tự Tình Khúc)
TIỂU
MAN 小 蠻
Tiểu:
Nhỏ. Man: Man di, mọi rợ.
Tiểu man dùng để gọi những người chưa được khai hóa, hay những kẻ thiếu lễ giáo.
Đánh liều bao quản tử sinh,
Thề rằng quyết chẳng nhơ mình tiểu
man.
(Nhị Độ Mai).
TIỂU NGỌC 小 玉
Tên một nàng con gái của vua Ngô Phù Sai, không chồng, ở vậy suốt đời chẳng kết duyên với người nào.
Bạch Cư Dị có câu: Ngô yêu Tiểu Ngọc phi
tác yên, Việt diễm Tây Thi hoá vi thổ 吳 妖 小 玉 飛 作 煙, 越 艷 西 施 化 為 土,
nghĩa là Tiểu Ngọc nước Ngô bay lên làm khói, Tây Thi nước Việt hoá làm đất.
Trách người sao nỡ dày vò,
Để cho Tiểu Ngọc giận no cũng già.
(Quan Âm Thị Kính).
TIỂU
PHÚ DO KIỆM 小 富 由 儉
Tiểu phú:
Giàu nhỏ. Do kiệm: Bởi sự cần kiệm.
Tiểu phú do kiệm tức là giàu nhỏ do sự tiện tặn, góp nhóp mà được.
Sách có câu: Đại phú do thiên, tiểu phú do
kiệm 大 富 由 天, 小 富 由 儉,
nghĩa là giàu to là bởi trời, giàu nhỏ là do sự tiện tặn.
Chữ rằng: Đại phú do thiên,
Tiểu phú do kiệm thánh hiền còn ghi.
(Tội Vợ, Vợ Chịu).
TIỂU
TĂNG 小 僧
Tiểu:
Còn nhỏ. Tăng: Người tu hành, thầy tu theo Phật giáo.
Tiểu tăng dùng để chỉ thầy tu còn nhỏ tuổi.
Thênh thênh cửa bụt đâu bằng,
Xuất gia tín nữ, tiểu tăng cũng
dày.
(Phan Trần).
TIỂU
TINH 小 星
Tiểu:
Nhỏ. Tinh: Ngôi sao.
Tiểu tinh là ngôi sao nhỏ, dùng để chỉ người vợ bé.
Kinh Thi có câu: Tuệ bỉ tiểu tinh, tam ngũ tại đông. Túc túc tiêu chinh, túc dạ tại công. Thực mệnh bất đồng 彗 彼 小 星, 三 五 在 東. 肅 肅 宵 征, 夙 夜 在 公. 實 命 不 同 nghĩa là sáng thay ngôi sao bé nhỏ kia, ba ngôi, năm ngôi chiếu tại phương đông. Chúng tôi đi về đêm một cách cẩn trọng, sáng tối hầu hạ bên chồng. Thực là số mệnh không giống nhau.
Thân phận người vợ bé thấy sao vừa mọc vào hầu hạ chồng, sao chưa lặn đã phải ra đi.
Tiểu tinh dùng để chỉ người vợ lẽ.
Nàng rằng: Phải bước lưu ly,
Phận hèn vâng chịu cam bề tiểu tinh.
(Truyện Kiều).
Xét cho công khóa đi về,
Nguyệt hương đều cũng cam bề tiểu
tinh.
(Hoa Tiên).
Người chánh thất, kẻ tiểu tinh,
Vợ trên, hầu dưới đã rành trước sau.
(Huấn Nữ Ca).
TIỂU TỰ 小 字
Tiểu:
Nhỏ. Tự: Chữ.
Tiểu tự tức là tên đặt từ hồi còn nhỏ.
Tiểu thư vả bậc tài hoa,
Khuê phòng tiểu tự gọi là
Vân Anh.
(Nhị Độ Mai).
TIỂU
THIẾP 小 妾
Tiểu:
Nhỏ. Thiếp: Người hầu.
Tiểu thiếp tức là người vợ nhỏ, vợ lẽ. Chữ dùng cho người vợ hay người hầu xưng với chồng.
Giao cho đầy tớ đưa sang,
Mua làm tiểu thiếp, mong đường
ép duyên.
(Nhị Độ Mai).
TIỂU
THƯ 小 姐
Tiểu:
Người còn nhỏ tuổi. Thư: Tiếng gọi người đàn bà, con gái.
Tiểu thư là tiếng gọi chung những người đàn bà con gái nhà phú quý.
Thoắt trông, nàng đã chào thưa,
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.
(Truyện Kiều).
Tiểu thư con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ.
(Lục Vân Tiên).
TÌM HIẾU
TRUYỀN HIỀN
Nói về việc vua Nghiêu nghe danh Thuấn là người con hiếu thảo với cha mẹ, hoà thuận với em út, xứng đáng là bậc hiền tài, bèn gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn, và truyền ngôi cho ông tiếp nối trị vì thiên hạ.
Xem: Nghiêu Thuấn.
Đế Nghiêu tìm hiếu truyền hiền,
Nương nơi gương ấy vẫn bền đạo con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÌM VỢ
DÂNG DƯA
Do tích: Ngày xưa, vua Đường Thái Tông có du Địa phủ. Khi từ giã, vua Thái Tông có hứa về cõi Dương gian sẽ tặng dưa cho vua Thập Điện.
Vua tìm người đi dâng dưa, nên truyền treo bảng chọn người, thì có người tình nguyện xin đi. Người đó là Lưu Toàn quê ở Quận Châu, nhà giàu có. Ông có người vợ là Lý Thuý Liên, rút thoa để cúng nhà sư ở ngoài cổng, Lưu Toàn bắt được, cho vợ là mất nết, mắng chưởi không tiếc lời, đến nỗi nàng tức giận treo cổ tự tử, bỏ lại hai đứa con còn khờ dại.
Lưu Toàn buồn rầu, gửi con lại, quyết xuống Âm phủ tìm vợ, nên lãnh nhiệm vụ dâng dưa cho vua Thập Điện. Hôm dâng dưa, Lưu Toàn đến Kim Đình quán, đầu đội quả dưa to, túi đựng tiền vàng, miệng ngậm thuốc độc. Giây lát, Lưu Toàn chết, linh hồn đội dưa xuống Âm phủ.
Sau khi dâng dưa xong, Lưu Toàn mới kể việc gia đình khổ sở, xin vua Thập Điện cho vợ là Lý Thuý Liên trở về Dương gian lo cho hai con còn khờ dại, Diêm Vương xét bộ tử, thấy chưa tới số, bèn ưng thuận.
Quỷ sứ đưa hồn hai vợ chồng về cõi nhân gian, hồn Lưu Toàn nhập vào xác. Riêng Thuý Liên vì đã chết quá lâu, xác bị thúi nát, quỷ sứ được lịnh Diêm Vương cho nhập vào xác của Công chúa vua Đường là Lý Ngọc Anh vừa mới chết.
Xác Công chúa, nhưng hồn là Thuý Liên, nên khi
tỉnh dậy, không nhận mình là Công chúa, xin nhà vua cho tái hiệp với chồng là
Lưu Toàn. Vua Đường Thái Tông trước đã được vua Thập Điện báo cho biết, nên ưng
thuận cho hai vợ chồng Lưu Toàn tái hiệp và ban thưởng hai người rất trọng hậu.
Nói chi tìm vợ dâng dưa,
Lẽ nào nói rượt theo vừa Hằng nga.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÌM VƯỢN
SỞ BANH CÂY RỪNG
Bởi câu của Đỗ Bậc: “Sở quốc vong viên, hoạ diên lâm mộc.楚 國 亡 猿, 禍 延 林 木” nghĩa là nước Sở mất vượn, hoạ luỵ đến cây rừng.
Vượn trốn trong rừng, muốn tìm con vượn đã mất,
phải phá tan cả rừng cây. Chỉ việc vô cớ bị vạ lây.
Cá ao luỵ bởi lửa thành,
Mảng tìm vượn Sở hoạ banh cây rừng.
(Tương An Quận Vương)
TIN CÁ
Do chữ “Ngư thư 魚 書”, tức là bức thư bỏ trong bụng cá để gửi tin. Xem: Ngư thư.
Tin cá là mượn cá đem thư, dùng để chỉ thư từ tin
tức gửi cho nhau.
Toan mượn thư hồng khôn nẻo tới,
Ngóng trông tin cá luống ngày qua.
(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ)
TIN
CHIM THƯ CÁ
Do chữ “Ngư thư nhạn tín 魚 書 雁 信”, nghĩa là bức thư trong bụng cá và tin nhạn.
Cá và chim nhạn đều là vật đưa thư, dùng để chỉ về thư tín hay tin tức.
Xem: Nhắn cá gửi chim.
Tin chim thư cá gửi đi,
Cũng nhiều nơi rắp nơi vì riêng tây.
(Truyện Trinh Thử).
TIN ĐIỆP
Điệp là con bươm bướm. Tin điệp là tin do con bướm làm sứ giả đưa đến, chỉ thư từ, tin tức.
Tin điệp, như chữ “Sứ điệp 使 蝶”, dùng để chỉ người đem tin tức.
Nửa gối mơ màng tin điệp đến,
Năm canh mong mỏi sứ hồng bay.
(Lâm Tuyền Kỳ ngộ).
TIN HỒNG
Như chữ tin nhạn. Hồng và nhạn là những loài chim bay cao xa, có thể mang thư để truyền báo tin tức.
Tin hồng dùng để chỉ thư từ tin tức.
Xem: Tin nhạn.
Cách trở bấy lâu đã mấy đông,
Trông chừng vắng vẻ diễn tin hồng.
(Lâm Tuyền Kỳ ngộ).
Hai chữ tin hồng trao gác
nguyệt,
Một roi vó ký tếch đường mây.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
TIN MAI
Tặng cành hoa mai để đưa tin.
Do tích Lục Khải ở Giang Nam gửi tặng bạn là Phạm Hoa một cành hoa mai cùng với một bài thơ như sau: Chiết mai phùng dịch sứ, Ký dữ Lũng Đầu nhân. Giang Nam hà sở hữu, Liêu tặng nhất chi xuân 折 梅 逢 驛 使, 寄 與 隴 頭 人. 江 南 何 所 有, 聊 贈 一 枝 春, nghĩa là Bẻ cành hoa mai gặp phu trạm, gửi cho người đất Lũng Đầu. Giang Nam nơi nào cũng có, Nhờ gửi tặng một cành hoa xuân.
Xem: Dịch xuân.
Ðể thảm xuân đường như ác xế,
Gieo thương lữ khách ngóng tin mai.
(Đạo Sử).
Tin mai mừng đã truyền ba,
Lại nghe thỉnh thảo Lương đà hành biên.
(Hoa Tiên Truyện).
Cầu sương dặm tuyết chờ ai,
Dịch xuân đành tỏ, tin mai những
mừng.
TIN NHẠN
Do chữ “Nhạn tín 雁 信”, nghĩa là tin tức do chim nhạn mang đến.
Tô Võ đời Hán bị Hung Nô bắt giam hơn mười chín
năm, viết một lá thư buộc vào chân chim nhạn, thả bay đi. Vua Hán bắt được thư
Tô Võ, mới biết ông đang bị giam cầm. Vì vậy, chữ nhạn tín dùng để chỉ về thư
từ, hay tin tức, ta dịch là “Tin nhạn”.
Ong mừng bướm, bướm mừng ong,
Kẻ mong tin nhạn, người mong thư truyền.
(Nữ Tú Tài).
Tuấn Khanh đương tiệc tưng bừng,
Đã nghe tin nhạn bay chừng
tới nơi.
(Nữ Tú Tài).
Kể từ độ thư tình đã nhắn,
Trải bao năm tin nhạn chờ
mong.
(Thơ Tản Đà).
Trông tin nhạn về đông mòn
mỏi,
Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?
(Nữ Trung Tùng Phận).
TIN ONG
SỨ ĐIỆP
Ong đưa tin tức, bướm làm sứ giả, dùng để nói đến việc mai mối về hôn nhân.
Xem: Sứ điệp tin ong.
Vẫn gối phượng chăn loan chi chờ đợi,
Nào tin ong sứ điệp chi đi về.
(Mẹ ơi con muốn lấy chồng).
Đường hoa chấp chới tin ong dạo,
Dặm liễu thung thăng sứ điệp truyền.
(Hồng Đức Quốc Âm).
TIN PHỤNG
VẮNG
Tức tin chim phụng hoàng xuất hiện vắng bặt.
Người xưa cho rằng, chim phụng hoàng là một trong tứ linh, khi xuất hiện thường mang theo điềm lành như: Thánh nhân ra đời hay dân chúng an cư lạc nghiệp.
Vì vậy, chữ “Tin phụng vắng” có ý chỉ thời thái bình thịnh trị không còn nữa.
Trông tháng ngày Châu, tin phụng vắng,
Buồn non nước Tống tiếng quyên kêu.
(Dương Từ Hà Mậu).
TIN
SƯƠNG
Do chữ “Sương tín 霜 信”, tin báo có sương xuống. Chữ dùng để chỉ con chim nhạn, vì mỗi khi chim này bay đến thì đúng vào mùa sương rơi.
Vì vậy, các chữ tin sương, tin nhạn đều dùng để
nói về tin tức.
Bình minh đã lọt tin sương,
Rèm tương khách hãy mơ màng bến mơ.
(Hoa Tiên Truyện).
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
(Truyện Kiều).
Chắc chi con trẻ đành hanh,
Tin sương có lọt trước mành cho chăng?
(Mai Đình Mộng Ký).
TIN
XUÂN
“Tin xuân” là tin báo mùa xuân đến. Mùa xuân là mùa của tình yêu nên “Tin xuân” cũng có nghĩa là tin mừng về tình yêu.
Một đường tuyết trở sương che,
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng.
(Truyện Kiều).
TÍN BÀI 信 牌
Tín:
Tin. Bài: Cái thẻ.
Tín bài là cái thẻ có đề chữ dùng để làm tin.
Tín bài đã có ấn phê,
Cầm đưa các cửa đặng bề đi thông.
(Dương Từ Hà Mậu).
TÍN BỐ 信 布
Tức là Hàn Tín và Quý Bố.
Hàn Tín là người Hoài Âm, hồi còn hàn vi phải nhờ nơi bà Phiếu Mẫu, vì mang chí cả, có lúc phải lòn trôn giữa chợ. Hàn Tín về sau phò Hán Bái Công, thống nhứt thiên hạ, lập nên công nghiệp to lớn, được phong làm Hoài Âm Hầu.
Quý Bố là người nước Sở, theo phò Hạng Tịch, nhiều lần cầm quân đánh Hán Vương, làm cho quân Hán khốn đốn. Khi Hạng Võ bị diệt, Hán Cao Tổ ra lịnh truy bắt Quý Bố ráo riết, khiến Quý Bố nhiều lần suýt bị bắt. Sau trốn vào nhà một người họ Chu, nhờ xin tội với Đằng Công. Đằng Công vào tâu lên Hán Cao Tổ, nhờ thế Quý Bố mới được tha tội.
Nguyên trạch công biết thời chọn chúa,
Ước là lòng Tín, Bố là
gan.
(Thiên Nam Minh Giám).
TÍN
LĂNG QUÂN 信 陵 君
Tín Lăng Quân là con của Nguỵ Chiêu Vương, đời Chiến Quốc. Ông là người hào hiệp, trong nhà thực khách có đến ba ngàn người.
Tín Lăng Quân đã từng đem quân Nguỵ đi đánh Triệu
và đem binh năm nước đại phá quân Tần, vang danh trong thiên hạ. Sau vua Nguỵ
nghe lời gièm pha, không tin dùng Tín Lăng Quân nữa. Ông sinh ra buồn phiền,
cùng với bạn bè đam mê rượu chè và nữ sắc suốt mấy năm rồi bị bịnh mà chết.
TÍN NỮ 信 女
Những người đàn bà tin tưởng và sùng bái tôn giáo được gọi là tín nữ.
Thênh thênh cửa bụt đâu bằng,
Xuất gia tín nữ, tiểu tăng cũng
đầy.
(Truyện Phan Trần).
TÍN TÀ 信 邪
Tín:
Tin theo. Tà: Cong, vạy, điều tà.
Tín tà là tin theo điều tà mị, tức là vì mê tín mà không thấy được những điều áo lý của Phật dạy.
Phàm gian nhục nhãn tín tà,
Vật chi cách vách, coi mà thấy đâu.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TINH
ANH 精 英
Tinh:
Tức là vật đã loại bỏ những cái thô tạp, xấu xa, giữ lại phần tốt đẹp nhất. Anh: Phần tinh tuý
nhứt.
Tinh anh là cái phần tốt đẹp, thuần tuý.
Tinh anh cấu được khí càn khôn,
Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Dòng thần sánh vời người tiên,
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối
ra,
(Quốc Sử
Diễn Ca).
TINH BIỂU 旌 表
Tinh biểu là lá cờ biểu dương công nghiệp.
Những người có công nghiệp được vua ban cho một lá cờ (Tinh) để nêu cao công trạng với mọi người.
Hoặc những người có nết hạnh được nhà vua ban khen hoặc bằng biển ngạch, hoặc bằng cờ hoặc bằng bia nêu ra để làm gương cho người khác bắt chước, đều gọi là "tinh biểu", như tinh biểu nghĩa phu tiết phụ v. v..
Móc mưa xin tưới cửu tuyền,
Gọi là tinh biểu để đền
chút công.
(Nhị Độ Mai).
TINH
BINH 精 兵
Tinh:
Thuần, ròng. Binh: Quân lính.
Tinh binh là binh ròng, tức là binh lính được lựa chọn toàn những người hùng mạnh, đặc sắc.
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.
(Truyện Kiều).
Lệnh trao ruổi phát tức thì,
Tinh binh mười vạn, thuộc tùy trăm viên.
(Hoa Tiên Truyện).
TINH
CHIÊN 腥 膻
Tinh:
Tanh. Chiên: Hôi.
Tinh chiên là tanh hôi. Mùi tinh chiên là mùi hôi hám, chỉ vào bọn quân cướp nước.
Nàng rằng: Quân mệnh đã đành,
Tủi mình khuê khổn, liều mình tinh
chiên.
(Nhị Độ Mai).
Mùi tinh chiên vấy vá đã
ba năm,
ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
(Văn Tế Nghĩa Sĩ).
TINH KỲ 旌 旗
Tinh:
Tên một loại cờ. Kỳ: Lá cờ.
Tinh kỳ là tiếng dùng để gọi chung các loại cờ trong quân đội.
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp
sân.
(Truyện Kiều)
Rợp trời thắng ngọn tinh kỳ,
Tiếng đà dậy khắp sơn khê đùng đùng.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
Truyền chúng tướng chỉnh tu qua giáp,
Rao tam quân bố liệt tinh kỳ.
(Nhạc Hoa Linh).
TINH KỲ 星 期
Tinh:
Ngôi sao. Kỳ: Thời hạn.
Tinh kỳ là trông ngôi sao trên trời, chỉ lễ cưới.
Do Kinh Lễ chép: Ngày xưa lễ rước dâu thường đợi đến khi sao bắt đầu mọc mới khởi hành. Vì vậy, “Tinh kỳ” là trông sao (Hay mong sao) chỉ sự cưới vợ.
Trong sách cưới có câu: Thành hôn chi nhật viết tinh kỳ 成 婚 之 日 曰 星 期, tức cái ngày thành hôn gọi là tinh kỳ.
Kinh Thi có câu: Trù mâu thúc tân, tam tinh tại thiên, kim tịch hà tịch, kiến thử lương nhân 綢 繆 束 薪, 三 星 在 天, 今 夕 何 夕, 見 此 良 人, có nghĩa là chăm chỉ bó củi, trông ba ngôi sao trên trời, đêm nay hay đêm nào, sẽ thấy người bạn lành của ta, ý nói siêng năng làm lụng và trông có lứa đôi.
Tinh kỳ còn có nghĩa dò tuổi, hỏi tên, cầu bề phối ngẫu. Xem: Mong sao.
Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
(Truyện Kiều).
Một mai chiếm bảng xuân vi,
Ấy là đề diệp tinh kỳ từ
đây.
(Thanh Hoá Quan Phong).
TINH
SƯƠNG 星 霜
Tinh:
Ngôi sao. Sương: Mù sương.
Tinh sương dùng để chỉ một năm, bởi vì mỗi năm ngôi sao đi quanh trời một vòng và sương hằng năm gặp tiết lạnh thì rơi xuống.
Ngoài ra, tinh sương còn dùng để chỉ trời còn sớm,
lúc sao chưa tắt, và trời còn rơi sương.
Tạo hóa gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thắm thoắt mấy tinh sương.
(Thơ Huyện Thanh Quan).
TINH TÚ 星 宿
Tinh:
Ngôi sao. Tú: Nhị thập bát tú là hai mươi tám ngôi sao.
Tinh tú là các vì sao trên Trời. Ngoài ra còn dùng để chỉ các vị Tinh quân, hay các vị Thần cai quản các ngôi sao.
Thiên cung: Tinh Tú, Thánh, Tiên,
Địa kỳ: Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.
(Xưng Tụng Công Đức).
TINH
THÀNH 精 誠
Tinh:
Ròng, không pha lẫn. Thành: Ngay thật.
Tinh thành là một sự ngay thật thuần tuý, không pha lẫn một ý nghĩ xấu nào khác.
Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Nầy thật tinh thành chẳng
xa.
(Truyện Kiều).
TINH THẦN 精 神
Tinh:
Thuộc về phần linh hồn, trái với vật chất. Thần: Phần thiêng
liêng của con người.
Tinh thần là những thứ thuộc về tình cảm, phần linh hồn. Tinh thần trái với thể xác, vật chất.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
(Truyện Kiều).
Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai tuyết ấy trần.
(Đạo Sử).
Giồi trí thức tinh thần đẹp
đẽ,
Trau tài ba vẹn vẻ anh thư.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Có tinh thần mới có xác
thân,
Biến thân đủ tinh thần quán
chúng.
(Phương Tu Đại Đạo).
TINH
THIỀU 星 軺
Tinh:
Sao, chỉ sứ giả. Thiều: Cái xe.
Tinh thiều là cái xe chở sứ giả.
Ả Hằng ví nặng lòng yêu,
Rẽ mây mở lối tinh thiều cho
nao!
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
TINH
TRUNG 精 忠
Tinh:
Chân thành, tốt đẹp. Trung: Hết lòng với vua với nước. Tinh trung là lòng trung
thành và ngay thẳng với vua với nước.
Đời Tống Huy Tông, Nhạc Phi là người trung trực với vua, nên được vua ban cho lá cờ thêu bốn chữ “Tinh Trung Nhạc Phi 精 忠 岳 飛”. Xem: Nhạc Phi.
Người tài lược, kẻ tinh trung,
So vào công tải đều phong liệt hầu.
(Hoa Tiên Truyện).
Bóng tinh trung thấp
thoáng dưới đèn,
phong nghi cũ kẻ liêu bằng sái lệ.
(Văn Tế Võ Tánh).
Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,
Vạch lưng con viết chữ để dành.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TINH TRUNG HAI CHỮ
Tức là hai chữ “Tinh trung 精 忠” mà vua nhà Tống ban cho Nhạc Phi.
Nhạc Phi là người đời Tống, hiệu là Bàng Cử, sanh ở huyện Thang Âm. Vào đời Tống Cao Tông, ông đậu võ trạng, được cầm binh đi đánh giặc Kim, đánh thắng nhiều trận, lập công to, được vua ban cho một lá cờ thêu bốn chữ “Tinh trung Nhạc Phi 精 忠 岳 飛”.
Xem: Nhạc Phi.
Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,
Vạch lưng con viết chữ để dành.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TINH VỆ 精 衛
Một loại chim nhỏ ở bờ biển, hình giống chim quạ, chân đỏ mỏ trắng, thường ngậm gỗ đá ở núi Tây Sơn về lấp biển Đông Hải.
Tương truyền: Con gái vua Viêm Đế ngày xưa vượt biển chết chìm, hoá ra chim tinh vệ, cứ ngày ngày ngậm đá ở núi tây về lấp biển đông cho hả cơn giận.
Sách còn nói là “Tinh vệ hàm thạch 精 衛 啣 石”, nghĩa là chim tinh vệ ngậm đá.
Nghĩa bóng: Chỉ người tức giận hay người có chí
kiên nhẫn
Đá tinh vệ muốn lấp sao cho cạn biển,
Đất nghĩ phù, muốn đắp để nên non.
(Sãi Vãi).
Tình thâm, bể thảm, lạ điều,
Nào hồn tinh vệ biết theo
chốn nào.
(Truyện Kiều).
Non thiên dễ hoá hồn tinh vệ,
Nước biếc khôn nhìn mặt Phạn vương.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Kìa lấp bể ai hồn tinh vệ,
Nọ dời non ai chí Ngu công.
(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).
Còn tinh vệ lấp phiền biển
ái,
Đòi trả chồng hà hải sóng chôn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÌNH
CHUNG 情 鍾
Tình:
Lòng yêu thương giữa đôi trai gái. Chung: Un đúc lại.
Tình chung tức là mối tình được un đúc lại để yêu thương.
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
(Truyện Kiều).
Vân Anh xem của nghe lời,
Gẫm tay này hẳn có người tình chung.
(Nhị Độ Mai).
Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,
Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.
(Kinh Thế Đạo).
Tình chung bền giữ một đời,
Chia cơm cắn muối không dời lòng thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÌNH
DUYÊN 情 緣
Tình:
Lòng yêu thương giữa đôi trai gái. Duyên: Dây liên lạc giữa đôi tình nhân hay vợ chồng.
Tình duyên là mối tình kết liền giữa đôi tình nhân hay vợ chồng.
Sự đời thử ngẫm mà chơi,
Tình duyên hai chữ với người hay sao?
(Hoa Tiên Truyện).
Tình duyên hai chữ nhắc bằng,
Há rằng duyên chướng, há rằng tình si.
(Mai Đình Mộng Ký).
TÌNH
QUÂN 情 君
Tình:
Lòng yêu thương. Quân: Vợ gọi chồng.
Tình quân cũng như tình lang là người tình của người con gái. Ngược lại, người tình của người con trai, gọi là tình nương.
Trăm nghìn gửi lại tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
(Truyện Kiều).
TÌNH TỰ 情 緒
Tình:
Lòng thương yêu giữa đôi trai gái. Tự: Mối dây liên lạc.
Tình tự dùng để chỉ mối tình giữa đôi trai gái.
Bao nhiêu tình tự nguồn
cơn.
Sơn đông chia bước, Hầu Loan trở lòng,
(Nhị Độ Mai).
TÌNH
THÂM 情 深
Tình:
Lòng yêu thương. Thâm: Sâu đậm.
Tình thâm là mối tình rất sâu đậm.
Lấy tình thâm trả nghĩa
thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
(Truyện Kiều).
Lánh bợn tục tình thâm cũng
tránh,
Trốn đau thương xa cảnh trần gian.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÍNH
DANH 姓 名
Tính:
Họ. Danh: Tên.
Tính danh là họ và tên.
Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
Chồng con đâu tá tính danh là
gì?
(Truyện Kiều).
Ðầu đuôi chưa rõ sự tình,
Lão bà khá nói tính danh cho
tường.
(Lục Vân Tiên).
TÍNH NƯỚC
LÀNG MÂY
Nước, mây là những vật trôi lênh đênh nay đây mai đó, không có định sở, nên thường được ví với người có tính không nhất định.
Tính nước làng mây chỉ người thích rày đây mai đó.
Ví dù tính nước làng mây,
Nhà ma nào chịu đến rày chửa đi.
(Quan Âm Thị Kính).
TỈNH GIẤC
NAM KHA
Giấc Nam kha là giấc mộng của Thuần Vu Phần khi nằm ngủ dưới cành cây phía nam, thấy mình đến nước Hoè An, được gả Công chúa cho, rồi bổ đến làm Thái thú đất Nam Kha. Sau Thuần Vu Phần được sai đem binh đi đánh giặc, bị thua quân, Công chúa ở nhà cũng bị bịnh mà chết. Quốc vương nước Hoè An đem lòng nghi kỵ, cách chức đuổi đi.
Tỉnh giấc Nam kha là tỉnh mộng công danh phú quý là hư ảo, đời người ngắn ngủi.
Xem: Nam kha.
Chàng Tôn tỉnh giấc Nam
kha,
Xin nghe lời vợ đâu mà dám sai.
(Dì Ghẻ Con Chồng).
TỈNH
THÂN 省 親
Tỉnh:
Thăm hỏi. Thân: Cha mẹ.
Tỉnh thân là thăm viếng cha mẹ.
Tỉnh thân giả tiếng Bắc qui.
Đinh ninh dặn hết mọi bề thủy chung.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Gió thu gợi dạ tử phần,
Sớ từ lại thấy tỉnh thân làm
lề.
(Hoa Tiên Truyện).
TỈNH THẾ 醒 世
Tỉnh:
Không còn mê. Thế: Đời.
Tỉnh thế là thức tỉnh người đời, tức là giác ngộ cho người đời không còn mê muội nữa.
Tiếng chuông chùa vang lên cũng có tác dụng thức
tỉnh người đời, nên còn gọi chuông tỉnh thế.
Sách truyện xưa ghi đã lắm điều,
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
TỈNH THỨC 醒 識
Tỉnh:
Không còn mê. Thức: Biết.
Tỉnh thức, đồng nghĩa với “Tỉnh giác 醒 覺”, “Tỉnh ngộ 醒 悟” có nghĩa là tỉnh ra mà biết rõ, không còn mê lầm nữa.
Khá tỉnh thức tiền duyên
nhớ lại,
Đoạn cho rồi oan trái buổi sanh.
(Kinh Tận Độ).
TĨNH
ĐÀN 淨 壇
Tĩnh hay Tịnh: Sạch sẽ. Đàn: Một cái đài đắp
đất hay bằng gỗ để cúng tế.
Tĩnh đàn tức là cái đàn cao và sạch sẽ được lập ra để cúng tế.
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
(Truyện Kiều).
TĨNH ĐƯỜNG 靜 堂
Tĩnh (靜): Yên lặng, vắng vẻ. Tĩnh (淨): Trong sạch, đọc là tịnh. Đường: Nhà.
Tĩnh đường (靜 堂) là nơi nhà vắng vẻ, yên lặng, hoặc chỗ tu hành. Còn tĩnh đường (淨 堂) là nơi trong sạch thanh khiết.
Thoắt thôi về chốn tĩnh đường,
Buồn trông phong cảnh tha hương ngập ngừng.
(Truyện Phan Trần).
TỊNH
BÌNH DƯƠNG CHI 淨 瓶 楊 枝
Tịnh bình: Một cái bình dùng để chứa nước Cam lộ của Quan Âm Bồ Tát. Dương chi: Cành
dương liễu.
Tịnh bình dương chi là một pháp thuật dùng nhành dương nhún vào nước trong tịnh bình (Tức nước Cam lộ) để rưới tắt phiền não, tiêu tai giải nạn, hoặc tiêu trừ bịnh chướng.
Xem: Tịnh thuỷ dương chi.
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi.
(Thập Loại Chúng Sinh)
TỊNH ĐẾ 並 蒂
Tịnh:
Cùng, đôi. Đế: Cái cuống hoa.
Tịnh đế tức là hai hoa cùng nở trên một cuống, như bông sen một cọng nở hai hoa, chỉ điềm lành của vợ chồng đôi lứa.
Do tích: Tiểu Thanh đời nhà Thanh là một tài nữ,
làm vợ lẻ, bị vợ cả ghen, giam chết khi 18 tuổi. Lúc đau khổ nàng lễ Phật Quan
Thế Âm xin hoá kiếp làm sen tịnh đế: Nguyện tương nhất trích dương chi
thuỷ, hoá tác nhân gian tịnh đế liên 願 將 一 滴 楊 枝 水, 化 作 人 間 並 蒂 蓮,
nghĩa là nguyền xin Phật Quan Âm cho một giọt nước nhiệm mầu ở cành dương liễu
để hoá thân nàng thành đôi hoa sen tịnh đế ở chốn nhân gian.
Ngọn đèn phòng động đêm xưa,
Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Khoe khoang vẻ thắm màu xanh,
Kìa hoa tịnh đế nọ cành
liên chi.
(Lộ Địch Diễn Ca).
TỊNH THẤT
Tịnh thất hay Tĩnh thất 靜 室, Tĩnh phòng 靜 房 đều là phòng ở sạch sẽ, yên tĩnh của những người tu hành.
Cùng nhau gặp mặt chào mừng,
Đem vào tịnh thất vừa chừng
hoàng hôn.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
TỊNH
THUỶ DƯƠNG CHI 淨 水 楊 枝
Tịnh thuỷ: Nước trong sạch. Dương chi: Nhành dương liễu.
Vào đời Tần, con trai ông Thạch Lặc bịnh chết đi, có Phật Đồ Trừng người nước Thiên Trúc, lấy cành dương (Dương chi) nhúng vào nước rồi rưới vào người, tức thời sống lại.
Theo Phật giáo, Quan Âm Bồ Tát dùng nhành dương
liễu nhúng vào nước Cam Lộ trong bình Tịnh Thuỷ để rãi vào chúng sanh trừ được
tất cả điều phiền não, tai ương, bịnh tật…
Rửa không thế tục thường tình,
Một bình tịnh thuỷ, một cành dương chi.
(Truyện Phan Trần).
TÒA SEN
CHÍN PHẨM
Bởi chữ “Cửu phẩm liên hoa 九 品 蓮 花”.
Toà sen chín phẩm là chín phẩm bậc, tức ngôi vị ở cõi Cực Lạc Thế Giới.
Theo Tịnh Độ Tông, người tu tuỳ tịnh nghiệp nhiều ít được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Chúng sanh ở cõi Tịnh độ này được hoá sanh từ hoa sen. Về ở một trong chín bậc hoa sen cao thấp khác nhau, chia làm ba cấp: Thượng, trung, hạ và mỗi cấp lại chia làm chia là thượng, trung, hạ nữa, nên gọi là “Toà sen chín phẩm”.
Đoạn căn đóng chặt Ân cung,
Tòa sen chín phẩm để cùng Phật tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TOẠ TIỀN 坐 前
Toạ:
Chỗ ngồi. Tiền: Phía trước.
Toạ tiền, trước chỗ ngồi, tức là trước bàn thờ.
Pháp bèn cất tiếng hét lên,
Mời ông Bàn Cổ toạ tiền chứng
minh.
(Lục Vân Tiên).
TOẠ TRẤN 坐 鎮
Toạ:
Ngồi. Trấn: Được coi giữ một nơi.
Toạ trấn là được đi nhậm chức, coi giữ một địa phận nào đó, còn gọi là trấn nhậm.
Thám hoa võ cử xuất thân,
Ba nơi tọa trấn mấy lần Đổng
binh.
(Nhị Độ Mai).
TOÁI
THÂN PHẤN CỐT 碎 身 粉 骨
Toái thân: Tan nát thân thể. Phấn cốt: Xương tan thành bột.
Toái thân phấn cốt đồng nghĩa với câu thành ngữ thịt nát xương tan.
Toái thân phấn cốt chi nài,
Nát thịt tan xương bao quản?
(Lục Súc Tranh Công).
TOẠI
NHÂN 燧 人
Theo sách Thượng Thư Đại Truyện thì Toại Nhân là một vị vua thứ nhất trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân 燧 人, Phục Hy 伏 羲, Thần Nông 神 農.
Vào thời Thượng cổ, nhân dân chưa được khai hoá,
vẫn còn uống huyết, ăn thịt sống súc vật. Vì vậy, Toại Nhân là vị vua đầu tiên
dạy dân biết cách dùng cây để lấy lửa nấu chín các thức ăn.
Đèn tôi từ thuở Toại Nhân,
Chà cây lấy lửa để muôn dân phanh ẩm thục thực.
Từ thuở ấy hoả sinh bất tức,
Sinh có đèn sáng rực bốn phương.
(Thanh Hoá Quan Phong).
TÓC MÂY
Tức là mái tóc đen mượt, uyển chuyển như làn mây bay thấp.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
(Truyện Kiều).
Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Mặt vành vạnh nguyệt, tóc ngà
ngà mây.
(Nhị Độ Mai).
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
(Thơ Tản Đà).
TÓC
SƯƠNG
Bởi chữ “Sương mấn 霜 鬢” tức là mái tóc bạc trắng như sương.
Thành ngữ Việt cũng có câu: “Da mồi tóc sương”.
Tóc sương là mái tóc bạc sương, ý nói mái đầu tóc đã bạc trắng, chỉ người tuổi cao, già cả.
Mái tóc điểm sương chưa học
Ðạo,
Họa kề dầu hối khó than van.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
TÓC TƠ
Tóc tơ là cọng tóc sợi tơ, hai vật nhỏ dùng để ví với cái gì tỉ mỉ, nhỏ nhặt.
Ngoài ra, chữ tóc tơ còn có nghĩa là kết tóc xe tơ, dùng để chỉ việc hôn nhân.
1.- Chỉ sự nhỏ nhặt:
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa
đền.
(Truyện Kiều).
Xiết bao phận mỏng như tờ,
Nợ bình sinh, nỗi tóc tơ chưa
đền.
(Hoa Tiên Truyện).
2.- Chỉ về nhân duyên:
Kiều nhi phận mỏng như tờ,
Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng.
(Truyện Kiều).
Nửa mái tóc tơ còn buộc
trói,
Ðem mình toan gởi cửa anh linh.
(Đạo Sử).
Tập cho ghê nết chạ lòng vơ.
Tập cho tường cái nghĩa tóc tơ,
(Phương Tu Đại Đạo).
So mình nắm dễ tóc tơ,
Ngoài ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÒNG BÁ 松 柏
Hay “Tùng bá”.
Tùng:
Cây thông. Bá: Cây bá hay bách, một loại với cây thông.
Tùng bá là một loại cây to lớn, chịu đựng được với sương tuyết lạnh, người xưa thường ví với quân tử, hoặc người chồng.
Mát thời hứng dạo non Đoài,
Nắng nương tòng bá, hôm mai chuỗi
lần.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Hoa tươi, tòng bá, khác nhau
xa,
Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa.
(Giới Tâm Kinh).
Nương rào tòng bá núp Trời
đông,
Trí đủ ... hay chưa phải thiện lòng.
(Đạo Sử).
Hễ cát đằng nhảy lá xanh chồi,
Thân tòng bá càng tươi
thêm vẻ đẹp.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÒNG NHẤT
BẤT CANH 從 一 不 更
Tòng nhất: Chỉ theo một mà thôi. Bất
canh: Không thay đổi.
Tòng nhất bất canh tức theo một chồng chứ không bao giờ thay đổi, ý nói người đàn bà chỉ lấy một chồng, không bao giờ đổi dạ, đổi lòng.
Xem: Tòng nhất nhi chung.
Chữ rằng: Tòng nhất bất canh,
Chẳng thì dám tiếc tiện hình này đâu.
(Nữ Tú Tài).
TÒNG NHẤT NHI CHUNG 從 一 而 終
Tòng nhất nhi chung là từ đầu cho đến cuối chỉ theo một mà thôi, tức là có ý muốn nói theo một chồng ở trọn đời mà thôi.
Kinh Dịch có câu: Phụ nhân trinh cát, tòng
nhất nhi chung 婦 人 貞 吉, 從 一 而 終,
tức là đàn bà trinh trắng tốt lành, chỉ theo một chồng đến cuối mà thôi.
Chữ rằng: Tòng nhất nhi chung,
Gái hiền thờ chỉ một chồng, chẳng hai.
(Truyện Trinh Thử).
TÒNG
PHU 從 夫
Hay “Tùng phu”.
Tùng:
Theo. Phu: Chồng. Tùng phu tức là khi có chồng phải theo chồng.
Đây là một trong đạo “Tam tùng 三 從” của người phụ nữ. Đạo Tam Tùng gồm có: Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu và phu tử tùng tử 在 家 從 父, 出 嫁 從 夫, 夫 死 從 子, nghĩa là người con gái còn sống ở nhà thì theo cha, gả chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo sống với con.
1.-Tòng phu:
Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầụ
(Truyện Kiều).
Tòng phu ta giữ đạo thường
Xướng tuỳ hai chữ, trăm đường thuận theo.
(Huấn Nữ Ca).
2.- Tùng phu:
Đến lúc đã chung phòng hòa hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÒNG PHỤ 從 父
Hay “Tùng phụ” là một trong Tam tùng của phụ nữ: Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử.
Tùng phụ là theo cha, ý nói người con gái chưa về
nhà chồng thì phải nghe lời cha dạy dỗ.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo,
Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên,
(Gia Huấn Ca).
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Theo nhà chồng bỏ mẹ cha già,
Tùng phu cũng quá là tùng phụ.
(Phương Tu Đại Đạo).
TÒNG
QUYỀN 從 權
Tòng hay tùng: Theo. Quyền: Đạo dùng khi biến.
Bởi câu “Ngộ biến tòng quyền 遇 變 從 權” nghĩa là gặp biến phải theo tình thế mà đối phó, không nên khư khư câu nệ.
Tòng quyền là theo sự quyền biến.
Xem: Kinh quyền.
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì,
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
(Truyện Kiều).
Chấp kinh, nếu chẳng tòng quyền,
Nữa khi nước đến, e nên cát lầm.
(Nhị Độ Mai).
Dở dang thay cái tu my.
Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng
quyền.
(Thơ Bùi Kỷ).
TÔ CÔNG 蘇 公
Tức là Tô Võ, tự Tử Khanh, một vị tôi trung của nhà Hán, bị vua Hung Nô bắt chăn dê miền Bắc Hải. Mười chín năm sau mới được tha về nước.
Xem: Tô Lang.
Thói tinh chiên Hộ tặc chỉn hăm,
Gan thiết thạch Tô Công dễ đổi.
(Văn Tế Nguyễn Biểu).
TÔ ĐIỂM
Tô:
Tô son. Điểm: Điểm phấn.
Tô điểm là làm cho có thêm màu sắc để được đẹp đẽ hơn như tô son điểm phấn.
Nghĩa rộng chỉ sự lo lắng, chăm sóc từng chút.
Đẹp mình với vẻ cân đai,
Công thầy tô điểm từ ngày ấu xuân.
(Kinh Thế Đạo).
TÔ HUỆ 蘇 慧
Tô Huệ là người con gái dệt lụa, có chồng là Đậu Thao. Đậu Thao phải đi lính ở phương xa, nàng Tô Huệ ở nhà nhớ chồng quá, bèn làm ra một bài thơ, rồi dệt quanh lộn trên bức gấm, gọi là “Chức cẩm hồi văn 織 錦 回 文”, dâng lên cho vua để xin cho chồng được tha trở về. Vua đọc xong bài thơ, cảm động nên tha cho Đậu Thao trở về cùng nàng sum họp.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày
chinh phu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÔ LANG 蘇 郎
Tô lang tức Tô Võ, tự là Tử Khanh, đời nhà Hán, đi sứ Hung Nô, bị vua Hung Nô bắt giam vào một cái hang lớn, không cho ăn uống gì cả. Tuyết xuống, Tô Võ lấy tuyết mà ăn. Nhờ thế, sau đó Tô Võ mới được đưa đi chăn dê ở miền Bắc Hải.
Xem: Tử Khanh.
Tô lang nằm lỗ giá ăn sương,
ruột sầu rười rượi;
Châu Dị thấy hột cơm bám má,
lòng tiếc ngùi ngùi.
(Thập Giới Cô Hồn).
TÔ PHỤ 蘇 婦
Vợ của Tô Tần đời Đông Châu.
Khi còn hàn vi, Tô Tần bỏ nhà đi du thuyết các
nước nhưng không có kết quả, về nhà lại ăn mặc rách rưới, bị vợ và chị dâu
khinh bỉ, ngồi khung cửi không thèm xuống. Sau Tô Tần lại đi du thuyết lần nữa,
được sáu nước trọng dụng làm tể tướng. Khi về nhà đeo ấn sáu nước bằng vàng, bà
vợ thấy vội quỳ xuống, cúi đầu vâng dạ, phục tùng Tô Tần.
Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,
Chàng hẳn không như lũ Lạc dương.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
TÔ QUÂN 蘇 君
Tức Tô Võ, tự là Tử Khanh, một sứ thần đời Hán Võ Đế, đi sứ rợ Hung nô, bị bắt giữ lại chăn dê suốt 19 năm mới được tha về nước. Thổ dân kính phục là người kiên trung, lập đền thờ ở nơi họ Tô chăn dê khi trước để sùng bái. Nơi ấy là núi Hà Lan.
Xem: Tô Võ.
Thổ binh quỳ trước thưa lên:
Núi Hà lan ấy có đền Tô quân.
(Nhị Độ Mai).
TÔ TẦN 蘇 秦
Tô Tần, người Lạc Dương, đời Đông Châu, tự là Quý Tử khi còn đi học, đêm đọc sách, sợ buồn ngủ, để mũi dùi dưới vế, hễ ngủ gật thì dùi đâm, dậy học nữa.
Ông có tài du thuyết, lúc còn hàn vi, sang du
thuyết đất Tần, không được trọng dụng, về nhà bị vợ và chị dâu khinh bỉ. Sau Tô
Tần lại đi các nước du thuyết, được các nước nghe theo kế hợp tung, tức là kết
hợp các nước nhỏ để chống lại nước lớn là Tần. Tô Tần lúc ấy được các nước
phong làm Tể tướng, đeo ấn sáu nước, danh tiếng lừng lẫy. Bấy giờ vợ không
dám khinh khi, chi dâu quỳ xin tạ tội.
Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Người Tô Tần chí thú đọc Kinh.
(Gia Huấn Ca).
Kìa nếu Tô Tần nghèo thuở
trước,
Chưa đeo tướng ấn mấy ai chào.
(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Có khi Quản Trọng ra vào,
Có khi khuya sớm du ngao Tô Tần.
(Tống Thần Cùng).
TÔ TỬ 蘇 子
Tức “Tô Thức 蘇 軾”
Tô Thức, tự là Tử Chiêm, biệt hiệu là Đông Pha, quán Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, người đời Tống. Thân phụ ông là Tô Tuân, em là Tô Triệt, tất cả đều nổi tiếng hay chữ, người đương thời gọi ba người là “Tô gia tam kiệt 蘇 家 三 傑” hay Tam Tô.
Năm 20 tuổi, Tô Thức đậu Tiến sĩ. Lúc Vương An Thạch lên cầm quyền, thi hành cải cách chính trị, Tô Thức công kích biến pháp, nên bị đổi ra đất Hàng Châu, tỉnh Hồ Bắc. Ông làm một cái nhà ở bãi phía đông và lấy biệt hiệu là Đông Pha cư sĩ. Năm 1086, vua Triết Tông lên ngôi triệu ông về kinh giữ chức Hàn Lâm học sĩ. Ông là người học thức uyên thâm, lại tinh thông các đạo Khổng Mạnh, Lão và Phật. Tư tưởng ông phóng khoáng, văn hùng mạnh, thơ ca vừa sâu xa vừa giàu nhạc điệu. Ông lại có tài về vẽ và viết chữ rất tốt.
Ông Tô Tử qua chơi Xích
Bích,
Một con thuyền với một túi thơ.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
Non gặp Bá Nha non mở mặt,
Nước mừng Tô Tử nước khoe
màu.
(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).
TÔ
TRƯƠNG 蘇 張
Tức là Tô Tần và Trương nghi.
Tô Tần có tài du thuyết, đi thuyết được các nước nghe theo kế hợp tung, tức là kết hợp các nước nhỏ để chống lại nước lớn là Tần. Tô Tần lúc ấy được các nước phong làm Tể tướng, đeo ấn sáu nước, danh tiếng vang lừng các nước.
Trương Nghi là người đưa ra thuyết “Liên hoành”, tức là kêu gọi sáu nước họp lại đánh Tần, cũng là chống lại “Tung ước” của Tô Tần.
Bách thanh thiện kiếm, thần phong,
Tài biện bác cũng một lòng Tô,
Trương.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
TÔ VÕ 蘇 武
Tự là Tử Khanh, một tướng đời nhà Hán. Tô Võ bị Hung Nô bắt đày đến Bắc Hải, là một xứ cùng tịch, giao cho giữ việc chăn dê, sống cuộc đời thiếu thốn cực khổ. Sau đó nhà Hán và Hung Nô giảng hoà, Tô Võ được Thiền Vu tha cho về nước.
Xem: Tử Khanh.
Ngọn roi Tô Võ dấu vừa qua,
Dê của ai nuôi lại thả ra.
(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).
Ðạo cả đức cao non nước nhuộm,
Cũng như Tô Võ đến Huyền
Thiên.
(Đạo Sử).
TỐ NỮ 素 女
Tố nữ là người con gái trắng trẻo.Ví dụ tranh tố nữ là tranh vẽ nàng con gái đẹp.
Tố nữ còn dùng để chỉ một vị nữ thần ham mê việc
chăn gối.
Tranh biếng ngắm trong đồ tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Buồn trong tranh, thẹn người tố
nữ,
Buồn ngâm thơ, tuổi chữ thanh xuân.
(Bần Nữ Thán).
Sợi tơ hồng ai khéo xe duyên,
Treo tranh tố nữ đứng bên
anh tượng đồng!
(Thơ Tản Đà).
TỐ NGA 素 娥
Người con gái đẹp đẽ.
Ngoài ra, tố nga còn có nghĩa là Hằng nga, tức chỉ mặt trăng. Sách Ấu Học viết: Tố nga tức nguyệt chi hiệu 素 娥 即 月 之 號, nghĩa là Tố nga thực danh hiệu của mặt trăng.
1.- Chỉ người con gái đẹp:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
(Truyện Kiều).
Liền tay xin lĩnh xem qua,
Truyền thần một tượng tố nga rành
rành.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
2.- Chỉ mặt nguyệt:
Bâng khuâng kẻ mệt hồn trần nữ,
Phảng phất trời cao bóng tố nga.
(Hồng Đức Quốc Âm).
TỐ OAN 訴 冤
Tố:
Kêu nài, giải bày cho biết. Oan: Oan ức.
Tố oan là trình bày cho mọi người biết là mình bị oan ức, hoặc tỏ bày với vua quan.
Hương thề nguyền khói nồng trước gió,
Tờ tố oan tay ngỏ giữa trời.
(Tự Tình Khúc).
TỐ
VƯƠNG 素 王
Tố vương là vua không ngôi. Nhưng về phương diện đạo đức được tôn trọng như một vị vua.
Khổng Tử Gia Ngữ chép: Thái Sư nước Từ là Sử Dư, sau khi gặp Đức Khổng Tử, trở ra bảo với mọi người rằng: Ý trời muốn cho Ngài làm vua không ngôi.
Người đời sau gọi Đức Khổng Tử là “Tố vương”, tức là vua không ngai.
Tố vương nghe vẳng bên tai,
Canh khuya than thở rằng thời đức suy.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
TỔ ĐẠO 祖 道
Tổ đạo là mở đường, một cuộc lễ tổ chức khi xuất quân, thường giết dê để tế cờ.
Tổ đạo còn là lễ tế đưa người lên đường.
Nhẫng đến ngày mạng tướng xuất sư,
Cũng lấy dê khẩn cầu tổ đạo.
(Lục Súc Tranh Công).
TỔ ĐỊCH 祖 逖
Người Phạm Dương đời nhà Tấn, làm Thứ sử đất Dự Châu, kết bạn thân với Lưu Côn, cùng đắp chung một chăn, hễ nghe gà gáy liền trở dậy múa gươm luyện võ.
Đời Nguyên Đế, Tổ Địch đem binh bắc phạt, lúc qua sông lấy gươm chặt mái chèo mà thề rằng: Nếu không đem lại thái bình cho Trung Nguyên mà còn trở qua sông thì cũng như chiếc thuyền này. Nhờ thế, phá được quân Thạch Lặc, khôi phục được đất đai phía Nam sông Hoàng Hà.
Ông làm quan đối xử với dân rất tốt, nên lúc chết được dân thương tiếc mà đưa đám rất đông đảo.
Canh gà lụn bóng thiềm chen,
Lưỡi gươm Tổ Địch tiếng
kèn Lưu Côn.
(Hoài Nam Khúc).
TỔ HIỂN
Do chữ Hiển tổ 顯 祖.
Hiển:
Sáng tỏ. Tổ: Nội, chỉ chung Tổ tiên, ông bà.
Tổ hiển (Hiển tổ), chữ dùng để gọi nội, hay ông bà đã quá cố.
Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi
phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đươm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TỔ HÙNG
VƯƠNG
Hùng Vương 雄 王 thuộc họ Hồng Bàng, nối nghiệp Lạc Long quân, làm vua nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, từ vua thứ nhửt trở về sau, đều lấy hiệu là Hùng Vương.
Tổ Hùng Vương là bởi vua Hùng được xem là tỵ tổ
của nòi giống Việt Nam.
Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương,
Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TỔ NGHIỆP 祖 業
Tổ:
Người đầu tiên khai sáng một dòng họ. Nghiệp: Cơ nghiệp.
Trước kia, chữ “Tổ nghiệp” là cơ nghiệp của các bậc vua chúa truyền lại cho con cháu. Sau này, chữ “Tổ nghiệp” có nghĩa là tài sản của cha ông để lại cho con cháu.
Đường tổ nghiệp nữ nam
hương lửa,
Đốt cho nồng từ bữa ba sanh.
(Kinh Thế Đạo).
Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,
Văn hóa so cũng kịp tha bang.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TỔ
PHONG 祖 風
Tổ phong là phong cốt của tổ tiên, tức là cái tiết tháo của ông bà tổ tiên.
Đường Thư ghi: Cháu nội ông Địch Nhơn Kiệt là Địch
Kiêm Mô, sẵn có cái phong cốt của ông, được bổ làm quan Ngự sử Trung thừa.
Người đời khen rằng: Địch Kiêm Mô xước hữu tổ phong, hậu tiên huy ánh 狄 兼 謨 綽 有 祖 風, 後 先 輝 映,
nghĩa là Địch Kiêm Mô sẵn có phong cốt ông nội, sau trước chói lọi.
TỔ PHỤ 祖 父
Tổ: Người sinh ra cha mình. Phụ: Cha.
Tổ phụ là ông nội. Tổ mẫu là bà nội.
Ngoài ra, chữ Tổ phụ còn có nghĩa là ông cha đời
trước, tức ông bà tổ phụ.
Gởi Tổ Phụ (Anh, chị) hiền cung phụng,
Gởi sắp em còn sống nơi đời.
(Kinh Thế Đạo).
TỔ SƯ 祖 師
Tổ:
Người sáng lập ra một tôn giáo, một học thuyết hay một nghề nghiệp. Sư: Thầy.
Tổ sư là Đấng khai sáng một nền Tôn giáo và làm thầy truyền dạy tôn giáo đó.
Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông
Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời,
(Kinh Cúng Tứ Thời).
TỔ TÔNG 祖 宗
Tổ:
Người cao nhứt trong một dòng họ. Tông: Người đứng hàng thứ hai, kế ông tổ.
Tổ tông là tiếng nói chung dùng để chỉ người đầu tiên của dòng họ, như bàn thờ tổ tông.
Tổ tông lời nói còn ghi để,
Bần tiện chi giao bất khả vong.
(Lưu Bình Diễn Ca).
Bời lời lòng những luống lo toan,
Lo đến Tổ tông chốn suối
vàng.
(Đạo Sử).
Ta dặn về nhà lo cúng tế,
Tổ tông hoang phế bấy lâu rồi.
(Đạo Sử).
TỘ DẬN 祚 胤
Tộ:
Phúc. Dận: Con cháu.
Tộ dận là phúc lành cho con cháu.
Thiên Đại Nhã trong Kinh Thi có câu: Vĩnh
tích tộ dận 永 錫 祚 胤,
nghĩa là ban phúc lành cho con cháu mãi mãi.
Đức lành cù mộc
ròng ròng đạo rệt cương thường,
Thơ ngợi chung tư
dặc dặc phúc thêm tộ dận.
(Cung Trung Bảo Huấn).
TỘ RẮN
Tức là phúc lành trong việc chém rắn. Lưu Bang khi còn ở đất Bái, uống rượu say đêm đi qua đầm, bị một con rắn to chắn ngang đường, Lưu Bang rút kiếm chém rắn. Từ đó, trong thiên hạ người hiền tài theo về rất đông, nhờ vậy phá Tần diệt Sở, dựng nên nghiệp nhà Hán.
Hán từ tộ rắn ngửa nghiên,
Ba phân chân vạc, bốn phương anh hùng.
(Ngoạ Long Cương Vãn).
TÔI
LOÀN CON GIẶC
Bởi chữ “Loạn thần tặc tử 亂 臣 賊 子” tức là làm người bề tôi thì phản loạn, không biết phân biệt kẻ trên người dưới; làm người con thì hư hỏng gây hoạ hại đến gia đình.
Tôi loàn con giặc chỉ người bất trung bất hiếu, làm hại cho nước và nhà.
Xem: Con giặc tôi loàn.
Đừng quen tánh tôi loàn con giặc,
Cưu hờn xưa mà khúc mắc mắng vong hồn.
(Phương Tu Đại Đạo).
TỘI
BÁO 罪 報
Tội:
Làm điều ác, việc phạm pháp. Báo: Đáp trả lại do gây nên tội lỗi.
Tội báo là sự báo đáp của tội lỗi. Những hành vi hung ác gây ra tội lỗi, tạo thành nghiệp xấu, sẽ báo đáp lại trong hiện kiếp hay kiếp lai sinh.
Những việc tội báo âm
dương,
Đâu mà chẳng tỏ, hỏi han tôi rày.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Dầu trọn kiếp sống không nên Đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc
ràng.
(Kinh Tận Độ).
Hung hoang tội báo nghiệt
căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.
(Kinh Sám Hối).
Nuôi cả đời nuôi đã mòn hơi,
Còn thêm nỗi ăn chơi gây tội báo.
(Phương Tu Đại Đạo).
TỘI BÁO
OAN GIA 罪 報 冤 家
Tội báo:
Báo ứng do gây tội lỗi. Oan gia: Nhà bị nhiều oan trái.
Tội báo oan gia tức là gây nên tội lỗi sẽ bị báo ứng những điều oan nghiệt.
Làm chi tội báo oán gia,
Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?
(Truyện Kiều).
TỘI CĂN 罪 根
Tội:
Tội lỗi. Căn: Gốc rễ.
Tội căn là tội lỗi gây ra từ kiếp trước tạo thành gốc rễ để quả báo trong hiện kiếp.
Xem: Tội căn báo ứng.
Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
(Kinh Sám Hối).
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
(Sám Hôi Kinh).
TỘI CĂN
BÁO ỨNG 罪 根 報 應
Tội căn:
Gốc rễ của tội lỗi. Báo ứng: Báo đáp những gì mình đã gây ra.
Tội căn báo ứng là gây ra những điều tội lỗi tạo thành gốc rễ cho việc báo ứng
sau này.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng biết chừng nào an.
(Kinh Sám Hối).
TỘI HỮU
SỞ QUY 罪 有 所 歸
Tội:
Lỗi lầm. Hữu sở quy: Có chỗ quy trách nhiệm
Tội hữu sở quy là tội lỗi đã có người đứng ra chịu trách nhiệm.
Đã đành tội hữu sở quy,
Rồi ra, ra đến những gì thì ra.
(Nhị Độ Mai).
TỘI CHƯỚNG 罪 障
Tội:
Việc ác, việc pháp pháp. Chướng: Ngăn trở.
Tội chướng là Sự ngăn trở của tội lỗi, tức những chướng ngại do hành vi tội lỗi gây ra từ kiếp trước.
Tội chướng đồng nghĩa với nghiệp chướng.
Dầu tội chướng ở miền địa giái,
Dầu oan gia ở ngoại Càn Khôn.
(Kinh Thế Đạo).
TÔN CHU 尊 周
Hay “Tôn Châu”, tức tôn thờ nhà Châu.
Trước thời Xuân Thu, các nước chư hầu đều tôn thờ
nhà Châu. Đến đời Đông Châu, vì mệnh lệnh thiên tử không được tuân hành nữa,
nên các nước chư hầu thường xảy ra nội loạn, soán đoạt ngôi vua, hoặc kiêm tính
lẫn nhau. Tuy vậy, dân tâm vẫn còn tôn phù nhà Châu, nên nước chư hầu nào có
sức mạnh thường tự nhận được mệnh thiên tử, đứng làm bá chủ các nước chư hầu.
Nhờ lượng trên cũng muốn tôn Chu,
tình thân hiếu đã ngăn chia đôi nước.
(Văn Tế Quang Trung).
TÔN GIẢ 尊 者
Tức là bậc đáng tôn kính. Danh xưng “Tôn giả” dành cho các bậc trưởng lão chứng đắc giải thoát, ví dụ như Tôn giả Ca Diếp, Tôn giả A Nan…
Phép thiên biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn Giả chia đều
chúng sinh.
(Thập Loại Chúng Sinh).
TÔN
KHANG 孫 康
Tôn Khang người đời Tấn, nhà nghèo nhưng rất ham học, dốc lòng dồi mài kinh sử, mùa đông đêm không có dầu đốt, phải mượn ánh tuyết rọi vào để học (Án tuyết độc thư). Về sau, Tôn Khang trở nên người danh vọng.
Xem: Án tuyết độc thư.
Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết,
Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông.
(Gia Huấn Ca).
TÔN NGÔ 孫 吳
Tôn Ngô tức Tôn Võ Tử đời Xuân Thu và Ngô Khởi đời Chiến Quốc. Hai người này có sách viết về binh pháp, gọi là “Tôn Ngô Binh Pháp”.
Bây giờ thế đã thuỳ nguy,
Dầu Tôn, Ngô nữa chước hì
hầu toan.
(Hoài Nam Khúc).
Đền Thương cùng nếm vạc mai,
Cũng trong Y Phó, cũng ngoài Tôn
Ngô.
(Mai Đình Mộng Ký).
Chép miệng luận sự Tôn, Ngô,
Rủ tay áo năm bảy phen thao lược.
(Thập Giới Cô Hồn).
Kinh sử năm xe chứa chất,
ngang trời, dọc đất ấy kinh luân;
Tôn, Ngô bảy quyển lảu thông,
đè sóng, xông mây là chí khí.
(Hàn Vương Tôn Phú).
TÔN PHU
NHÂN 孫 夫 人
Tôn Phu nhân là em gái của Tôn Quyền, vua nước Đông Ngô, đời Tam Quốc, gả cho Lưu Bị vua nước Thục, là dòng dõi nhà Hán. Tôn Phu nhân về nước Thục trong lúc việc giao thiệp giữa hai nước Ngô, Thục đang khó khăn. Bà là người Ngô nhưng lấy chồng Thục phải theo về Thục.
Xem: Tôn Quyền.
Ham Chiêu Quân trọn nghĩa phụ thần,
Hơn giúp Hớn Tôn Phu Nhân gươm cật ngựa.
(Phương Tu Đại Đạo).
TÔN PHÙ 尊 扶
Tôn:
Tôn trọng. Phù: Giúp đỡ.
Tôn phù tức là kính trọng và bảo vệ vị vua hay tôn miếu xã tắc.
Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
Nghĩa tôn phù vằng vặc
bóng dương.
(Ai Tư Vãn).
TÔN QUYỀN 孫 權
Tôn Quyền là một vị vua nước Ngô đời Tam quốc, cùng với Tào Tháo, Lưu Bị phân chia nước Tàu làm ba, mỗi người hùng cứ một phương.
Tôn Quyền có người em gái gả cho Lưu Bị. Lúc đầu
chỉ là mưu kế để gạt Lưu Bị sang Đông Ngô, nhưng Khổng Minh tương kế tựu kế
giúp Lưu Bị cưới được Tôn Phu Nhân và dẫn trốn thoát về đất Thục.
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết,
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng.
(Thơ Phan Văn Trị).
Văn Gia Cát tinh thông lược trí,
Võ Tôn Quyền làu thuộc
gương binh.
(Nhạc Hoa Linh).
TÔN
SINH 孫 生
Tức Tôn Kính, người đời Hán, rất chăm học, thường đóng cửa để đọc sách. Khi học ban đêm, sợ ngủ quên, treo một dây thòng lọng, buộc trên sà nhà thòng xuống trước mặt, hễ ngủ gật, đầu bị chui vào tròng thì lại tỉnh ra, tiếp tục học nữa.
Lý Thương Ẩn đời Đường, có thơ khen rằng: Huyền
đầu tằng khổ học, triết tý phản thành y 懸 頭 曾 苦 學, 折 臂 反 成 醫,
nghĩa là treo đầu từng chăm học, đứt tay mới hay thuốc.
Tóc treo giường ấy, Tôn Sinh,
Để cho dễ thức học hành canh khuya.
(Gia Huấn Ca).
TÔN SƠN 孫 山
Tôn Sơn, người đời nhà Tống, có tính khôi hài, lúc đi thi đỗ cuối bảng. Người trong làng cũng có một đứa con cùng đi thi với Tôn Sơn. Đến ngày kết quả, Tôn Sơn xem bảng thấy mình có tên, bèn trở về trước. Người làng hỏi Tôn Sơn: Con tôi thi cử thế nào? Tôn Sơn đọc hai câu thơ: Giải danh tận xứ thị Tôn Sơn, Hiền lang cạnh tại Tôn Sơn ngoại 解 名 盡 處 是 孫 山, 賢 郎 競 在 孫 山 外, nghĩa là Tôn Sơn đội bảng chứ ai, Hiền lang lại lọt ra ngoài Tôn Sơn.
Vì vậy, sau này người ta gọi những người thi rớt
là “Lạc Tôn Sơn”.
Chàng đà giật giải thu vi,
Tôn Sơn tên đã cao đề bảng xuân.
(Lưu Nữ Tướng).
Khoa Đinh Mão cũng nước bầu cơm gói,
tiếc lẽ đi không về luống,
kỳ tứ trường còn nhượng bảng Tôn
Sơn.
(Tự Thuật Ký).
TÔN TẪN 孫 臏
Tôn Tẫn là người nước Tề, đời Xuân Thu, học trò của Quỷ Cốc Tiên Sinh. Bàng Quyên và Tôn Tẫn cùng học một thầy, Tôn Tẫn giỏi hơn, nên được thầy yêu quý. Bàng Quyên làm quân sư cho Nguỵ Huệ Vương, đánh thắng nhiều trận, danh tiếng lừng lẫy. Khi Tôn Tẫn xuống núi, Bàng Quyên trước kia có hứa tiến cử cho vua Nguỵ, nhưng biết Tôn Tẫn giỏi hơn mình sợ được trọng dụng, nên giả làm lơ. Nhờ có Mặc Địch giới thiệu Tôn Tẫn với vua Nguỵ, buộc lòng Bàng Quyên phải rước Tôn Tẫn về.
Sau Bàng Quyên gièm tâu với vua Nguỵ là Tôn Tẫn có
ý làm phản, khiến Tôn Tẫn bị chặt chân. Bàng Quyên giả vờ thương xót, đem bạn
về nuôi, chờ cơ hội giết Tôn Tẫn. Tôn Tẫn biết được giả điên rồi trốn sang nước
Tề, làm quân sư cho Tề Hầu, kéo quan sang đánh Nguỵ và giết chết Bàng Quyên.
Cười người Tôn Tẫn khôn lừa,
Trước đà thấy máy, chẳng ngừa Bàng Quyên.
(Lục Vân Tiên).
TÔN TY 尊 卑
Tôn:
Lớn. Ty: Nhỏ.
Tôn ty là lớn nhỏ, phân biệt cho có trật tự lớn nhỏ.
Đòi đẳng thấp cao,
phận quý tiện tôn ty có
khác;
Toan bề ân đãi,
chức phi tần tường ngự càng nhiều.
(Cung Trung Bảo Huấn).
TÔN
THÂN 宗 親
Tôn:
Dòng họ. Thân: Bà con, gần gũi với nhau.
Thân thuộc cùng một tổ tông, cùng một huyết thống thì được gọi là tôn thân (Tông thân).
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn
sang.
(Ai Tư Vãn).
TÔN TRỞ 樽 俎
Tôn:
Chén uống rượu. Trở: Cái kỷ để các thức cúng tế.
Tôn trở là trong vòng cái chén uống rượu, ý nói người biết xa hiểu rộng.
Án Tử Xuân Thu có câu: Phù bất xuất tôn trở chi gian, nhi tri thiên lý chi ngoại, khả vị chiết xung hỹ 夫 不 出 樽 俎 之 間, 而 知 千 里 之 外, 可 謂 折 衝 矣, nghĩa là phàm chẳng ra khỏi vòng chén rượu mà biết được việc ngoài ngàn dặm, có thể gọi là thắng được giặc vậy.
Xem: Chiết xung.
Kìa ai tôn trở chiết xung,
Mã công tên Thực anh hùng kém chi.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TÔN VÕ 孫 武
Hay “Tôn Vũ”.
Tôn Võ là người nước Tề, đời Đông Châu, có soạn bộ
“Tôn Tử binh pháp”. Ông được vua Ngô Hạp Lư phong làm tướng, cầm binh phá nước
Sở ở phía tây, đánh nước Tề, nước Tấn ở phía bắc, làm cho nước Ngô hùng mạnh về
võ công, nổi tiếng khắp chư hầu.
Những tài tót núi nhảy sông,
Sánh cùng Tôn Vũ sức cùng Ban Siêu.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
TỒN CÔ 存 孤
Tồn cô là thương xót trẻ mồ côi.
Kinh Lễ có câu: Trọng xuân chi nguyệt,
dưỡng ấu thiếu, tồn chư cô 仲 春 之 月, 養 幼 少, 存 諸 孤,
nghĩa là tháng trọng xuân, tức tháng hai, nuôi trẻ nhỏ, thương xót trẻ mồ côi.
Tồn cô chữ dặn khăng khăng,
Vì ai nên lỗi đạo hằng với ai.
(Thơ Bùi Hữu Nghĩa).
TÔNG ĐƯỜNG 宗 堂
Tông:
Nơi thờ phụng tổ tiên dòng họ. Đường: Nhà.
Tông đường là nhà thờ tổ tiên của dòng họ. Tông đường còn dùng để chỉ người thừa kế thờ phụng.
1.- Chỉ người nối dõi thờ phụng:
Tông đường chút chửa cam lòng,
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.
(Truyện Kiều).
2.- Chỉ nhà thờ:
Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đươm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TÔNG
MÔN 宗 門
Tông:
Dòng họ. Môn: Cửa.
Tông môn là dòng họ hay gia tộc. Ngoài ra, Tông môn còn có nghĩa môn phái của Tôn giáo.
Đôi mặt cách mà lòng vẫn một,
Khác tông môn hài cốt hòa
chung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phải hiểu rõ hai điều vinh xú,
Hiển tông môn qui củ nghiệp
nhà.
(Phương Tu Đại Đạo).
TÔNG
XÁC 宗 愨
Tên tự là Nguyên Cấn, người Nam Dương, đời Tống. Lúc còn nhỏ, người chú hỏi chí hướng, sau này lớn lên muốn làm gì. Xác đáp: Muốn cỡi gió khơi phá muôn trùng sóng. Sau Tông Xác quả nhiên làm tướng.
Đeo gươm ném bút mới đành,
Muốn cùng Tông Xác băng
mình gió khơi.
(Thơ Lãng Nhân).
TỐNG
CÔNG 宋 公
Tức là Tống Hoằng, làm quan Đại phu dưới thời vua Quang Võ nhà Hậu Hán, tính rất chánh trực, lại có tình nghĩa. Hồ Dương Công chúa là chị vua Quang Võ, sớm goá chồng, nghe danh Tống Hoằng là một bậc trượng phu nên muốn ông cưới làm vợ. Nhưng Tống Hoằng đã có vợ lúc còn nghèo hèn, nên từ chối kết duyên với Hồ Dương Công chúa.
Xem: Tống Hoằng.
Hồ Dương xưa mới góa chồng,
Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa.
(Lục Vân Tiên).
Ả Hồ Dương nọ chẳng vừa,
Cớ gì mà lại toan thờ Tống Công.
(Truyện Trinh Thử).
TỐNG CỰU
NGHINH TÂN 送 舊 迎 新
Tiễn đưa năm cũ, đón rước năm mới.
Ngày xưa, mỗi lần đến cuối năm mỗi nhà đều dọn cỗ
bàn cùng nhau ăn uống, rồi mới thức suốt đêm trừ tịch để chờ đón năm mới, gọi
là “Tống cựu nghinh tân”.
Nhà nhà tống cựu nghinh tân.
(Hoàng Sĩ Khải).
TỐNG
CHUNG 送 終
Tống:
Đưa tiễn. Chung: Cuối cùng, chết.
Tống chung là đưa tiễn người chết.
Khi muông thác tống chung an
thổ,
Có gạo tiền cấp táng toàn thân.
(Lục Súc Tranh Công).
TỐNG ĐẠO
QUÂN 宋 道 君
Vua Huy Tông nhà Tống là người rất sùng mộ đạo thần tiên, nên xưng hiệu là Tống Đạo Quân (Vua của các đạo).
Sau Tống Đạo Quân bị rợ Khiết Đơn vây đánh ở Biện
Đô và bị chúng bắt đem về Mạc Bắc (Ngoại Mông Cổ ở phía bắc miền sa mạc Trung
Quốc).
Đời nào tu cho hơn Tống Đạo Quân,
Đời nào tu cho hơn Lương Võ Đế.
(Sãi Vãi).
TỐNG
HÀNH 送 行
Tống:
Tiễn đưa. Hành: Ra đi.
Tống hành tức là đưa tiễn người ra đi.
Hôm nay đã tới mồng mười,
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành.
(Lục Vân Tiên).
TỐNG HOẰNG 宋 弘
Tống Hoằng là quan đại phu dưới thời vua Hán Quang Võ, tính người rất chánh trực, lại có tình nghĩa. Hồ Dương Công chúa là chị của vua Quang Võ, goá chồng, muốn Tống Hoằng bỏ vợ để lấy mình, nhờ vua Hán ướm lời. Vua hỏi Tống Hoằng: Quí dịch giao, phú dịch thê, hữu chư? 貴 易 交, 富 易 妻, 有 諸?, nghĩa là sang đổi bạn, giàu đổi vợ có chăng? Tống Hoằng tâu rằng: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường 貧 賤 之 交 莫 可 忘. 糟 糠 之 妻 不 可 下 堂, nghĩa là bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, vợ chồng hồi tấm mẳn, chẳng khá bỏ nhau.
Hán Quang Võ và Hồ Dương Công chúa nghe Tống Hoằng nói thế thì biết Tống Hoằng là người trung hậu, không chịu bỏ vợ.
Xem: Hồ Dương.
Tống Hoằng chí trượng phu không đổi,
Giữ nhơn luân sợ lỗi đạo hằng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TỐNG NGỌC 宋 玉
Tống Ngọc là người nước Sở, đời Chiến Quốc, nổi tiếng là người đẹp trai, có tính lãng mạn, trăng hoa. Ông phải lòng một người con gái chủ nhà bên láng giềng, có làm bài “Thần nữ phú”.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm
Tràng Khanh.
(Truyện Kiều).
TỐNG PHỤ
TỪ 送 婦 詞
Lời tống biệt vợ.
Bộ Vân Khê Hữu Nghị chép: Dương Chí Kiên lâm cảnh nghèo, vợ anh xin ra đi và đòi cho ít chữ. Chí Kiên bèn làm bài thi tống biệt đưa cho rằng: Kim thoa nhiệm ý liêu tân phát, Loan kính tùng tha biệt hoạ my. Thử khứ tiện đồng hành lộ khách, Tương phùng tức thị hạ sơn thì 金 釵 任 意 撩 新 髮, 鸞 鏡 從 他 別 畫 眉. 此 去 便 同 行 路 客, 相 逢 即 是 下 山 時. Tạm dịch: Tự ý thoa vàng cài tóc mới, Gương loan người khác vẽ mày cho. Giờ đây như khách qua đường lạ, Có gặp nhau thì ở kiếp sau.
Vợ Chí Kiên bèn đem bài thi này đến quan Châu Thứ sử là ông Nhan Lỗ Công xin đi đến nơi khác. Ông Lỗ Công xử người vợ phải chịu đòn hai mươi roi, rồi tự ý cải giá. Còn Chí Kiên thì được cấp thóc, lụa theo lương Tú tài, luôn đưa vào sổ quân. Những người nghe chuyện, không ai chẳng khen phục.
TỐNG
SINH 宋 生
Tức là Tống Ngọc, một danh sĩ nước Sở, đời Chiến Quốc, có tiếng là người đẹp trai, lãng mạn, lại giỏi về từ phú. Ông có làm bài “Thần nữ phú”.
Xem: Tống Ngọc.
Tràng Khanh tư ả Văn Quân,
Tống sinh dùng gái chủ nhân cũng vì.
(Truyện Trinh Thử).
TỐNG
TUYÊN NHƠN 宋 宣 仁
Bà Tuyên Nhơn là Thái Hậu, họ Cao, vợ vua Anh Tông nhà Tống. Khi vua Tống Thần Tông băng, con là Triết Tông lên nối ngôi mới có mười tuổi. Bà Tuyên Nhơn Thái Hậu thay cháu thính chính, bãi bỏ tân pháp và bè đảng của Vương An Thạch, dùng Tư Mã Quang làm Tể tướng, trong nước được thái bình nên sử khen là “Nữ trung Nghiêu Thuấn 女 中 堯 舜” (Vua Nghiêu Thuấn của phái nữ lưu).
Nọ như Tống Tuyên Nhơn,
sử còn ngợi nữ trung Nghiêu, Thuấn.
(Sãi Vãi).
TỔNG
GIÁC 總 角
Tổng giác là thâu tóm lại thành như hình cái sừng, tức chỉ buộc tóc, búi tóc.
Thiên Nội Tắc trong Kinh Lễ nói: Con trai con gái chưa đến tuổi đội mũ, cài trâm thì vấn tóc và kết lại như hai cái sừng hai bên.
Tổng giác chỉ con nít còn nhỏ.
Sinh chàng Thiện Sĩ là trai,
Qua vòng tổng giác mới
ngoài gia quan.
(Quan Âm Thị Kính).
TƠ DUYÊN
Tơ duyên là sợi dây tơ hồng kết chặt tình duyên giữa đôi trai gái.
Phong trần chịu đã ê chề,
Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang.
(Truyện Kiều).
Dầu sống sót cũng đành gọi thác,
Vui chi còn man mác tơ duyên.
(Kinh Thế Đạo).
Thấy cơn tử biệt não nùng,
Hương thề tắt ngọn lạnh lùng tơ
duyên.
(Kinh Thế Đạo).
Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,
Một tấm tơ duyên đứt đoạn
gìn.
(Đạo Sử).
Bởi chàng phụ tấm tình chung,
Bởi tơ duyên cũ, tơ hồng hết
xe.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đừng ỷ thế cậy tài dụng sức,
Rối tơ duyên toan bứt cho
rồi.
(Phương Tu Đại Đạo).
TƠ ĐÀO
Tơ đào là sợi dây tơ màu hồng đào, cùng nghĩa với tơ hồng, chỉ việc xe duyên vợ chồng.
Xem: Tơ hồng.
Chút thân yếu liễu tơ đào,
Rớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi.
(Truyện Kiều).
Tơ đào nghĩ những bao giờ,
Nhân duyên sớm định về nhà họ Mai.
(Nhị Độ Mai).
TƠ ĐỒNG
Tơ:
Dây tơ, tức đay đàn. Đồng: Gỗ ngô đồng làm thành cây đàn.
Tơ đồng tức là cây đàn, có dây tơ và gỗ ngô đồng làm đàn.
Cùng chung một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
(Truyện Kiều).
Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt,
Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TƠ HỒNG
Tơ hồng bởi chữ “Xích thằng 赤 繩” là dây tơ màu đỏ thắm.
Lấy tích Vi Cố gặp một ông già ngồi dưới trăng, dùng sợi tơ hồng để buộc hai người nam nữ có duyên nợ với nhau thành vợ chồng, gọi là Nguyệt Lão xe tơ.
Do vậy, chữ “Tơ hồng” dùng để chỉ sự kết duyên đôi lứa với nhau.
Xem: Xích thằng.
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Con dầu bước đặng thang mây,
Dưới chân đã sẵn một dây tơ hồng.
(Lục Vân Tiên).
Bởi chàng phụ tấm tình chung,
Bởi tơ duyên cũ, tơ hồng hết
xe.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TƠ LIỄU
Tơ:
Còn non mơn mởn. Liễu: Cây liễu ví với người con gái mỏng mành, yểu điệu.
Tơ liễu là cây liễu xanh non mơn mởn, ví với người con gái vừa tuổi dậy thì mười lăm, mười sáu tuổi có thân hình thướt tha, mềm mại.
Phất phơ tơ liễu buông
rèm,
Nửa sân lưu lệ bóng thiềm xế ngang.
(Hoa Tiên Truyện).
Thướt tha tơ liễu buông
rèm,
Trà non uốn điệu, dương mềm khoe tươi,
(Mai Đình Mộng Ký).
TƠ LOAN
Tơ:
Dây đàn bằng tơ. Loan: Chất keo làm bằng máu chim loan. Ngày xưa người ta dùng
keo bằng máu chim loan để nối dây đàn bằng tơ khi dây đàn bị đứt.
Tơ loan là chỉ dây đàn, nói vợ chồng hoà hợp.
Thử từ nết khi chung lúc chạ,
Gióng từ hơi hòa nhã tơ loan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TƠ LÒNG
Tơ lòng tức là lòng yêu thương như những sợi dây tơ ràng buộc, vấn vít lấy với nhau.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng!
(Truyện Kiều).
TƠ MÀNH
Tơ mành tức là sợi tơ mỏng mành, nhưng kết chặt mối tình của hai người không sao gỡ được.
Cho hay là thói hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho
xong.
(Truyện Kiều).
TƠ TÌNH
Tức là dây tơ buộc chặt mối duyên tình.
Do điển Vi Cố gặp ông già ngồi dưới trăng, tức
Nguyệt lão dùng sợi tơ hồng buộc người có duyên nợ với nhau thành vợ chồng.
Xem: Tơ hồng.
Lựa mối tơ tình năm ngón dạo,
Dẹp lò lửa dục một lời thưa.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
Chừ toan bứt mảnh tơ tình,
Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
TƠ TÓC
1.- Cọng tơ sợi tóc là vật bé nên chữ “Tơ tóc” dùng để chỉ việc nhỏ nhít.
Miếng khi đói gói khi no,
Của tuy tơ tóc nghĩa so
ngàn trùng.
(Gia Huấn Ca).
2.- Do thành ngữ “xe tơ kết tóc”, chỉ duyên nợ kết
nghĩa nên vợ chồng.
Xe tơ: Buộc sợi tơ vào chơn hai người kết nên vợ chồng. Lấy tích
Vi Cố đi chơi đêm gặp một ông già ngồi dưới bóng cây, có cầm một quyển sách nơi
tay và có túi đựng chỉ đỏ. Vi Cố hỏi, thì Ông già ấy đáp: Ta là Nguyệt Lão, sổ
này dùng để biên nhơn duyên của người đời, còn chỉ đỏ này để buộc chơn cho nên
vợ nên chồng. Vi Cố mới hỏi nữa: Còn nhơn duyên của tôi có biên vô sổ này
không? Liền đó Ông dở sổ ra xem, rồi nói: Số nhà ngươi sau này lấy con gái mụ
ăn mày, đang ngồi xin ăn trước chợ đó. Vi Cố cho đó là nhục, bèn xách dao ra
chợ chém đứa con nhỏ một lát dao, máu chảy dầm dề. Chàng tưởng con bé đã chết,
bèn trốn đi ở xứ khác.
Nhưng duyên Trời đã định, chạy đâu cho khỏi. Sau Vi Cố tưởng rằng lấy được con quan, không dè chừng hỏi rõ lại thì cũng là con của mụ ăn mày, trước kia nhờ ông quan tại triều, đi tuần vừa tới đó, gặp đứa bé do mụ ăn mày bỏ, đem về nuôi làm con, sau gả cho Vi Cố.
Vi Cố mới biết rằng duyên vợ chồng, Nguyệt Lão đã
xe tơ thì không làm sao trốn đâu cho khỏi đặng.
Kết tóc: Do chữ kết phát. Theo tục lệ đời nhà Hớn, trong đêm hợp
cẩn, vợ chồng mới cưới thường kết tóc cho nhau. Do vậy, Ông Tô Thức viết hai
câu: Kết phát vi phu phụ, ân nghĩa lưỡng bất nghi 結 髮 為 夫 婦, 恩 義 兩 不 宜:
Kết tóc làm chồng vợ, ơn nghĩa trọn đôi đường.
Vợ chồng tơ tóc kết duyên,
Dầu đi đâu vắng, bách niên đạo thường.
(Huấn Nữ Ca).
Tưởng tơ tóc cùng nhau trọn
đạo,
Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.
(Kinh Thế Đạo).
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
(Đạo Sử).
Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,
Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đạo chồng vợ muốn bền tơ tóc,
Gương tề mi khá học Mạnh Quang.
(Phương Tu Đại Đạo).
TƠ THẮM
Bởi chữ “Xích thằng 赤 繩” là sợi dây tơ thắm.
Lấy tích Nguyệt Lão xe tơ, tức là một ông già ngồi dưới trăng, dùng sợi tơ hồng (Tơ thắm) để buộc chân hai người nam nữ có duyên nợ với nhau thành vợ chồng.
Xem: Xích thằng.
Lưng trời nói những đâu đâu,
Những tơ nào thắm,
những cầu nào xanh.
(Hoa Tiên Truyện).
TƠ
TRĂNG
Bởi chữ “Hồng ty nguyệt lão 紅 絲 月 老” tức là sợi dây tơ của bà nguyệt xe duyên, kết nên vợ chồng.
Xem: Nguyệt lão.
Nhân duyên đã định ngày xưa,
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
TƠ TRẮNG
HAI MÀU
Tức là tơ trắng thay màu khiến Mặc Địch phải than. Do truyện Mặc Địch, một triết gia đời Chiến Quốc, thấy tơ màu trắng thì than, vì tơ đó có thể bị nhuộm màu đen hay màu đỏ, ý nói con người có thể bị thay đổi, biến hoá không còn giữ được bản chất nguyên thuỷ nữa.
Sách Trung Văn có câu: Mặc Tử kiến luyện
ty nhi khấp chi, vị kỳ khả dĩ hoàng, khả dĩ hắc 默 子 見 練 絲 而 泣, 為 其 可 已 黃, 可 以 黑,
nghĩa là Mặc Tử thấy tơ màu trắng nên khóc, vì tơ đó có thể nhuộm màu vàng, hay
màu đen.
Đường đi ba ngã người Châu khóc;
Tơ trắng hai màu gã Địch than,
(Dương Từ Hà Mậu).
TƠ TRÚC
Tơ là sợi dây đàn. Trúc là ống sáo.
Tơ trúc nói chung là cây đàn và ống sáo.
Trong quân mở tiệc hạ công,
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
(Truyện Kiều).
Tống thần những mặt ngẩn ngơ,
Xôn xao tơ trúc thờ ơ bác
đồng.
(Truyện Phan Trần).
TỜ HOA
Tờ hoa tức là “Hoa tiên 花 戔”, một loại giấy có vẽ hình bông hoa, người ta dùng để viết thư, ghi chép thơ văn hay làm tờ hôn thư…
Mái ngoài họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.
(Truyện Kiều).
TỜ MÂY
Tờ mây là tờ giấy có trang trí hình mây bay, dùng để ghi chép lời thề nguyền của đôi trai gái.
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
(Truyện Kiều).
Biên lời đấy chép lời đây,
Bút hoa dẫu vạn tờ mây dẫu
ngàn.
(Truyện Phan Trần).
TU KIỀU
BỒI LỘ 修 橋 培 路
Tu kiều:
Sửa sang cầu kiều. Bồi lộ: Đắp vá đường lộ cho bằng phẳng.
Tu kiều bồi lộ là sửa cầu đắp lộ. Đây là một việc làm lành, tạo nhiều công đức mà mọi người ai cũng có thể làm được.
Tu kiều bồi lộ phóng sanh,
Thi ân cầm thú, để dành kiếp sau.
(Tội Vợ Vợ Chịu).
TU LA 修 羅
Hay “A tu la 阿 修 羅” tức là cõi thần A tu la, một trong sáu nẻo luân hồi, gọi là Lục đạo trong đạo Phật.
Danh từ A tu la trước nhất dùng để chỉ các hạng
thần linh thuộc khối ác trược, tức là thuộc quỷ vị. A tu la còn chỉ thế giới
của cuồng bạo, hiếu thắng, hận thù. A tu là ám chỉ một tinh thần vị kỷ trong
mỗi hành động, chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình. Chính tinh thần này sẽ đưa đến
những mâu thuẫn, cãi vã, tranh chấp và chiến tranh giữa con người.
Hoặc đọa địa ngục, Tu la,
Làm thân ngạ quỉ cùng là bàng sinh.
(Hứa Sử Tân Truyện).
TU MY 鬚 眉
Tu:
Râu. My: Lông mày.
Tu my là râu mày, chỉ giới đàn ông.
Đã là nam tử tu my,
Vào vòng công nghiệp, ấy thì có vua.
(Nhị Độ Mai).
Tình duyên đến lúc phân ly,
Giang sơn bảng lảng tu my thẹn
thùng.
(Thơ Tản Đà).
Dở dang thay cái tu my.
Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng quyền.
(Thơ Bùi Kỷ).
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu my.
(Kinh Sám Hối).
TU NHÂN
TÍCH ĐỨC 修 仁 積 德
Tu nhân:
Sửa sang để làm điều nhân. Tích đức: Chứa đức.
Tu nhân tích đức là sửa việc nhân, tức trau giồi lòng thương người, chứa việc công đức, nghĩa là làm điều lành để chứa phước đức.
Xem: Tích đức tu nhân.
Có người ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.
(Lục Vân Tiên).
TU
NHƯƠNG 修 攘
Tu:
Sửa sang. Nhương: Xua đuổi, trừ dẹp.
Bởi chữ: Nội tu chính sự, ngoại nhương di địch 內 修 政 事, 外 攘 夷 狄, nghĩa là trong sửa việc chính trị, ngoài đuổi rợ di địch. Đây nói về nhiệm vụ của vị trọng thần giúp cho nhà vua.
Bệ rồng gang tấc mặt trời,
Tâu lời trung nghĩa, dâng bài tu
nhương.
(Truyện Phan Trần).
TU TỀ 修 齊
Bởi chữ “Tu thân, tề gia 修 身 齊 家”.
Tu:
Sửa sang. Tề: Sắp đặt mọi việc trong gia đình.
Tu tề có nghĩa là sửa mình và sắp đặt việc nhà. Do câu trong sách Đại Học: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ 修 身 齊 家 治 國 平 天 下, nghĩa là sửa mình, sắp đặt việc nhà, trị nước, sau đó mới bình thiên hạ.
Tu tề thì sửa vẹn gia đình,
Cái đạo nhơn luân chớ dể khinh.
(Đạo Sử).
Vững chặt nhà làng con cháu thảo,
Tu thân thường hiệp với tu tề.
(Đạo Sử).
TU THÂN 修 身
Tu Thân là sửa chữa bản thân mình cho hoàn toàn theo đạo đức.
Tu thân là điều rất cần thiết trong Nho giáo, nên
sách Đại Học có viết: Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu
thân vi bổn 自 天 子 以 至 於 庶 民, 一 是 皆 以 修 身 為 本,
nghĩa là từ vua cho đến thứ dân, ai cũng phải lấy sự tu thân làm gốc.
Ấy là những truyện gần gần,
Tu thân mà được, độ thân lắm người.
(Quan Âm Thị Kính).
Huệ ân muốn hưởng noi đường đạo,
Hối cải tu thân phải giữ lời.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Vững chặt nhà làng con cháu thảo,
Tu thân thường hiệp với tu tề.
(Đạo Sử).
Biết tu thân ắt cải vận thời,
Cơ giải kiết lẽ trời đã định.
(Phương Tu Đại Đạo).
TÚ CÁC 繡 閣
Tú:
Thêu. Các: Cái gác.
Tú các là gác thêu hay buồng thêu, chỉ gác , buồng của đàn bà con gái ở.
Hai người như thể một người,
Ngang tay tú các sánh vai
lan phòng.
(Nhị Độ Mai).
TÚ CÁC
HƯƠNG KHUÊ 繡 閣 香 閨
Tú các:
Gác có treo màn thêu. Hương khuê: Phòng có mùi hương thơm.
Tú các hương khuê chỉ nơi ở của người đàn bà, con gái quý phái, sống trong cảnh gác có màn thêu, phòng có mùi hương thơm.
Xót người tú các hương
khuê,
Mối tình ly biệt, đường đi phong trần.
(Nhị Độ Mai).
TÚ CẨM
THIÊM HOA 繡 錦 添 花
Tú cẩm:
Gấm thêu. Thiêm hoa: Thêm bông hoa.
Tú cẩm thiêm hoa nghĩa là gấm thêu đã đẹp đẽ rồi, lại còn vẽ thêm bông hoa vào nữa, càng đẹp đẽ hơn.
Tú cẩm thiêm hoa đợi vẻ màu,
Xem sau nhắm trước hỡi dường bao.
(Đạo Sử).
TÚ CẦU 繡 球
Quả cầu thêu.
Ngày xưa, người con gái con nhà quan quyền hay phú quý chọn hôn nhân thường hay ngồi trên lầu cao gieo quả tú cầu cho những chàng trai đứng phía dưới. chàng trai nào nhận được quả cầu, cô gái sẽ kết duyên với người đó.
Đây là một trong những lối chọn lựa hôn nhân của những người con gái quyền quý thời xua.
Ngư bà mới bảo Ngọc Kiều,
Mượn điềm bói cá thay gieo tú
cầu.
(Nhị Độ Mai).
TÚ KHẨU
CẨM TÂM 繡 口 錦 心
Tú khẩu:
Miệng nói như thêu. Cẩm tâm: Lòng như gấm vóc.
Tú khẩu cẩm tâm là lòng gấm miệng thêu, dùng để nói về tài văn chương, có ý tưởng đẹp đẽ, lời lẽ văn hoa như thêu. Gấm dệt vóc.
Xem thơ nức nở khen thầm,
Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác
thường.
(Truyện Kiều).
Ngự khen tú khẩu cẩm tâm,
Mến riêng vì sắc, yêu thầm vì thơ.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Một phen hội thí đua tài,
Giọng văn tú khẩu, hơi
bài cẩm tâm.
(Nhị Độ Mai).
TÚ MẠC
KHIÊN TY 繡 幕 牽 絲
Màn thêu dắt chỉ tơ.
Đường Thư chép: Quách Nguyên Chẩn làm quan Đô đốc
Kinh Châu, phong tư đẹp đẽ. Quan Tể tướng là Trương Gia Chấn, muốn nhận làm rể.
Ông nói: Ta có năm đứa con gái, mỗi đứa cầm một sợi chỉ tơ khác màu nhau, cùng
đứng sau bức màn thêu, ngươi lựa trong năm sợi tơ kéo lấy một, được đứa nào thì
đứa đó là vợ ngươi. Nguyên Chẩn chọn một sợi tơ hồng, bèn được người con gái
thứ ba có sắc đẹp và phong tư cao nhã.
TÙ ĐỒ 囚 徒
Tù: Giam giữ. Đồ: Người bị bắt giữ và bị đưa đi làm việc
nặng.
Tù đồ tức là chỉ người bị bắt giam và đưa đi lao động nặng nề. Đồng nghĩa với tù đày.
Mới qua là kẻ văn Nho,
Mà nay ra dạng tù đồ bởi
đâu.
(Tự Tình Khúc).
TỤ TÁN 聚 散
Tụ:
Sự nhóm họp. Tán: Sự phân chia.
Tụ tán là nói lúc sum họp lúc chia ly.
Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy,
Kể sum vầy đã mấy năm nay?
(Ai Tư Vãn).
TUẤN KIỆT 俊 傑
Tuấn:
Anh tuấn. Kiệt: hào kiệt.
Tuấn kiệt là người anh hùng hào kiệt, tài giỏi và xuất sắc hơn người.
Buồn nỗi nhân tài còn ít ỏi,
Tuấn kiệt còn vắng thưa.
(Bình Ngô Đại Cáo).
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách Chương đài.
(Đạo Sử).
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Ðến hồi búa Việt giục cờ Mao.
(Đạo Sử).
Phải sao cho đáng mặt hùng anh,
Phải sao đặng nên danh trang tuấn
kiệt.
(Phương Tu Đại Đạo).
TUẦN DU 巡 遊
Tuần:
Đi các nơi để xem xét. Du: Dạo chơi.
Tuần du là đi chơi nơi nầy đến nơi khác.
Đoạn thôi xa giá ra về,
Tuần du phút đã gần kề Hàn Giang.
(Lục Vân Tiên).
Dao Trung yên mã chỉnh tu,
Vưng lịnh lão tuần du biên
địa.
(Nhạc Hoa Linh).
TUẦN
HOÀN 循 環
Hay “Tuần huờn”.
Tuần:
Thuận theo. Hoàn: Xoay tròn.
Tuần hoàn tức là nói về những sự chuyển vận theo vòng tròn, như sự tuần hoàn của vũ trụ, sự tuần hoàn của máu huyết…
Tuần hoàn lẽ ấy chẳng xa,
Chớ đem nông nỗi mà ngờ cao xanh.
(Nhị Độ Mai).
Hẳn rằng thiên địa tuần hoàn,
Mà cho chàng lại trôi ngang vào chài.
(Nhị Độ Mai).
Rồi cuộc tuần hườn sau mới
rõ,
Rõ rồi hối hận việc thôi rồi.
(Đạo Sử).
Chữ rằng Thiên Ðịa có tuần hườn,
Thiệt thiệt rồi ra có hơn hơn.
(Đạo Sử).
TUẦN
LƯƠNG 循 良
Tuần:
Y theo. Lương: Tốt lành.
Quan lại biết giữ theo pháp luật để thi hành chính sách tốt đối với nhân dân, gọi là “Tuần lương”.
Trải Minh, Chương đến Hiếu, An,
Tuần lương đã ít, tham tàn thiếu đâu.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TUẦN PHỦ 巡 撫
Tuần:
Đi các nơi để xem xét. Phủ: Vỗ về, an ủi.
Theo quan chế ngày xưa thì Tuần phủ là vị quan chức thay vua đi tuần thú để phủ an dân chúng các địa phương. Tuần phủ còn là một chức quan cầm đầu một tỉnh.
Nghe quan Tuần phủ đến
nơi,
Hầu Loan mình đã bồ hôi ướt nhè,
(Nhị Độ Mai).
TUẦN
TUYÊN 巡 宣
Tuần:
Đi các nơi để xem xét. Tuyên: Bày tỏ cho mọi người cùng biết.
Tuần tuyên là một chức quan thay cho vua đem những điều hay để giáo hoá dân.
Pháp Thừa cũng chức Tuần tuyên,
Những chăm việc sách để quyền lại ty.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TUẦN
THÚ 巡 狩
Tuần:
Đi các nơi xem xét. Thú: Như thủ là giữ.
Tuần thú là vua đi xem xét các nơi của chư hầu đóng giữ.
Mạnh Tử có câu: Thiên tử thích chư hầu
viết tuần thú. Tuần thú giả, tuần sở thủ dã 天 子 適 諸 侯 曰 巡 狩. 巡 狩 者 巡 所 守 也,
nghĩa là vua đến chỗ chư hầu gọi là tuần thú. Tuần thú là tuần nơi giữ gìn vậy.
Lại ban tuần thú bốn phương,
Ấn vàng một quả, kiếm vàng một thanh.
(Nhị Độ Mai).
TUẪN NẠN 殉 難
Tuẫn:
Liều chết vì một việc gì. Nạn: Tai nạn.
Người nào vì cứu nạn cho vua hay cho đất nước mà liều chết thì được gọi là “Tuẫn nạn”.
Trưng Vương em chị,
Tuẫn nạn một nhà.
Xưa nay trung nghĩa,
Tiếng lành đồn xa.
(Việt Sử Tứ Tự Ca).
TÚC
DUYÊN 夙 緣
Túc:
Sẵn có. Duyên: Mối dây liên lạc từ kiếp này sang kiếp khác.
Túc duyên là duyên đã định sẵn từ kiếp trước.
Chử đồng ẩn chốn bình sa,
Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên.
(Quốc Sử Diễn Ca).
TÚC
KHIÊN 夙 愆
Túc:
Vốn sẵn có. Khiên: Tội lỗi.
Túc khiên là tội lỗi sẵn có, hay nói cách khác, tội lỗi từ kiếp trước.
Thửa công đức ấy ai bằng?
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.
(Truyện Kiều).
TÚC
NHÂN 夙 因
Túc:
Vốn sẵn có từ trước. Nhân: Nguyên nhân.
Túc nhân là cái nhân duyên lưu lại từ kiếp trước, hay nói cách khác là nhân duyên đã định sẵn.
Vả suy thần mộng mấy lời,
Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
(Truyện Kiều).
TÚC THỰC
TÚC Y 足 食 足 衣
Hoặc “Túc y túc thực”.
Túc thực:
Đủ ăn. Túc y: Đủ mặc.
Túc thực túc y là đủ ăn đủ mặc, có nghĩa là đời sống được no ấm.
Sách Cảnh Hành mới nói: Tri túc thường túc, chung thân bất nhục, tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ; tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư 知 足 常 足, 終 身 不 辱, 知 止 常 止, 終 身 不 恥; 比 上 不 足, 比 下 有 餘, nghĩa là biết đủ là đủ, suốt cuộc đời không bị nhục; biết dừng là dừng, rốt đời không thẹn; so với trên thì không đủ, sánh với dưới thì có dư.
1.- Túc thực túc y:
Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức.
Phước ấm no túc thực túc y.
(Kinh Sám hối).
2. Túc y túc thực:
Túc y túc thực khỏi lo chi,
Tu tánh tu tâm khá kịp thì.
(Đạo Sử).
TÚC
TRÁI 夙 債
Túc:
Sẵn có. Trái: Nợ.
Túc trái là nợ sẵn có, tức từ kiếp trước.
Hẳn túc trái làm sao đây tá,
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Tiền nhân túc trái sao
đây?
Không dưng người biết chốn này là đâu.
(Mai Đình Mộng Ký)
TÚC
TRÁI TIỀN NHÂN 夙 債 前 因
Túc trái:
Nợ từ kiếp trước. Tiền nhân: Căn nguyên vốn có sẵn.
Túc trái tiền nhân là món nợ từ trước và căn nguyên sẵn có. Hay nói cách khác là nợ cũ duyên xưa.
Thưa rằng: Túc trái tiền nhân,
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
TÚC
TRÁI TIỀN OAN 夙 債 前 冤
Túc trái:
Nợ từ kiếp trước. Tiền oan: Oan nghiệt cũ, hay oan nghiệt từ kiếp trước.
Túc trái tiền oan tức là oan trái từ trước, nghĩa là nợ nần và oán thù từ kiếp trước, kiếp này phải đền trả.
Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
(Truyện Kiều).
TỤC
ĐIÊU 續 貂
Tục:
Nối tiếp. Điêu: Một loại chồn có bộ da và lông rất quý. Lông nó màu
vàng đen hoặc pha tím, đuôi dài nhiều lông.
Tục điêu có nghĩa là nối điêu, ý chỉ sự tiếp tục.
Ngày xưa, các quan Ngự sử bên Trung Hoa dùng lông đuôi con điêu để trang sức trên chóp mũ. Cuối đời Tấn, chức quan Ngự sử được phong quá nhiều, mà người được phong lại kém học thức, không xứng đáng với chức phẩm, trong khi đó đuôi con điêu không đủ để làm chóp mũ nữa, nên có người nói mĩa mai rằng: Điêu bất túc, cẩu vĩ tục 貂 不 足, 狗 尾 續, nghĩa là đuôi con điêu không đủ làm mũ, thì lấy đuôi chó mà thêm vào.
Trong thơ ca, người ta thường dùng hai chữ “Tục điêu” hay “Nối điêu” để nói về hoạ thơ lại, một cách khiêm nhường.
Xem: Nối điêu.
Tục điêu gắng bộ vần tiên,
Liễu trì trước lá hoa tiên thế nào?