Friday, September 18, 2020

Điển tích - B

 

B

BA CÕI

Do chữ Tam Giới của nhà Phật, tức là chỉ ba cõi giới. Theo Phật Giáo, ba cõi giới đó là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

Theo tín ngưỡng dân gian thì cũng có ba cõi giới, đó là Thượng giới, Trung giới và Hạ giới.

Xem: Tam Giới.



Đủ đồ thập cúng sẵn bày,

Lòng đi ba cõi hương bay chín trời,

(Quan Âm Thị Kính).



Cộng ba cõi sáu phương tu tập,

Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi.

(Phật Nói Vu Lan).



BA ĐÀO 

Ba: Sóng nhỏ. Đào: Sóng lớn.

Ba đào là sóng nhỏ và sóng lớn. Nghĩa bóng: Chỉ cảnh cực khổ, vất vả.



Gặp cơn bình địa ba đào,

Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.

(Truyện Kiều).



Rõ nỗi nhà thung gìn đức cả,

Nên toan tiếp trẻ khỏi ba đào.

(Đạo Sử).



BA ĐIỀU SỢ

Do chữ “Tam uý  ” là ba điều Đức Khổng Tử dạy người quân tử phải biết sợ.

Luận Ngữ viết: Quân tử hữu tam uý: Uý thiên mệnh, uý đại nhân, thánh nhân chi ngôn  : , , , nghĩa là người quân tử có ba điều kính sợ: Kính sợ mạng trời, kính sợ bậc đại nhân, tức là người có chức phận lớn, đức hạnh cao, kính sợ lời dạy của Thánh nhân.

Dương Quan Tây còn sợ có bốn hay;

Khổng Phu tử những dạy ba điều sợ.

(Sãi Vãi).



BA ĐÔNG

Có hai nghĩa:

1.- Chỉ ba tháng của mùa Đông. Sách Hán Thư có câu: Niên thập tam học thư, tam đông văn sử túc dụng  , , nghĩa là năm mười ba tuổi đi học, trong ba đông mà văn sử đủ dùng.

Vận bốn mùa mà nay đã có công,

Đêm dài bởi một thuở ba đông.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Thoi đưa nấn ná ba đông,

Trải phần đông quí, sang chừng xuân qua.

(Nhị Độ Mai).

2.- Chỉ ba mùa đông, tức là ba năm, nghĩa giống như chữ ba xuân, ba thu.

Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,

Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy.

(Truyện Kiều).



Thành sầu muôn trượng xây nên đợt,

Bể thảm ba đông chất chứa đầy.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



BA ĐƯỜNG CÚC

Lấy nghĩa từ bài “Qui Khứ Lai Từ  ”.

Đào Tiềm, khi còn làm quan tại huyện Bành Trạch, được chẳng bao lâu, ông bèn xin về quê ở ẩn, làm bài từ nầy để tỏ chí mình, có câu: Tam kính tựu hoang tùng cúc do tồn  , , nghĩa là hãy còn ba đường tùng cúc đã bị bỏ hoang ở nơi quê hương.

Người đời sau dùng chữ “Ba đường cúc” để chỉ việc ẩn cư, hay cáo quan về làng.



Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc,

Ngày tháng tiêu ma một bát chè.

(Quốc Âm Thi Tập).



BA GIỀNG

Bởi chữ “Tam cương  ” tức ba giềng mối quan hệ của đạo làm người, đó là: Đạo vua tôi, đạo cha con, đạo chồng vợ.

Xem: Tam cương.

Ba giềng chẳng đặng một phần,

Như vầy cũng tiếng là thân con người.

(Dương Từ Hà Mậu).



Chúa tôi cá nước duyên lành,

Ba giềng đạo cả nỡ đành phủi tay.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Tu tâm sửa tánh ăn năn,

Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.

(Kinh Sám Hối).



Ba giềng với năm hằng khá đoán,

Hư nên đừng xao lãng chí nam nhi.

(Phương Tu Đại Đạo).



BA LƯỢC SÁU THAO

Bởi chữ “Tam lược lục thao  ”.



Ba lược: Tức sách Tam lược do Hoàng Thạch Công soạn. Sách này theo Sử Ký chép, Hoàng Thạch Công đã trao cho Thương Lương ở cầu Hạ Bì.

Sáu thao: Tức Lục thao, tên cuốn sách của Thái Công Vọng , tức Lữ Vọng là hiệu Khương Thượng, tự là Tử Nha đời Châu Võ Vương soạn, chia thành Văn thao, Võ thao, 
Long thao, Hổ thao, Báo thao và Khuyển thao.

Ba lược sáu thao tức là lược thao dùng để chỉ người giỏi về mưu kế binh pháp.

Xem: Tam lược lục thao.



Văn đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngà khởi phụng đằng giao,

Võ thêm ba lược, sáu thao ai bì.

(Lục Vân Tiên).



BA MỐI

Tức là ba giềng mối trong đạo Nho dạy về sự quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ cư xử nhau cho có đạo lý. Xem: Ba giềng.



Năm hằng ba mối làm đầu,

Cội tùng nhánh bách mặc dầu đông tây.

(Tư Dung Vãn).



Ấy rằng quang nhạc khí hôn,

Năm giềng ba mối rối dồn như tơ.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Trai trung hiếu sửa trau ba mối,

Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng

(Kinh Sám Hối).



BA MƯƠI SÁU CHƯỚC

Ba mươi sáu chước chỉ chung các mưu chước trong phép cầm binh.

Theo Nam Sử, Đàn Đạo Tế lãnh chức Chinh Nam Đại Tướng Quân đem binh đánh Nguỵ, bị vây ở đất Hà Nam. Đạo Tế phải phá vòng vây, bỏ áo giáp mà chạy. Vương Kính Tắc mới nói rằng: Đàn Công tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách  , nghĩa là ba mươi sáu chước của Đàn Công, chạy là chước hay hơn cả.

Thừa cơ lẻn bước ra đi,

Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.

(Truyện Kiều).



Bàn thầm mọi lẽ thấp cao.

Ba mươi sáu chước chước nào là trên?

(Quan Âm Thị Kính).



BA NĂM BÚ MỚM

Bởi chữ “Tam niên nhũ bộ  ”, chỉ công lao nuôi nấng của người mẹ.

Khi còn mang thai thì chín tháng cưu mang, khi đã sinh con ra rồi, người mẹ còn phải lo ba năm cho bú mớm. Thật công lao khổ cực biết dường nào.

Ba năm bú mớm còn thơ,

Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào.

(Gia Huấn Ca).



BA NĂM NHŨ BỘ

Nhũ 
: Vú. Bộ : Cho bú.

Ba năm nhũ bộ là ba năm cho bú mớm, chỉ công lao nuôi nấng khó nhọc của người mẹ trong khoảng thời gian đứa con còn đang bú mớm.

Xem: Ba năm bú mớm.

Thương thay chín chữ cù lao,

Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.

(Lục Vân Tiên).



Ba năm nhũ bộ còn thơ,

Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào.

(Gia Huấn Ca).



BA NGÃ NGƯỜI CHU KHÓC

Tức đường đi ba ngã khiến Dương Chu phải khóc.

Do chuyện người láng giềng của Dương Chu mất dê, phải nhờ nhiều người người đi tìm. Dương Chu hỏi tại sao chỉ có một con dê mất mà cần rất nhiều người đi tìm. Người mất dê nói vì đường lớn có nhiều rẽ , trong đường rẽ lại có nhiều đường rẽ nữa, không biết dê đi ngã nào. Dương Chu tự nhiên ôm mặt khóc. Câu chuyện này muốn nói: Gốc thì đồng, mà ngọn thì khác, vì vậy người đời cần thận trọng để khỏi nhầm.

Đường đi ba ngã người Chu khóc;

Tơ trắng hai màu gã Địch than,

(Dương Từ Hà Mậu).

BA QUÂN

Tức là ba đạo quân.

Ngày xưa, trong chế độ quân chủ, vua thì có sáu đạo quân (lục quân), chư hầu thì ba đạo quân (tam quân). Về sau, chữ “Ba quân” (Tam quân) dùng để gọi chung quân đội. Xem: Tam quân.

Ba quân chỉ ngọn cờ đào,

Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri.

(Truyện Kiều).



Trai khôn lấy vợ chợ đông,

Gái khôn lấy chồng giữa chốn ba quân.

(Ca Dao).



BA SINH

Hay “Ba sanh”.

Do chữ “Tam sinh  ” tức là duyên nợ ba kiếp sống gắn bó với nhau. Do câu trong Tình Sử: Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn  nghĩa là ba sinh đá ấy cựu tinh hồn, ý nói người có duyên số là có nợ nần với nhau thì viết lên hòn đá để kiếp này không trả được thì kiếp sau phải trả, đến ba kiếp mà không trả được mới thôi.

Xem: Tam sinh.

1.- Ba sinh:

Ba sinh đã nặng vì duyên,

Đem thân liễu yếu, kết nguyền đào thơ.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Ba sinh hương hoả,

Cuộc trần hoàn nào mấy mặt tri âm.

Một phút nhàn du,

nghĩa giao tất dễ quên lòng quyến cố.

(Văn Tế Thuốc Phiện).

2.- Ba sanh:

Ba sanh dầu toại thửa nguyền,

Họa trong giấc mộng giải phiền giao hoan.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Dầu phải nợ ba sanh hương lửa,

Kết bạn nhau phải lựa khách tâm đầu.

(Phương Tu Đại Đạo).



BA TẦNG CỬA VÕ

Bởi chữ “Võ môn tam cấp  ” là một khúc núi ở thượng du sông Trường Giang tỉnh Tứ Xuyên, bên Tàu. Ở dưới chân núi có vực sâu. Tương truyền đến mùa thu, cá đua nhau nhảy qua. Con nào nhảy khỏi thì hoá rồng, tức thi đậu.

Xem: Võ môn tâm cấp.

Công danh ai chẳng ước mơ,

Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua.

(Lục Vân Tiên).



BA TIÊU 

Ba tiêu tức là cây chuối.



Đêm phong vũ lạnh lùng có một,

Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Vườn thược dược thâu mòn cửa trúc,

Dãy ba tiêu chen chúc song hồ.

(Tự Tình Khúc).



BA THU

Ba mùa thu, tức ba năm. Do câu trong Kinh Thi: Nhất nhật bất kiến như tam thu hề  , tức là một ngày không trông thấy mặt lâu bằng ba mùa thu. Ý muốn nói thời quá dài lâu.



Sầu đong càng lắc càng đầy,

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.

(Truyện Kiều).



BA VẠN SÁU NGÀN NGÀY

Tức một trăm năm, do câu trong Kinh Lễ: “Nhân thọ dĩ bách niên vi kỳ  ” nghĩa là đời sống của con người lấy trăm tuổi làm kỳ hạn.

Trăm năm, tức “Ba vạn sáu ngàn ngày” dùng để chỉ một đời người.

Nhân sinh ba vạn sáu ngàn ngày,

Coi những tỉnh, lúc say nào có mấy?

(Thơ Tản Đà).



Có thân giữa chốn đọa đày,

Đếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn.

(Kinh Thế Đạo).



Đếm ba vạn sáu ngàn ngày,

Cõi Dương gian với cõi Tuyền đài gần nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BA XUÂN

1.- Ba tháng mùa xuân, chỉ tuổi thanh xuân.



Ở đời ai cậy ai giàu,

Ba xuân mòn hết ngàn vàng khôn mua.

(Lục Vân Tiên).

2.- Do chữ “Tam xuân huy  ”, nghĩa là ánh sáng của ba tháng xuân, do thơ của Mạnh Giao: Dục tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân huy  , nghĩa là muốn đem tấc lòng cỏ để báo đáp ánh sáng của ba tháng xuân. Ý muốn nói con cái báo đáp ơn cha mẹ.

Hột mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ báo đền ba xuân.

(Truyện Kiều).



BÁ DI 

Anh của Thúc Tề, con vua nước Cô Trúc, không chịu làm vua, nhường ngôi lại cho em, em cũng không muốn làm vua, rồi sau cả hai vào ẩn dật ở núi Thú Dương, hái rau vi ăn mà sống.



Xem: Di Tề.

Bá Di người rặng thanh là thú,

Nhan Tử ta xem ngặt ấy lề.

(Quốc Âm Thi Tập)

BÁ DU KHẤP TRƯỢNG 

Bá Du bị đòn lại khóc.

Sách Hán Thư chép: Ông Hàn Bá Du là người rất có hiếu, có lỗi, bị mẹ đánh đòn, bỗng nhiên khóc rống lên. Bà mẹ nói: Trước kia đánh ngươi, chỉ nhận chịu, nay do đâu mà lại khóc? Bá Du thưa: Trước kia đánh đau, biết mẹ còn khoẻ mạnh, nên không khóc. Nay đánh không đau, biết mẹ sức đã yếu, nên con khóc.

Sách Ấu Học Quỳnh Lâm viết: Bá Du khấp trượng, nhân mẫu chi lão  Nghĩa là Bá Du bị đòn lại khóc, do sức mẹ đã già yếu.



BÁ ĐẠO 

Tên tự của Đặng Du, người đời Tấn. Khi Đặng Du giữ chức Thái thú đất Hà Đông, gặp năm có biến, vợ con và một đứa cháu (Con người em) chạy trốn. Giữa đường gặp cướp phải chạy sang sông, ông liệu không thể nào bảo toàn cả con lẫn cháu, mới nói với vợ: Em ta chỉ có một con, không thể để tuyệt giống, còn chúng ta có thể sinh con khác, vậy ta phải bỏ con lại và đem cháu đi.

Về sau ông được cử làm Thái thú Ngô Quận, nổi tiếng thanh liêm, rất được lòng dân, nhưng vợ ông hết sinh con được.

Lão rằng: Cầu Phật đặng con,

Xưa ngươi Bá Đạo sao còn lo sau?

(Dương Từ Hà Mậu).



BÁ LÝ HỀ 

Bá Lý Hề là người đời Xuân Thu, tự là Tỉnh Bá, lúc nhỏ nghèo khó, trôi nổi, ba mươi ngoài tuổi mới cưới Đỗ Thị làm vợ, sinh được một người con trai.

Sinh trưởng và lớn lên tại nước Ngu, không có người tiến cử, lại chưa gặp được thời, ông định châu lưu thiên hạ đặng kiếm chỗ làm quan, nhưng thấy nhà nghèo, vợ con không nơi nương tựa, nên con chần chờ, chưa dám quyết định.

Đỗ Thị là một người đàn bà thông minh, hiền đức, biết được ý của chồng, mới khuyên ông nên ra đi, chớ vì bận bịu vợ con mà bỏ việc công danh, rồi bắt gà làm bữa tiệc đãi chồng trước khi lên đường.

Trước nhứt, Bá Lý Hề qua Tề, định ra mắt Tương công, nhưng không người tiến dẫn, túi lại không tiền nên đành đi xin ăn nơi đất Chất.

Lúc ấy Bá Lý Hề đã được bốn mươi tuổi, kết nghĩa anh em với một người hiền ở Chất là Kiển Thúc và tạm ngụ tại nhà người ấy, hằng ngày phải đi giữ trâu cho Thúc để kiếm tiền độ nhựt.

Sau nghe bên nhà Châu có vị công tử tên là Vương Tử Đồi, tánh thích trâu và hậu đãi cho những kẻ nuôi trâu, Bá Lý Hề mới xin Kiển Thúc và từ giã để qua tìm Vương Tử Đồi. Kiển Thúc thấy Hề gặp cảnh khó, sợ gặp người không đáng thờ mà theo, nên dặn rằng: Phàm người trượng phu không nên vì vật chất mà đầu người, nhưng lỡ theo mà sau bỏ đi là người bất trung, còn cứ theo hoài để bị nạn là người bất trí. Vì vậy, em nên thận trọng lấy mình, sau anh em sẽ gặp lại.

Kiển Thúc sau nầy có qua Châu để gặp Vương Tử Đồi và thăm Bá Lý Hề, ông thấy Đồi là một người có chí lớn nhưng tài kém, dưới trướng là một bọn sàm nịnh, nên cho Đồi không làm được chuyện lớn, bèn khuyên Hề bỏ ra đi.

Bá Lý Hề nhân xa nhà lâu, muốn về đất Ngu để thăm lại vợ con. Kiển Thúc đồng ý cũng theo Hề đi cho có bạn. Khi đến nhà mới hay Đỗ Thị vì làm không đủ ăn nên đã lưu lạc xứ nào không ai biết. Còn Kiển Thúc nhờ người bạn là Cung Chi Kỳ giới thiệu Bá Lý Hề với Ngu Công, Hề được phong làm chức Trung Đại Phu. Kiển Thúc muốn về Tống, nên đến từ giã Hề và dặn rằng: Ngu Công là người hẹp kiến thức, không đáng phò, nhưng thấy em cùng khốn đã lâu, muốn tìm chỗ nương thân tạm. Sau nầy, em muốn tìm anh thì đến làng Minh Lộc nước Tống sẽ gặp lại.

Ngu Công vì không nghe lời can của Cung Chi Kỳ để cho nước Tấn mượn đất qua đánh Quắc, thắng Quắc rồi Tấn lại đánh Ngu, Ngu đành mất nước. Bá Lý Hề tự cho mình là người không trí há lại để mất trung nữa sao, nên ông vẫn theo hầu Ngu Công bị bắt về với nước Tấn.

Ở Tấn, Bá Lý Hề có lần mắng vị Đại Phu là Chu Chi Kiều, khiến hắn sinh tâm hãm hại. Nhân Tấn Công gã con cho Tần, Chu Chi Kiều mới tiến dẫn Hề làm người đưa dâu về Tần. Giữa đường, thừa lúc vắng người Bá Lý Hề mới trốn, lén qua đầu Sở. Mới tới Uyển Thành ông bị bọn thợ săn bắt về để chăn trâu. Ở đây, Hề nuôi trâu mập lại sinh sãn nhiều, chẳng bao lâu chuyện thấu tai đến Sở Vương. Sở Vương cho đòi Bá Lý Hề về chăn ngựa cho nhà vua ở Nam Hải.

Trong thư Tấn Hầu báo có Bá Lý Hề đưa dâu sang Tần, nhưng Tần Mục Công không thấy đến bèn hỏi Công Tử Chấp. Chấp nói: Bá Lý Hề là người tế thế, chắc Hề trốn qua Sở vì nghe đâu vợ Hề cũng đang ở Sở.

Tần Mục Công sai người qua Sở dò la mới hay Bá Lý Hề chăn ngựa cho Sở Hầu ở Nam Hải, bèn sai Công Tôn Chi dùng hậu lễ rước về. Công Tôn Chi can rằng: Sở Vương để Bá Lý Hề chăn ngựa là không biết người, nếu sai đem hậu lễ rước thì hoá ra ta cho Sở biết Bá Lý Hề là người hiền, chắc gì Sở cho Bá Lý Hề đi. Chi bằng mượn cớ trốn đưa dâu để bắt tội Bá Lý Hề mà chuộc về mới được. Quả nhiên rước được Bá Lý Hề về Tần để phong làm Thừa Tướng.

Vợ Bá Lý Hề may vá không đủ sống phải ra đi trôi nổi bềnh bồng nhiều năm mới sang Tần thì hay được Bá Lý Hề làm Thừa Tướng. Đỗ Thị thừa dịp trong phủ cần người may vá, mới xin vào làm. Ngày kia, trong phủ có đờn ca, Đỗ Thị xin nhạc công theo lên nhà khách để đàn ca giúp.

Bài của Đỗ Thị ca trong phủ như sau:

Bá Lý Hề, ngũ dương bì, ức biệt thì, phanh phục thư, xuân huỳnh phỉ, xuy diễm di. Kim nhựt phú quý, vong ngã vi?



Bá Lý Hề, ngũ dương bì, phụ lương nhục, tử đề ky, phu văn tú, thê hoãn y, ta hồ phú quý, vong ngã vi?

Bá Lý Hề, ngũ dương bì, tích chi nhựt quân hành nhi ngã đề, kim chi nhựt, quân toạ nhi ngã ly, ta hồ phú quý, vong ngã vi?”.

Nghĩa là: Bá Lý Hề, năm bộ da dê! Nhớ ngày nào cùng nhau ly biệt: Mổ gà mái ấp, chẻ cánh cửa làm củi, thổi nồi cơm gạo vàng... Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao?

Bá Lý Hề, năm bộ da dê! Cha ăn thịt cá, con đói khóc dài, chồng mặc áo gấm, vợ giặt thuê... Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao?

Bá Lý Hề, năm bộ da dê! Nhớ ngày xưa, tiễn chàng ra đi, thiếp nước mắt chứa chan, tới bây giờ thấy chàng ngồi đó, thiếp đứt ruột

Bá Lý Hề nghe ca thốt nhiên sửng sốt, cho kêu người đàn bà lại gần mà hỏi, thì quả nhiên là vợ mình, bèn ôm nhau khóc rống lên. Từ đó Bá Lý Hề mới sum hợp được vợ con và cùng hưởng phú quý.

Lập thân đừng để danh lưu,

Cũng như Bá Lý Hề âu bạc tình.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÁ NHA 

Bá Nha là người rất giỏi đàn, làm quan đến chức Thượng Đại Phu, đời nhà Tống, kết bạn với Tử Kỳ là một tiều phu sành về âm luật, phân biệt được tiếng đàn. Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha cho rằng không còn người tri âm nữa, nên đạp vỡ cây đàn, thề không đàn nữa.

Xem: Bá Nha Tử Kỳ.

Non gặp Bá Nha non mở mặt,

Nước mừng Tô Tử nước khoe màu.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



BÁ NHA TỬ KỲ 

Bá Nha là người đời Tống, làm quan đến chức Thượng Đại Phu, biết đàn rất giỏi.

Một hôm đi sứ nước Sở về, gặp đêm trăng thanh gió mát, cập thuyền ở bờ sông Hàm Dương, cao hứng lấy đàn ra khảy. Lúc ấy có Tử Kỳ là một tiều phu đi đốn củi về, dừng chân lại nghe lén. Bá Nha đang đờn bỗng đứt dây, bèn sai người lên bờ bắt được Tử Kỳ đang đứng rình nghe. Chàng hỏi xuất xứ, Tử Kỳ trả lời: Nhân đi đốn củi, nghe tiếng đàn hay, đứng thưởng thức. Bá Nha không tin một gã tiều phu lại hiểu về âm nhạc, nên đàn một bản rồi hỏi Tử Kỳ biết được bản đó không. Tử Kỳ đáp: Bài Đức Khổng Tử thương tiếc Nhan Hồi.

Bá Nha bèn mời Tử Kỳ xuống thuyền, rồi nghĩ mình đang ở chốn non cao mà khảy một bản. Chung Tử Kỳ nghe xong khen rằng: Thật là hay. Chí của Ngài vọi vọi ở non cao!.Bá Nha lại khảy thêm một bản nữa, nghĩ mình đang ở trên nước. Chung Tử Kỳ lại khen: Hay! Chí của Ngài cuồn cuộn như nước chảy!.

Đêm đó hai người trò chuyện với nhau rất tâm đắc và trở thành đôi bạn tri âm. Bá Nha mời Tử Kỳ theo mình về Kinh đô sống chung, Tử Kỳ từ chối vì còn bà mẹ già đang phụng dưỡng, nhưng hẹn ngày nầy năm sau sẽ gặp tại nơi đây, rồi hai người biệt nhau.

Năm sau, Bá Nha đúng hẹn, nhưng đến nơi không thấy Tử Kỳ đâu, lấy đàn ra khảy, âm thanh nghe sầu buồn ai oán, Bá Nha sinh nghi, đợi sáng đi tìm mới hay Tử Kỳ đã chết rồi. Bá Nha đến mộ Tử Kỳ đàn một bài điếu hết sức bi thảm, rồi khóc mà đập vỡ cây đàn, thề không bao giờ đàn nữa.



Bá Nha đã gặp Tử Kỳ.

Bảo sơn ai nỡ trở về tay không.

(Truyện Trinh Thử).

BÁ NHẠC 

Bá Nhạc tức Tôn Dương, người đời Xuân Thu, rất giỏi nghề xem tướng ngựa. Ngày kia, ông đi qua nơi có ngựa kỳ ngựa ký đang kéo xe muối, trông thấy Bá Nhạc thì ngựa hý to lên. Bá Nhạc xuống xe nhìn ngựa mà khóc, rồi lại vỗ về, đám ngựa ra dáng hả hê, ngửa mặt lên trời mà hý, tiếng hý kêu thấu trời..



Mã Long tuấn gặp chàng Bá Nhạc,

Ngọc Kinh sơn gặp được Biện Hoà.

(Bần Nữ Thán).



Bà ngựa dầu lành nào Bá Nhạc,

Cái gươm nhẫn có thiếu Trương Hoa.

(Quốc Âm Thi Tập).



BÁ TỪNG HỔ MẶT.

Bá từng hổ mặt tức là Vương Bá từng hổ thẹn.

Đường Thư kỷ yếu chép: Vương Bá lúc hàn vi đến ở chùa Huệ Chiếu ở Dương châu, thường hay đi ăn chực, các sư lúc ấy ghét ông lắm. Sau 20 năm, Vương Bá làm quan ở Dương Châu, về thăm lại chùa, thấy những bài thơ của ông lúc trước viết trên tường được che bằng sa xanh.

Tín có thuở lượm tay Phiếu mẫu,

Bá từng phen hổ mặt Đồ lê.

(Thập Giới Cô Hồn).



BÁ TƯỚC 

: Một trong năm tước: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Tước: Một danh vị vua phong.

Bá tước là tước của vua phong cho các ông hoàng trong Hoàng tộc, hay những người có công trạng. Bá tước đứng vào hàng thứ ba, sau Công tước, Hầu tước và trước Tử tước, Nam tước.



Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,

Những là Bá Tước gánh đồ thơ.

(Đạo Sử).



BÁ VƯƠNG 

: Nước chư hầu có quyền thống lĩnh các nước nhỏ, ở dưới vương. Vương: Vua.

Bá vương nói về người làm nên sự nghiệp to lớn, hùng trưởng.

Xem: Vương bá.

Ba thu gánh vác sơn hà,

Một là báo phục, hai là bá vương.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Hồng châu Khúc Hạo hùng tài,

Gặp đời Thúc quý toan bài bá vương.

(Quốc Sử Diễn Ca).



BÀ KHƯƠNG CHỊU TỘI KHUYÊN CAN

Bà Khương Hậu lột trâm chịu tội lời khuyên can.

Liệt Nữ Truyện chép: Vua Tuyên Vương nhà Châu thường ngủ dậy rất trưa, bà Khương Hậu lột trâm, cởi hoa tai ngồi chờ tội ở cung Vĩnh Hạng (Vĩnh Hạng là một cái cung nhỏ hẹp ở phía sau cung Hoàng Hậu, dùng để giam cầm những Cung phi có tội). Rồi sai người tâu với vua rằng: Thiếp bất tài, làm cho quân vương vui sắc đẹp mà quên đức, sai lễ, thường dậy trưa. Tội ấy tại thiếp. Vua nói: Quả nhân không đức, chẳng phải tại phu nhân đâu. Vua từ đó bèn siêng năng việc cần chính. Người đời khen bà là bậc “Triết Hậu”.

Tuyên Vương trễ buổi triều mai,

Bà Khương chịu tội khéo lời khuyên can.

(Nữ Phạm Diễn Nghĩa).



BÁC ÁI 

Bác: Rộng rãi. Ái: Yêu thương.

Bác ái là tình yêu trải rộng không những đối với bà con thân thích mà với cả mọi người.



Lấy bác ái làm hòa vạn vật,

Đem thiện duyên xây nấc thang hồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÁC ĐỒNG

Bác 
: Súng đại bác. Đồng : Chất đồng.

Bác đồng là một loại súng lớn (Đại bác) được chế bằng kim loại đồng.



Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,

Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân.

(Truyện Kiều).



Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,

Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.

(Truyện Kiều).



BÁC LÃM 

Bác: Rộng rãi. Lãm: Xem.

Đồng nghĩa với triển lãm. Bác lãm có nghĩa là cuộc trưng bày thi hoạ, hay các sản phẩm hoặc các thứ đồ về công kỹ nghệ.



Tính cha đã thông minh mẫn đạt,

Con chắc là bác lãm quần thi.

(Phương Tu Đại Đạo).



BẠC MỆNH 

Bạc: Mỏng, mong manh. Mệnh: Số mệnh. Bạc mệnh là mạng số mỏng manh, bạc bẽo.

Tô Thức có nói rằng: Tự cổ giai nhân đa bạc mệnh  , nghĩa là tự nghìn xưa giai nhân đều bạc mệnh.



Đau đớn thay phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

(Truyện Kiều).



Chữ bạc mệnh ai ơi thấu với,

Câu đa đoan trời hỡi thấu chăng?

(Tự Tình Khúc).



Chừng cơn phấn lợt hương tàn,

Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BẠC NGHĨA 

Bạc: Mỏng. Nghĩa: Việc theo đường phải.

Bạc nghĩa tức là người ăn ở bạc bẽo, không giữ đạo lý, không có tình cảm. Như vợ chồng ăn ở với nhau không trọn đạo, gọi là bạc nghĩa.

Như chữ “Bạc tình  ”. Xem: Bạc tình.

Chàng đà bạc nghĩa thì thôi,

Dù chàng lên ngược về xuôi mặc lòng.

(Ca dao).



BẠC PHƯỚC 

Bạc: Mỏng, xấu. Phước: Những điều tốt đẹp do trời ban cho.

Bạc phước là phước mỏng hay xấu phước.



Hay đâu bạc phước vô duyên,

Phận làm đệ tử chẳng tuyền thủy chung.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Càng bạc phước càng than con dại,

Lo tảo tần mảy mạy dưỡng nuôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Hỏi đon thử lời nguyền buổi trước,

Gẫm thân nàng bạc phước như ta.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BẠC TÌNH 

Bạc: Mỏng. NghĩaTình: Lòng yêu mến.

Bạc tình cũng như chữ bạc nghĩa, tức là nói người ăn ở bạc bẽo, không có tình cảm.

Xem: Bạc nghĩa.

Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,

Một tay chôn biết mấy cành phù dung!

(Truyện Kiều).



BÁCH CHÂU 

Hay “Bá châu”, tức là thuyền bách, một chiếc thuyền làm bằng gỗ bách.

Do tích: Vệ Thái Tử tên là Trung Bá chết, vợ là bà Cộng Khương ở vậy thủ tiết thờ chồng, không chịu tái giá. Cha mẹ nàng ép gã, nhưng nàng chẳng chịu bèn làm bài thơ tựa là Bá Châu (Thuyền bách) để tự ví mình như chiếc thuyền bằng cây bá, linh đinh giữa dòng mà không sợ sóng gió.

Trong văn chương, người ta dùng Bá châu hay thuyền bách để chỉ những người quả phụ.



Quản bao một chiếc bách châu,

Linh đinh trong vực, mặc dầu gió mưa.

(Dương Từ Hà Mậu).



BÁCH CHIẾN 

Bách: Trăm. Chiến:Đánh trận.

Bách chiến tức là nói người đã từng đánh trăm trận thắng. Hoặc người mãnh tướng đánh hằng trăm trận.

Nghĩa rộng: Chỉ người quen việc chinh chiến.

Tin tôi nên quá nghe lời,

Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.

(Truyện Kiều).



BÁCH GIA CHƯ TỬ 

Bách gia: Trăm nhà. Chư Tử: Những bậc có đạo đức và học vấn thời xưa.

Bách gia chư tử là một thành ngữ dùng để gọi chung các bậc hiền triết thời cổ của Trung Hoa, như Tăng tử, Liệt tử, Mạnh tử…



Xem cho đến bách gia chư tử.

Bảy mươi hai pho sử đều thông.

(Gia Huấn Ca).



BÁCH LINH TƯƠNG HỰU 

Bách linh: Trăm đấng thần linh. Tương hựu: Phò trợ giúp đỡ.

Bách linh tương hựu là trăm đấng thần linh giúp rập, phù hộ cho.



Đế vương dương trợ âm phò,

Bách linh tương hựu lý cho phúc tường.

(Hạnh Thục Ca).



BÁCH NẠP 

Hay “Bá nạp  ”.

Bách nạp y là áo bá nạp, tức là một loại áo dùng nhiều miếng vải, đủ màu sắc kết lại với nhau mà thành để các nhà sư mặc.

Áo bá nạp ngụ ý chiếc áo do bá tánh mỗi người một mảnh vải kết lại thành để tăng sĩ mặc.

Xem Ca sa, áo ca sa.

Cây trăm thước đổi hương tàn,

Treo y bá nạp làm màn phòng the.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÁCH NIÊN 

Bởi chữ “Bách niên giai lão  ”, tức là lời chúc vợ chồng ăn ở với nhau hoà hợp, sống lâu đến trăm tuổi.



Ngỡ là trọn đạo vu quy,

Lấy lời vàng đá mà thề bách niên.

(Truyện Kiều).



Chữ đồng lấy đấy làm ghi,

Mượn điều thất tịch mà thề bách niên.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



BẠCH BÍCH 

Bạch: Màu trắng. Bích: Ngọc.

Bạch bích là một loại ngọc bích màu trắng. Theo truyện cổ tích, Bạch bích cũng là một loại ngọc trồng được ở tại Lam Điền.

Xem: Cấy ngọc, hay Lam Điền chưởng ngọc.

Đã trồng bạch bích sẵn đây,

Còn chờ bói phượng chưa vầy bạn loan.

(Quan Âm Thị Kính).



BẠCH CÂU 

Bởi chữ “Bạch câu quá khích  ”.



Bạch câu: Ngựa trắng. Quá khích: Qua khe hở.

Bạch câu quá khích là bóng ngựa trắng chạy qua kẻ hở. Chỉ thời gian trôi qua mau.

Do câu nói của Trương Lưu Hầu: Nhân sinh nhất thế gian như bạch câu quá khích, hà chí tự khổ như thử  , , nghĩa là người ta sinh ra trong đời như bóng bạch câu qua khe hở, cần gì phải làm khổ mình đến như vậy?

Nghĩa bóng: Chỉ thời gian qua mau.



Kìa ai thích chí ngao du,

Nhà lan ngạch hở bạch câu nước dồn.

(Tư Dung Vãn).



Những là khen dạ đá gan vàng,

bóng bạch câu xem nữa phút như không,

ơn dày đội cũng cam trong phế phủ.

(Trận Vong Tướng Sĩ).



Quá ngán nhẽ, cửa bạch câu một loáng,

Ngậm ngùi thay, tranh thương cẩu trăm hình.

(Tần Cung Nữ).



BẠCH DIỆN THƯ SINH 

Bạch diện: Gương mặt trắng. Thư sinh: Học trò.

Bạch diện thư sinh là người học trò còn non nớt, chưa đủ kinh nghiệm.



Chớ tin bạch diện thư sinh.

Một văn luận thử mà khinh giá này.

(Truyện Trinh Thử).



Vậy có lời nôm dặn bảo thế gian rằng:

Đừng thấy người bạch diện thư sinh mà cười rằng:

Đa cùng tài tử”.



(Tài Tử Đa Cùng Phú).

BẠCH DƯƠNG 

Tên một loại cây cao to, lá tròn rộng, có răng cưa, bề mặt màu xanh, bề lưng màu trắng. Khi có gió nhẹ thổi qua, thì cây bạch dương cũng reo thành tiếng.



Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Dịp đường lê lác đác sương sa,

(Thập Loại Chúng Sinh).



BẠCH ĐĂNG 

Hay “Bạch Thành  ”, một cái thành ở Thanh Hải mà vua Hán Cao Tổ bị rợ Hồ là Thổ Cốc Hồn vây tại nơi ấy.

Lý Bạch có câu: Hán hạ Bạch Đăng Thành, Hồ khuy Thanh Hải độ  , nghĩa là Hán xuống Bạch Đăng Thành, Hồ dòm bến Thanh Hải.

1.- Bạch Đăng:



Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,

Vụng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.

(Thơ Dịch, Tản Đà).

2.- Bạch Thành:

Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,

Mai Hồ vào Thanh hải dòm qua.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



BẠCH ĐẰNG

Bạch Đằng là một con sông thuộc huyện Thuỵ Nguyên, tỉnh Kiến An bây giờ.

Hưng Đạo Vương sai Nguyễn Khoái lén dẫn binh lên mé thương lưu sông Bạch Đằng, dùng gỗ đẻo nhọn có bịt sắt đóng khắp giữa giòng sông, rồi phục binh chờ thuỷ triều lên thì đem binh ra khiêu chiến, Chiến thuyền của quân Nguyên do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp xông vào đánh, quân Nguyễn Khoái quay thuyền chạy, nhử cho thuyền giặc qua khỏi chỗ đóng cọc.

Đến lúc thấy thuỷ triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh, kế có đại quân Trần Hưng Đạo tiếp đến. Ô Mã Nhi , Phàn Tiếp thấy quân thế nhà Trần quá mạnh, bèn quay thuyền chạy trở lại. khi chạy đến khúc sông có đóng cọc thì thuỷ triều đã rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vở mất nhiều. Quan quân nhà Trần thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông, tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đều bị bắt.



Toa Đô bị bắt ở cửa Hàm Tử,

Ô Mã phải chết ở sông Bạch Đằng.

(Bình Ngô Đại Cáo).



BẠCH HÀM NHƯ HOÀNH 

Tức Yến Bạch Hàm, Bình Như Hoành, là hai nhân vật nổi tiếng về thơ văn, và tài hoa trong truyện “Bình Sơn Lãnh Yến” của Trung Quốc.



Cho hay kỳ lại gặp kỳ,

Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành.

(Lục Vân Tiên).



BẠCH KHỞI 

Hay “Bạch Khỉ”.

Người đời Chiến Quốc, làm đại tướng cho Chiêu Tương Vương nước Tần, có tài dụng binh, đã từng đánh lấy 70 thành, được phong làm Võ An Quân.

Bạch Khởi là người hiếu sát, khi đánh thắng Triệu Quát tại Trường Bình, quân Triệu đầu hàng hơn 40 vạn. Bạch Khởi sợ hàng binh nổi loạn, bày mưu cho binh Tần đội vải trắng, nửa đêm đánh vào hàng binh của Triệu, thấy ai không đội vải trắng giết sạch hơn 40 vạn quân trong một đêm.

Sau bị gièm pha, phải chịu tam ban chết một cách thảm thiết.

1.- Bạch Khởi:



Thây chan chan lấp nội Trường Bình,

giận Bạch Khởi ra oai rất dữ.

(Sãi Vãi).

2.- Bạch Khỉ:

Dưới màn nhớ tư tưởng Di Ngô,

Trên ngựa những băn khoăn Bạch Khỉ.

(Hàn Vương Tôn Phú).



BẠCH MÃ BÔN TANG 

Ngựa bạch rượt theo xe tang.

Sách Hậu Hán chép: Trương Nguyên Bá gần chết than rằng: Hận vì chưa thấy mặt bạn ta. Người đồng quận là Ân Tử Trưng hỏi bạn là người nào? Nguyên Bá nói: Phạm cự Khanh ở huyện Sơn Dương là bạn tử hữu của tôi vậy. Ông Nguyên Bá chết, lễ phát dẫn đến huyệt thì bỗng Linh cữu trì lại, không tiến lên. Mẹ của anh vỗ vào Linh cữu mà nói: Nguyên Bá! Giờ đâu còn trông đợi ai, con! Liền lúc đó có người cỡi ngựa trắng, kêu khóc chạy đến. Quả là anh Phạm Cự Khanh.

Người đời sau mới nói: Phạm Cự Khanh bạch mã bôn tang, bất vong tử hữu  , , nghĩa là Phạm Cự Khanh ngựa bạch vượt tang không quên tử hữu.



BẠCH HỒNG QUÁN NHẬT 

Bạch hồng: Mống bạc. Quán nhật: xuyên mặt trời.

Bạch hồng quán nhật là mống bạc xuyên ngang mặt trời.

Sử Ký chép: Bạch hồng quán nhật nhi Kinh Kha ca  , nghĩa là mống bạc xỏ ngang mặt trời bởi ông Kinh Kha ca hát.

Do điển: Khi Kinh Kha vào nước Tần để thích khách vua Tần, Thái Tử Đan nước Yên tống tiễn đến sông Dịch Thuỷ. Ông Kinh Kha ca rằng: Phong tiêu tiêu hề, Dịch thuỷ hàn! Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn  , ! , , nghĩa là gió thổi hiu hiu hề, nước sông Dịch lạnh nhiều! Tráng sĩ ra đi hề, không bao giờ trở lại! Lòng tinh thành của Kinh Kha cảm động đến trời, mống bạc đột nhiên xỏ ngang mặt nhựt.



BẠCH TÔ 

Tức Lý Bạch và Tô Đông Pha.

Lý Bạch tự Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên cư sĩ, là một thi hào bậc nhứt đời nhà Đường. Xem: Lý Bạch.

Tô Đông Pha tức Tô Thức, người Mi sơn, đời nhà Tống, tự là Tử Chiêm, học rộng, tinh thông kinh sử, đỗ tiến sĩ. Lúc làm quan dưới thời Anh Tông, phê phán tân pháp của Vương An Thạch, ông bị đổi ra Hoàng Châu, tại đây ông làm nhà ở đất Đông Pha, nên lấy hiệu là Đông Pha Cư Sĩ. Xem: Tô Tử.



Bạch,Tô sẵn mối duyên lành,

Mượn câu cảnh, ngụ câu tình họa may.

(Hoa Tiên Truyện).



BẠCH THỐ 

Bạch: Trắng. Thố: Con thỏ.

Bạch thố là thỏ bạc, do tục truyền trên mặt trăng có con thỏ trắng giã thuốc, nên còn gọi mặt trăng là bạch thố. Xem: Thỏ bạc ác vàng.



Một vầng Bạch Thố bóng giăng.

Non sông bóng giợn, soi bằng lòng gương.

(Dương Từ Hà Mậu).



BẠCH THỦ THÀNH GIA 

Bạch thủ: Tay trắng, chỉ tay không. Thành gia: Thành nhà, chỉ nên sự nghiệp.

Bạch thủ thành gia ý muốn nói người tài giỏi, chỉ hai bàn tay trắng mà lập nên sự nghiệp.



Bạch thủ thành gia ít kẻ tài,

Cũng như Huệ mạng thế không hai.

(Đạo Sử).



BẠCH VÂN 

Bạch vân là mây trắng.

Do tích Địch Nhân Kiệt đời Đường làm quan ở thành Tinh Châu, cha mẹ ở đất Hà Dương xa cách nơi ấy mấy ngày đường. Ông thường lên núi Thái Hàng nhìn chòm mây trắng ở chân trời mà nói với kẻ tả hữu: Nhà cha mẹ ta ở dưới chòm mây bạc ấy.

Vì vậy, khi nói các từ như Áng mây, phiến vân, bạch vân, mây trắng, mây bạc, chòm mây đều có nghĩa trông cha mẹ, quê hương.



Bạch vân kìa nẻo xa xa,

Song thân ta đấy là nhà phải không?

(Quan Âm Thị Kính).



BẠCH VIÊN 

Bạch viên là vượn bạch hay vượn trắng.

Nhà sư Trần Huyền Trang tức là Đường Tăng, người ở Yên Sư, xuất gia đầu Phật từ thuở nhỏ, học các kinh sách nhà Phật, từng đi sang nước Ấn Độ đem về được hơn 650 bộ kinh, cùng đệ tử dịch được hơn 75 bộ. Phật giáo ở Trung Quốc thịnh hành từ đấy.

Đường tăng có nuôi một con vượn trắng, rất tinh khôn, sau đem dâng cho Đường Minh Hoàng, hồi loạn An Lộc Sơn tự nhiên mất. Hơn mười năm sau, có Viên phu nhân, vợ của Tôn Khác làm Phán quan ở Nam Khang, đến lễ chùa, cung tiến một cái vòng bích ngọc, nói rằng của chùa xin trả lại. Đường tăng nhận ra thì là chiếc vòng buộc ở cổ con vượn trắng ngày trước. Xem lại đã thấy Viên phu nhân hoá thành vượn trắng leo lên cây chuyền vào rừng xanh mất dạng.

Sách Tục Thế Thuyết chép: Bạch viên hoá thành người, lấy Tôn Khác sinh được hai người con.

Ba trăng tiếng kệ câu kinh,

Bạch viên sao nỡ phụ tình Huyền Trang.

(Truyện Phan Trần).



Bạch viên xưa kết Tôn sinh,

Chẳng vì dan díu bỏ kinh tòng quyền.

(Truyện Trinh Thử).



BÁI CÔNG 

Tức là Hán Cao Tổ.

Vua Hán Cao Tổ tên là Lưu Bang. Lúc đầu, Lưu Bang tụ họp hơn ba ngàn người, khởi binh dựng nghiệp ở huyện Bái (Đất Bái) để đánh Tần, được dân chúng tôn là Bái Công. Đất Bái là một huyện của Tần đặt. Thời Hán thuộc Bái Quận, nay thuộc tỉnh Giang Tô, ở phía đông Bái Huyện.

Xem: Lưu Bang.



Nghĩa quen khá chớ lòng Dương thị,

Nết bạc hằng thìn dạ Bái Công.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



BÁI TỔ 

Lễ cúng Tổ Tiên Ông Bà.

Tục ngày xưa khi được việc mừng như thi đậu, bổ làm quan, người ta thường bày lễ cúng Tổ Tiên, gọi là Bái tổ, hay vinh quy bái tổ.

Rày được ơn trên về bái tổ.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



BÀI BINH BỔ TRẬN 

Bài binh: Sắp xếp quân binh. Bố trận: Phân bổ hình thế chiến trận.

Bài binh bố trận là sắp đặt quân lính để sửa soạn giao chiến với nhau.



Kìa những kẻ bài binh bố trận,

Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung.

(Thập Loại Chúng Sinh).



BÀI VỊ 

Bài: Tấm bảng. Vị: Chỗ ngồi.

Bài vị còn gọi là Thần vị, Linh vị, Thần chủ, hay Mộc chủ, là một tấm giấy hoặc gỗ dày, có đế đặt đứng được. Trên mặt giấy hoặc gỗ có viết tên họ, ngày sinh, ngày mất của người chết…Bài vị được người xưa quan niệm là đặt trên bàn thờ để linh hồn người quá cố nương tựa vào đó.



Sang nhà cha tới trung đường,

Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.

(Truyện Kiều).



Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,

Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền.

(Lục Vân Tiên).



Họ tên bài vị rõ biên,

Ăn chay nằm đất chúc nguyền vong linh.

(Dương Từ Hà Mậu).



BÃI BỂ NƯƠNG DÂU

Do chữ “Thương hải tang điền  ”. Bãi bể là thương hải, nương dâu là tang điền.

Theo sách Thần Tiên Truyện, cứ ba mươi năm lại một lần thay đổi, biển cả hoá thành ruộng dâu.

Nghĩa bóng: Chỉ sự thay đổi lớn lao.

Chữ: Bãi bể nương dâu, Bể dâu, Cồn xanh, Tang hải, Tang thương đều có nghĩa như chữ “Tang điền thương hải”.

Xem: Tang điền thương hải.



Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,

Ai bày trò bãi bể nương dâu.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Phút giây bãi bể nương dâu,

Cuộc đời là thế biết hầu nài sao?

(Ai Tư Vãn).



BẢY BẮT BẢY THA

Bởi chữ “Thất túng thất cầm  ” tức bảy lần thả, bảy lần bắt.

Do điển trong Thục Chí viết: Mạnh Hoạch là tù trưởng Nam man, không chịu phục nhà Thục Hán. Ông Gia Cát Khổng Minh muốn bọn Nam man tâm phục, nên đem binh đánh Mạnh Hoạch, bảy lần bắt được, bảy lần đều thả. Từ đó, Mạnh Hoạch mới phục và nói: Oai trời của Thừa tướng, người Nam man chúng tôi không dám làm phản nữa.

Chước dùng bảy bắt bảy tha,

Oai trời nhường ấy giặc đà chạy tênh.

(Ngọa Long Cương Vãn).



BẢY HÙNG

Dịch từ chữ “Thất hùng  ” tức là bảy nước chư hầu hùng cường trong thời Chiến Quốc. Bảy nước mạnh đó là Tần, Triệu, Tề, Yên, Sở, Hàn và Nguỵ.

Xem: Năm bá bảy hùng.

Năm bá mượn vay, nhân nghĩa mọn.

Bảy hùng giành xé, lợi danh bay.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BẢY LÃO

Tức là bảy ông lão đời nhà Tấn, thường vui chơi ở nơi rừng Trúc Lâm, mà người đời xưng tụng là Trúc Lâm Thất Hiền.

Xem: Trúc Lâm Thất Hiền.

Bảy Lão nhắc tình già dẹo cẳng,

Ba bà hỏi việc mụ ham thi.

(Thiên Thai Kiến Diện).



BẢY NỔI BA CHÌM

Chỉ hoàn cảnh không may, gặp chuyện gian truân, vất vả phải chịu cực khổ như vật trôi lênh đênh trên mặt nước, khi chìm khi nổi bao phen.



Con ơi ruột mẹ nẫu như tương,

Bảy nổi ba chìm rất thảm thương.

(Khuê Phụ Thán)



Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

(Thơ Hồ Xuân Hương).



BẢY NGƯỜI TRƯỚC LÂM

Tức là “Trúc Lâm thất hiền  ”, đó là bảy vị ẩn giả đời nhà Tấn: Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào, Hướng Tú, Lưu Linh, Nguyễn Hàm, Vương Nhung ở tại rừng Trúc Lâm, nên người đời sau mới gọi danh hiệu ấy.



Tiên rằng:Ông quán chớ cười,

Đây đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngà nhớ đặng bảy người Trước Lâm.

(Lục Vân Tiên).



BAN CHIÊU 

Nàng Ban tức Ban Chiêu.

Ban Chiêu tự là Huệ Cơ, con gái Ban Bưu, em Ban Cố và Ban Siêu, quê ở An Lăng, là vợ của Tào Thế Thúc, sớm lâm vào cảnh goá bụa.

Ban Chiêu là người học rộng tài cao, được vua Hoà Đế xuống chiếu, triệu nàng vào Đông Quan Tùng Thư giao cho nàng nhiệm vụ soạn tiếp bộ Hán Thư của cha và anh nàng để lại, viết cho hoàn tất bộ sách.

Ban Chiêu được các Hoàng hậu và các Hậu phi kính trọng, xem như bậc thầy.

Khen “Tài nhả ngọc phun châu”,

Nàng Ban, Ả Tạ cũng đâu thế này.

(Truyện Kiều).



BAN CƠ 

1.- Nếu chữ Cơ là mỹ hiệu để gọi phụ nữ thì Ban cơ có nghĩa là người đẹp họ Ban, tức là Ban Tiệp Dư, một cung nữ được vua Thành Đế nhà Hán ban cho chức Tiệp Dư. Sau bị gièm pha, và ghét bỏ, phế ra chầu Thái hậu ở cung Thường Tín.

Xem: Tiệp Dư.

2.- Em gái của Ban Cố là Ban Chiêu, còn có tên là Cơ, tự Huệ Cơ, được gả cho Tào Thái Thúc, nhưng goá chồng sớm. Ban Cố viết bộ Hán Thư, chưa rồi mà chết. Vua Hoà Đế chiếu triệu nàng Ban Chiêu viết nối theo để được hoàn thành. Vua thường triệu vào cung dạy Hoàng hậu và các Quý nhân trong cung, dạy phải lấy lễ thầy mà thờ. Vua ban hiệu là Tào Đại Cô.

Xem: Tào Đại Cô.

Giá xưa nay chửa thấy ai,

Nào người Thái Nữ, nào người Ban Cơ.

(Lưu Nữ Tướng).

BAN SIÊU 

Người đời Đông Hớn, tự là Trọng Thăng, nhà rất nghèo, nhưng có chí lớn, thường đi viết mướn lấy tiền ăn học và nuôi mẹ già, không màng khó nhọc. Lắm lúc bực tức, ném bút mà than rằng: Đại trượng phu phải đeo cung mang đao theo gương Phó Giới Tử và Trương Khiên lập công danh ở miền biên thuỳ để được phong hầu, chứ lẽ đâu lại theo nghiên bút mà tàn lụi bao giờ.

Sau Ban Siêu đầu quân đánh giặc ở miền Tây Vực, thu phục hơn năm mươi nước nhỏ, được phong làm Định Viễn Hầu.

Những tài tót núi nhảy sông,

Sánh cùng Tôn Vũ sức cùng Ban Siêu.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



BAN THỊ 

Tức nàng Ban làm chức Tiệp dư đời vua Thành Đế nhà Hán. Vua Thành Đế muốn nàng Ban Tiệp dư ngồi chung xe phượng liễn đi chơi chốn hậu đình, nàng đều từ chối.

Sau bị nàng Triệu Phi Yến gièm pha, bà sợ hại thân, bèn xin vua cho theo hầu bà Thái Hậu, mẹ vua ở cung Trường Tín.

Xem: Nàng Ban.



Chối liễn phượng chẳng ngồi,

Ban Thị sự đà sau thấy;

Chống muôn hùng nào ngại,

Phùng Cơ lòng hãy xa ngừa.

(Cung Trung Bảo Huấn).



BAN TRÚC 

Ban: Có vằn lốm đốm. Trúc: Cây trúc, cây tre.

Ban trúc là tên một thứ trúc có vằn lốm đốm, được người ta dùng làm quạt. Do đó, loại quạt này được gọi là quạt Ban trúc.



Nón kiển hàng, sãi sắm một cái cho xinh ghê,

Quạt ban trúc, sãi sắm một cây cho báu riết.

(Sãi Vãi).



BÁN KHAI 

Bán: Phân nửa. Khai: Mở mang.

Bán khai là mới mở mang được phân nửa, chỉ những dân tộc còn chậm tiến, chưa được khai hoá hoàn toàn.



Văn minh rày đã bán khai,

Mà đây còn hãy như đời Hùng Vương.

(Thơ Tản Đà).



BÁN NƯỚC CẦU VINH

Bởi câu “Mãi quốc cầu vinh  ”.

Làm dân không giúp ích gì cho đất nước, trái lại vì muốn cầu sự vinh hiển mà làm những việc có hại cho quốc gia, hoặc thông đồng với ngoại bang phản lại đất nước, đó gọi là bán nước cầu vinh.

Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược.

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh,

(Bình Ngô Đại Cáo).



BÁN NGUYỆT MUA HOA

Nguyệt hoa là trăng hoa, chỉ sự tư tình giữa trai gái, sự ăn chơi đàn điếm.

Bán nguyệt mua hoa là nói hạng gái lầu xanh, chuyên đem việc trăng hoa ra mua bán.

Xem: Buôn hương.



Chỉ những phường bán nguyệt mua hoa,

Đưa hơi quyển ngâm nga trêu sắc gái.

(Phương Tu Đại Đạo).



BÁN TÍN BÁN NGHI 

Bán tín: Nửa tin tưởng. Bán nghi: Nửa nghi ngờ.

Bán tín bán nghi là nửa tin nửa ngờ, tức chưa tin tưởng hoàn toàn.



Nguyệt Nga bán tín bán nghi,

Đánh liều nhắm mắt theo đi về nhà.

(Lục Vân Tiên).



BÁN TỬ 

Bán: Phân nửa. Tử: Con.

Bán tử dùng để chỉ con rể, xem gần như là con.

Trong Đường Thư có câu: Tích vi huynh đệ, kim tế bán tử dã. Bệ hạ nhược hoạn Tây Nhung tử, thỉnh dĩ binh trừ chi  , 婿 , 西 , , nghĩa là trước kia là anh em, bây giờ là con rể, con một nửa rồi. Bệ hạ nếu có lo về con ở Tây Nhung này, thì xin dùng binh mà trừ đi.

Cậy người môn lại thưa lời,

Đưa tin bán tử họ Mai sang hầu.

(Nhị Độ Mai).



BÀN CANH 

Tên một ông vua đời nhà Thương.

Nhà Thương đóng đô ở Hạ Bắc đã lâu đời, chính sự đã suy tàn, đến đời vua Bàn Canh muốn thay đổi vận nước, mới thiên đô về kinh đô cũ của Thành Thang, nên khiến dân tình ta thán vì phải bỏ cửa bỏ nhà đi theo. Nhà vua mới làm ba thiên Bàn Canh để an ủi dân tình.

Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



BÀN CỔ 

Theo truyền thuyết của Trung Quốc thì Bàn Cổ là tên một ông vua thuỷ tổ của loài người.

Tương truyền, khi trời đất đã định vị thì vua Bàn Cổ đã xuất hiện trị đời.

Vua Bàn Cổ mở lò tạo hoá,

hồng mông đà lẽo đẽo thêm xuân;

họ Hữu Ngu khoi mạch sơn xuyên,

cương giới vẫn rành rành như tạc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



Pháp bèn cất tiếng hét lên,

Mời ông Bàn Cổ tọa thiền chứng miêng.

(Lục Vân Tiên).



BÀN ĐÀO 

Tên một loại đào Tiên của bà Tây Vương Mẫu.

Theo sách Hán cổ sử: Vua Hán Võ Đế cầu bà Tây Vương Mẫu, được ban cho bốn quả đào Tiên và cho biết rằng: Cây bàn đào ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm nữa mới kết quả, ăn được một quả thì sống đời đời.

Người dâng thánh thọ vô cương,

Bàn đào chánh nhụy thiên hương đầy toà.

(Tư Dung Vãn).



Rượu cúc Bàn Ðào chờ hội ẩm,

Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.

(Đạo Sử).



BÀN GIAO 

Bàn: Cứu xét kỹ càng. Giao: Trao đổi cho nhau.

Khi thay đổi về chức vụ, người cũ xem xét lại hồ sơ, giấy tờ để trao lại cho người mới, đó gọi là bàn giao.



Phu nhân công tử xuống thoàn,

Mai công ở lại đợi còn bàn giao.

(Nhị Độ Mai).



BÀN HOÀN 

Bàn hoàn có nghĩa là loanh quanh, bịn rịn, hay do dự không quyết định.



Nàng rằng: Thiên tải nhất thì,

Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.

(Truyện Kiều).



Nỗi riêng riêng những bàn hoàn,

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn

(Truyện Kiều).



Sá chi nửa cánh hoa tàn,

Tình kia ý nọ bàn hoàn nữa chi.

(Truyện Trinh Thử).



BÀN KHÊ

Khương Tử Nha lúc còn hàn vi ngồi câu cá ở sông Vị tại Bàn Khê. Sau vua Văn Vương nhà Châu đi săn bắn, gặp ông rước về tôn làm thầy. Ông đã giúp cho vua Văn Vương và Võ Vương dựng nên nghiệp nhà Châu.



Nọ nọ Bàn Khê công nghiệp cả,

Xuân thu lần kể tám mươi dư.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Lữ dù chưa gặp xe Văn,

Câu kia chưa dễ buông cần Bàn Khê.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



BẢN SƯ 

Hay “Bổn sư”, có nghĩa là thầy ta.

Đức Phật Thích Ca là Tổ và khai sáng ra Phật Giáo, nên những tín đồ theo đạo Phật đều gọi là Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Bản sư rồi cũng đến sau,

Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.

(Truyện Kiều).



BẠN KIM LAN 

Bạn: Bè bạn. Kim lan: Vàng và hoa lan.

Bạn kim lan bạn bè giao du thân thiết, tình nghĩa bền chặt như vàng, khí vị thơm như hoa lan.



Bàn riêng mấy bạn kim lan,

Phường ta bất quá sàn sàn bực trung.

(Nhị Độ Mai).



BẠN LOAN 

Bạn: Bè bạn. Loan: Chim loan.

Bạn loan là đôi chim loan làm bạn không rời nhau.

Nghĩa bóng: Chỉ bạn tình, hay vợ chồng.

Đã trồng bạch bích dành đây,

Còn chờ bói phụng chưa vầy bạn loan.

(Quan Âm Thị Kính).



BẠN LỮ 

Bạn: Bè bạn. Lữ: Bạn.

Bạn lữ tức là cùng trang lứa làm bạn bè với nhau.



Giang hồ bạn lữ câu tan hiệp,

Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say.

(Thơ Nguyễn Công Trừ).



Mãn kiếp những nỗi mình, mình xử,

Nào 
mong chi bạn lữ giúp nên.

(Phương Tu Đại Đạo).



Dầu kén chọn vào hàng bạn lữ,

Nên cho em hạng thứ trên người.

(Phương Tu Đại Đạo).



BẠN NGHỊCH 

Bạn: Làm phản. Nghịch:Trái ngược.

Bạn nghịch là kẻ làm loạn, làm phản. Đồng nghĩa với chữ phản nghịch.



Vua Đường cất lấy xem qua,

Mới hay bạn nghịch ấy là Bá Cao.

(Nhị Độ Mai).



BẠN TÁC

Bạn tác tức là bạn bè cùng tuổi tác, cùng trang lứa với nhau.



Xảy đâu bạn tác vừa ra,

Trực cùng Hâm, Kiệm xúm cùng đưa Tiên.

(Lục Vân Tiên).



Mình dầu đồng bạn tác cùng quan,

Đừng hổ phận bần hàn cha mẹ.

(Phương Tu Đại Đạo).



BÀNG CỬ 

Bàng Cử là hiệu của Nhạc Phi.

Nhạc Phi là một danh tướng đời Tống, sanh ở huyện Thang Âm, làm đến chức Ðại Nguyên Soái đời vua Cao Tông. Ông một lòng tận trung báo quốc, đem quân đi đánh thắng nước Liêu, bảo vệ bờ cõi, nhưng vua Cao Tông hôn ám, dùng kẻ gian thần là Tần Cối làm Tể Tướng, để Tần Cối gièm pha hãm hại giết chết Nhạc Phi.

Xem: Nhạc Phi.



Tam ưu Bàng Cử trắng đầu non,

Mua lấy chức quan đức phải mòn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BÀNG QUYÊN 

Người nước Nguỵ đời Chiến Quốc, cùng Tôn Tẩn học một thầy là Quỷ Cốc Tiên Sinh, nhưng thua tài Tôn Tẩn, nên thường tìm cách hãm hại. Bàng Quyên làm quân sư cho Nguỵ Huệ Vương, cầm quân đánh đâu thắng đó nên sinh ra kiêu căng ngạo mạn.

Sau Tôn Tẩn giúp Tề, đem quân dụ Bàng Quyên tới Mã Lăng rồi cho phục binh bắn chết theo lời thề.

Xem Tôn Tẩn.



Cười người Tôn Tẩn không lừa,

Trước đà thẫy máy chẳng ngừa Bàng Quyên.

(Lục Vân Tiên).



BÀNG SINH 

Bàng: Một bên. Sinh: Chỉ sinh vật.

Bàng sinh là một sinh vật thuộc loài vật hạ đẳng hơn súc vật như cá cua, tôm, ốc…



Hoặc đọa địa ngục, Tu la,

Làm thân ngạ quỉ cùng là bàng sinh.

(Hứa Sử Tân Truyện).



BẢNG HỔ

Do chữ “Hổ bảng  ”.

Đời nhà Mãn Thanh nước Trung Hoa chỉ võ khoa là hổ bảng.

Ở Việt Nam, Long bảng (Trên bảng có vẽ rồng) đề tên những người đậu Tiến sĩ; Hổ bảng (Vẽ cọp) đề tên những người đậu Cử nhân; Mai bảng (Vẽ cây mai) đề tên những người đậu Tú tài.



Chẳng hay bảng hổ không danh,

Huyện quan cũng khỏi Nho sanh chê cười.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Trời xanh đâu phụ người văn học,

Bảng hổ đề danh mới sướng cho.

(Thơ Bùi Hữu Nghĩa).



BẢNG HÙM

Do chữ “Hổ bảng  ”, tức là bảng có vẽ hình con cọp, dùng để ghi tên những người thi đỗ cử nhân.

Bảng hùm ở nhà Thanh, Trung Hoa còn dùng để chỉ những người thi đậu về võ khoa.

Xem: Bảng hổ.



Đất bằng một tiếng sấm vang,

Bảng hùm tỏ phạm, tháp nhàn diễn Trương.

(Sơ Kính Tân Trang).



BẢNG MAI 

Bảng mai hay mai bảng là bảng ghi tên những người thi đỗ trong kỳ thi Hội. Bởi vì thi Hội được tổ chức vào mùa xuân khi hoa mai nở lúc cuối tháng chạp, đầu tháng giêng Âm lịch.



Hội xuân đầu chiếm bảng mai,

Cám công đèn sách dùi mài bấy lâu.

(Lưu Nữ Tướng).

BẢNG NHÃN 

Ngày xưa khoa thi Tiến sĩ có ba bực: Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa. Như vậy, Bảng nhãn là đỗ vào bậc thứ hai của khoa Đình thí, dưới bậc Trạng nguyên.



Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa,

Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Trước đền đứng lặng đầu ngao,

Dương Trân Bảng Nhãn, Bửu vào Thám hoa.

(Dương Từ Hà Mậu).



BẢNG RỒNG

Rồng là loài vật linh, thường dùng để chỉ nhà vua.

Bảng rồng là bảng dùng để ghi tên những người thi đỗ trong các khoa thi do nhà vua tổ chức.

Khen cho gái biết tìm chồng,

Đuốc hoa lại đợi bảng rồng mới toan.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Bảy mừng học sĩ quyết khoa,

Chuyên cần lập nghiệp tên ra bảng rồng.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BẢNG THU 

Bảng niêm yết những người thi đỗ vào mùa thu. Ngày xưa thi hương thường tổ chức vào mùa thu.



Bảng thu sớm sớm đề tên,

Tiện đường sớm lại ruỗi liền hội xuân.

(Hoa Tiên Truyện).



BẢNG VÀNG

Do chữ “Kim bảng  ”, tức là bảng có thếp vàng, đề tên những vị tân khoa đỗ Tiến sĩ trong thời khoa cử ngày xưa của Việt Nam.

Xem: Kim bảng.

Phước thừa muôn đội tông môn,

Bảng vàng may trộm chữ son tên đề.

(Truyện Phan Trần).



Xin vâng, nhưng hãy xin chờ,

Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa cũng vừa.

(Nhị Độ Mai).



Hai chàng đi tới Tấn bang,

Vào trường thi hội, bảng vàng đỗ cao.

(Dương Từ Hà Mậu).



Trời sao nỡ phụ tài lành,

Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.

(Lục Vân Tiên).



BẢNG VÀNG BIA ĐÁ

Bảng vàng do chữ “Kim bảng  ”, tức là bảng có thếp vàng, để đề tên những sĩ tử được thi đỗ. Bia đá dùng để khắc tên những người thi đậu.

Bảng vàng bia đá chỉ những người thi đỗ trong chế độ khoa cử ngày xưa.

Tới năm mươi tuổi đã vừa,

Bảng vàng bia đá, quan đưa tận nhà.

(Huấn Nữ Ca).



BẢNG XUÂN

Do chữ “Xuân bảng  ” tức là bảng chép tên những người thi đỗ Tiến sĩ của kỳ thi Hội, được tổ chức vào mùa xuân.



Bảng xuân nay đã dự mừng,

Muôn hồng nghìn tía tưng bừng đón ai.

(Truyện Phan Trần).



Giao rằng chiếm được bảng xuân,

Trở về rồi sẽ hôn nhân kết nguyền.

(Nữ Tú Tài).



Tình cờ chiếm được bảng xuân,

Ấy là phú quý đầy sân quế hoè.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BẠNG CÒ

Tức con trai và con cò, bởi câu “Bạng duật tương trì  ”, nghĩa là con trai và con cò níu kéo, giằng co nhau. Ý nói hai người tranh nhau, khiến người thứ ba được lợi.

Xem: Bạng duật.

Sẩy đàn tan nghé bơ vơ,

Bạng khoe sức bạng,  khoe sức cò.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



BẠNG DUẬT 

Như chữ “Bạng duật tương trì  ”, nghĩa là con trai và con cò níu kéo nhau.

Con trai há mồm phơi nắng, con cò mổ vào ruột trai, trai liền ngậm lại, kẹp mỏ cò. Hai đàng giằng co với nhau thì có ông câu được lợi, bắt cả trai lẫn cò.

Nho có câu: Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi tiếu hi hi  , , (trai cò giằng co, ông câu bắt được cười ha hả).



Dằng dai bạng duật bao lâu,

Bóng ô hè giục sang thâu bấy chầy.

(Hoa Tiên Truyện).



Thế bạng duật đương còn đối mặt,

Thói đường lang sao khéo lắng tai.

(Hịch Tây Sơn).



BẠNG GIÀ SINH CHÂU

Bởi câu “Lão bạng sinh châu  ”, tức là con trai già sinh ra ngọc, ý muốn nói người già sinh ra con quý, chỉ điềm tốt.



Thú vui nửa thú ngư hà,

Rùa linh đội sách, bạng già sinh châu.

(Tư Dung Vãn).



BÀNH TỔ 

Bành Tổ là người đời Đường Nghiêu, họ Tiền tên Kiên, cháu của vua Xuyên Húc, được phong chức ở Bành Thành, nên người ta gọi ông là Bành Tổ.

Tương truyền Bành Tổ là người sống lâu, từ đời nhà Hạ đến nhà Ân, tính ra hơn 800 năm.

Làm chi nghiêng ngửa duỗi co,

Như ông Bành Tổ riêng lò hóa công.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Chòm rong lộp xộp râu Bành Tổ,

Kẹt đá gio gie nướu Tử Nha.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



BÀNH THÀNH 

Vào đời Xuân Thu, Bành Thành là một ấp của nước Tống. Sau nước Tần đặt thành huyện, nay là Từ Châu Thị, thuộc tỉnh Giang Tô.



Thiền cao chưa đủ đỡ muôn linh,

Như thuở Hạng Vương ở Bành Thành.

(Đạo Sử).



BÀNH TRẠCH 

Tên một huyện thuộc tỉnh Giang Tây, nơi Đào Uyên Minh, đời nhà Tấn đã từng là Huyện lệnh ở đây.

Xem: Đào Tiềm.

Cuộc cờ chén rượu cung đàn,

Thơ ngâm Bành Trạch, tranh vờn Tiêu tương.

(Sơ Kính Tân Trang).



BÀNH VIỆT

Bành Việt tự là Trọng, người Xương Ấp, nay thuộc tỉnh Sơn Đông. Trước Bành Việt theo thờ Hạng Võ, sau về với Hán Cao Tổ, lập được nhiều công to. Khi đất nước được thống nhất, Bành Việt bị vua Hán Cao Tổ tru di tam tộc.



Thưa rằng: Bành Việt Lương Vương,

Xem dường dung mạo có phương hơn người.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



BAO BIẾM 

Bao: Khen. Biếm: Chê.

Bao biếm là khen và chê.

Người đời sau nói về kinh Xuân Thu của Đức Khổng Tử như sau: Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt  , , , , nghĩa là một chữ khen, thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn là tội bị rìu búa.

Hơn thua trối mặc đời bao biếm,

Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.

(Đạo Sử).



BAO CHỬNG 

Tên gọi là “Bao Công  ”, tự là Hy nhơn, người ở đất Hiệp Phì đời nhà Tống. Ông là người có tiếng xét án giỏi, vụ án dầu bí mật và bao lâu, ông đều xử ra manh mối.

Bao Chửng là người rất ngay thẳng, giữ gìn luật pháp rất nghiêm minh, nên những kẻ quyền quý hay hoạn quan đều rất nể sợ.

Bao Chửng làm đến chức Khu Mật Phó Sứ, từng xử nhiều vụ án ly kỳ được chép ở sách Bao Công Kỳ Án.



Ở đài các giữ lòng Bao Chửng,

Nhiệm Tướng Khanh thì thói Nguỵ Trưng.

(Quốc Âm Thi Tập).



BAO DUNG 

Bao: Trùm lên. Dung: Tha thứ.

Bao dung là chỉ người có lòng độ lượng, hay tha thứ bảo bọc kẻ khác.



Lượng bao dung dầu quyết hẹp hòi,

Tư minh đạt có đâu lầm lỗi.

(Tần Cung Nữ).



BAO QUẢN

Bao là đâu, há không, thế nào. Quản là ngại.

Bao quản là chẳng ngại gì, há ngại sao, không nệ gì…Bao quản là tiếng dùng để chỉ tâm lý của người an phận, cam chịu khi gặp nghịch cảnh đòi hỏi hy sinh.

Thân lươn bao quản lấm đầu,

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!

(Truyện Kiều).



Phận bèo bao quản nước sa,

Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.

(Truyện Kiều).

Búa rìu bao quản thân tàn,

Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.

(Truyện Kiều).

BAO TỶ 

Bao Tỷ hay Bao Tự là người phi sủng ái của Châu U Vương. Sau U Vương phế Thân Hoàng Hậu để lập Bao Tỷ làm chánh cung. Vì ham mê sắc đẹp của Bao Tỷ mà vua U Vương không thiết với chính sự đến nỗi sau phải mất nước. Xem: Bao Tự.



Trà mi kém sắc hơn hường,

Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BAO TÓC

Bởi chữ “Đối phu phong phát  ” tức là bao tóc đợi chồng.

Đường Thư chép: Ông Giả Trực Ngôn là một vị quan, vì có công việc mà phạm tội bị đày đi Lĩnh Nam, bèn từ biệt cùng vợ là bà Đổng Thị rằng: Sự sống chết không thể hẹn kỳ, nay tôi bị tội đày 20 năm, ra đi không biết sống chết thế nào, nàng ở lại nên tái giá để nương tựa tấm thân! Vợ khóc mà không đáp lại, chỉ lấy dây buộc tóc, bao ngoài bằng vải lụa, nhờ Trực Ngôn viết lên rằng: Phi quân thủ bất giải  , có nghĩa là chẳng phải tay chàng, không mở.

Sau đó, Trực Ngôn bị đi đày, Hai mươi năm sau mới được trở về, chữ và lụa trên đầu vợ còn rành rạnh, đến khi đem nước nóng gội tóc, tóc rụng tất cả. Thật là “trinh tiết” đáng khen!

Người đời sau khen rằng: Đổng Thị đối phu phong phát, trinh tiết kham khoa  , , nghĩa là bà Đổng Thị đối chồng bao tóc, trinh tiết thật đáng khen.

Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên,

Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.

(Kinh Thế Đạo).



Thiếp cam bao tóc thờ chàng,

Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!

(Kinh Thế Đạo).



BAO TỰ 

Bao Tự hay Bao Tỷ là một người con gái đẹp đời Chiến Quốc, do Bao Hồng Đức xuất vải lụa mua để tiến vào cung cho Châu U Vương đặng xin tội cho cha là Bao Quýnh.

Bao Tự vào cung được vua U Vương sủng ái, phế Thân Hoàng hậu và Thái Tử Nghi Cửu để lập Bao Tự làm Chánh cung Hoàng hậu và con là Bá Phục làm Thái Tử. Bao Tự có gương mặt rất đẹp, nhưng luôn luôn buồn ủ dột, không khi nào có một nụ cười. Biết nàng thích nghe tiếng lụa xé, U Vương truyền xuất cả trăm cây lụa trong kho để xé cho Bao Tự nghe. Nghe qua mặt nàng chỉ tươi một chút mà không cười.

Tại Ly Sơn thời ấy có đắp một cái đài gọi là Phong Hoả Đài, khi nào Kinh thành có loạn thì đốt lửa trên ấy để báo cho các chư hầu biết mà đem binh về cứu viện. Để làm vừa lòng U Vương, Quách Thạch Phủ bèn dâng kế cho đốt lửa Phong Hoả Đài, đánh lừa chư hầu mà làm trò cười cho Bao Tự.

Vua U Vương nghe theo, truyền đốt Phong Hoả Đài, lửa bốc lên cao, chư hầu vội vàng kéo quân đến nườm nượp. Khi tới nơi thấy không có giặc giả, chỉ có U Vương và Chánh hậu bày tiệc uống rượu, chư hầu xẻn lẻn cuốn cờ xếp giáo, kéo nhau ai về xứ nấy. Chừng đó Bao Tự thích chí đứng dựa lan can mà cười ngất.

Sau đó, Thân hầu keo binh đánh kinh đô, U Vương truyền đốt Phong Hoả Đài, nhưng chư hầu sợ bị lừa lần nữa, nên không ai đem binh tiếp cứu. Kết quả, Châu U Vương và Bao Tự đều bị giết chết.



Ly Sơn cười một phút,

Bao Tự kia lầm hết chư hầu.

Vị Thuỷ đòi phen,

Dương Phi nọ độc hòa thiên hạ.

(Cung Trung Bảo Huấn).



Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi,

Tôi yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng.

(Nhị Hồ, Thơ Xuân Diệu).



BÁO ÁC 

Báo ác tức là làm điều ác đức, hung dữ sẽ gặp phải việc chẳng lành.



Tích Hiền có câu: Thiện hữu thiện báo, Ác hữu ác báo. Nhược hoàn bất báo, Thời thần vị đáo 
, . ,  , nghĩa là lành có lành báo, dữ có dữ báo. Nếu như chưa thấy báo, thì do thời giờ chưa đến mà thôi.

Ở hiền thì lại gặp lành,

Ở ác báo ác rành rành chẳng sai.

(Ca dao).



BÁO ÂN CHÂU 

Theo sách Tam Tần Ký chép: Ngày xưa, có người câu cá ở hồ Côn Minh, giật lên đứt nhợ, lưỡi câu còn nằm nơi miệng cá.

Cá thoát chết, bèn cho vua Hán Văn Đế nằm mộng, nhờ vua đến hồ lấy giúp lưỡi câu trong miệng. Hôm sau, vua ra chơi ở hồ quả nhiên thấy một con cá lớn còn vướng sợi nhợ. Vua bắt cá, gỡ giúp lưỡi câu ở miệng, rồi thả đi.

Một ngày kia, vua chơi bên hồ nhặt được hai hạt minh châu lớn, đẹp. Vua cho rằng: Đó là cá báo ơn.



BÁO ÂN DĨ OÁN 

Lấy oán báo ơn.

Thói thường, người ta thường lấy điều phước đức đền đáp lại với người có ơn nghĩa với mình, đó là: “Dĩ đức báo ân” .

Nhưng ở đây, lại có những người đem điều thù hằn, oán hận để trả lại điều ơn nghĩa mà người ta đã giúp mình.



Chẳng nhớ câu “Dĩ đức hành nhân”,

Lại lấy chữ “Báo ân dĩ oán”.

(Lục Súc Tranh Công).

BÁO BỔ 

Báo: Đáp trả lại. Bổ: Làm việc có ích cho người.

Báo đáp ơn nghĩa bằng cách giúp ích cho người, tức là đền bù những lúc người ta vì mình mà cực nhọc.



Làm trai trong cõi người ta,

Trước lo báo bổ, sau lo giữ mình.

(Lục Vân Tiên).



Vậy có người hiền lo báo bổ,

Hai mươi bốn thảo dấu còn nay.

(Dương Từ Hà Mậu).



BÁO ĐỀN BA XUÂN

Bởi câu trong thơ cổ "Thùy ngôn thốn thảo tâm, Báo đáp tam xuân huy  , ", nghĩa là ai bảo rằng tấm lòng của tấc cỏ mà báo đáp được ánh sáng của ba mùa xuân. Lời của một người con đi xa nhớ mẹ.



Môn mi mong những nhờ duyên,

Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân.

(Nhị Độ Mai).



BÁO ĐỨC THÙ CÔNG 

Báo đức: Đáp trả lại ân đức. Thù công: Đền trả công ơn.

Báo đức thù công tức là đền đáp cái ân đức và trả công ơn của người đã giúp mình.



Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.

(Lục Vân Tiên).



BÁO TIỆP 

Báo: Đem tin tức. Tiệp: Thắng trận.

Báo tiệp là báo tin cho biết đã thắng trận.



Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng,

Cờ báo tiệp giữa trời nam lay bướm nhẹ...

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



BÁO ỨNG 

Báo: Trả lại. Ứng: Đáp lại.

Báo ứng là được đền trả lại những gì do chính mình đã gây tạo, như làm lành trả lành, làm ác trả ác.



Ngàn xưa mấy kẻ 
gian ngay,

Xem cơ báo ứng biết tay trời già.

(Nhị Độ Mai).



Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,

Thiệt trời báo ứng lẽ nầy rất ưng.

(Lục Vân Tiên).



Cho hay duyên kiếp bởi trời,

Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai.

(Truyện Trinh Thử).



Vì chưng tựu thiểu thành đa,

Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

(Kinh Sám Hối).



BÀO ẢNH 

Bọt nước và cái bóng là hai vật rất mong manh, dùng để chỉ sự hư ảo.

Kinh Kim Cang có câu: Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn, bào, ảnh như lộ diệc như điện ưng tác như thị quan  , , , nghĩa là các pháp hữu vi tức là việc đời như giấc chiêm bao, bọt nước và cái bóng, như giọt móc cũng như ánh sáng của chớp nhoáng thì hết thảy nên xem như vậy cả. Ý nói những sự hiện hữu trên cuộc đời này đều không được lâu bền.

Xem: Mộng ảo.



Sóng cồn cửa biển nhấp nhô,

Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Kìa bào, kìa ảnh vút qua,

Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm bao.

(Quan Âm Thị Kính).



Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,

Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không.

(Thập Loại Chúng Sinh).



BÀO HY 

Bào Hy tức Phục Hy, vị vua thời thượng cổ theo truyền thuyết Trung Hoa, họ Phong đóng đô ở đất Trần, dạy dân biết cày bừa, chăn nuôi súc vật để đưa vào bếp nấu nướng nên được gọi là Bào Hy. Phục Hy cũng là người đầu tiên vạch ra bát quái (Tám quẻ), cơ sở của Kinh Dịch.

Theo sách Thượng Thư Đại Truyện thì Phục Hy là một vị vua thứ hai trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân , Phục Hy , và Thần Nông .

Xem: Phục Hy.



Môn rằng: Tám quẻ Bào Hy,

Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BÀO LẠC 

Một thứ dụng cụ dùng để tra tấn tội nhơn rất ghê gớm. Sách Liệt Nữ Truyện chép: Một cột đồng dựng đứng có bôi mỡ, bên trong đốt than cháy đỏ rực. Tội nhân bị cột vào trụ đồng cho đến chết cháy như quay.

Hình phạt này có vào thời nhà Thương do Trụ Vương nghĩ ra. Lúc ấy, Trụ vương nghe lời Đắc Kỷ bày ra hình Bào lạc để giết hại người tôi trung. Hình bào lạc này được chế ra để xử Bà Khương Hoàng Hậu.



Đao sơn kiếm thụ đầy thành,

Thuỷ lao bào lạc ngục hình gớm thay.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,

Đốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.

(Kinh Sám Hối).



BẢO CÁI 

Bảo: Quý báu. Cái: Cây lọng.

Bảo cái là cây lọng quý giá, chỉ cây lọng dùng để thờ trên chánh điện Phật.



Ào ào dạng bóng tường loan,

Tràng phan bảo cái giao quan âm thầm.

(Quan Âm Thị Kính).



Chuông kêu lẫn tiếng thiều rung,

Cờ xen bảo cái, tán lồng tràng phan.

(Truyện Phan Trần).



BẢO QUỐC HỘ DÂN 

Bảo quốc: Gìn đất nước. Hộ dân: Hộ nhân dân.

Bảo quốc hộ dân là gìn giữ đất nước, bảo hộ nhân dân, ý nói bảo hộ quốc gia dân tộc.



Thánh cung vạn tuế, tại thượng dương dương,

Bảo quốc hộ dân, lưu ân tích phước.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BẠO HỔ 

Do câu “Bạo hổ bằng hà  ” tức là tay không bắt cọp, không thuyền mà lội qua sông. Ý nói làm những việc nóng nảy liều lĩnh, vô ích.

Tử Lộ là người hiếu dũng, thấy Khổng Tử khen Nhan Uyên, bèn hỏi: Nếu thầy thống lĩnh ba quân thì thầy sẽ cộng sự với ai? Khổng Tử đáp: Bạo hổ bằng hà, tử nhi vô hối giả, ngô bất dự dã  , , , nghĩa là tay không mà bắt cọp, không dùng thuyền mà dám vượt sông, đó là hạng chết cũng không biết hối, ta không cùng làm việc với họ.

Nghĩa bóng: Chỉ người có sức lực, nhưng không có mưu trí.



Tính hay bạo hổ đã quen,

Dám tìm chuột bạch đánh ghen tận nhà.

(Truyện Trinh Thử).



BẠO NGƯỢC 

Bạo: Hung tợn. Ngược: Ngang ngược, độc ác.

Bạo ngược là tàn bạo ngang ngược, tức kẻ hung tợn độc ác.



Đừng học thói của quân bạo ngược,

Xử mẹ cha tội phước quá hơn tòa.

(Phương Tu Đại Đạo).



BẠO TẦN 

Bạo: Hung dữ ngược ngạo. Tần: Nhà Tần.

Bạo Tần chỉ nhà Tần bạo ngược, đốt sách chôn Nho, bắt dân xây Vạn Lý Trường Thành, khiến lòng người không phục, đó là dọn đường cho Lưu Bang lập nên nhà Hán.



Bạo Tần dọn chỗ sẵn cho Lưu,

Trời khiến bầy hùng dấy đuổi hươu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

BẠO THẦN 

Bạo: Hung dữ. Thần: Tôi.

Bạo thần là kẻ bầy tôi hung bạo. Người tôi thần đối xử với nhà vua tàn bạo.



Trịnh Hâm là https://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngđứa bạo thần,

Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.

(Lục Vân Tiên).



BÁT ÂM 

Tám loại âm thanh.

Trong âm nhạc, người ta chia ra tám thứ tiếng: 1.-Bào: Tiếng sênh. 2.-Thổ: Tiếng trống đất. 3.-Cách: Tiếng trống da. 4.-Mộc: Tiếng mõ gỗ. 5.-Thạch: Tiếng khánh đá. 6.-Kim: Tiếng chuông đồng. 7.-Ty: Tiếng dây đàn. 8.-Trúc: Tiếng ống sáo tre. Tám loại âm thanh đó gọi chung là bát âm.

Nghĩa bóng: Chỉ chung về âm nhạc.



Dập dìu chốn vũ nơi ca,

Trò bày bách hí, nhịp hoà bát âm.

(Nhị Độ Mai).



Bát âm điệu mới rất hay,

Họa mi nổi tiếng xưa nay đã nhiều.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



BÁT BỬU 

Tám món báu của Bát Tiên, tức là bửu bối của tám vị tu luyện thành Tiên ở núi Bồng Lai. Đó là: 1- Bầu Rượu của Lý Thiết Quả. 2- Quạt của Hớn Chung Ly. 3- Gươm của Lữ Đồng Tân. 4- Sanh của Tào Quốc Cựu. 5- Hoa Lam của Lâm Thái Hoà. 6- Ống Tiêu của Hàn Tương Tử. 7- Gậy của Trương Quả Lão. 8- Bông Sen của Hà Tiên Cô.



Chiếu hoa gối sách bộn bề,

Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra.

(Lục Vân Tiên).



BÁT CANH QUẢNG VÕ

Do điển tích: Vào thời Hán Sở tranh hùng, Lưu Bang và Hạng Võ chia đôi nước Tàu mà làm vua, Lưu Bang lên ngôi là Hán Vương, còn Hạng Võ xưng là Tây Sở Vương. Để tranh được toàn thiên hạ, Hạng Võ bắt cha Lưu Bang là Thái Công tại Quảng Võ, rồi sai người nói với Lưu Bang bảo hàng với Hạng Võ, nếu không hàng thì giết Thái Công.

Hán Vương trả lời với sứ rằng: Ta với Hạng Võ ước làm anh em với nhau, cha ta tức là cha anh ấy, nếu anh ấy muốn giết cha thì nhớ chia cho ta một bát canh. Câu nói của Hán Vương tuy liều lĩnh nhưng mạnh dạn, làm cho Hạng Võ rúng chí, tha Thái Công về và giảng hoà với nhà Hán.

Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ,

Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn.

(Thơ Tôn Thọ Tường).



BÁT ĐỒNG 

Tám cây ngô đồng.

Do câu chuyện nhà người họ Hàn có tám người con đều làm quan to mà trước nhà ở giữa sân có trồng một cây ngô đồng. Vì thế, người ta thường nói: “Hàn gia đồng mộc  ”, nghĩa là cây ngô đồng của nhà người họ Hàn.

Đông hàng lông phượng gót lân,

Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng.

(Nhị Độ Mai).



BÁT LOẠN 

Bát: Dẹp cho yên. Loạn: Giặc giã, trộm cướp.

Bát loạn là chỉ giặc giã, loạn lạc.



Khi bát loạn lòng ngay ít mặt,

Thuở thái bình ăn lộc nhiều người.

(Nhạc Hoa Linh).



Thuở thái bình, yển võ tu văn;

cơn bát loạn, yển văn tu võ.

(Sãi Vãi).



BÁT NƯỚC ĐẦY

Bát nước đầy đổ đi, khó hốt lại đầy.

Do Hán Sử chép: Vợ Châu Mãi Thần thấy chồng vừa đi làm việc, vừa học, nên nghĩ rằng không giàu sang nổi, bèn xin ly dị ông để ra đi. Về sau, Mãi Thần nên danh, vợ trở lại xin tái hiệp. Mãi Thần nói: Bát nước đầy đổ đi, nếu hốt lại đầy được thì mới cho tái hiệp. Vợ Mãi Thần xấu hổ, bèn tự vận chết.

Trạng rằng: Bưng bát nước đầy,

Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.

(Lục Vân Tiên).



BÁT NHà

Tiếng của nhà Phật gọi trí huệ.

Từ Bát nhã là tiếng Hán, dịch âm từ chữ Phạn Prajna để chỉ trí huệ.

Trí Bát nhã được ví như con thuyền chở chúng sanh vượt qua biển luân hồi sinh tử sang đến bờ Niết Bàn giải thoát (Thuyền Bát nhã).



Trương thẳng cánh con thuyền Bát Nhã,

Cổi đau thương giải quả trừ khiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÁT QUÁI 

Nguyên vua Thánh Phục Hy đời Thượng cổ, bắt chước theo Hà Đồ mà vạch ra tám quẻ gọi là Bát quái, gồm có: 1.- Càn, tượng cho trời. 2.- Khôn, tượng cho đất. 3.- Ly, tượng cho mặt trời. 4.- Khảm, tượng mặt trăng. 5.- Chấn, tượng cho sấm. 6.- Tốn, tượng cho gió. 7.- Cấn, tượng cho núi. 8.- Đoài, tượng cho chằm.



Lại ngỏ số ông Chu, ông Thiệu,

Dồn cửu cung, bát quái, vào một nắm tay,

(Thập Giới Cô Hồn).



BÁT TIÊN 

Tám vị Tiên tu luyện đắc đạo ở núi Bồng Lai là: 1- Lý Thiết Quả. 2-Hớn Chung Ly. 3-Lữ Đồng Tân. 4-Hàn Tương Tử. 5-Trương Quả Lão. 6-Lâm Thái Hoà. 7-Tào Quốc Cựu. 8-Hà Tiên Cô.



Rõ ràng son điểm phấn tô,

Bên tranh cửa Lão bên đồ Bát tiên.

(Tư Dung Vãn).



Trong ba ngàn, Sãi vui để một bầu;

Ngoài sáu đạo, Sãi vui với Bát Tiên;

(Sãi Vãi).



Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

(Truyện Kiều).



BÁT TRÂN 

Ngày xưa người Trung Quốc chế ra tám món ăn ngon và quý nhứt, gọi là Bát trân. Đó là: - Gan rồng. - Tuỷ phụng. - Thai con báo. - Đuôi cá gáy. - Chã thịt cú. - Môi đười ươi. - Bàn tay gấu. - Nhượng heo con.



Bấy giờ kinh sợ hãi hùng,

Bát trân chàng mới giải lòng cho qua.

(Truyện Trinh Thử).



BÁT VU 

Bát vu hay bình bát là cái bình đựng đồ ăn và nước uống của các vị tăng ni phái khất sĩ bên Phật giáo.

Bình bát và chiếc áo Ca sa tượng trưng cho Phật pháp, cho nên các tông đồ bên Phật giáo vị nào được thầy truyền lại hai món báu nầy (Y và bát) tức là coi như làm tổ của tông phái đó: Bên Phật, gọi là truyền y bát.

Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,

Hiệp qui Tam Giáo hữu cầu chí chơn.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).



BẠT TUỴ SIÊU QUẦN 

Bạt Tuỵ: Trội hơn quần chúng. Siêu quần: Vượt lên trên mọi người.

Bạt tuỵ siêu quần là người vượt hẳn đám quần chúng, tức là tài giỏi hơn mọi người.



Văn là thượng sĩ danh thần,

Võ thì bạt tụy siêu quần quân trung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÁU NƯỚC HƯƠNG TRỜI

Bởi câu “Quốc bửu thiên hương  ”.

Báu nước do chữ quốc bửu, là quý giá nhất trong nước, ví với người trai có tài đức cao siêu. Hương trời do chữ thiên hương, ví với người con gái có tài sắc tuyệt vời. Ý nói trai tài gái sắc.

Khuôn duyên trộm nghĩ linh đời,

Giẩy giun báu nước hương trời 
sanh nhau

(Hoa Tiên Truyện).



BẮC CỰC 

Tên một ngôi sao, cũng gọi là Bắc thần hay Bắc đẩu. Sao này rất sáng trong nhóm Tiểu hùng tinh. Dùng để chỉ nhà vua.

Xem: Bắc đẩu.

Nền hoàng thành đặt vững Long biên,

Ngôi Bắc cực muôn phương đều cùng hướng.

(Tụng Cảnh Tây Hồ)



BẮC ĐẨU 

Bắc: Hướng bắc. Đẩu: Tên ngôi sao.

Bắc đẩu là một ngôi sao sáng nằm ở phương bắc. Sao Bắc đẩu là một định tinh gồm bảy ngôi sao, gọi là Thất tinh. Bốn vì sao hình cái đầu, ba sao hình cái cán hay cái chuôi.

Theo truyền thuyết, Bắc Đẩu còn là vị thần giữ bộ tử của loài người.

Thức mây đòi lúc nhạt hồng,

Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,

Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.

(Kinh Tận Độ).



BẮC ĐẨU NAM TÀO 

Tên hai vì sao mọc đối nhau ở hai hướng bắc và nam. Theo quan niệm ngày xưa, Bắc đẩu Nam tào còn là tên hai vị thần giữ bộ sinh và bộ tử của loài người.

Xem: Nam Tào Bắc Đẩu.

Phép hay biến hóa, thần thông,

Một ông Bắc đẩu, một ông Nam Tào.

Hai ông giữ sổ Thiên tào,

Mạng dân sanh tử đều vào trong tay.

(Dương Từ Hà Mậu).



Ðài thượng đồng 
xem qua Bắc Ðẩu,

Ngôi sao sáng chói thấu Nam Tào.

(Thiên Thai Kiến Diện).



BẮC ĐƯỜNG

Bắc: Phương bắc. Đường: Nhà.

Hướng bắc của ngôi nhà là phía sau nhà, nơi đàn bà con gái ở.

Kinh Thi có câu: Yên đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối, nghĩa là sao có được cỏ huyên để trồng ở phía sau nhà.

Bắc đường nơi bà mẹ hay chỉ người đàn bà ở.



Rau tần phồn ngoài Nam giản lạnh khô,

Nhà huyên thảo sau Bắc đường quạnh quẻ.

(Tử Tế Mẫu Văn).



BẮC KHUYẾT 

Bắc: Phía bắc. Khuyết: Cái cổng trên có lầu để quan sát.

Bắc khuyết là chỗ vua ngự. Ngày xưa người ta bao giờ cũng dựng cái khuyết nằm về phía bắc để hướng về đó lạy vua, vì vua day mặt về nam.



Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết,

Ngọn quang minh hun mát tấm trung can.

(Văn Tế Võ Tánh).



BẮC LÝ 

Bắc: Phương bắc. : Xóm, làng.

Ở tại Trường An, Kinh đô Trung Quốc ngày xưa, có xóm hướng bắc là nơi gái làng chơi tụ tập. Làng kỹ nữ do đó gọi là xóm “Bình khang” hay xóm “Bắc lý”.

Bắc lý còn là tên một khúc hát dâm ô do vua Trụ đặt ra.

Kìa Bắc lý ngựa xe xum họp,

mối tình duyên khen kẻ khéo dắt dìu.

(Phú Cổ).



BẮC NAM 

Phương bắc và phương nam.

Trong văn học, vì hai phương bắc và nam nằm đối nhau nên được dùng để chỉ sự xa cách hoặc để diễn tả sự gặp gỡ khó khăn.

Ví dụ:


Bắc năm muôn dặm đường chim,

Vì ai bèo nổi mây chìm bấy lâu.

(Hoa Tiên Truyện).



BẮC NHẠN NAM HỒNG 

Chim nhạn bay phương bắc, chim hồng bay phương nam.

Hồng nhạn là đôi chim trống và mái, thường hay bay có đôi bên nhau, nên chim nhạn bay sang bắc, chim hồng về hướng nam là có ý chỉ sự xa xôi cách trở, không bao giờ gặp nhau được.

Nghĩa bóng: Xa cách nhau, mỗi người mỗi ngã.



Khi cử gió lúc tuần mưa,

Khi mong bắc nhạn lúc đưa nam hồng.

(Thơ Bà Nhàn Khanh).



BẮC THẦN 

Bắc: Phương bắc. Thần: Ngôi sao.

Bắc thần là một tòa tinh tú ở phương bắc, còn gọi là sao Bắc cực.

Xem: Bắc cực.

Bắc thần đã mọc xê xê,

Chị em thức dậy lo nghề đi buôn.

(Ca Dao).



BẮN BÌNH

Bắn mắt hình chim sẻ trong bức bình phong, chỉ sự kén rể.

Do tích Lý Uyên, tức Đường Cao Tổ, bắn trúng mắt chim sẻ ở bức bình phong, được Đậu Nghị gả con gái cho. Ấu Học có câu: Xạ tước bình nhi trúng mục, Đường Cao đắc thê  , , nghĩa là bắn trúng mắt chim sẻ ở bình phong, ông Đường Cao Tổ được vợ.

Xem: Xạ tước bình.



Ghe phen tơ đủ lụa đầu,

Bắn bình được khách gieo cầu trái duyên.

(Song Tinh Bất Dạ).



Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,

Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BẮN DƯƠNG

Tức bắn xuyên qua lá dương liễu, chỉ tài bắn giỏi.

Do tích Dưỡng Do Cơ thời Xuân Thu, nổi tiếng về bắn cung giỏi, có thể đứng cách xa lá liễu trăm bước mà bắn trăm phát trăm trúng.

Buột miệng nuốt châu nhả ngọc,

Dang tay dơ cức bắn dương.

(Thập Giới Cô Hồn).



BẮN NHẠN VEN MÂY

Bắn nhạn lấy ý từ chữ nhạn tháp đề danh để chỉ sự đỗ đạt. Ven mây lấy ý từ hội rồng mây để chỉ sự đỗ đạt.

Bắn nhạn ven mây dùng để chỉ sự quyết tâm làm chuyện khó khăn như thi cử.

Chí lăm bắn nhạn ven mây,

Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa.

(Lục Vân Tiên).



BẮN SẺ

Tức bắn con chim sẻ.

Do chữ “Tước bình  ” tức là chim sẻ trong bức bình phong, lấy tích trong Đường Thư: Đậu Nghị muốn tuyển chọn một chàng rể, bèn vẽ một con chim sẻ trên bức bình phong, rồi truyền rao khắp nơi, ai bắn trúng mắt chim sẻ ấy thì gả con gái cho. Nhiều người không bắn trúng, chỉ có Lý Uyên bắn ngay mắt chim, được chọn làm rể nhà họ Đậu. Sau Lý Uyên làm vua, là Đường Cao Tổ, còn con gái nhà họ Đậu được phong làm hoàng hậu.

Xem: Tước bình.



Làng cung kiếm rấp ranh bắn sẻ,

Khách phong hầu gấm ghé mong sao.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Tài bắn sẻ trai dầu chẳng thiếu,

Thì phép hòa tiêu gái liệu cho vừa.

(Phương Tu Đại Đạo).



BĂNG GIÁ NGỌC TRẮNG

Bởi chữ “Băng thanh ngọc khiết  ” tức là trong như băng, tinh khiết như ngọc.

Băng giá ngọc trắng dùng để chỉ hành vi trong trắng, thanh cao.

Xem: Băng ngọc.



Bầu băng giá ngọc trắng ngần,

Dầu đầm giọt nước, phong trần chẳng ham.

(Tự Tình Khúc).



BĂNG HỒ 

Hồ là cái bình bằng pha lê. Băng hồ là một cái bình pha lê trong suốt, lại đựng băng giá nữa thì người ta làm sao thấy tính cách trong trắng của nó được.

Nghĩa bóng: Chỉ tâm trong sạch như câu thơ Đường như sau: Lạc Dương thân hữu như tương vấn, Nhứt phiến băng tâm tại ngọc hồ  , , Lạc Dương thân hữu như cùng hỏi, Một tấm lòng băng tại ngọc hồ.

Băng hồ rơi xuống lầm than

(Tự Tình Khúc).



BĂNG LUÂN 

Băng: Giá tuyết. Luân: Bánh xe.

Băng luân tức là bánh xe băng giá hay vòng tròn tuyết giá. Tô Thức có câu: Tuyết phong khuyết xứ dũng băng luân  , nghĩa là mặt trăng nhô lên từ chỗ khuyết đỉnh núi tuyết.

Nghĩa bóng: Chỉ mặt trăng.

Băng luân một tấm lộng khơi,

Non sông muôn nước bóng ngời lòng soi.

(Dương Từ Hà Mậu).



BĂNG NGỌC 

Băng ngọc là trong trắng như băng, tinh khiết như ngọc, dùng để chỉ hành vi trong sạch thanh cao.

Băng ngọc còn có thể hiểu “Băng tâm tại ngọc hồ  ”, là một mảnh lòng băng tại hồ ngọc, dùng để chỉ tấm lòng thuỷ chung trong trắng.

Xem: Băng giá ngọc trắng.



Đan tâm còn chút gọi là,

Giữ gìn băng ngọc đừng pha bụi trần.

(Tự Tình Khúc).



BĂNG NHÂN 

Băng: Giá, nước gặp lạnh đông lại. Nhân: Người.

Băng nhân là người làm mai mối như chữ môi nhân .

Do điển tích: Linh Hồ Sách là một tri huyện nằm mộng, thấy mình đứng trên tấm băng trò chuyện cùng người đứng dưới phiến băng. Hôm sau, thức dậy mới đoán rằng: Đứng trên băng thuộc dương, đứng dưới băng thuộc âm, mà âm dương tức chỉ vợ chồng. Hồ Sách đứng nói chuyện để liên lạc giữa âm dương là người làm môi giới vậy.

Về sau, băng nhân được dùng để chỉ người làm mai mối.



Sự lòng ngỏ với băng nhân,

Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.

(Truyện Kiều).



Ngỏ lời cậy với băng nhân,

Nói sao êm đẹp mười phần cho nên.

(Ngọc Kiều Lê).



BĂNG TUYẾT 

Băng: Nước lạnh đông lại. Tuyết: Hơi nước trên không gặp lạnh đông lại và rơi xuống.

Băng tuyết tức là băng giá, để chỉ sự trong sạch.

Xem chữ : Băng hồ.

Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:

Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong.

(Truyện Kiều).



Trông vời trời bể mênh mang,

Đem thân băng tuyết gửi hàm giao long.

(Hoa Tiên Truyện).



Đuốc hoa muốn vẹn tình băng tuyết,

Nào phải trăng hoa khéo ởm ờ.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



BẰNG BAY CÔN NHẢY

Bằng là chim đại bàng, một loài chim to lớn, côn là cá côn, như cá kình rất lớn, ví với người có chí lớn, bay nhảy tung hoành.

Trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử Viết: Bắc Minh hữu ngư, kỳ danh vi côn, bất tri kỷ thiên lý dã, hoá vi điểu kỳ danh vi bằng  , , , , nghĩa là bể bắc có con cá tên là cá côn lớn không biết là mấy nghìn dặm, hóa làm con chim, tên là chim bằng, lưng như núi Thái sơn, cánh như đám mây rủ trên trời. Đó là hai vật lớn nhất trên cạn và dưới nước.

Bằng bay côn nhảy ví với người có chí lớn vì tương lai sự nghiệp mà bay nhảy tung hoành.



Nghĩ trong tảo vãn cũng là,

Bằng bay côn nhảy còn chờ hội sau.

(Nhị Độ Mai).



BẰNG HỮU 

Bằng hữu là bạn bè.

Người xưa quan niệm rằng: Nữ vô minh kính, bất tri diện thượng tinh thô; sĩ vô lương hữu, bất tri hành bộ khuy du  , ; , , nghĩa là người đàn bà nếu chẳng có gương trong để soi mặt thì làm sao biết mặt mình dơ, hay sạch. Kẻ sĩ nếu chẳng có bạn hiền, thì ai mách cho mình những lỗi lầm. Như vậy việc kết bằng hữu rất cần thiết, nhưng muốn giao thiệp bạn bè, phải chọn người hiền lương, tín cẩn. Cách chọn bạn của cổ nhân thường rất kỹ lưỡng, bởi họ cho rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Khi bạn bè đã kết nguyền với nhau rồi, ta phải có lòng thành thật đối đãi với nhau, phải tin cậy và kính nhường để giữ niềm hòa ái, tương trợ tương thân. Anh em phải khuyên bảo nhau, giúp đỡ lẫn nhau, nếu có lỗi lầm, phải sửa đổi lẫn nhau, nghèo nàn phải thương yêu nhau, hoạn nạn phải cứu giúp nhau.



Dốc tình bằng hữu chu tuyền,

Nghĩa Hồng nhạn vẫn còn truyền xưa nay.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Anh em bằng hữu kết nguyền,

Một lòng tin cậy phải kiêng phải vì.

(Kinh Sám Hối).

BAN SIÊU 

Người đời Đông Hớn, tự là Trọng Thăng, nhà rất nghèo, nhưng có chí lớn, thường đi viết mướn lấy tiền ăn học và nuôi mẹ già, không màng khó nhọc. Lắm lúc bực tức, ném bút mà than rằng: Đại trượng phu phải đeo cung mang đao theo gương Phó Giới Tử và Trương Khiên lập công danh ở miền biên thuỳ để được phong hầu, chứ lẽ đâu lại theo nghiên bút mà tàn lụi bao giờ.

Sau Ban Siêu đầu quân đánh giặc ở miền Tây Vực, thu phục hơn năm mươi nước nhỏ, được phong làm Định Viễn Hầu.

Những tài tót núi nhảy sông,

Sánh cùng Tôn Vũ sức cùng Ban Siêu.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



BAN THỊ 

Tức nàng Ban làm chức Tiệp dư đời vua Thành Đế nhà Hán. Vua Thành Đế muốn nàng Ban Tiệp dư ngồi chung xe phượng liễn đi chơi chốn hậu đình, nàng đều từ chối.

Sau bị nàng Triệu Phi Yến gièm pha, bà sợ hại thân, bèn xin vua cho theo hầu bà Thái Hậu, mẹ vua ở cung Trường Tín.

Xem: Nàng Ban.



Chối liễn phượng chẳng ngồi,

Ban Thị sự đà sau thấy;

Chống muôn hùng nào ngại,

Phùng Cơ lòng hãy xa ngừa.

(Cung Trung Bảo Huấn).



BAN TRÚC 

Ban: Có vằn lốm đốm. Trúc: Cây trúc, cây tre.

Ban trúc là tên một thứ trúc có vằn lốm đốm, được người ta dùng làm quạt. Do đó, loại quạt này được gọi là quạt Ban trúc.



Nón kiển hàng, sãi sắm một cái cho xinh ghê,

Quạt ban trúc, sãi sắm một cây cho báu riết.

(Sãi Vãi).



BÁN KHAI 

Bán: Phân nửa. Khai: Mở mang.

Bán khai là mới mở mang được phân nửa, chỉ những dân tộc còn chậm tiến, chưa được khai hoá hoàn toàn.



Văn minh rày đã bán khai,

Mà đây còn hãy như đời Hùng Vương.

(Thơ Tản Đà).



BÁN NƯỚC CẦU VINH

Bởi câu “Mãi quốc cầu vinh  ”.

Làm dân không giúp ích gì cho đất nước, trái lại vì muốn cầu sự vinh hiển mà làm những việc có hại cho quốc gia, hoặc thông đồng với ngoại bang phản lại đất nước, đó gọi là bán nước cầu vinh.

Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược.

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh,

(Bình Ngô Đại Cáo).



BÁN NGUYỆT MUA HOA

Nguyệt hoa là trăng hoa, chỉ sự tư tình giữa trai gái, sự ăn chơi đàn điếm.

Bán nguyệt mua hoa là nói hạng gái lầu xanh, chuyên đem việc trăng hoa ra mua bán.

Xem: Buôn hương.



Chỉ những phường bán nguyệt mua hoa,

Đưa hơi quyển ngâm nga trêu sắc gái.

(Phương Tu Đại Đạo).



BÁN TÍN BÁN NGHI 

Bán tín: Nửa tin tưởng. Bán nghi: Nửa nghi ngờ.

Bán tín bán nghi là nửa tin nửa ngờ, tức chưa tin tưởng hoàn toàn.



Nguyệt Nga bán tín bán nghi,

Đánh liều nhắm mắt theo đi về nhà.

(Lục Vân Tiên).



BÁN TỬ 

Bán: Phân nửa. Tử: Con.

Bán tử dùng để chỉ con rể, xem gần như là con.

Trong Đường Thư có câu: Tích vi huynh đệ, kim tế bán tử dã. Bệ hạ nhược hoạn Tây Nhung tử, thỉnh dĩ binh trừ chi  , 婿 , 西 , , nghĩa là trước kia là anh em, bây giờ là con rể, con một nửa rồi. Bệ hạ nếu có lo về con ở Tây Nhung này, thì xin dùng binh mà trừ đi.

Cậy người môn lại thưa lời,

Đưa tin bán tử họ Mai sang hầu.

(Nhị Độ Mai).



BÀN CANH 

Tên một ông vua đời nhà Thương.

Nhà Thương đóng đô ở Hạ Bắc đã lâu đời, chính sự đã suy tàn, đến đời vua Bàn Canh muốn thay đổi vận nước, mới thiên đô về kinh đô cũ của Thành Thang, nên khiến dân tình ta thán vì phải bỏ cửa bỏ nhà đi theo. Nhà vua mới làm ba thiên Bàn Canh để an ủi dân tình.

Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



BÀN CỔ 

Theo truyền thuyết của Trung Quốc thì Bàn Cổ là tên một ông vua thuỷ tổ của loài người.

Tương truyền, khi trời đất đã định vị thì vua Bàn Cổ đã xuất hiện trị đời.

Vua Bàn Cổ mở lò tạo hoá,

hồng mông đà lẽo đẽo thêm xuân;

họ Hữu Ngu khoi mạch sơn xuyên,

cương giới vẫn rành rành như tạc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



Pháp bèn cất tiếng hét lên,

Mời ông Bàn Cổ tọa thiền chứng miêng.

(Lục Vân Tiên).



BÀN ĐÀO 

Tên một loại đào Tiên của bà Tây Vương Mẫu.

Theo sách Hán cổ sử: Vua Hán Võ Đế cầu bà Tây Vương Mẫu, được ban cho bốn quả đào Tiên và cho biết rằng: Cây bàn đào ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm nữa mới kết quả, ăn được một quả thì sống đời đời.

Người dâng thánh thọ vô cương,

Bàn đào chánh nhụy thiên hương đầy toà.

(Tư Dung Vãn).



Rượu cúc Bàn Ðào chờ hội ẩm,

Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.

(Đạo Sử).



BÀN GIAO 

Bàn: Cứu xét kỹ càng. Giao: Trao đổi cho nhau.

Khi thay đổi về chức vụ, người cũ xem xét lại hồ sơ, giấy tờ để trao lại cho người mới, đó gọi là bàn giao.



Phu nhân công tử xuống thoàn,

Mai công ở lại đợi còn bàn giao.

(Nhị Độ Mai).



BÀN HOÀN 

Bàn hoàn có nghĩa là loanh quanh, bịn rịn, hay do dự không quyết định.



Nàng rằng: Thiên tải nhất thì,

Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.

(Truyện Kiều).



Nỗi riêng riêng những bàn hoàn,

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn

(Truyện Kiều).



Sá chi nửa cánh hoa tàn,

Tình kia ý nọ bàn hoàn nữa chi.

(Truyện Trinh Thử).



BÀN KHÊ

Khương Tử Nha lúc còn hàn vi ngồi câu cá ở sông Vị tại Bàn Khê. Sau vua Văn Vương nhà Châu đi săn bắn, gặp ông rước về tôn làm thầy. Ông đã giúp cho vua Văn Vương và Võ Vương dựng nên nghiệp nhà Châu.



Nọ nọ Bàn Khê công nghiệp cả,

Xuân thu lần kể tám mươi dư.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Lữ dù chưa gặp xe Văn,

Câu kia chưa dễ buông cần Bàn Khê.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



BẢN SƯ 

Hay “Bổn sư”, có nghĩa là thầy ta.

Đức Phật Thích Ca là Tổ và khai sáng ra Phật Giáo, nên những tín đồ theo đạo Phật đều gọi là Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Bản sư rồi cũng đến sau,

Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.

(Truyện Kiều).



BẠN KIM LAN 

Bạn: Bè bạn. Kim lan: Vàng và hoa lan.

Bạn kim lan bạn bè giao du thân thiết, tình nghĩa bền chặt như vàng, khí vị thơm như hoa lan.



Bàn riêng mấy bạn kim lan,

Phường ta bất quá sàn sàn bực trung.

(Nhị Độ Mai).



BẠN LOAN 

Bạn: Bè bạn. Loan: Chim loan.

Bạn loan là đôi chim loan làm bạn không rời nhau.

Nghĩa bóng: Chỉ bạn tình, hay vợ chồng.

Đã trồng bạch bích dành đây,

Còn chờ bói phụng chưa vầy bạn loan.

(Quan Âm Thị Kính).



BẠN LỮ 

Bạn: Bè bạn. Lữ: Bạn.

Bạn lữ tức là cùng trang lứa làm bạn bè với nhau.



Giang hồ bạn lữ câu tan hiệp,

Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say.

(Thơ Nguyễn Công Trừ).



Mãn kiếp những nỗi mình, mình xử,

Nào 
mong chi bạn lữ giúp nên.

(Phương Tu Đại Đạo).



Dầu kén chọn vào hàng bạn lữ,

Nên cho em hạng thứ trên người.

(Phương Tu Đại Đạo).



BẠN NGHỊCH 

Bạn: Làm phản. Nghịch:Trái ngược.

Bạn nghịch là kẻ làm loạn, làm phản. Đồng nghĩa với chữ phản nghịch.



Vua Đường cất lấy xem qua,

Mới hay bạn nghịch ấy là Bá Cao.

(Nhị Độ Mai).



BẠN TÁC

Bạn tác tức là bạn bè cùng tuổi tác, cùng trang lứa với nhau.



Xảy đâu bạn tác vừa ra,

Trực cùng Hâm, Kiệm xúm cùng đưa Tiên.

(Lục Vân Tiên).



Mình dầu đồng bạn tác cùng quan,

Đừng hổ phận bần hàn cha mẹ.

(Phương Tu Đại Đạo).



BÀNG CỬ 

Bàng Cử là hiệu của Nhạc Phi.

Nhạc Phi là một danh tướng đời Tống, sanh ở huyện Thang Âm, làm đến chức Ðại Nguyên Soái đời vua Cao Tông. Ông một lòng tận trung báo quốc, đem quân đi đánh thắng nước Liêu, bảo vệ bờ cõi, nhưng vua Cao Tông hôn ám, dùng kẻ gian thần là Tần Cối làm Tể Tướng, để Tần Cối gièm pha hãm hại giết chết Nhạc Phi.

Xem: Nhạc Phi.



Tam ưu Bàng Cử trắng đầu non,

Mua lấy chức quan đức phải mòn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BÀNG QUYÊN 

Người nước Nguỵ đời Chiến Quốc, cùng Tôn Tẩn học một thầy là Quỷ Cốc Tiên Sinh, nhưng thua tài Tôn Tẩn, nên thường tìm cách hãm hại. Bàng Quyên làm quân sư cho Nguỵ Huệ Vương, cầm quân đánh đâu thắng đó nên sinh ra kiêu căng ngạo mạn.

Sau Tôn Tẩn giúp Tề, đem quân dụ Bàng Quyên tới Mã Lăng rồi cho phục binh bắn chết theo lời thề.

Xem Tôn Tẩn.



Cười người Tôn Tẩn không lừa,

Trước đà thẫy máy chẳng ngừa Bàng Quyên.

(Lục Vân Tiên).



BÀNG SINH 

Bàng: Một bên. Sinh: Chỉ sinh vật.

Bàng sinh là một sinh vật thuộc loài vật hạ đẳng hơn súc vật như cá cua, tôm, ốc…



Hoặc đọa địa ngục, Tu la,

Làm thân ngạ quỉ cùng là bàng sinh.

(Hứa Sử Tân Truyện).



BẢNG HỔ

Do chữ “Hổ bảng  ”.

Đời nhà Mãn Thanh nước Trung Hoa chỉ võ khoa là hổ bảng.

Ở Việt Nam, Long bảng (Trên bảng có vẽ rồng) đề tên những người đậu Tiến sĩ; Hổ bảng (Vẽ cọp) đề tên những người đậu Cử nhân; Mai bảng (Vẽ cây mai) đề tên những người đậu Tú tài.



Chẳng hay bảng hổ không danh,

Huyện quan cũng khỏi Nho sanh chê cười.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Trời xanh đâu phụ người văn học,

Bảng hổ đề danh mới sướng cho.

(Thơ Bùi Hữu Nghĩa).



BẢNG HÙM

Do chữ “Hổ bảng  ”, tức là bảng có vẽ hình con cọp, dùng để ghi tên những người thi đỗ cử nhân.

Bảng hùm ở nhà Thanh, Trung Hoa còn dùng để chỉ những người thi đậu về võ khoa.

Xem: Bảng hổ.



Đất bằng một tiếng sấm vang,

Bảng hùm tỏ phạm, tháp nhàn diễn Trương.

(Sơ Kính Tân Trang).



BẢNG MAI 

Bảng mai hay mai bảng là bảng ghi tên những người thi đỗ trong kỳ thi Hội. Bởi vì thi Hội được tổ chức vào mùa xuân khi hoa mai nở lúc cuối tháng chạp, đầu tháng giêng Âm lịch.



Hội xuân đầu chiếm bảng mai,

Cám công đèn sách dùi mài bấy lâu.

(Lưu Nữ Tướng).

BẢNG NHÃN 

Ngày xưa khoa thi Tiến sĩ có ba bực: Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa. Như vậy, Bảng nhãn là đỗ vào bậc thứ hai của khoa Đình thí, dưới bậc Trạng nguyên.



Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa,

Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Trước đền đứng lặng đầu ngao,

Dương Trân Bảng Nhãn, Bửu vào Thám hoa.

(Dương Từ Hà Mậu).



BẢNG RỒNG

Rồng là loài vật linh, thường dùng để chỉ nhà vua.

Bảng rồng là bảng dùng để ghi tên những người thi đỗ trong các khoa thi do nhà vua tổ chức.

Khen cho gái biết tìm chồng,

Đuốc hoa lại đợi bảng rồng mới toan.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Bảy mừng học sĩ quyết khoa,

Chuyên cần lập nghiệp tên ra bảng rồng.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BẢNG THU 

Bảng niêm yết những người thi đỗ vào mùa thu. Ngày xưa thi hương thường tổ chức vào mùa thu.



Bảng thu sớm sớm đề tên,

Tiện đường sớm lại ruỗi liền hội xuân.

(Hoa Tiên Truyện).



BẢNG VÀNG

Do chữ “Kim bảng  ”, tức là bảng có thếp vàng, đề tên những vị tân khoa đỗ Tiến sĩ trong thời khoa cử ngày xưa của Việt Nam.

Xem: Kim bảng.

Phước thừa muôn đội tông môn,

Bảng vàng may trộm chữ son tên đề.

(Truyện Phan Trần).



Xin vâng, nhưng hãy xin chờ,

Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa cũng vừa.

(Nhị Độ Mai).



Hai chàng đi tới Tấn bang,

Vào trường thi hội, bảng vàng đỗ cao.

(Dương Từ Hà Mậu).



Trời sao nỡ phụ tài lành,

Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.

(Lục Vân Tiên).



BẢNG VÀNG BIA ĐÁ

Bảng vàng do chữ “Kim bảng  ”, tức là bảng có thếp vàng, để đề tên những sĩ tử được thi đỗ. Bia đá dùng để khắc tên những người thi đậu.

Bảng vàng bia đá chỉ những người thi đỗ trong chế độ khoa cử ngày xưa.

Tới năm mươi tuổi đã vừa,

Bảng vàng bia đá, quan đưa tận nhà.

(Huấn Nữ Ca).



BẢNG XUÂN

Do chữ “Xuân bảng  ” tức là bảng chép tên những người thi đỗ Tiến sĩ của kỳ thi Hội, được tổ chức vào mùa xuân.



Bảng xuân nay đã dự mừng,

Muôn hồng nghìn tía tưng bừng đón ai.

(Truyện Phan Trần).



Giao rằng chiếm được bảng xuân,

Trở về rồi sẽ hôn nhân kết nguyền.

(Nữ Tú Tài).



Tình cờ chiếm được bảng xuân,

Ấy là phú quý đầy sân quế hoè.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BẠNG CÒ

Tức con trai và con cò, bởi câu “Bạng duật tương trì  ”, nghĩa là con trai và con cò níu kéo, giằng co nhau. Ý nói hai người tranh nhau, khiến người thứ ba được lợi.

Xem: Bạng duật.

Sẩy đàn tan nghé bơ vơ,

Bạng khoe sức bạng,  khoe sức cò.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



BẠNG DUẬT 

Như chữ “Bạng duật tương trì  ”, nghĩa là con trai và con cò níu kéo nhau.

Con trai há mồm phơi nắng, con cò mổ vào ruột trai, trai liền ngậm lại, kẹp mỏ cò. Hai đàng giằng co với nhau thì có ông câu được lợi, bắt cả trai lẫn cò.

Nho có câu: Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi tiếu hi hi  , , (trai cò giằng co, ông câu bắt được cười ha hả).



Dằng dai bạng duật bao lâu,

Bóng ô hè giục sang thâu bấy chầy.

(Hoa Tiên Truyện).



Thế bạng duật đương còn đối mặt,

Thói đường lang sao khéo lắng tai.

(Hịch Tây Sơn).



BẠNG GIÀ SINH CHÂU

Bởi câu “Lão bạng sinh châu  ”, tức là con trai già sinh ra ngọc, ý muốn nói người già sinh ra con quý, chỉ điềm tốt.



Thú vui nửa thú ngư hà,

Rùa linh đội sách, bạng già sinh châu.

(Tư Dung Vãn).



BÀNH TỔ 

Bành Tổ là người đời Đường Nghiêu, họ Tiền tên Kiên, cháu của vua Xuyên Húc, được phong chức ở Bành Thành, nên người ta gọi ông là Bành Tổ.

Tương truyền Bành Tổ là người sống lâu, từ đời nhà Hạ đến nhà Ân, tính ra hơn 800 năm.

Làm chi nghiêng ngửa duỗi co,

Như ông Bành Tổ riêng lò hóa công.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Chòm rong lộp xộp râu Bành Tổ,

Kẹt đá gio gie nướu Tử Nha.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



BÀNH THÀNH 

Vào đời Xuân Thu, Bành Thành là một ấp của nước Tống. Sau nước Tần đặt thành huyện, nay là Từ Châu Thị, thuộc tỉnh Giang Tô.



Thiền cao chưa đủ đỡ muôn linh,

Như thuở Hạng Vương ở Bành Thành.

(Đạo Sử).



BÀNH TRẠCH 

Tên một huyện thuộc tỉnh Giang Tây, nơi Đào Uyên Minh, đời nhà Tấn đã từng là Huyện lệnh ở đây.

Xem: Đào Tiềm.

Cuộc cờ chén rượu cung đàn,

Thơ ngâm Bành Trạch, tranh vờn Tiêu tương.

(Sơ Kính Tân Trang).



BÀNH VIỆT

Bành Việt tự là Trọng, người Xương Ấp, nay thuộc tỉnh Sơn Đông. Trước Bành Việt theo thờ Hạng Võ, sau về với Hán Cao Tổ, lập được nhiều công to. Khi đất nước được thống nhất, Bành Việt bị vua Hán Cao Tổ tru di tam tộc.



Thưa rằng: Bành Việt Lương Vương,

Xem dường dung mạo có phương hơn người.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



BAO BIẾM 

Bao: Khen. Biếm: Chê.

Bao biếm là khen và chê.

Người đời sau nói về kinh Xuân Thu của Đức Khổng Tử như sau: Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt  , , , , nghĩa là một chữ khen, thì vinh hơn cái áo hoa cổn của vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn là tội bị rìu búa.

Hơn thua trối mặc đời bao biếm,

Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.

(Đạo Sử).



BAO CHỬNG 

Tên gọi là “Bao Công  ”, tự là Hy nhơn, người ở đất Hiệp Phì đời nhà Tống. Ông là người có tiếng xét án giỏi, vụ án dầu bí mật và bao lâu, ông đều xử ra manh mối.

Bao Chửng là người rất ngay thẳng, giữ gìn luật pháp rất nghiêm minh, nên những kẻ quyền quý hay hoạn quan đều rất nể sợ.

Bao Chửng làm đến chức Khu Mật Phó Sứ, từng xử nhiều vụ án ly kỳ được chép ở sách Bao Công Kỳ Án.



Ở đài các giữ lòng Bao Chửng,

Nhiệm Tướng Khanh thì thói Nguỵ Trưng.

(Quốc Âm Thi Tập).



BAO DUNG 

Bao: Trùm lên. Dung: Tha thứ.

Bao dung là chỉ người có lòng độ lượng, hay tha thứ bảo bọc kẻ khác.



Lượng bao dung dầu quyết hẹp hòi,

Tư minh đạt có đâu lầm lỗi.

(Tần Cung Nữ).



BAO QUẢN

Bao là đâu, há không, thế nào. Quản là ngại.

Bao quản là chẳng ngại gì, há ngại sao, không nệ gì…Bao quản là tiếng dùng để chỉ tâm lý của người an phận, cam chịu khi gặp nghịch cảnh đòi hỏi hy sinh.

Thân lươn bao quản lấm đầu,

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!

(Truyện Kiều).



Phận bèo bao quản nước sa,

Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.

(Truyện Kiều).

Búa rìu bao quản thân tàn,

Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.

(Truyện Kiều).

BAO TỶ 

Bao Tỷ hay Bao Tự là người phi sủng ái của Châu U Vương. Sau U Vương phế Thân Hoàng Hậu để lập Bao Tỷ làm chánh cung. Vì ham mê sắc đẹp của Bao Tỷ mà vua U Vương không thiết với chính sự đến nỗi sau phải mất nước. Xem: Bao Tự.



Trà mi kém sắc hơn hường,

Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BAO TÓC

Bởi chữ “Đối phu phong phát  ” tức là bao tóc đợi chồng.

Đường Thư chép: Ông Giả Trực Ngôn là một vị quan, vì có công việc mà phạm tội bị đày đi Lĩnh Nam, bèn từ biệt cùng vợ là bà Đổng Thị rằng: Sự sống chết không thể hẹn kỳ, nay tôi bị tội đày 20 năm, ra đi không biết sống chết thế nào, nàng ở lại nên tái giá để nương tựa tấm thân! Vợ khóc mà không đáp lại, chỉ lấy dây buộc tóc, bao ngoài bằng vải lụa, nhờ Trực Ngôn viết lên rằng: Phi quân thủ bất giải  , có nghĩa là chẳng phải tay chàng, không mở.

Sau đó, Trực Ngôn bị đi đày, Hai mươi năm sau mới được trở về, chữ và lụa trên đầu vợ còn rành rạnh, đến khi đem nước nóng gội tóc, tóc rụng tất cả. Thật là “trinh tiết” đáng khen!

Người đời sau khen rằng: Đổng Thị đối phu phong phát, trinh tiết kham khoa  , , nghĩa là bà Đổng Thị đối chồng bao tóc, trinh tiết thật đáng khen.

Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên,

Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.

(Kinh Thế Đạo).



Thiếp cam bao tóc thờ chàng,

Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!

(Kinh Thế Đạo).



BAO TỰ 

Bao Tự hay Bao Tỷ là một người con gái đẹp đời Chiến Quốc, do Bao Hồng Đức xuất vải lụa mua để tiến vào cung cho Châu U Vương đặng xin tội cho cha là Bao Quýnh.

Bao Tự vào cung được vua U Vương sủng ái, phế Thân Hoàng hậu và Thái Tử Nghi Cửu để lập Bao Tự làm Chánh cung Hoàng hậu và con là Bá Phục làm Thái Tử. Bao Tự có gương mặt rất đẹp, nhưng luôn luôn buồn ủ dột, không khi nào có một nụ cười. Biết nàng thích nghe tiếng lụa xé, U Vương truyền xuất cả trăm cây lụa trong kho để xé cho Bao Tự nghe. Nghe qua mặt nàng chỉ tươi một chút mà không cười.

Tại Ly Sơn thời ấy có đắp một cái đài gọi là Phong Hoả Đài, khi nào Kinh thành có loạn thì đốt lửa trên ấy để báo cho các chư hầu biết mà đem binh về cứu viện. Để làm vừa lòng U Vương, Quách Thạch Phủ bèn dâng kế cho đốt lửa Phong Hoả Đài, đánh lừa chư hầu mà làm trò cười cho Bao Tự.

Vua U Vương nghe theo, truyền đốt Phong Hoả Đài, lửa bốc lên cao, chư hầu vội vàng kéo quân đến nườm nượp. Khi tới nơi thấy không có giặc giả, chỉ có U Vương và Chánh hậu bày tiệc uống rượu, chư hầu xẻn lẻn cuốn cờ xếp giáo, kéo nhau ai về xứ nấy. Chừng đó Bao Tự thích chí đứng dựa lan can mà cười ngất.

Sau đó, Thân hầu keo binh đánh kinh đô, U Vương truyền đốt Phong Hoả Đài, nhưng chư hầu sợ bị lừa lần nữa, nên không ai đem binh tiếp cứu. Kết quả, Châu U Vương và Bao Tự đều bị giết chết.



Ly Sơn cười một phút,

Bao Tự kia lầm hết chư hầu.

Vị Thuỷ đòi phen,

Dương Phi nọ độc hòa thiên hạ.

(Cung Trung Bảo Huấn).



Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi,

Tôi yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng.

(Nhị Hồ, Thơ Xuân Diệu).



BÁO ÁC 

Báo ác tức là làm điều ác đức, hung dữ sẽ gặp phải việc chẳng lành.



Tích Hiền có câu: Thiện hữu thiện báo, Ác hữu ác báo. Nhược hoàn bất báo, Thời thần vị đáo 
, . ,  , nghĩa là lành có lành báo, dữ có dữ báo. Nếu như chưa thấy báo, thì do thời giờ chưa đến mà thôi.

Ở hiền thì lại gặp lành,

Ở ác báo ác rành rành chẳng sai.

(Ca dao).



BÁO ÂN CHÂU 

Theo sách Tam Tần Ký chép: Ngày xưa, có người câu cá ở hồ Côn Minh, giật lên đứt nhợ, lưỡi câu còn nằm nơi miệng cá.

Cá thoát chết, bèn cho vua Hán Văn Đế nằm mộng, nhờ vua đến hồ lấy giúp lưỡi câu trong miệng. Hôm sau, vua ra chơi ở hồ quả nhiên thấy một con cá lớn còn vướng sợi nhợ. Vua bắt cá, gỡ giúp lưỡi câu ở miệng, rồi thả đi.

Một ngày kia, vua chơi bên hồ nhặt được hai hạt minh châu lớn, đẹp. Vua cho rằng: Đó là cá báo ơn.



BÁO ÂN DĨ OÁN 

Lấy oán báo ơn.

Thói thường, người ta thường lấy điều phước đức đền đáp lại với người có ơn nghĩa với mình, đó là: “Dĩ đức báo ân” .

Nhưng ở đây, lại có những người đem điều thù hằn, oán hận để trả lại điều ơn nghĩa mà người ta đã giúp mình.



Chẳng nhớ câu “Dĩ đức hành nhân”,

Lại lấy chữ “Báo ân dĩ oán”.

(Lục Súc Tranh Công).

BÁO BỔ 

Báo: Đáp trả lại. Bổ: Làm việc có ích cho người.

Báo đáp ơn nghĩa bằng cách giúp ích cho người, tức là đền bù những lúc người ta vì mình mà cực nhọc.



Làm trai trong cõi người ta,

Trước lo báo bổ, sau lo giữ mình.

(Lục Vân Tiên).



Vậy có người hiền lo báo bổ,

Hai mươi bốn thảo dấu còn nay.

(Dương Từ Hà Mậu).



BÁO ĐỀN BA XUÂN

Bởi câu trong thơ cổ "Thùy ngôn thốn thảo tâm, Báo đáp tam xuân huy  , ", nghĩa là ai bảo rằng tấm lòng của tấc cỏ mà báo đáp được ánh sáng của ba mùa xuân. Lời của một người con đi xa nhớ mẹ.



Môn mi mong những nhờ duyên,

Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân.

(Nhị Độ Mai).



BÁO ĐỨC THÙ CÔNG 

Báo đức: Đáp trả lại ân đức. Thù công: Đền trả công ơn.

Báo đức thù công tức là đền đáp cái ân đức và trả công ơn của người đã giúp mình.



Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.

(Lục Vân Tiên).



BÁO TIỆP 

Báo: Đem tin tức. Tiệp: Thắng trận.

Báo tiệp là báo tin cho biết đã thắng trận.



Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng,

Cờ báo tiệp giữa trời nam lay bướm nhẹ...

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



BÁO ỨNG 

Báo: Trả lại. Ứng: Đáp lại.

Báo ứng là được đền trả lại những gì do chính mình đã gây tạo, như làm lành trả lành, làm ác trả ác.



Ngàn xưa mấy kẻ 
gian ngay,

Xem cơ báo ứng biết tay trời già.

(Nhị Độ Mai).



Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,

Thiệt trời báo ứng lẽ nầy rất ưng.

(Lục Vân Tiên).



Cho hay duyên kiếp bởi trời,

Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai.

(Truyện Trinh Thử).



Vì chưng tựu thiểu thành đa,

Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.

(Kinh Sám Hối).



BÀO ẢNH 

Bọt nước và cái bóng là hai vật rất mong manh, dùng để chỉ sự hư ảo.

Kinh Kim Cang có câu: Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn, bào, ảnh như lộ diệc như điện ưng tác như thị quan  , , , nghĩa là các pháp hữu vi tức là việc đời như giấc chiêm bao, bọt nước và cái bóng, như giọt móc cũng như ánh sáng của chớp nhoáng thì hết thảy nên xem như vậy cả. Ý nói những sự hiện hữu trên cuộc đời này đều không được lâu bền.

Xem: Mộng ảo.



Sóng cồn cửa biển nhấp nhô,

Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Kìa bào, kìa ảnh vút qua,

Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm bao.

(Quan Âm Thị Kính).



Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,

Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không.

(Thập Loại Chúng Sinh).



BÀO HY 

Bào Hy tức Phục Hy, vị vua thời thượng cổ theo truyền thuyết Trung Hoa, họ Phong đóng đô ở đất Trần, dạy dân biết cày bừa, chăn nuôi súc vật để đưa vào bếp nấu nướng nên được gọi là Bào Hy. Phục Hy cũng là người đầu tiên vạch ra bát quái (Tám quẻ), cơ sở của Kinh Dịch.

Theo sách Thượng Thư Đại Truyện thì Phục Hy là một vị vua thứ hai trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân , Phục Hy , và Thần Nông .

Xem: Phục Hy.



Môn rằng: Tám quẻ Bào Hy,

Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BÀO LẠC 

Một thứ dụng cụ dùng để tra tấn tội nhơn rất ghê gớm. Sách Liệt Nữ Truyện chép: Một cột đồng dựng đứng có bôi mỡ, bên trong đốt than cháy đỏ rực. Tội nhân bị cột vào trụ đồng cho đến chết cháy như quay.

Hình phạt này có vào thời nhà Thương do Trụ Vương nghĩ ra. Lúc ấy, Trụ vương nghe lời Đắc Kỷ bày ra hình Bào lạc để giết hại người tôi trung. Hình bào lạc này được chế ra để xử Bà Khương Hoàng Hậu.



Đao sơn kiếm thụ đầy thành,

Thuỷ lao bào lạc ngục hình gớm thay.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,

Đốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.

(Kinh Sám Hối).



BẢO CÁI 

Bảo: Quý báu. Cái: Cây lọng.

Bảo cái là cây lọng quý giá, chỉ cây lọng dùng để thờ trên chánh điện Phật.



Ào ào dạng bóng tường loan,

Tràng phan bảo cái giao quan âm thầm.

(Quan Âm Thị Kính).



Chuông kêu lẫn tiếng thiều rung,

Cờ xen bảo cái, tán lồng tràng phan.

(Truyện Phan Trần).



BẢO QUỐC HỘ DÂN 

Bảo quốc: Gìn đất nước. Hộ dân: Hộ nhân dân.

Bảo quốc hộ dân là gìn giữ đất nước, bảo hộ nhân dân, ý nói bảo hộ quốc gia dân tộc.



Thánh cung vạn tuế, tại thượng dương dương,

Bảo quốc hộ dân, lưu ân tích phước.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BẠO HỔ 

Do câu “Bạo hổ bằng hà  ” tức là tay không bắt cọp, không thuyền mà lội qua sông. Ý nói làm những việc nóng nảy liều lĩnh, vô ích.

Tử Lộ là người hiếu dũng, thấy Khổng Tử khen Nhan Uyên, bèn hỏi: Nếu thầy thống lĩnh ba quân thì thầy sẽ cộng sự với ai? Khổng Tử đáp: Bạo hổ bằng hà, tử nhi vô hối giả, ngô bất dự dã  , , , nghĩa là tay không mà bắt cọp, không dùng thuyền mà dám vượt sông, đó là hạng chết cũng không biết hối, ta không cùng làm việc với họ.

Nghĩa bóng: Chỉ người có sức lực, nhưng không có mưu trí.



Tính hay bạo hổ đã quen,

Dám tìm chuột bạch đánh ghen tận nhà.

(Truyện Trinh Thử).



BẠO NGƯỢC 

Bạo: Hung tợn. Ngược: Ngang ngược, độc ác.

Bạo ngược là tàn bạo ngang ngược, tức kẻ hung tợn độc ác.



Đừng học thói của quân bạo ngược,

Xử mẹ cha tội phước quá hơn tòa.

(Phương Tu Đại Đạo).



BẠO TẦN 

Bạo: Hung dữ ngược ngạo. Tần: Nhà Tần.

Bạo Tần chỉ nhà Tần bạo ngược, đốt sách chôn Nho, bắt dân xây Vạn Lý Trường Thành, khiến lòng người không phục, đó là dọn đường cho Lưu Bang lập nên nhà Hán.



Bạo Tần dọn chỗ sẵn cho Lưu,

Trời khiến bầy hùng dấy đuổi hươu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

BẠO THẦN 

Bạo: Hung dữ. Thần: Tôi.

Bạo thần là kẻ bầy tôi hung bạo. Người tôi thần đối xử với nhà vua tàn bạo.



Trịnh Hâm là https://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngđứa bạo thần,

Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.

(Lục Vân Tiên).



BÁT ÂM 

Tám loại âm thanh.

Trong âm nhạc, người ta chia ra tám thứ tiếng: 1.-Bào: Tiếng sênh. 2.-Thổ: Tiếng trống đất. 3.-Cách: Tiếng trống da. 4.-Mộc: Tiếng mõ gỗ. 5.-Thạch: Tiếng khánh đá. 6.-Kim: Tiếng chuông đồng. 7.-Ty: Tiếng dây đàn. 8.-Trúc: Tiếng ống sáo tre. Tám loại âm thanh đó gọi chung là bát âm.

Nghĩa bóng: Chỉ chung về âm nhạc.



Dập dìu chốn vũ nơi ca,

Trò bày bách hí, nhịp hoà bát âm.

(Nhị Độ Mai).



Bát âm điệu mới rất hay,

Họa mi nổi tiếng xưa nay đã nhiều.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



BÁT BỬU 

Tám món báu của Bát Tiên, tức là bửu bối của tám vị tu luyện thành Tiên ở núi Bồng Lai. Đó là: 1- Bầu Rượu của Lý Thiết Quả. 2- Quạt của Hớn Chung Ly. 3- Gươm của Lữ Đồng Tân. 4- Sanh của Tào Quốc Cựu. 5- Hoa Lam của Lâm Thái Hoà. 6- Ống Tiêu của Hàn Tương Tử. 7- Gậy của Trương Quả Lão. 8- Bông Sen của Hà Tiên Cô.



Chiếu hoa gối sách bộn bề,

Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra.

(Lục Vân Tiên).



BÁT CANH QUẢNG VÕ

Do điển tích: Vào thời Hán Sở tranh hùng, Lưu Bang và Hạng Võ chia đôi nước Tàu mà làm vua, Lưu Bang lên ngôi là Hán Vương, còn Hạng Võ xưng là Tây Sở Vương. Để tranh được toàn thiên hạ, Hạng Võ bắt cha Lưu Bang là Thái Công tại Quảng Võ, rồi sai người nói với Lưu Bang bảo hàng với Hạng Võ, nếu không hàng thì giết Thái Công.

Hán Vương trả lời với sứ rằng: Ta với Hạng Võ ước làm anh em với nhau, cha ta tức là cha anh ấy, nếu anh ấy muốn giết cha thì nhớ chia cho ta một bát canh. Câu nói của Hán Vương tuy liều lĩnh nhưng mạnh dạn, làm cho Hạng Võ rúng chí, tha Thái Công về và giảng hoà với nhà Hán.

Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ,

Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn.

(Thơ Tôn Thọ Tường).



BÁT ĐỒNG 

Tám cây ngô đồng.

Do câu chuyện nhà người họ Hàn có tám người con đều làm quan to mà trước nhà ở giữa sân có trồng một cây ngô đồng. Vì thế, người ta thường nói: “Hàn gia đồng mộc  ”, nghĩa là cây ngô đồng của nhà người họ Hàn.

Đông hàng lông phượng gót lân,

Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng.

(Nhị Độ Mai).



BÁT LOẠN 

Bát: Dẹp cho yên. Loạn: Giặc giã, trộm cướp.

Bát loạn là chỉ giặc giã, loạn lạc.



Khi bát loạn lòng ngay ít mặt,

Thuở thái bình ăn lộc nhiều người.

(Nhạc Hoa Linh).



Thuở thái bình, yển võ tu văn;

cơn bát loạn, yển văn tu võ.

(Sãi Vãi).



BÁT NƯỚC ĐẦY

Bát nước đầy đổ đi, khó hốt lại đầy.

Do Hán Sử chép: Vợ Châu Mãi Thần thấy chồng vừa đi làm việc, vừa học, nên nghĩ rằng không giàu sang nổi, bèn xin ly dị ông để ra đi. Về sau, Mãi Thần nên danh, vợ trở lại xin tái hiệp. Mãi Thần nói: Bát nước đầy đổ đi, nếu hốt lại đầy được thì mới cho tái hiệp. Vợ Mãi Thần xấu hổ, bèn tự vận chết.

Trạng rằng: Bưng bát nước đầy,

Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.

(Lục Vân Tiên).



BÁT NHà

Tiếng của nhà Phật gọi trí huệ.

Từ Bát nhã là tiếng Hán, dịch âm từ chữ Phạn Prajna để chỉ trí huệ.

Trí Bát nhã được ví như con thuyền chở chúng sanh vượt qua biển luân hồi sinh tử sang đến bờ Niết Bàn giải thoát (Thuyền Bát nhã).



Trương thẳng cánh con thuyền Bát Nhã,

Cổi đau thương giải quả trừ khiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÁT QUÁI 

Nguyên vua Thánh Phục Hy đời Thượng cổ, bắt chước theo Hà Đồ mà vạch ra tám quẻ gọi là Bát quái, gồm có: 1.- Càn, tượng cho trời. 2.- Khôn, tượng cho đất. 3.- Ly, tượng cho mặt trời. 4.- Khảm, tượng mặt trăng. 5.- Chấn, tượng cho sấm. 6.- Tốn, tượng cho gió. 7.- Cấn, tượng cho núi. 8.- Đoài, tượng cho chằm.



Lại ngỏ số ông Chu, ông Thiệu,

Dồn cửu cung, bát quái, vào một nắm tay,

(Thập Giới Cô Hồn).



BÁT TIÊN 

Tám vị Tiên tu luyện đắc đạo ở núi Bồng Lai là: 1- Lý Thiết Quả. 2-Hớn Chung Ly. 3-Lữ Đồng Tân. 4-Hàn Tương Tử. 5-Trương Quả Lão. 6-Lâm Thái Hoà. 7-Tào Quốc Cựu. 8-Hà Tiên Cô.



Rõ ràng son điểm phấn tô,

Bên tranh cửa Lão bên đồ Bát tiên.

(Tư Dung Vãn).



Trong ba ngàn, Sãi vui để một bầu;

Ngoài sáu đạo, Sãi vui với Bát Tiên;

(Sãi Vãi).



Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

(Truyện Kiều).



BÁT TRÂN 

Ngày xưa người Trung Quốc chế ra tám món ăn ngon và quý nhứt, gọi là Bát trân. Đó là: - Gan rồng. - Tuỷ phụng. - Thai con báo. - Đuôi cá gáy. - Chã thịt cú. - Môi đười ươi. - Bàn tay gấu. - Nhượng heo con.



Bấy giờ kinh sợ hãi hùng,

Bát trân chàng mới giải lòng cho qua.

(Truyện Trinh Thử).



BÁT VU 

Bát vu hay bình bát là cái bình đựng đồ ăn và nước uống của các vị tăng ni phái khất sĩ bên Phật giáo.

Bình bát và chiếc áo Ca sa tượng trưng cho Phật pháp, cho nên các tông đồ bên Phật giáo vị nào được thầy truyền lại hai món báu nầy (Y và bát) tức là coi như làm tổ của tông phái đó: Bên Phật, gọi là truyền y bát.

Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,

Hiệp qui Tam Giáo hữu cầu chí chơn.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).



BẠT TUỴ SIÊU QUẦN 

Bạt Tuỵ: Trội hơn quần chúng. Siêu quần: Vượt lên trên mọi người.

Bạt tuỵ siêu quần là người vượt hẳn đám quần chúng, tức là tài giỏi hơn mọi người.



Văn là thượng sĩ danh thần,

Võ thì bạt tụy siêu quần quân trung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÁU NƯỚC HƯƠNG TRỜI

Bởi câu “Quốc bửu thiên hương  ”.

Báu nước do chữ quốc bửu, là quý giá nhất trong nước, ví với người trai có tài đức cao siêu. Hương trời do chữ thiên hương, ví với người con gái có tài sắc tuyệt vời. Ý nói trai tài gái sắc.

Khuôn duyên trộm nghĩ linh đời,

Giẩy giun báu nước hương trời 
sanh nhau

(Hoa Tiên Truyện).



BẮC CỰC 

Tên một ngôi sao, cũng gọi là Bắc thần hay Bắc đẩu. Sao này rất sáng trong nhóm Tiểu hùng tinh. Dùng để chỉ nhà vua.

Xem: Bắc đẩu.

Nền hoàng thành đặt vững Long biên,

Ngôi Bắc cực muôn phương đều cùng hướng.

(Tụng Cảnh Tây Hồ)



BẮC ĐẨU 

Bắc: Hướng bắc. Đẩu: Tên ngôi sao.

Bắc đẩu là một ngôi sao sáng nằm ở phương bắc. Sao Bắc đẩu là một định tinh gồm bảy ngôi sao, gọi là Thất tinh. Bốn vì sao hình cái đầu, ba sao hình cái cán hay cái chuôi.

Theo truyền thuyết, Bắc Đẩu còn là vị thần giữ bộ tử của loài người.

Thức mây đòi lúc nhạt hồng,

Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Đẩu,

Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.

(Kinh Tận Độ).



BẮC ĐẨU NAM TÀO 

Tên hai vì sao mọc đối nhau ở hai hướng bắc và nam. Theo quan niệm ngày xưa, Bắc đẩu Nam tào còn là tên hai vị thần giữ bộ sinh và bộ tử của loài người.

Xem: Nam Tào Bắc Đẩu.

Phép hay biến hóa, thần thông,

Một ông Bắc đẩu, một ông Nam Tào.

Hai ông giữ sổ Thiên tào,

Mạng dân sanh tử đều vào trong tay.

(Dương Từ Hà Mậu).



Ðài thượng đồng 
xem qua Bắc Ðẩu,

Ngôi sao sáng chói thấu Nam Tào.

(Thiên Thai Kiến Diện).



BẮC ĐƯỜNG

Bắc: Phương bắc. Đường: Nhà.

Hướng bắc của ngôi nhà là phía sau nhà, nơi đàn bà con gái ở.

Kinh Thi có câu: Yên đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối, nghĩa là sao có được cỏ huyên để trồng ở phía sau nhà.

Bắc đường nơi bà mẹ hay chỉ người đàn bà ở.



Rau tần phồn ngoài Nam giản lạnh khô,

Nhà huyên thảo sau Bắc đường quạnh quẻ.

(Tử Tế Mẫu Văn).



BẮC KHUYẾT 

Bắc: Phía bắc. Khuyết: Cái cổng trên có lầu để quan sát.

Bắc khuyết là chỗ vua ngự. Ngày xưa người ta bao giờ cũng dựng cái khuyết nằm về phía bắc để hướng về đó lạy vua, vì vua day mặt về nam.



Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết,

Ngọn quang minh hun mát tấm trung can.

(Văn Tế Võ Tánh).



BẮC LÝ 

Bắc: Phương bắc. : Xóm, làng.

Ở tại Trường An, Kinh đô Trung Quốc ngày xưa, có xóm hướng bắc là nơi gái làng chơi tụ tập. Làng kỹ nữ do đó gọi là xóm “Bình khang” hay xóm “Bắc lý”.

Bắc lý còn là tên một khúc hát dâm ô do vua Trụ đặt ra.

Kìa Bắc lý ngựa xe xum họp,

mối tình duyên khen kẻ khéo dắt dìu.

(Phú Cổ).



BẮC NAM 

Phương bắc và phương nam.

Trong văn học, vì hai phương bắc và nam nằm đối nhau nên được dùng để chỉ sự xa cách hoặc để diễn tả sự gặp gỡ khó khăn.

Ví dụ:


Bắc năm muôn dặm đường chim,

Vì ai bèo nổi mây chìm bấy lâu.

(Hoa Tiên Truyện).



BẮC NHẠN NAM HỒNG 

Chim nhạn bay phương bắc, chim hồng bay phương nam.

Hồng nhạn là đôi chim trống và mái, thường hay bay có đôi bên nhau, nên chim nhạn bay sang bắc, chim hồng về hướng nam là có ý chỉ sự xa xôi cách trở, không bao giờ gặp nhau được.

Nghĩa bóng: Xa cách nhau, mỗi người mỗi ngã.



Khi cử gió lúc tuần mưa,

Khi mong bắc nhạn lúc đưa nam hồng.

(Thơ Bà Nhàn Khanh).



BẮC THẦN 

Bắc: Phương bắc. Thần: Ngôi sao.

Bắc thần là một tòa tinh tú ở phương bắc, còn gọi là sao Bắc cực.

Xem: Bắc cực.

Bắc thần đã mọc xê xê,

Chị em thức dậy lo nghề đi buôn.

(Ca Dao).



BẮN BÌNH

Bắn mắt hình chim sẻ trong bức bình phong, chỉ sự kén rể.

Do tích Lý Uyên, tức Đường Cao Tổ, bắn trúng mắt chim sẻ ở bức bình phong, được Đậu Nghị gả con gái cho. Ấu Học có câu: Xạ tước bình nhi trúng mục, Đường Cao đắc thê  , , nghĩa là bắn trúng mắt chim sẻ ở bình phong, ông Đường Cao Tổ được vợ.

Xem: Xạ tước bình.



Ghe phen tơ đủ lụa đầu,

Bắn bình được khách gieo cầu trái duyên.

(Song Tinh Bất Dạ).



Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,

Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BẮN DƯƠNG

Tức bắn xuyên qua lá dương liễu, chỉ tài bắn giỏi.

Do tích Dưỡng Do Cơ thời Xuân Thu, nổi tiếng về bắn cung giỏi, có thể đứng cách xa lá liễu trăm bước mà bắn trăm phát trăm trúng.

Buột miệng nuốt châu nhả ngọc,

Dang tay dơ cức bắn dương.

(Thập Giới Cô Hồn).



BẮN NHẠN VEN MÂY

Bắn nhạn lấy ý từ chữ nhạn tháp đề danh để chỉ sự đỗ đạt. Ven mây lấy ý từ hội rồng mây để chỉ sự đỗ đạt.

Bắn nhạn ven mây dùng để chỉ sự quyết tâm làm chuyện khó khăn như thi cử.

Chí lăm bắn nhạn ven mây,

Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa.

(Lục Vân Tiên).



BẮN SẺ

Tức bắn con chim sẻ.

Do chữ “Tước bình  ” tức là chim sẻ trong bức bình phong, lấy tích trong Đường Thư: Đậu Nghị muốn tuyển chọn một chàng rể, bèn vẽ một con chim sẻ trên bức bình phong, rồi truyền rao khắp nơi, ai bắn trúng mắt chim sẻ ấy thì gả con gái cho. Nhiều người không bắn trúng, chỉ có Lý Uyên bắn ngay mắt chim, được chọn làm rể nhà họ Đậu. Sau Lý Uyên làm vua, là Đường Cao Tổ, còn con gái nhà họ Đậu được phong làm hoàng hậu.

Xem: Tước bình.



Làng cung kiếm rấp ranh bắn sẻ,

Khách phong hầu gấm ghé mong sao.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Tài bắn sẻ trai dầu chẳng thiếu,

Thì phép hòa tiêu gái liệu cho vừa.

(Phương Tu Đại Đạo).



BĂNG GIÁ NGỌC TRẮNG

Bởi chữ “Băng thanh ngọc khiết  ” tức là trong như băng, tinh khiết như ngọc.

Băng giá ngọc trắng dùng để chỉ hành vi trong trắng, thanh cao.

Xem: Băng ngọc.



Bầu băng giá ngọc trắng ngần,

Dầu đầm giọt nước, phong trần chẳng ham.

(Tự Tình Khúc).



BĂNG HỒ 

Hồ là cái bình bằng pha lê. Băng hồ là một cái bình pha lê trong suốt, lại đựng băng giá nữa thì người ta làm sao thấy tính cách trong trắng của nó được.

Nghĩa bóng: Chỉ tâm trong sạch như câu thơ Đường như sau: Lạc Dương thân hữu như tương vấn, Nhứt phiến băng tâm tại ngọc hồ  , , Lạc Dương thân hữu như cùng hỏi, Một tấm lòng băng tại ngọc hồ.

Băng hồ rơi xuống lầm than

(Tự Tình Khúc).



BĂNG LUÂN 

Băng: Giá tuyết. Luân: Bánh xe.

Băng luân tức là bánh xe băng giá hay vòng tròn tuyết giá. Tô Thức có câu: Tuyết phong khuyết xứ dũng băng luân  , nghĩa là mặt trăng nhô lên từ chỗ khuyết đỉnh núi tuyết.

Nghĩa bóng: Chỉ mặt trăng.

Băng luân một tấm lộng khơi,

Non sông muôn nước bóng ngời lòng soi.

(Dương Từ Hà Mậu).



BĂNG NGỌC 

Băng ngọc là trong trắng như băng, tinh khiết như ngọc, dùng để chỉ hành vi trong sạch thanh cao.

Băng ngọc còn có thể hiểu “Băng tâm tại ngọc hồ  ”, là một mảnh lòng băng tại hồ ngọc, dùng để chỉ tấm lòng thuỷ chung trong trắng.

Xem: Băng giá ngọc trắng.



Đan tâm còn chút gọi là,

Giữ gìn băng ngọc đừng pha bụi trần.

(Tự Tình Khúc).



BĂNG NHÂN 

Băng: Giá, nước gặp lạnh đông lại. Nhân: Người.

Băng nhân là người làm mai mối như chữ môi nhân .

Do điển tích: Linh Hồ Sách là một tri huyện nằm mộng, thấy mình đứng trên tấm băng trò chuyện cùng người đứng dưới phiến băng. Hôm sau, thức dậy mới đoán rằng: Đứng trên băng thuộc dương, đứng dưới băng thuộc âm, mà âm dương tức chỉ vợ chồng. Hồ Sách đứng nói chuyện để liên lạc giữa âm dương là người làm môi giới vậy.

Về sau, băng nhân được dùng để chỉ người làm mai mối.



Sự lòng ngỏ với băng nhân,

Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.

(Truyện Kiều).



Ngỏ lời cậy với băng nhân,

Nói sao êm đẹp mười phần cho nên.

(Ngọc Kiều Lê).



BĂNG TUYẾT 

Băng: Nước lạnh đông lại. Tuyết: Hơi nước trên không gặp lạnh đông lại và rơi xuống.

Băng tuyết tức là băng giá, để chỉ sự trong sạch.

Xem chữ : Băng hồ.

Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:

Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong.

(Truyện Kiều).



Trông vời trời bể mênh mang,

Đem thân băng tuyết gửi hàm giao long.

(Hoa Tiên Truyện).



Đuốc hoa muốn vẹn tình băng tuyết,

Nào phải trăng hoa khéo ởm ờ.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



BẰNG BAY CÔN NHẢY

Bằng là chim đại bàng, một loài chim to lớn, côn là cá côn, như cá kình rất lớn, ví với người có chí lớn, bay nhảy tung hoành.

Trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử Viết: Bắc Minh hữu ngư, kỳ danh vi côn, bất tri kỷ thiên lý dã, hoá vi điểu kỳ danh vi bằng  , , , , nghĩa là bể bắc có con cá tên là cá côn lớn không biết là mấy nghìn dặm, hóa làm con chim, tên là chim bằng, lưng như núi Thái sơn, cánh như đám mây rủ trên trời. Đó là hai vật lớn nhất trên cạn và dưới nước.

Bằng bay côn nhảy ví với người có chí lớn vì tương lai sự nghiệp mà bay nhảy tung hoành.



Nghĩ trong tảo vãn cũng là,

Bằng bay côn nhảy còn chờ hội sau.

(Nhị Độ Mai).



BẰNG HỮU 

Bằng hữu là bạn bè.

Người xưa quan niệm rằng: Nữ vô minh kính, bất tri diện thượng tinh thô; sĩ vô lương hữu, bất tri hành bộ khuy du  , ; , , nghĩa là người đàn bà nếu chẳng có gương trong để soi mặt thì làm sao biết mặt mình dơ, hay sạch. Kẻ sĩ nếu chẳng có bạn hiền, thì ai mách cho mình những lỗi lầm. Như vậy việc kết bằng hữu rất cần thiết, nhưng muốn giao thiệp bạn bè, phải chọn người hiền lương, tín cẩn. Cách chọn bạn của cổ nhân thường rất kỹ lưỡng, bởi họ cho rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Khi bạn bè đã kết nguyền với nhau rồi, ta phải có lòng thành thật đối đãi với nhau, phải tin cậy và kính nhường để giữ niềm hòa ái, tương trợ tương thân. Anh em phải khuyên bảo nhau, giúp đỡ lẫn nhau, nếu có lỗi lầm, phải sửa đổi lẫn nhau, nghèo nàn phải thương yêu nhau, hoạn nạn phải cứu giúp nhau.



Dốc tình bằng hữu chu tuyền,

Nghĩa Hồng nhạn vẫn còn truyền xưa nay.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Anh em bằng hữu kết nguyền,

Một lòng tin cậy phải kiêng phải vì.

(Kinh Sám Hối).

BẰNG HỮU CHI GIAO 

Bằng hữu: Bạn bè. Chi giao: Sự giao thiệp.

Bằng hữu chi giao là sự quan hệ bạn bè giao tiếp với nhau.



Còn ra bằng hữu 
chi giao,

Cũng nhiều diện thức dễ nào tâm tri.

(Ngọc Kiều Lê).



Chữ rằng bằng hữu chi giao,

Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?

(Lục Vân Tiên).



BẰNG TRÌNH 

Con đường chim bằng bay.

Chim bằng, hay còn gọi là chim đại bàng, một loài chim rất lớn, gặp gió bay cao. Trang Tử viết: Có một loại chim, lưng như núi Thái sơn, cánh lớn như mây trời, có thể bay một lần đến chín vạn dặm.

Bằng trình là con đường bay của chim bằng, chỉ kẻ anh hùng có chí khí lớn lao, hay con đường tương lai rộng lớn.



Chừng trong chín vạn bằng trình,

Chẳng qua án tuyết song huỳnh mấy năm.

(Tây Sương).



BẮT KHOAN BẮT NHẶT

Khoan nhặt là rộng thưa.

Bắt khoan bắt nhặt tức là bắt buộc, bắt bẻ từng ly từng tý.

Bắt khoan bắt nhặt đến lời,

Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay.

(Truyện Kiều).



Với đâu dạy bảo phải lời,

Bắt khoan bắt nhặt biết ai cho vừa.

(Gia Huấn Ca).



BẶT THỬ ÊM HỒ

Thử là con chuột. Hồ là con cáo.

Chuột và cáo là hai giống vật được ví với kẻ trộm đạo, hay giặc giã, thành ngữ nầy có nghĩa là vắng bặt loài chuột, yên tĩnh loài cáo.

Có người dùng câu “Bặt thỏ êm hồ”.

Nghĩa bóng: Chỉ cảnh không có trộm cướp, hay giặc giã nữa.

Nhớ trước đã thảo loài động thực,

Hẳn đâu đâu đều bặt thử êm hồ.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



BẦN BẠC 

Bần: Nghèo khổ. Bạc: Mỏng.

Bần bạc là nghèo nàn không có gì hết.



Nhà bần bạc thường vui hái củi.

Quảng mù xanh thui thủi non xâu.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Bao đành bỏ vợ con đi,

Cửa nhà bần bạc cậy gì ngày sau.

(Dương Từ Hà Mậu)



BẦN HÀN 

Bần: Nghèo. Hàn: Lạnh lẽo.

Bần hàn là nghèo lạnh. Vì nghèo không tiền sắm quần áo nên phải khổ do lạnh. Bần hàn chỉ cảnh nghèo nàn khổ sở.



Hai con đều đẹp mắt xem,

Việc trong gia đạo lại thêm bần hàn.

(Dương Từ Hà Mậu).



Ngãi nhân cam phận chịu bần hàn,

Mình biết trọng mình mặc kẻ sang.

(Đạo Sử).



Đã vợ chồng đừng kể hèn sang,

Dầu chồng kẻ bần hàn cũng chúa.

(Phương Tu Đại Đạo).



BẦN TIỆN CHI GIAO 

Bần tiện: Nghèo hèn. Chi giao: Giao thiệp.

Giao thiệp hay kết nghĩa bạn bè với nhau lúc còn nghèo hèn.

Vua Quang Võ nhà Hán hỏi Tống Hoằng: Quí dịch giao, phú dịch thê, hữu chư?  , , ?, nghĩa là sang đổi bạn, giàu đổi vợ có chăng? Tống Hoằng tâu rằng: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường  . , nghĩa là bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, vợ chồng hồi tấm mẳn, chẳng khá bỏ nhau.

Tổ tông lời nói còn ghi để,

Bần tiện chi giao bất khả vong.

(Lưu Bình Diễn Ca).



BẤT BÌNH 

Bất: Chẳng. Bình: Bằng lòng.

Bất bình là chẳng bằng lòng.



Dâu con trong đạo gia đình,

Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.

(Truyện Kiều).



BẤT HOẶC 

Không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ ngoài bốn mươi.

Do câu nói của Đức Khổng Tử: Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng  , , , nghĩa là con người, ba mươi tuổi thì lập, bốn mươi tuổi thì không còn nghi ngờ, lầm lẫn nữa, năm mươi tuổi thì biết mệnh trời.

Hai mai tuyết điểm đã ngần,

Trên vai bất hoặc, dưới tuần tri thiên.

(Song Tinh Bất Dạ).



BẤT HỦ 

Chẳng mục nát.

Tả Truyện có câu: Thượng hữu lập đức, kỳ thứ hữu lập công, kỳ thứ hữu lập ngôn. Tuy cửu bất phế, thử chi vị bất hủ  , , . , , nghĩa là trên có lập đức, tiếp đến là lập công, sau nữa là lập ngôn. Tuy lâu mà không hư hỏng, nên gọi là bất hủ (Không mục nát).

Như vậy, tánh đức, công nghiệp và ngôn từ lưu lại về sau thì mãi mãi không mất.

Nghĩa bóng: Không mất, còn mãi mãi.

BẤT KHẢ HẠ ĐƯỜNG 

Bất khả: Không thể. Hạ đường: Cho ra nhà ngoài.

Bởi tích Hậu Hán Thư chép: Tống Hoằng có người vợ chẳng may bị mù lòa. Hằng ngày ông vừa phải làm việc quan, vừa phải lo đút cơm và chăm sóc cho vợ. Câu chuyện đến tai Hồ Dương Công chúa, chị của vua Quang Vũ mới góa chồng. Nàng muốn tái giá cùng Tống Hoằng. Vua nghe nói, bèn cùng bàn luận với quần thần để hỏi xem ý của Công chúa thế nào, Công chúa nói: Tống Hoằng oai nghi, lễ giáo, quần thần chẳng ai bì kịp. Vua bảo Hồ Dương Công chúa ngồi sau bình phong, rồi triệu Tống Hoằng vào cung mà hỏi rằng: Giàu đổi bạn, sang đổi vợ, là thường tình không? Tống Hoằng tâu: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tào khang chi thê bất khả hạ đường  , , nghĩa là bạn bè lúc nghèo hèn chớ nên quên, người vợ lúc tấm mẳn có nhau, chớ khá bỏ.

Vua ngoảnh lại nói với Hồ Dương Công chúa ngồi núp sau màn rằng: Việc này không xong rồi.

Sợ rằng đã có tao khang,

Mới hay bất khả hạ đường biết sao?

(Nữ Tú Tài).



BẤT MAO 

Nghĩa đen là không có lông. Ở đây chỉ vùng đất không thể trồng trọt được.

Nghĩa bóng: Chỉ vùng đất trọc.

Căm giận tanh hôi chốn bất mao,

Suối vàng nên luỵ khách thơ đào.

(Truyện Vương Tường).



BẤT MỤC 

Bất mục là không hòa thuận nhau.

Lời của sách Ích Trí dạy như sau: Quân thần bất tín, quốc bất an; phụ tử bất tín, gia bất mục; Huynh đệ bất tín, tình bất thân; bằng hữu bất tín, giao dị sơ  , ; ,   ; , ; , , nghĩa là vua tôi chẳng tin nhau, nước chẳng yên ổn; cha con chẳng tin nhau, nhà chẳng hòa thuận; anh em chẳng tin nhau, tình chẳng thân; bạn bè chẳng tin nhau, giao kết sơ.

Cũng vì lòng dạ vô lương,

Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.

(Kinh Sám Hối).



BẤT TIẾU 

Chẳng giống.

Do câu nói của Mạnh Tử như sau: Đan Chu chi bất tiếu, Thuấn chi tử diệc bất tiếu  , , nghĩa là Đan Chu bất tiếu, con vua Thuấn cũng là người bất tiếu. Ta đã biết Nghiêu Thuấn là hai vị vua hiền, thế mà con vua Nghiêu là Đan Chu và con vua Thuấn lại không giống đức của cha mình.

Lời của Mạnh Tử có ý chê hai người con vua Nghiêu Thuấn là người bất hiếu. Về sau, người nào bất hiếu với cha đều gọi là “Bất tiếu”.



Đạo nhà khi tới khi lui,

Trai dầu bất tiếu, sụt sùi mẹ cha

(Huấn Nữ Ca).



BẤT TRI BẤT UẨN 

Do câu trong Luận Ngữ: Nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?  , nghĩa là dầu người đời không biết sức học của mình, mà mình không lấy làm giận, như thế mình chẳng phải là bực quân tử hay sao?



Bất tri bất uẩn,

Hữu đức tất hữu lân.

(Sãi Vãi).



BẤT VI 

Lữ Bất Vi tên chữ là Lữ Hồng, người Dương Địch thuộc nước Tần, là một phú thương lại coi tướng giỏi, có vợ tên Châu Cơ, người nhan sắc, đang có thai ba tháng. Khi cháu của vua Tần là Dị Nhân còn làm con tin ở nước Triệu, Bất Vi thấy tướng biết sau này làm vua, về mưu với vợ, đem gả cho Dị Nhân, sau sinh ra một trai tên là Chính.

Nhờ mưu kế của Bất Vi, Dị Nhân được trở về Tần và sau nối ngôi vua là Trang Tương Vương, phong Bất Vi làm Thừa tướng.

Đến khi Tương Vương chết, Chính lên ngôi là vua Tần Thuỷ Hoàng Đế, tôn Bất Vi làm Tướng quốc, gọi là Trọng Phụ.

Sau Bất Vi tư thông với Thái Hậu, sợ bị tội bèn tự vẫn chết. Lúc còn làm Thừa tướng , Lữ Bất Vi có sai các môn khách soạn bộ Lã Thị Xuân Thu, còn truyền cho đến ngày nay.

Người nay sao phải nhà Tần,

Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm.

(Lục Vân Tiên).



BẦU HỒ LINH

Bầu hồ linh là một trái bầu phép của vị tiên là Hồ Công, trong đó là một thế giới rộng lớn, nguy nga và lộng lẫy. Xem: Bầu hồ thiên.



Pháp hay miệng niệm một câu,

Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.

(Lục Vân Tiên).



BẦU HỒ THIÊN

Hay “Bầu Hồ linh”.

Bầu hồ thiên tức là trái bầu thế giới.

Liệt Tiên truyện chép: Hồ Công là một vị Tiên giả làm ông già bán thuốc ngoài chợ, có quải theo một trái bầu, đêm tối ông chung vào trái bầu mà ngủ.

Phí Trường Phòng đời Hậu Hán là vị quan coi ở chợ, rình thấy cho là kỳ lạ. Một ngày kia, Phòng xin cho vào bầu xem thử. Hồ Công đồng ý. Khi vào thì thấy ở trong là một thế giới rộng lớn, nguy nga lộng lẫy, thật là một cảnh Thần Tiên đẹp đẽ.

Sau đó Phí Trường Phòng xin theo Hồ Công học đạo và được cho một cây gậy phép, muốn đi đâu, liệng cây gậy phép lên hoá thành con rồng rồi leo lên cỡi, dầu xa nghìn dặm cũng đi trong một nháy mắt.

Xem: Hồ thiên.

Ngư rằng: Một ải nhân xu,

Lấy da bao thịt làm bầu Hồ thiên.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BẦU LÝ BẠCH

Tức là Bầu rượu của Lý Bạch, chỉ uống rượu.

Lý Bạch quê ở đất Thục, làng Thanh Liên, huyện Xương Minh, tỉnh Tứ Xuyên, tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên Cư Sĩ, là một thi hào bậc nhứt đời Đường, tính tình hào hiệp, thích uống rượu ngâm thơ.

Xem: Lý Bạch.



Khi lựa vận lúc so tơ,

Khi bầu Lý Bạch, khi cờ Trương Ba.

(Bần Nữ Thán).



BẦU LÝ CÔNG

Tức bầu rượu của Lý Bạch.

Lý Bạch là một nhà thơ lớn đời Đường, tính tình rất phóng khoáng hào hiệp, thích uống rượu ngâm thơ. Rượu uống vào càng nhiều, thơ ông càng hay, nên người ta thường nhắc đến bầu rượu của Lý Bạch.

Xem: Bầu Lý Bạch.



Kể từ vui thú bấy lâu,

Khi vần Đỗ Tử, khi bầu Lý Công.

(Phương Hoa)



BẦU LƯU LINH

Tức là bầu rượu của Lưu Linh.

Lưu Linh tự Bá Luân, người đời Tấn, là một người trong Trúc Lâm Thất Hiền. Ông là người nổi tiếng hay uống rượu, tính tình phóng khoáng, có làm bài “Tửu đức tụng” để ca ngợi những đức tánh của rượu.

Thôi ngày trọn, lại đêm thâu,

Cạn chung Lý Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



BẦU NHAN

Hay “Bầu Nhan Tử”, “Bầu Nhan Uyên”.

Nhan Uyên là người nước Lỗ, đời Xuân Thu, tự là Tử Uyên, còn gọi là Nhan Hồi , học trò giỏi của Đức Khổng Tử. Nhan Uyên là người thông minh, học một biết mười, lại siêng năng, cần mẫn. Nhan Uyên không ngại nghèo khổ, sống trong cảnh hàn vi mà bao giờ cũng vui với “Giỏ cơm bầu nước”.

Chữ “Bầu Nhan” dùng để chỉ cảnh nghèo.

1.- Bầu Nhan:

Vai còn đôi gánh thâm tình,

Bầu Nhan đã sạch sành sanh còn gì!

(Bích Câu Kỳ ngộ).



Bầu Nhan nếm đủ biết mùi,

Gội dòng sông Tứ nẩy chồi non Ngưu.

(Tư Dung Vãn).

2.- Bầu Nhan Tử:

Danh thơm truyền để bầu Nhan Tử,

Của tốt nào đâu ngọc Thạch Sùng.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).

3.- Bầu Nhan Uyên:

Quản bao thân trẻ dãi dầu,

Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.

(Lục Vân Tiên).



BÈ CHUỐI TRÔI SÔNG

Đây là một câu tục ngữ, dùng để chỉ sự trừng phạt đối với người con gái xấu nết.



Khôn thời thưa thốt 
cho xong,

Khéo mà bè chuối trôi sông chăng là.

(Quan Âm Thị Kính).



BÈ TỪ

Hay thuyền từ, do chữ “Từ Hàng  ” là chiếc bè từ bi của Phật cứu vớt chúng sanh bị trầm luân nơi biển khổ để đưa qua bờ giác ngộ.

Xem: Từ Hàng.

Bè từ tế độ cũng ghê,

Chẳng thì sa chốn sông mê còn gì?

(Quan Âm Thị Kính).



BẺ GÃY CHỮ ĐỒNG

Chữ Đồng, do câu “Đồng tâm kết  ” là một sợi dây thắt lưng có hai dải lụa buộc lại với nhau, dùng để ghi chép lời thề ước. Sau thường dùng để nói hai vợ chồng kết hợp cùng một lòng với nhau

Bẻ gãy chữ đồng ý nói vợ chồng bị gãy gánh, tức có một người chết.

Đã đành bẻ gãy chữ đồng,

Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.

(Kinh Thế Đạo).



Đã đành bẻ gãy chữ đồng,

Chia đôi thiếp xóm chàng đồng không hay.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BẺ LIỄU

Do chữ “Chiết liễu  ”, tức là bẻ cành liễu.

1.- Liễu là loại cây mềm yếu, thướt tha nên thường được ví với người phụ nữ. Bẻ liễu ý nói lấy người con gái làm vợ.

Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,

Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Theo sách Tam Phụ Hoàn Đồ chép: Nơi Bá kiều, một chiếc cầu gần Kinh đô Tràng An, người ta đưa tiễn nhau thường đến đó bẻ liễu tặng làm roi ngựa. Cho nên sau dùng chữ “Bẻ liễu” (Chiết liễu) để chỉ sự tiễn biệt.

Rằng: Từ bẻ liễu lên đường,

Gửi mai sao hãy trễ tràng đến nay.

(Hoa Tiên Truyện).



Vội vàng nào kịp hái hoa,

Dương quan bẻ liễu gọi là đưa nhau.

(Dương Từ Hà Mậu).



Bẻ cành liễu ngâm câu ly hợp,

Khuất ngàn dâu qua lối đoản tràng.

(Tự Tình Khúc).



BẺ QUẾ

Tức bẻ cành quế, chỉ sự thành đạt, thi đỗ.

Trong Tỵ Thự Lục Thoại có câu: Thế dĩ đăng khoa vi chiết quế  , tức là người đời gọi thi đỗ là bẻ quế (Chiết quế). Tiếng này được dùng từ đời nhà Đường cho đến nay.

Xem: Chiết quế.



Một mai bẻ quế thiềm cung,

Trăng đưa đàn nguyệt sấm rầm trống lôi.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Vẻ vang gấm lại hoa thêm,

Thỏa lòng bẻ quế cung thiềm bấy lâu.

(Nhị Độ Mai).



Lăm le giật giải thanh vân,

Trèo trăng bẻ quế gọi xuân mở đường.

(Sơ Kính Tân Trang).



BẺ QUẾ CUNG THIỀM

Bởi chữ “Thiềm cung chiết quế  ”, tức là bẻ quế cung trăng, ý nói sự thi đỗ.

Xem: Cung quế.

Vẻ vang gấm lại hoa thêm,

Thỏa lòng bẻ quế cung thiềm bấy lâu.

(Nhị Độ Mai).



BẺ QUẾ TUNG MÂY

Bẻ quế do chữ “Chiết quế  ” tức bẻ cành quế, dùng chỉ thi cử đỗ đạt. Xem: Bẻ quế.

Tung mây do chữ “Phi vân  ” tức là vén mây, nói về công danh bay nhảy. Xem: Vén mây.

Bẻ quế tung mây ý nói người đỗ đạt, công danh bay nhảy.



Chen vai tài tử, danh công,

Kẻ toan bẻ quế, người hòng tung mây.

(Nhị Độ Mai).



BÉN HƠI RƠM LỬA

Bén hơi: Trai gái gần gủi nhau thường, hơi hám khiến tâm động. Rơm lửa: Hai vật không thể gần nhau, nếu gần nhau sẽ bốc cháy.

Bén hơi rơm lửa ý nói trai gái gần nhau thường, hơi hám làm kích động tâm ham muốn như lửa gần rơm. Xem: Lửa bén gần rơm.



Người yểu điệu, kẻ thư phong,

Bén hơi rơm lửa, động lòng mưa mây.

(Quốc Sử Diễn Ca).



BÈO BỌT

Bèo bọt là cánh bèo và bọt nước.

Bèo là loại cây trôi nổi lênh đênh trên mặt nước, không bến không bờ. Bọt nước cũng trôi trên sông, dễ tan vỡ. Vì vậy, chữ bèo bọt dùng để chỉ sự lưu lạc không định nơi và không bền bỉ.

Ai mà xem nghĩa hơn mình,

Nổi nênh bèo bọt, tan tành cải kim.

(Hoa Tiên Truyện).



Đòi phen lúc biến khi dời,

Thân như bèo bọt giữa vời linh đinh.

(Kinh Thế Đạo).



BÈO GIẠT MÂY TRÔI

Cánh bèo bị nước giạt, chòm mây bị gió trôi, hình ảnh này dùng để chỉ cảnh con người bị cảnh đời đưa đẩy phải chịu phận lênh đênh không nơi nương tựa.

Xem: Hoa trôi bèo giạt.

Bèo giạt mây trôi đành với phận,

Đào tơ liễu yếu ngán cho xuân.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



BÈO MÂY

Bèo trôi nổi lênh đênh trên mặt nước, không bờ bến, còn mây lang thang bay trên bầu trời, chẳng bao giờ dừng lại.

Do vậy, chữ “Bèo mây” dùng để chỉ thân phận con người như cánh bèo, đám mây trôi nổi, lưu lạc, không nơi nương tựa.

Vẻ chi chút phận bèo mây,

Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.

(Truyện Kiều).



Van rằng: Đừng nỗi bèo mây,

Phận này ngỡ được chốn này là yên.

(Truyện Phan Trần).



Lênh đênh chút phận bèo mây,

Duyên kia đã vậy thân này nương đâu.

(Ai Tư Vãn).



BÈO NƯỚC

Bèo nổi lênh đênh, nước chảy không ngừng, dùng để chỉ thân phận con người trôi nổi, bềnh bồng, khi hợp khi tan như cánh bèo, dòng nước.



Trời già đành đoạn nợ ba sinh,

Bèo nước xẻ hai một gánh tình.

(Đạo Sử).



BÈO NƯỚC GẶP NHAU

Do câu “Bình thuỷ tương phùng  ” dùng để chỉ việc không hẹn tình cờ mà gặp.

Thơ Vương Bột có câu: Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân? Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách  , . , , nghĩa là quan san khó vượt, ai xót cho người bất đắc chí. Bèo nước gặp nhau, toàn là do mỗi người một nơi.

Xem: Bình thuỷ tương phùng.



May đâu bèo nước gặp nhau,

Thôi thì hợp phố cho châu lại về.

(Hoa Tiên Truyện).



BÈO NƯỚC HỢP TAN

Bèo nước là cánh bèo dòng nước dùng để chỉ sự bềnh bồng, linh đinh, không có ngừng nghỉ.

Bèo nước hợp tan ý muốn nói thân phận trôi nổi khi hợp khi tan như cánh bèo dòng nước.

Bèo nước hợp tan người mỗi nẻo,

Cậy ai mà nhắn một đôi câu.

(Thơ Tản Đà).



BÈO NƯỚC LÊNH ĐÊNH

Cánh bèo và dòng nước cứ trôi chảy mãi, không bao giờ ngừng nghỉ, thành ngữ dùng để chỉ người và số phận trôi nổi, lênh đênh như bèo nước.

Xem: Lênh đênh.

Bao ngờ duyên thắm bỗng nên phai,

Bèo nước lênh đênh bước lạc loài.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



BẾ ĐỊCH TRỢ HOANG 

Bế địch: Bế là đóng cửa. Địch là Mua thóc ở xử ngoài mang về xứ mình (nhập cảng). Bế địch: Đồng nghĩa với bế quan, đóng ải quan, không để cho lúa gạo nhập cảng.

Trợ hoang: Hoang là thất mùa lúa. Trợ hoang: Trợ giúp nạn thất mùa.

Bế địch trợ hoang ý nói dân chúng bị thiên tai mất mùa, không có đủ lúa gạo để ăn, cần phải mua lúa gạo từ nước ngoài để cứu đói, nhưng có những người có thân thế làm cho việc nhập cảng gạo bị ngưng trệ để đầu cơ tích trữ, giá lúa gạo cao lên, độc quyền bán ra hầu thâu lợi thật nhiều.

Hành người bế địch, trợ hoang,

Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.

(Kinh Sám Hối).



BẾ NGŨ QUAN 

Tức là khép lại năm giác quan của con người. Năm giác quan đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, da thịt của thân con người.

Theo Phật, năm giác quan nầy cùng với ý của con người thì thành lục tặc, tức sáu con giặc thường quấy rối tâm con người.

Bế ngũ quan tức khép năm giác quan lại không cho năm trần cảnh là sắc đẹp, âm thanh, mùi thơm, đồ ngon, mềm mại của da thịt cám dỗ tâm con người.



Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,

Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỂ ÁI

Hay “Biển ái”.

Do chữ Hán “Ái hải  ”, hoặc “Ái hà  ”.

Bể ái hay biển ái là chữ của nhà Phật, dùng để chỉ tình yêu mênh mông như sông biển, làm cho người trần thế bị chìm đắm không thoát được.

Bài kệ chuỗi bên Phật có câu: Ái hà thiên xích lãng, Khổ hải vạn trùng ba. Dục thoát luân hồi khổ, Tảo cấp niệm Di Đà  , . , . Dịch vần: Sông yêu ngàn thước sóng, Biển khổ muôn lượn qua. Luân hồi mong vượt thoát, Mau sớm niệm Di Đà.

Xem: Ái hà.



Vẻ chi chút phận bèo mây,

Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.

(Truyện Kiều).



Làm chi bể ái vơi đầy,

Hạ đường dám luỵ tiếng này đến ai.

(Nhị Độ Mai).



Lòng trần nung nấu trăm mùi khổ,

Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền.

(Đạo Sử).



Bởi thuyền bá sóng xao biển ái,

Bởi non thề sương trải lạnh lùng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỂ BIẾC DÂU XANH

Hay “Biển biếc dâu xanh”.

Bởi chữ “Thương hải tang điền  ” tức là bể biếc ruộng dâu để chỉ sự biến chuyển, đổi thay.

Xem: Bể dâu.



Nước nhà khi bể biếc dâu xanh,

Mưu báo phục há kém tay Kha, Nhượng.

(Trương Lưu Hầu Phú).



BỂ BÌNH LÝ UYÊN

Bể Bình Lý Uyên, tức là bức bình phong của Đậu Nghị có vẽ hình chim sẻ để tuyển lựa chồng cho người con gái. Lý Uyên tìm đến, bắn trúng mắt chim sẻ, được Đậu Nghị nhận làm con rể. Sau Lý Uyên lập nên nhà Đường, được tôn là Đường Cao Tổ.

Bể bình Lý Uyên ý muốn nói mối tình duyên bị gãy đổ.

Cũng như thiếp nặng khối tình,

Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỂ CẠN NON MÒN

Hay “Biển cạn non mòn”.

Thời gian trôi qua dài lâu đến nỗi sông biển phải cạn, núi non phải mòn, ý nói sự đời thay đổi.

Dầu cho biển cạn non mòn,

Tơ duyên khắn khít chỉ còn bấy nhiêu.

(Nữ Trung Tùng Phận)



BỂ DÂU

Hay “Biển dâu”.

Do chữ “Thương hải” rút ngắn từ câu: Thương hải tang điền , tức là biển xanh ruộng dâu.

Theo Thần Tiên Truyện, cứ ba mươi năm thì có một cuộc thay đổi, biển xanh hoá thành ruộng dâu.

Nghĩa bóng: thay đổi lớn lao.

Xem: Tang Hải hoặc Thương hải tang điền.

1.- Bể dâu:

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

(Truyện Kiều).



Cuộc đời chưa đến bể dâu,

Bỗng dưng mua não chuốc sầu mà chơi.

(Hoa Tiên Truyện).



Bể dâu biến đổi cơ trời,

Mà so Hồng Lạc lâu dài ai hơn?

(Quốc Sử Diễn Ca).

2.- Biển dâu:

Cuộc đời là cuộc biển dâu,

Nước về doành thẳm, khôn cầu nguồn xưa.

(Dương Từ Hà Mậu).



BỂ HOẠN

Hay “Biển hoạn”.

Bởi chữ “Hoạn hải  ”, chỉ chốn quan trường.

Người xưa thường ví cuộc đời ra làm quan cũng như chiếc đò đi giữa biển cả mênh mông, gặp nhiều sóng gió gian truân. Vì thế, người ta gọi đường ra làm quan là “Bể hoạn”.

1.- Bể hoạn:

Khác gì bể hoạn xông pha,

Không phong ba lại phong ba hiểm nghèo.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Cánh buồm bể hoạn mênh mang,

Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Đường mây thanh thả, khi quận khi triều,

Bể hoạn chập chờn, có vinh có nhục.

(Tự Thuật Ký).

2.- Biển hoạn:

Biển hoạn dập dồi thương bấy trẻ,

Thành sầu chất chứa cám cho gia.

(Đạo Sử).



Ruộng dâu, giáo đóng dầy hơn rạo,

Biển hoạn, nước xao dẫy quá bờ.

(Thiên Thai Kiến Diện).

BỂ KÌNH BẶT TĂM

Kình là cá voi, được ví với giặc giã.

Bể kình bặt tăm có nghĩa là cá voi ở bể không còn tăm hơi nữa, ý muốn nói đời thái bình, yên ổn, không còn giặc giã cướp bốc.

Công từ tựu trấn yên dinh,

Ngàn lang bạt khói, bể kình bặt tăm.

(Lưu Nữ Tướng).



BỂ KHỔ

Hay “Biển khổ”.

Do chữ “Khổ hải  ” của nhà Phật.

Đời sống của con người ở thế gian được Phật ví như là một biển khổ mênh mông vô cùng.

Xem: Khổ hải.

Mênh mang bể khổ sống trôi,

Biết rằng phúc thiện có trời nữa không?

(Hoa Tiên Truyện).



Bể khổ nào ai tay tế độ,

Cõi trần mấy kẻ mặt hùng anh.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



Linh đinh bể khổ dật dờ,

Xin cho thiếp gởi thân nhờ cửa không.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỂ LẶNG SÔNG TRONG

Bởi chữ “Hải yến hà thanh  ” tức là biển lặng, sông Hoàng Hà trong.

Xét trong lịch sử vào năm thứ ba đời vua Trang Tương Vương, sông Hoàng Hà tự nhiên trong, năm ấy có thánh nhân xuất hiện, tức là vua Hán Cao Tổ được sinh vào năm ấy ở đất Bái.

Bể lặng sông trong ý nói điềm thánh nhân ra đời hoặc đời thái bình thịnh trị.



Niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề,

linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sông trong,

duy vạn kỷ chưa dời ngôi bảo tộ.

(Trận Vong Tướng Sĩ).



BỂ MÊ

Hay “Biển mê” là một cảnh giới lầm lạc của chúng sanh, chỉ cõi trần.

Theo Phật, chúng sanh bị nghiệp quả đoạ xuống cõi trần chịu nhiều phiền não, khổ đau. Vì thế, pháp của Phật như một chiếc bè từ đưa chúng sanh vượt qua khỏi biển mê (Hay sông mê) để đến bờ giác ngộ.

Xem: Mê Tân.



Biển mê cầu ngọc liên phàm tục,

Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Ta than lỗi bậc cung cầm,

Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỂ MÊ CHÈO CHIẾC THUYỀN TÌNH

Hay “Biển mê chèo chiếc thuyền tình”.



Biển mê: Chỉ cõi thế gian. Thuyền tình: Chiếc thuyền của tình thương, tức lòng từ bi.

Biển mê chèo chiếc thuyền tình ý muốn nói chèo chiếc thuyền từ bi, bác ái để cứu vớt những người đang bị chìm đắm trong sông mê biển khổ.



Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,

Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỂ NỌ HOÁ VƯỜN DÂU

Hay “Biển nọ hoá vườn dâu”.

Bởi câu “Thương hải biến vi tang điền  ” nghĩa là biển xanh hoá thành ruộng dâu, ý nói một cuộc thay đổi lớn.

Xem: Bể dâu.



Phòng cơn biển nọ hóa vườn dâu,

Chưa hết quan viên há hết chầu.

(Đạo Sử).



BỂ NON

Lấy ý từ chữ “Sơn hải  ” là núi và bể, dùng để chỉ sự cao lớn, mênh mông.

Bể non ý nói ân nghĩa sâu rộng.

Khâu sinh cười nói, thưa rằng:

Tình người quyến cố xem bằng bể non.

(Nhị Độ Mai).



BỂ NGUYỆN NON GHI

Hay “Biển nguyện non ghi”.

Bể nguyện non ghi là chỉ biển mà thề nguyện, lấy núi để khắc ghi trong lòng. Đồng nghĩa với câu “Bể nguyện non thề”.

Nào khi biển nguyện non ghi,

Thác thời đồng huyệt, sống thời đồng khâm.

(Hứa Sử Tân Truyện).



BỂ NGUYỆN NON THỀ

Hay “Biển nguyện non thề”.

Bởi chữ “Hải thệ sơn minh  ” tức là chỉ bể mà thề thốt, chỉ núi mà ước nguyền. Nói việc trai gái thề nguyền, hẹn ước nhau trước núi và biển giữ mối duyên keo sơn, bền chặt.

Xem: Hải thệ sơn minh.



Đã đẹp phận sắt cầm ân ái,

Hằng ghi lòng bể nguyện non thề.

(Nhạc Hoa Linh).



BỂ QUAN

Hay “Biển quan”.

Bởi chữ “Hoạn hải  ”, có nghĩa bể hoạn, tức là ra làm quan.

Trường quan lại có nhiều chức vụ rộng như đi trong biển cả, có nhiều gian nan sóng gió, nên người ta mới gọi là “Bể hoạn” hay “Bể quan”.

Xem: Hoạn hải.

Bể quan khơi vượt cánh thuyền,

Thổi đưa ra cũng sức trên trao dùng.

(Hoa Tiên Truyện).



BỂ SỞ SÔNG NGÔ

Hay “Biển Sở sông Ngô”.

Tức là bể nước Sở, sông nước Ngô, ý muốn nói khắp các miền đất nước, khắp nơi, khắp chốn.

Một tay gây dựng cơ đồ,

Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!

(Truyện Kiều).



BỂ THẢM

Hay “Biển thảm”.

Thảm là đau xót. Bể thảm là lòng đau đớn chất chứa đầy mênh mông như biển cả.

Xem: Thành sầu.



Thành sầu muôn trượng xây nên đợt,

Bể thảm ba đông chất chứa đầy.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



BỂ THÁNH

Hay “Biển Thánh”.

Bể Thánh là bể học của Thánh hiền. Ngày xưa các Nho sĩ ca tụng đạo Nho, coi đạo học của Thánh hiền rộng lớn như biển cả.

Xem: Bể Thánh rừng Nho.

1.- Bể Thánh:

Rằng ta tuổi trẻ theo đòi,

Mênh mông bể Thánh nào vơi phần nào.

(Hoa Tiên Truyện).



Bể thánh sâu, cố gia công lội,

Rừng nho gai, thẳng lối xông pha.

(Gia Huấn Ca).



Hồ tiên bể Thánh dầu thông thả,

Thuyền ai một lá nổi Động Đình.

(Tư Dung Vãn).

2.- Biển Thánh:

Buổi già ước đặng đem thân gởi,

Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.

(Đạo Sử).



Cây trái rừng Nho ra sức hái,

Lộ gành biển Thánh rán công dò.

(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).



BỂ THÁNH RỪNG NHO

Lấy ý từ câu “Nho lâm học hải  ”, tức chữ Nho và kinh sách của Thánh hiền nhiều như cây lá trên rừng, nền học sâu rộng như biển cả.

Bể Thánh rừng Nho ý nói kinh sách như rừng, việc học như biển, mà người xưa nghĩ rằng không biết bao giờ mới học cho hết được.

Xem: Rừng Nho biển Thánh



Bốn phương nức tiếng vang lừng,

Ngao du bể Thánh, vẫy vùng rừng Nho.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BỂ TRẦM LUÂN

Hay “Biển trầm luân”.



Trầm luân: Chìm đắm

Bể trầm luân là biển cả làm chìm đắm con người. Theo giáo lý nhà Phật, cuộc đời đầy dãy những nỗi phiền não, khổ đau mà con người phải chìm đắm mãi trong đó.



Nàng đà biết đến ta chăng,

Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi.

(Truyện Kiều).



BỂ TRẦN

Hay “Biển trần”.

Theo Phật, bể trần tức là bể trần gian. Ý nói cõi trần gian được xem như là một biển khổ mênh mông không bờ bến.

Trong Huyền Môn Nhựt Tụng có câu: Trần hải man man nhựt thuỷ đông  , nghĩa là biển trần khổ vơi vơi trời nước, Ánh thái dương giọi trước phương đông (Bài Khai Kinh).



Bể trần chìm nổi thuyền quyên,

Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời.

(Truyện Kiều).



BỂ TRẦN KHỔ

Hay “Biển trần khổ” là trần gian như một cái biển khổ mênh mông.

Theo Đạo Phật, nơi cõi trần gian nầy, sự đau khổ của con người dẫy đầy như nước biển mênh mông, lai láng, không bờ, không bến. Bài kệ chuỗi bên Phật có câu: Ái hà thiên xích lãng, Khổ hải vạn trùng ba. Dục thoát luân hồi khổ, Tảo cấp niệm Di Đà  , . , 早急念彌陀 dịch vần: Sông yêu ngàn thước sóng, Biển khổ muôn lượn qua. Luân hồi mong vượt thoát, Mau sớm niệm Di Đà.

Biển trần khổ vơi vơi Trời nước

Ánh Thái Dương giọi trước phương đông.

(Kinh Cúng Tứ Thời).



BỂ TRÍ NON NHÂN

Hay “Biển trí non nhân”.

Biển trí là sự hiểu biết rộng lớn như biển, tức là trí huệ. Người có trí huệ là người giác ngộ, đắc thành Tiên, Phật. Chỉ cõi Tiên.

Non nhân là lòng thương người cao lớn như núi, đây là lòng từ bi, bác ái của Phật. Chỉ cảnh Phật.

Biển trí non nhân tức là chỉ cõi tiên cảnh Phật.

Trừ trần cấu, xủ phất trần,

Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỆ NGỌC

Bởi chữ “Ngọc giai  ” tức bực thềm bằng ngọc, chỉ ngôi vua ngự.



Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ,

Cất chân tay thương khó xiết chi.

(Ai Tư Vãn).



BẾN HÀ CHÂU

Hà châu 
: Bãi sông. Bến hà châu là cái bến ở bãi sông, chỉ mối duyên đẹp đẽ giữa vợ chồng.

Do Kinh Thi có câu: Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu  , . , , nghĩa là đôi chim thư cưu cất tiếng kêu hòa nhã trên bãi sông. Người thục nữ dịu dàng, sánh đôi rất tốt với người quân tử.

Xem: Quan thư.

Thể lòng dãi bến Hà châu,

Đợi nhau trên Bộc trong dâu ru mà.

(Hoa Tiên Truyện).



BẾN KHỔ

Do từ chữ “Khổ hải  ” là bể khổ mà ra.

Bến khổ chỉ cõi trần gian là nơi đầy dẫy sự phiền não, khổ đau. Theo Phật, muốn thoát khỏi bến khổ phải lấy trí tuệ (Bát nhã) làm con thuyền đưa sang bờ giác.

Cao Ðài đứng chủ cả 
sanh linh,

Bến khổ bầu Tiên rưới thế tình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Nhẫng vơ vẩn vào ra bến khổ,

Trước mặt xem những chỗ sầu than.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BẾN LŨNG

Do chữ “Lũng Đầu thuỷ  ”, tức là bến nước ở trên triền núi Lũng Sơn.

Lũng Sơn là tên dãy núi cao dài từ tỉnh Thiểm Tây đến tỉnh Cam Túc, là một cửa ải hiểm yếu về phía tây đất Quan Trung. Dưới chân núi có cửa quan, gọi là Lũng Quan. Trên núi, có nhiều ngọn nước tụ lại rồi chảy xuống núi, gọi là Lũng Đầu thuỷ. Dân gian có bài ca rằng: Lũng đầu lưu thuỷ, minh thanh u yết. Dao kiến Tần xuyên, can trường đoạn tuyệt  , . , , nghĩa là Lũng Đầu nước chảy, tiếng kêu róc rách. Xa trông đến ngọn sông Tần, ruột gan đứt từng đoạn.

Trần Đào đời Đường có bài thơ “Lũng Tây Hành”, vịnh sự đi đánh xứ Lũng Tây: Thệ tảo Hung Nô bất cố thân, Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần. Khả liên Vô Định hà biên cốt, Do thị xuân khuê mộng lý nhân  , . , , nghĩa là thề lấy thân đem quét rợ Hung Nô, cho nên năm ngàn quân mũ gấm lông điêu thảy chôn lấp ở đất Hồ. Thương thay chết đã thành đống xương bên sông Vô Định, mà hồn còn tưởng sống cứ về thăm vợ ở chốn phòng xuân.



Giận thiếp thân lại chẳng bằng mộng,

Được gần chàng bến Lũng thành quan.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



BẾN MÊ

Dịch nghĩa từ chữ “Mê tân  ”. Từ của nhà Phật, chỉ cảnh giới lầm lạc và mê muội của chúng sanh.

Xem: Mê tân.

Nghĩ thân phù thế mà đau,

Bọt trong bể khổ, bèo ngoài bến mê.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Bến mê ngán ngẩm sự đời,

Cái vòng con tạo, khéo chơi lững lờ.

(Hoa Tiên Truyện).



Bến mê rước khách thuyền đương đợi

Đưa đến đào nguyên hưởng phước lành

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Nầy bờ tục, nọ bến mê,

Từ đây không trở lộn về thấy ngươi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BẾN NƯỚC TRONG ĐỤC

Do tục ngữ có câu: “Gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” để ví thân phận người con gái như con thuyền, nổi lênh đênh giữa biển xã hội mênh mông, đang tìm những bến nước ghé đậu. Nếu may thì sẽ gặp bến nước trong thì hưởng sự tốt đẹp, nếu rủi gặp bến nước đục thì phải chịu lắm nhọc nhằn khổ cực.

Xem: Mười hai bến nước.

Bến nước gái mơ màng trong đục,

Đếm mười hai họa phúc khó lừa.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BẾN NGÂN

Bởi chữ “Ngân hà  ” tức là con sông do muôn vạn ngôi sao chi chít trên bầu trời tạo thành một dãy dài trông như một con sông bạc, được gọi là “Ngân Hà”, hay Bến Ngân.

Xem: Ngân hà.

Khác gì ả Chức chị Hằng,

Bến Ngân sùi sụt cung trăng chốc mòng.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



BẾN Ô GIANG

Tức là bến sông Ô, một con sông mà Sở Bá Vương Hạng Võ bị thất trận quân Hán, phải tự đâm cổ chết. Sau nàng Ngu Cơ, người thiếp yêu quý của Hạng Vương cũng tự sát chết, được chôn ở bến Ô Giang. Vùng đó nhân thế mà mọc ra một thứ cỏ thơm người ta gọi là cỏ “Ngu mỹ nhân”.



Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thuý Ái,

Sông Tiền Đường, cỏ áy bến Ô Giang!

(Thơ Tản Đà).



BẾN PHÌ

Bến ở sông Phì Thuỷ , một con sông ở tỉnh An Huy có hai nhánh chảy hiệp lại một.

Phì Thuỷ là nơi quân của Bồ Kiên đánh với Tần thua nặng, quân lính chết mười phần hết chín, thây chất thành núi, máu chảy thành sông.

Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



BẾN TƯƠNG

Tức bến sông Tương. Do chữ “Tương Giang  ”, chỉ sự thương nhớ giữa trai và gái, hay sự ly biệt giữa đôi lứa.

Do tích trong “Tình Sử” đời nhà Châu, Lương Ý yêu chàng Lý Sinh, sau phải xa nhau, nên có làm bài thơ “Tương Giang” (Sông Tương).

Xem: Sông Tương.



Chim lìa đảnh hạc bay ngơ ngáo,

Chiếc nhạn kêu thu đến bến Tương.

(Đạo Sử).



BỀN GAN

Đồng nghĩa với bền chí.

Bền gan là giữ vững được lòng dạ, không nao núng, không đổi thay trước việc khó khăn, trở ngại.

Gắng chí tập lần thân cực nhọc,

Bền gan tu luyện mới là nên.

(Đạo Sử).



BỆNH TỀ TUYÊN

Chứng bệnh của vua Tề Tuyên Vương đời Chiến Quốc, tức là bệnh ham mê sắc đẹp phụ nữ.

Khi Tuyên Vương nước Tề tiếp kiến Mạnh Tử và hỏi về công việc trị nước. Mạnh Tử khuyên vua Tề nên thi hành vương chính. Tề Tuyên Vương cho điều đó rất hay, nhưng nhà vua tự nhận mình không thể đem thi hành được vì có nhược điểm là ham mê nữ sắc.

Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,

Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



BI HOÀI 

Bi: Thương xót. Hoài: Nhớ trông.

Bi hoài nghĩa là thương xót và nhớ trông.



Xót thầm vóc ngọc tuổi cao,

Nhớ chừng thường chẳng lãng xao bi hoài.

(Hạnh Thục Ca).



BI HOAN 

Bi: Thương xót, đau đớn. Hoan: Vui vẻ.

Bi hoan là đau đớn và vui vẻ lẫn lộn, tức nói cảnh buồn vui thay đổi.



Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy,

Kể sum vầy đã mấy năm nay?

(Ai Tư Vãn).



BI HÙNG 

Bi: Tên một loại gấu. Hùng: Cũng là loài gấu.

Bi hùng là loài gấu. Bi: Tên một loại gấu. Xem: Hùng bi.



Kết nguyền vừa được năm năm,

Bi hùng điềm ấy sinh trăm trứng rày.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



BI THIẾT 

Bi là đau thương. Thiết là tự mình chịu lấy.

Bi thiết là tự mình chịu lấy việc đau thương.

Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



BI THU 

Bi: Thương xót. Thu: Mùa thu.

Bi thu là thương xót cho mùa thu, bởi vì cảnh sắc mùa thu tiêu điều, sầu thảm. Xưa nay, các thi nhân thường cảm khái về mùa thu.

Thơ Đỗ Phủ đời nhà Đường có câu: Vạn lý bi thu thường tác khách  , tức là thương cho mùa thu thường làm khách xa muôn dặm.

Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ,

Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



BI XÀ 

Bi: Tên một loại gấu. : Rắn.

Bởi trong Kinh Thi nói chiêm bao mà thấy gấu là điềm sinh trai, chiêm bao mà thấy rắn là điềm sinh gái.

Xem: Bi hùng.

Cùng Giải thị duyên vầy loan phụng,

Roi Thiết gia chư ứng bi xà.

(Kim Thạch Kỳ Duyên).



BÌ TIÊN 

: Da. Tiên: Cây roi.

Bì tiên là cây roi làm bằng da thú.



Phải làm cho biết phép tao!

Chập bì tiên rắp sấn vào ra tay.

(Truyện Kiều).



BỈ SẮC TƯ PHONG 

Do câu “Phong ư bỉ, sắc ư thử , , nghĩa là dồi dào bên nầy, keo kiệt bên kia. Nghĩa bóng: “Được bề nầy mất bề nọ”.

Xem: Phong sắc.

Lạ gì bỉ sắc tư phong,

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

(Truyện Kiều).



BĨ CỰC THÁI LAI 

Hay “Bĩ cực thới lai”.



Bĩ cực: Hết sức xấu. Thới lai: Tốt trở lại. Bĩ cực thới lai nghĩa là hết vận bĩ, tới vận thái.

Bĩ thái vốn là hai quẻ của Dịch: Bĩ là cùng, thái là thông. Vận mệnh của con người khi gặp hết sức xấu thì tốt sẽ trở lại, tức là hết suy tới thịnh, hết bĩ tới thái, theo đúng cơ trời vận chuyển.



Trong cơ bĩ cực thái lai.

Giữ gìn cho vẹn việc ai chớ sờn.

(Lục Vân Tiên).



Mới hay bĩ cực thới lai,

Còn trong trần luỵ, biết ai vương hầu.

(Truyện Phan Trần).



BĨ THÁI 

Quẻ bĩ và quẻ thái.

Theo nguyên lý Dịch học, trời đất giao hoà thông suốt với nhau gọi là thái, nếu không giao thông được như thường gọi là bĩ.

Vận số con người bị xấu gọi là bĩ, vận số tốt gọi là thái. Hai chữ nầy dùng để nói về vận số khi cùng khi thông, lúc suy lúc thịnh.



Quy thông hay thành bại, kiết hung,

Phụng lân biết thịnh suy bĩ thái.

(Lục Súc Tranh Công).



Thầy rằng: Bĩ thái khôn lường,

Trăng thường tròn khuyết, nước thường đầy vơi.

(Truyện Phan Trần).



Bây giờ loạn lạc bơ vơ,

Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.

(Gia Huấn Ca).



Số cả  rồi thời lại thái,

Cơ thường đông hết lại sang xuân.

(Thơ nguyễn Công Trứ).



BIA DANH

Người chết đi, tên tuổi còn truyền lại mãi mãi cho đời sau gọi là bia danh. Chữ bia danh thường được dùng cho kẻ mang tiếng xấu.



Đừng đừng theo thói mẹ con,

Thác đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngà mất kiếp, tiếng còn bia danh.

(Lục Vân Tiên).



BIA TRUỴ LỆ

Dịch chữ “Truỵ lệ bi  ”, tức là tấm bia làm cho người ta rơi nước mắt.

Do điển Dương Hổ đời nhà Tống, là một vị quan thanh liêm và rất thương yêu dân chúng. Sau khi ông mất, mọi người thương tiếc mới dựng bia ở núi Nghiên, là nơi lúc sinh thời Dương Hổ thường đến đó ngồi chơi. Người đi ngang qua lại, nhìn thấy tấm bia đều ứa nước mắt, nên người đương thời mới gọi là “Bia truỵ lệ”.

Cầu kia ai gọi Tân Đình,

Chiếc bia truỵ lệ rành rành bên sông.

(Tự Tình Khúc).



BÍCH CÂU 

Bích câu tức ngòi biếc, là tên một phường của thành Thăng long, sau thuộc làng Yên Trạch, huyện Thọ Xương Hà Nội. Khi Hà Nội làm thành phố thì Bích câu đã lọt vào thành phố Cát Linh, có đền Tú Uyên và hồ Tú Uyên. Sau binh lửa năm 1946, đền đã bị phá, chỉ còn trơ có bức tường. Nay Hà nội đã có một phố mang tên là phố Bích câu tức là phố Graffeuil trước.



Thành Tây có cảnh Bích câu,

Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao!

(Bích Câu Kỳ ngộ).



BIÊN ẢI 

Biên: Chỗ giáp giới giữa hai nước. Ải: Cửa ải.

Biên ải là ải quan ở nơi biên giới, tức là chỗ đất hiểm trở giáp giới giữa hai nước.



Một mình một ngọn đèn hao.

Áng mây biên ải, chiêm bao cho liền.

(Hoa Tiên Truyện).



BIÊN CƯƠNG 

Biên: Chỗ giáp giới giữa hai nước. Cương: Đất đai được giới hạn của hai quốc gia.

Biên cương là chỉ đất đai giáp nhau giữa hai nước.



Kìa Chí Tôn Cao Đài đương ngự,

Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.

(Kinh Thế Đạo).



Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,

Chín bệ ngày nay quỉ nhảy đầm.

(Đạo Sử).



Trước quốc chánh chia hai tộc chủng,

Núi Hoành sơn định phỏng biên cương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BIÊN ĐỊA 

Biên: Nơi giáp giới giữa hai nước. Địa: Đất.

Biên địa như biên cương, tức là vùng đất giáp giới giữa hai nước.



Dao Trung yên mã chỉnh tu,

Vưng lịnh lão tuần du biên địa.

(Nhạc Hoa Linh).



BIÊN ĐÌNH 

Biên: Nơi giáp giữa hai nước. Đình: Triều đình.

Biên đình là đất của triều đình, nơi đó giáp giới giữa hai quốc gia.



Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi,

(Truyện Kiều).



Xem dường cuồng khấu biên đình,

Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BIÊN PHONG 

Tức là tịch biên
và niêm phong .

Nhà người có tội bị bắt, gia sản bị tịch biên, tức là nhà nước ghi chép vào sổ sách tài sản của người có tội rồi tài sản và nhà cửa bị niêm phong lại.



Hỏi thăm tìm đến hỏi qua,

Cửa ngoài đã thấy có tờ biên phong.

(Nhị Độ Mai).



Biên phong điền sản, cửa nhà,

Cùng là thân thích chẳng tha một người.

(Nữ Tú Tài).



BIÊN PHÒNG 

Biên: Nơi giáp giới giữa hai quốc gia. Phòng: Đề phòng gìn giữ.

Biên phòng là canh phòng, gìn giữ nơi biên giới của quốc gia.



Bản chức nay:

Vâng lệnh biên phòng,

Chạnh niềm viễn thú.

(Trận Vong Tướng Sĩ).



BIÊN QUAN 

Biên: Ranh giới giữa hai nước. Quan: Ải.

Biên quan tức là cửa ải ngoài biên cảnh, nơi giáp giới giữa hai nước.

Xem: Biên ải.

Ai hay những việc chẳng ngờ,

Lời biên quan báo, thực là không sai.

(Nhị Độ Mai).



BIÊN THÀNH 

Biên: Chỗ giáp giới giữa hai quốc gia. Thành: Thành trì.

Biên thành là thành trì nơi biên giới, tức là chỗ đất hiểm trở giáp giới giữa hai nước.

Xem: Biên ải.

Hồng quần nhẹ bước chinh yên,

Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Thương ôi muôn dặm biên thành,

Xa xôi nào thấu dữ lành tin hơi.

(Hoa Tiên Truyện).



BIÊN THUỲ 

Biên: Chỗ giáp giữa hai nước. Thuỳ: Biên giới.

Biên thuỳ là chỗ đất biên giới giữa hai nước.



Xa khơi ngoài chốn biên thùy,

Đồ bà giặc mọi đua bề phân tranh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Nghênh ngang một cõi biên thùy,

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!

(Truyện Kiều).



Tiện nghi các việc biên thùy,

Vận lương, Diêu cũng tức thì trẩy ra.

(Hoa Tiên Truyện).

BIẾN CHUYỂN 

Biến: Thay đổi. Chuyển: Lay động từ chỗ này đến nơi khác.

Biến chuyển là thay đổi, tức là biến đổi sang một trạng thái khác.



Biến chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,

Trả vay cho sạch vết oan khiên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BIỀN MÂU 

Biền: Cái mũ, thuộc về quan võ. Mâu: Một loại khí giới cán dài mũi nhọn.

Biền mâu chỉ các loại khí giới, thuộc về quan võ.



Sông Thù luống những khát khao,

Rắp đem hàn mặc buộc vào biền mâu.

(Hoa Tiên Truyện).



BIỂN KỲ 

Biển: Tấm biển, khuôn biển. Kỳ: Cờ xí.

Biển kỳ là tấm biển và lá cờ, là đồ nghi thức trong quân đội, dùng làm biểu hiệu khi đi đường hay đóng quân tại nơi nào đó.



Đồ hiếu sự vẻ quân dung,

Sông lồng giới trượng gió tung biển kỳ.

(Nhị Độ Mai).



BIỂN THƯỚC 

Tên một danh y thời thượng cổ.

Tương truyền vào đời vua Hiên Viên, Huỳnh Đế, Biển Thước là một thầy thuốc giỏi, nổi tiếng thời bấy giờ, có thể cải tử hoàn sinh, được người đương thời tặng cho hiệu là Thước Vương.

Như ông Biển Thước nhà ta,

Tám mươi mốt quyển gọi là Nạn kinh.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Tìm thầy Biển Thước lập phương,

Mã đề, quy bản, sà sàng, lộc nhung.

(Truyện Trinh Thử).



Ma đừng chữa thuốc đừng tra,

Thầy non Biển Thước, sư già Lão Quân.

(Sơ Kính Tân Trang).



Lúc ốm đau điều dưỡng cũng thần,

Trị bịnh đến Biển Thước, Hoa Đà khôn dọ.

(Phú Thuốc Phiện).



BIỆN HOÀ 

Biện Hoà là người thợ ngọc ở nước Sở, lấy được một hòm đá ngọc ở núi Kinh đem dâng cho vua Sở. Vua sai thợ ngọc thử, bảo là đá, Hoà bị tội chặt chân. Hoà đem dâng cho một vị vua khác, lại bị chặt chân nữa. Đến đời Sở Văn Vương, anh ta ngồi ôm ngọc khóc suốt ba ngày đêm, vua Sở nghe nói sai người đến hỏi, anh đáp: Tôi khóc không phải vì bị chặt chân, mà khóc vì ngọc quý mà bảo là ngọc giả, người thật thà mà bảo là dối trá.

Mãi sau mới khám phá ra được là ngọc ở trong đá, giá quý không biết bao nhiêu mà kể, người đời mới đặt tên “Ngọc bích họ Hoà”. Ngọc ấy về tay nước Triệu. Vua Tần xin đem mười lăm thành để đánh đổi, nên còn gọi là “Ngọc liên thành”.

Mã Long tuấn gặp chàng Bá Nhạc,

Ngọc Kinh Sơn gặp được Biện Hoà.

(Bần Nữ Thán).



Thương nhẫn Biện Hoà ngồi ấp ngọc,

Đúc nên Nhan Tử tiếc chi vàng.

(Thơ Nguyễn Trãi).



BIỆN OAN 

Biện: Biện luận để cho rõ phải trái. Oan: Nghi ngờ người không vi phạm.

Biện oan tức là tranh luận với nhau để giải toả những oan khúc.



Than rằng thung cỗi huyên già,

Thiên lao biết có bao giờ biện oan.

(Nhị Độ Mai).



BIỆN TUYỆT HUYỀN 

Nghe đàn phân biệt được dây đàn đứt.

Do tích nàng Thái Văn Cơ mới 7 tuổi đã biết âm thanh tiếng đàn và phân biệt được dây đàn nào bị đứt.

Một đêm, cha là Thái Ung ngồi khảy đàn cầm, dây đàn bị đứt, Văn Cơ nối dây thứ hai. Thái Ung cố tình làm đứt dây nữa, rồi hỏi. Văn Cơ nói: Dây đàn thứ tư. Thái Ung nói: Tình cờ đoán trúng vậy thôi. Thái Văn Cơ nói: Ông Quý Trát nghe nhạc mà biết nước thịnh suy, ông Sư Khoáng thổi sáo luật mà biết gió nam không đua với gió bắc. Nghe âm thanh trong tiếng đàn có gì mà không biết.



BIẾT THỜI

Đời Chiến Quốc có Tôn Thúc Ngao, một tôi thần của Sở Trang Vương là người thức thời và hiểu rộng.

Lúc gần chết, ông bảo con là Tôn An đến bên giường mà trối rằng: Con là người không có tài thì đừng thọ phẩm tước. Nếu như nhà vua thương tình phong ấp cho thì con xin nhận đất Tẩm Kỳ, vì đất ấy xấu không ai thèm để ý đến, nên con nhận thì chẳng ai giành giựt, như vậy con sẽ ở yên trọn đời nơi đó.

Tôn An là người con hiếu, nghe lời cha dạy bảo, cho nên suốt đời ở yên đất Tẩm Kỳ mà không bị ai giành giựt cả.



BIỆT LY 

Biệt: Chia ra, riêng biệt. Ly: Lìa.

Biệt ly là từ giã để lên đường, hai người đành phải chia lìa, xa cách nhau.



Ve kêu hạ như dường trêu thảm,

Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BIỂU VĂN 

Biểu: Bản văn dâng lên vua. Văn: Bản văn.

Biểu văn là tờ biểu của bề tôi dâng lên vua. Đồng nghĩa với biểu chương.



Tả biểu văn hồi tấu cửu trùng,

Ra sức mọn tảo thanh hồ lỗ.

(Nhạc Hoa Linh).



BINH CÁCH 

Binh: Quân lính. Cách: Áo giáp bằng da thú.

Binh cách là tiếng dùng để chỉ binh khí và áo giáp.

Nghĩa bóng: Chỉ giặc giã.

Quốc bộ gặp đương cơn binh cách,

Phép nhung bào từng lắm trận uy linh.

(Văn Tế Tướng Sĩ).



BINH CỨU VIỆN 

Binh: Quân linh. Cứu viện: Cứu giúp đội quân đang lúc nguy nan.

Binh cứu viện tức là tăng cường thêm binh lính để đi cứu giúp quân đang bị nạn.



Hoa Linh nay hồi tấu biểu chương,

Hồi triều nội xin binh cứu viện.

(Nhạc Hoa Linh).



BINH ĐAO 

Binh: Quân binh. Đao: Gươm giáo. Binh đao tức là binh lính và đao kiếm.

Nghĩa bóng: Chỉ cảnh chiến tranh, giặc giả.



Ải xa mấy trận binh đao,

Truy quân quá đất lầm vào thành không.

(Hoa Tiên Truyện).



Quần xoa đỡ ngọn binh đao,

Xây hình thục nữ giặm màu nước non.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BINH NHUNG 

Binh: Quân lính. Nhung: Chỉ binh khí, quân lính.

Binh nhung là tiếng dùng để chỉ về binh lính và khí giới.

Nghĩa bóng: Quân lính.

Phút đâu giặc mọi làm hung,

Lung lăng nết dữ binh nhung dấy loàn.

(Lục Vân Tiên).



Phen này động việc binh nhung,

Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung hai người.

(Nhị Độ Mai).



Ngoài khua tiếng giặc trong khua nịnh,

Võ thiếu binh nhung quốc thiếu cờ.

(Đạo Sử).



BINH TÌNH 

Binh: Quân lính. Tình: Tình hình.

Binh tình tức là tình hình binh lính hay có thể hiểu tình hình của chiến tranh.



Đêm khuya lét thấy binh tình,

Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.

(Hoa Tiên Truyện).



BINH THƯ 

Hay “Binh thơ”.



Binh: Quân lính, thuộc về chiến tranh. Thư: Sách.

Binh thư hay binh thơ là sách viết về trận pháp, tức cách dùng binh.



Về đông hết kế Tử Phòng,

Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.

(Ngụ Đời).



BÍNH NGỌC TƯƠNG NHƯ 

Bính ngọc: Cầm giữ ngọc. Tương Như: Lạn Tương Như, một nhân vật đời Chiến Quốc.

Lạn Tương Như, người nước Triệu đời Chiến Quốc, làm xá nhân cho viên Thái giám trưởng là Mậu Hiền. Vua Tần hứa đem mười lăm thành để đổi viên ngọc họ Hoà của nước Triệu. Lạn Tương Như được Thái giám Mậu Hiền tiến dẫn để đem ngọc bích đi đổi mười lăm thành của Tần.

Vua Tần nhận ngọc nhưng không có ý giao thành, Tương Như đánh lừa lấy lại được ngọc bích đem về trả cho Triệu. Nhờ thế, Lạn Tương Như được thăng chức Thượng khanh.

Bính ngọc Tương Như mấy được dành,

Chưa ra giá đáng xót oai danh.

(Đạo Sử).



BÌNH BÁT

Một thứ dụng cụ của người tu theo Phật, để đựng vật thực của thí chủ cúng dường cho.

Trước kia bình bát làm bằng vỏ trái cây phơi khô hoặc bằng đất. Hiện nay, bình bát thường được làm bằng thau hoặc đồng.

Người tu theo phái khất sĩ rất trọng bình bát, bởi hằng ngày đều bưng bình bát đi hành khất.



Món ăn tinh sạch báu mầu,

Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.

(Phật Nói Vu Lan).



Thiếu bình thiếu bát,

Thiếu đậu thiếu tương.

(Sãi Vãi).



BÌNH BỒNG 

Bình: Cây bèo. Bồng: Cỏ bồng.

Bèo là một loại cây trôi lênh đênh trên mặt nước, không có chỗ nhứt định. Cỏ bồng mỗi khi có gió thổi, bay đi đây đi đó, chẳng biết dừng lại nơi nào.

Vì vậy, “Bình bồng” được dùng để chỉ sự trôi nổi, không biết đâu là nơi nhứt định.

Bình bồng còn chút xa xôi,

Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho yên.

(Truyện Kiều).



BÌNH CƯ 

Bình: Yên ổn. : Ở.

Bình cư là lúc bình thường ở được yên ổn, vô sự.



Bình cư giữ lấy đạo Hằng,

Hễ người trung chính xin đừng tự khi.

(Nhị Độ Mai).



BÌNH ĐỊA BA ĐÀO 

Đồng nghĩa với “Bình địa phong ba  ”.



Bình địa: Đất bằng. Ba đào: Sóng to sóng nhỏ. Phong ba: Sóng gió.

Bình địa ba đào hay bình địa phong ba đều có nghĩa là đất bằng dậy sóng.

Thành ngữ dùng để chỉ sự việc đang yên ổn bỗng nhiên những hoạn nạn, biến cố xảy đến một cách bất thình lình.

Gặp cơn bình địa ba đào,

Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.

(Truyện Kiều).



Đương cơn bình địa ba đào,

có chí làm nên quan, có gan làm nên giàu,

sao chẳng khoe khôn cậy khéo.

(Khuyên Thế Nhân).



BÌNH ĐỊA PHONG BA 

Bình địa: Đất bằng. Phong ba: Sóng gió.

Bình địa phong ba là đất bằng phẳng nổi sóng gió. Ý nói đang bình yên bỗng dưng tai ương hoạ hoạn xảy đến thình lính.

Xem: Bình địa ba đào.

Phòng cơn bình địa nổi phong ba,

Con nhớ ngày nay đã có nhà.

(Đạo Sử).



BÌNH ĐỊA SÓNG XAO

Hay “Bằng địa sóng xao”.

Do thành ngữ “Bình địa ba đào  ” tức là đất bằng dậy sóng, dùng để chỉ cảnh đang yên ổn, tai biến đến bất ngờ.

Xem: Bình địa ba đào.



Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,

Bằng địa sóng xao khiến rập rình.

(Đạo Sử).



BÌNH KHANG 

Hay “Bình khương”.

Bình khang là tên một xóm ăn chơi ở Trung Hoa ngày xưa. Đó là một điểm chứa gái ăn chơi ở trong thành Trường An, đời nhà Đường. Xóm này gần cửa Bắc, nên cũng gọi là Bắc Lý.

Xem: Bắc Lý.



Bình Khang nấn ná bấy lâu,

Yêu hoa yêu được một màu điểm trang.

(Truyện Kiều).



BÌNH LÃNG 

Bình: Bèo. Lãng: Sóng.

Bình lãng là bèo và sóng, cũng như chữ “Bình thuỷ tương phùng  ” để nói về cái duyên hai người ngẫu nhiên mà gặp gỡ nhau.



Mảnh duyên bình lãng còn nong nả,

Chút phận tang thương lắm ngại ngùng.

(Thơ Tôn Thọ Tường).



BÌNH LÌA TRÂM GÃY

Đồng nghĩa với “Trâm gãy bình rơi”.

Do chữ “Bình trầm trâm chiết  ” nói về việc sắp thành mà bỏ dở, có làm mà cũng như không. Hoặc dùng để chỉ người phụ nữ đẹp bị chết yểu.

Người hạnh nghị, khách 
dung nghi,

Làm cho trâm gãy bình lìa mới thôi.

(Hoa Tiên Truyện)



BÌNH LÔI 

Bình:Cái bình. Lôi: Cái chén.

Bình lôi là bình và chén, do thiên “Lục Nga” trong Kinh Thi có câu: Bình chi khánh hỹ, duy lôi chi sỉ  , , nghĩa là cái bình mà cạn là nỗi nhục của cái chén. Ý nói cha mẹ và con cái nhờ cậy lẫn nhau, san sớt cho nhau, có trách nhiệm với nhau.



Thấy chữ "Bình lôi" thơ cũ,

chi xiết não nùng;

Nghe câu "Phong mộc" ngày xưa,

càng thêm bát ngát.

(Dương Từ Hà Mậu).



BÌNH NGUYÊN QUÂN 

Bình Nguyên Quân tên chữ là Thắng, con vua Triệu Vũ Linh vương, người đời Chiến Quốc. Ông là một vị tướng của nước Triệu, được phong ở đất Bình Nguyên. Cũng như Mạnh Thường Quân, ông là người rất hiếu khách, lúc nào trong nhà cũng có thực khách trên ba ngàn người.

Có một lần, Triệu bị nước Tần vây rất gấp, ông thấy Mao Toại là người có thể dùng để sai đi ước hẹn với Sở và qua Nguỵ cầu cứu với Tín Lăng Quân để đem binh đến cùng đánh Tần. Vì vậy, nước Triệu mới được giữ yên.

Đường Thi có câu: Bất tri can đảm hướng thuỳ thị, Linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân  , , nghĩa là chẳng biết gan mật cùng ai tỏ, khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân.



Từ rằng lời nói hữu tình,

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.

(Truyện Kiều).



BÌNH PHONG 

Bình phong là tấm chắn ngăn gió.

Ngày xưa theo địa lý phong thuỷ, người ta thường hay xây bức bình phong bằng vôi gạch trước mặt nhà để ngăn những điều rủi xấu đưa đến.

Ngoài ra bình phong còn là bức phên bằng tre dùng để chắn gió hay áng trước bàn thờ để được tôn nghiêm.



Ngẩn ngơ đứng trước bình phong,

Minh nghi chưa dám vào trong công đường.

(Dương Từ Hà Mậu).



BÌNH SANH 

Chỉ cuộc đời của mình trong lúc còn sống.

Sách Minh Tâm Bửu Giám có câu: “Nhàn trung kiểm điểm bình sanh sự, tĩnh lý tư lương nhựt sở vi  , , nghĩa là trong lúc nhàn rỗi mình kiểm điểm việc bình sanh, lúc thanh tịnh nghĩ đến việc làm trong ngày.

Xiết bao phận mỏng như tờ,

Nợ bình sanh, nỗi tóc tơ chưa đền.

(Truyện Hoa Tiên).



BÌNH TƯỚC 

Bình: Bức bình phong. Tước: Chim sẻ.

Bình tước là bức bình phong có vẽ con chim sẻ.

Đường thư chép: Ông Đậu Nghị có người con gái rất đẹp, muốn kén rể cho con, ông bèn cho vẽ một con chim sẻ trên một bức bình (tranh), bảo những người gắm ghé đến cầu hôn bắn một mũi tên, người nào bắn trúng vào mắt con chim sẻ thì được gả con gái cho. Trong số những người đến dự bắn có ông Lý Uyên bắn trúng ngay mắt con chim sẻ. Đâụ Nghị bèn nhận làm rể.

Xem: Tước bình.



Bình tước mặc tranh treo trước án,

Cầu ô sẵn dịp bắc ngang sông.

(Thơ Trần Tế Xương).



BÌNH THỜI 

Bình: Yên ổn. Thời: Buổi, lúc.

Bình thời gặp buổi thái bình, an lạc.



Non sông nào phải buổi bình thời,

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



BÌNH THUỶ TƯƠNG PHÙNG 

Nước bèo gặp gỡ. chỉ sự tình cờ mà gặp nhau.

Bèo trôi không biết đi đâu, nước chảy chẳng biết về đâu, cả hai không định sở, thế mà có duyên gặp gỡ. Thơ Vương Bột có câu: Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân? Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách  , . , , nghĩa là quan san khó vượt, ai xót cho người bất đắc chí. Bèo nước gặp nhau, toàn là do mỗi người một nơi.

Nhớ câu bình thủy tương phùng,

Anh hùng lại gặp anh hùng một khi.

(Lục Vân Tiên).



BỌC DA

Bởi câu “Da ngựa bọc thây”, dịch từ “Mã cách loã thi  ”.

Làm trai vì tổ quốc dù chết nơi chiến trường thì cũng lấy da ngựa để bọc thây, đó là niềm vinh diệu của phận nam tử.

Xem: Da ngựa.



Bọc da dù đến thân này,

Cũng đành tỏ chút tình ngay với người.

(Hoa Tiên Truyện).



BÓI PHƯỢNG

Tức là bói được quẻ chim phượng và chim hoàng sánh đôi, chỉ việc kết duyên vợ chồng.

Do tích trong Tả Truyện: Quan Đại phu nước Trần là Ý Thị muốn gả con gái cho Kính Trọng, bèn bảo vợ đi bói xem một quẻ, quẻ có câu rằng: Thị vị phượng hoàng vu phi, hoà minh tương tương…  , , nghĩa là hai trẻ sanh duyên như chim phượng chim hoàng sánh bay, tiếng hót vang vang.

Đã trồng bạch bích sẵn đây,

Còn chờ bói phượng chưa vầy bạn loan.

(Quan Âm Thị Kính).



BÓNG ÁC

Hay “Bóng ô”, tức là bóng con chim quạ, chỉ bóng mặt trời. Tương truyền trên mặt trời có con quạ, nên gọi mặt trời là bóng ác, bóng ô, hay ác vàng.



Bóng ác rạng đông trời đã sáng,

Tiếng gà sôi nổi tiếng hàn châm.

(Quốc Âm Thi Tập)



BÓNG BỌT

Tức là cái bọt bong bóng nổi trên mặt nước, trôi giạt lênh đênh, dễ tan vỡ, ví thân phận người phụ nữ.



Chàng thì biển cả vơi vơi,

Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÓNG CÂU

Do chữ “Bạch Câu quá khích  ” tức là bóng ngựa trắng qua khe hở, dùng để chỉ thời gian trôi qua nhanh.

Sách Sử Ký chép lời Trương Lương nói: Nhân sinh nhất thế gian như bạch câu quá khích, hà chí tự khổ như thử  , , nghĩa là người ta sinh ra trong đời như bóng bạch câu qua khe hở, cần gì phải làm khổ mình đến như vậy?

Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi,

Những hương sầu phấn tủi bao xong.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Tin én đưa thoi,

thấp thoáng bóng câu chi ruổi.

Khúc hoàng lọt tiếng,

bâng khuâng hồn bướm chi mơ.

(Mẹ ơi con muốn lấy chồng)



BÓNG CÂU CỬA SỔ

Bóng câu cửa sổ tức là bóng con ngựa câu chạy nhanh qua cửa sổ.

Do chữ “Bạch câu quá khích  ” tức là bóng ngựa trắng qua khe hở, ý chỉ thời gian trôi nhanh.

Gẫm trong tám, chín mươi năm,

Bóng câu cửa sổ, dễ cầm mãi ru!

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Bóng câu cửa sổ ngựa bay,

Bảy năm thấm thoát đến ngay bây giờ.

(Thạch Sanh).



BÓNG CHIM TĂM CÁ

Bóng chim tăm cá là hình bóng chim. Tăm hơi cá, có ý nói thư từ tin tức do chim hay cá mang đến.

Cùng nghĩa với “Tin chim thư cá”.

Xem: Tin chim thư cá.



Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,

Bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm.

(Truyện Kiều).



BÓNG DÂU

Tương truyền ở biển tây có cây “Tang du  ”, mặt trời đến đó thì lặn, nên người ta dùng chữ này để chỉ cảnh mặt trời chiều và chỉ tuổi già gọi là “Tang du vãn ảnh  ”.

Tang du còn là phương tây, nên câu “Nhật lạc tang du  ” là mặt trời lặn về hướng tay, nói cảnh người già.

Bóng dâu ý nói cảnh về chiều hay chỉ tuổi già.



Nhớ ơn chín chữ cao sâu,

Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.

(Truyện Kiều).



Bóng dâu đã xế ngang đầu,

Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.

(Truyện Kiều).



Trời hôm giục bóng dâu tà,

Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Ngàn mây trắng bạc như tờ,

Bóng dâu chênh chếch đã vừa ngang vai.

(Hoa Tiên).



BÓNG DƯƠNG

Bóng dương tức là bóng mặt trời.

Vầng thái dương tượng trưng cho vua, nên bóng dương cũng dùng để chỉ vua.

1.- Chỉ mặt trời:



Thư thường tới người không thấy tới,

Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).

2.- Chỉ vua:

Doành nhâm một giải nông nông,

Bóng dương bên ấy, đứng trông bên này.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,

Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.

(Ai Tư Vãn)



BÓNG ĐUỐC VÂN TRƯỜNG

Thành Hạ Bì bị vây, Tào Tháo chiêu dụ Quan Vân Trường, tức Quan Võ quy hàng. Quan Võ thuận với ba điều kiện, Tháo chấp nhận. Sau đó, Quan Võ hộ vệ nhị vị phu nhân, vợ Lưu Bị, theo quân Tháo về Hứa Xương. Dọc đường, Tào Tháo muốn làm loạn nghĩa vua tôi giữa Lưu Bị và Quan Võ, nên để Quan Võ và hai chị dâu ở chung một nhà. Nhưng đêm đến, Quan Võ cầm đuốc, đứng canh ngoài cửa cho đến sáng.

Xem: Độc mã đơn đao.

Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,

Nức danh ba nước treo gương muôn đời.

(Gia Huấn Ca).



BÓNG HẠC

Bóng chim hạc, một loài chim sống lâu, nên trong văn chương, người ta dùng để chỉ người cha.

Bóng hạc còn dùng để chỉ bóng mặt trời. Ngô Sư Đạo có câu thơ: Trì yên minh hạc ảnh, lâm vũ đoạn thiền thanh  , , nghĩa là khói trên ao sáng bóng chiều tà, mưa trong rừng làm dứt tiếng ve ca.

1.- Chỉ cha:



Rồi ra cách trở 
quan san,

Chẳng hay bóng hạc khơi ngàn non Hoa.

(Truyện Phan Trần).

2.- Chỉ mặt trời:

Trời Tây bóng hạc non sào,

Đường rêu khách quạnh ruổi vào Thiên thai.

(Mai Đình Mộng Ký).



BÓNG HẠC XE MÂY

Bởi chữ “Hạc giá vân xa  ”, tức là cỡi xe mây và cỡi chim hạc bay lên trời, ý nói người chết.

Nghĩa bóng dùng để chỉ người quy vị, quy tiên.

Người đâu mà của thấy đây?

Hẳn rằng bóng hạc xe mây đã đành.

(Nhị Độ Mai).



BÓNG HỒNG

1.- Bởi chữ “Mỹ nhân hồng ảnh  ”, tức là bóng hồng của người đẹp, ý muốn diễn tả dáng điệu, hình bóng của người phụ nữ đẹp.



Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,

Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.

(Truyện Kiều).

2.- Bóng hồng, chỉ bóng con chim hồng, hay hồng tín, dùng để nói về thư từ tin tức.

Xem: Tin nhạn.

Đã nhiều khắc đợi giờ trông,

Tăm ngư chìm nước bóng hồng khuất mây.

(Ngọc Kiều Lê).



BÓNG HUỲNH

Huỳnh là con đom đóm.

Bóng huỳnh là bóng sáng của con đom đóm.

Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh,

Vách sương hơi gió đèn xanh lờ mờ.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



BÓNG KIỀU

Bởi chữ “Kiều mộc  ” là cây cao.

Bóng kiều là bóng cây cao, được dùng để ví với người chồng hay người cao sang, quyền quý.

Bóng kiều mong gởi thân la,

Biết đem rìu búa để mà cậy ai?

(Hoa Tiên truyện).



BÓNG NGA

Bóng Nga tức là bóng nàng Hằng Nga, chỉ bóng mặt trăng.

Do tích Hằng Nga lén chồng là Hậu nghệ uống thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫu, nên thành tiên bay lên sống trên mặt trăng. Vì vậy, người ta thường gọi mặt trăng là “Bóng Nga”, “Cung Hằng”, “Ả Hằng”…

Một mình lặng ngắm bóng Nga,

Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.

(Truyện Kiều).



Bóng Nga thấp thoáng dưới mành,

Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai.

(Truyện Kiều).



BÓNG NGÀ NỮ DUNG

Bóng ngà: Cũng như chữ “Bóng ngọc”, chỉ người con gái đẹp. Nữ dung: Dáng vẻ người phụ nữ.

Bóng ngà nữ dung chỉ người con gái đẹp.



Vợ con thay phận mẹ già,

Nuôi con mẹ cậy bóng ngà nữ dung.

(Nữ Trung Tùng Phận).

BÓNG NGÃ CÀNH DÂU

Như chữ “Bóng xế nhành dâu”.

Do chữ “Tang du  ” là cây dâu, tương truyền ở biển tây, mặt trời đến đó thì lặn, nên người ta dùng chữ này để chỉ cảnh mặt trời chiều và chỉ tuổi già gọi là “Tang du vãn ảnh  ”, tức là bóng ngã cành dâu (Hay bóng xế nhành dâu).

Xem: Bóng dâu.

1.- Bóng ngã cành dâu:

Mẹ già bóng ngã cành dâu,

Phòng khi sốt mặt váng đầu cậy ai.

(Truyện Phan Trần).



Tà tà bóng ngả cành dâu,

Sớm khuya dưới gối ai hầu hạ thay?

(Quan Âm Thị Kính).

2.- Bóng xế nhành dâu:

Tuổi già bóng xế nhành dâu,

Sớm xem tối xét ai hầu cho cha.

(Lục Vân Tiên).



BÓNG NGỌC

Tức là bóng thỏ ngọc, chỉ bóng mặt trăng.

Giả Đảo có câu: Ngọc thố đàm để một  , nghĩa là ngọc thỏ ở dưới đáy đầm lặn mất.

Hây hây gió vàng thông ải nhạn,

Làu làu bóng ngọc suốt nhà giao.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Dưới trăng bóng ngọc còn nguyên,

Ôm bình, bao tóc sang hèn cũng cam.

(Kinh Thế Đạo).



BÓNG NGUYỆT

Nguyệt là mặt trăng.

Bóng nguyệt tức là bóng mặt trăng.

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,

Gió lay đèn tắt, nguyệt làu làu.

(Giới Tâm Kinh).



BÓNG Ô

Ô là chim quạ.

Bóng ô, như chữ bóng ác, là bóng con chim quạ, chỉ bóng mặt trời.

Một niềm dạ sắt in vầng thỏ,

Mấy lúc lòng vàng chỉ bóng ô.

(Truyện Trinh Thử).



BÓNG QUANG ÂM

Quang 
: Ánh sáng. Âm : Bóng tối.

Bóng quang âm là bóng của ánh sáng và bóng tối, ở đây chỉ ngày đêm thay đổi với nhau, hay nói cách khác là thời gian trôi qua đi.



Việc sanh tử như dường chớp nháng,

Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.

(Sám Hối Kinh)



Trời vừa xế bóng quang âm,

Phút đâu một trận mưa dầm tối tăm.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BÓNG QUẾ

Bóng quế tức là bóng cây quế.

Tương truyền, Hằng Nga lén chồng là Hậu nghệ uống thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫu, nên thành tiên bay lên sống trên mặt trăng có cây ngọc quế. Vì vậy, người ta thường gọi mặt trăng là “Bóng quế”, “Thềm quế”, “Điện quế”.

Nương song ngày tiếc mùi hương nhạt,

Nối chén đêm âu bóng quế tan.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



Quanh rường một bức khăn là rủ,

Treo nguyệt 
ba canh bóng quế cao.

(Truyện Vương Tường).



BÓNG SẮC

Bóng sắc là hình bóng và nhan sắc, tức chỉ chung sắc đẹp của người đàn bà, con gái.



Bởi ham bóng sắc hơn chì,

Mỹ nhân thấy dạng kể gì đến duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Chẳng chịu chồng thương kẻ hơn mình,

Giận sao có dễ khinh bóng sắc.

(Phương Tu Đại Đạo).



BÓNG TANG DU

Bởi chữ “Nhật lạc tang du  ” là mặt trời lặn xuống ở gốc cây dâu cây du, có nghĩa là bóng nắng buổi chiều, ý chỉ cảnh già. Nhân đó, người ta nói cảnh tượng người già gần chết thì nói: “Tang du vãn ảnh  ”.



Dư một kỷ yên bề vi thước,

Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



BÓNG THIỀM

Bởi chữ “Thiềm ảnh  ”, nghĩa là bóng của con thiềm thừ.

Do tích Hằng Nga sau khi trộm thuốc tiên của chồng là Hậu Nghệ, uống vào thành tiên lên ở cung trăng và hoá thành con thiềm thừ. Nên mặt trăng được gọi là “Bóng Thiềm” hay “Thiềm cung”, “Cung thiềm”.

Xem: Cung thiềm.



Phất phơ tơ liễu buông rèm,

Nửa sân lưu lệ bóng thiềm xế ngang.

(Hoa Tiên Truyện).



Chim về xao xác lá cây,

Rừng Đông đã thấy tròn xoay bóng thiềm.

(Mai Đình Mộng Ký).



BÓNG THỎ

Bởi chữ “Thố ảnh  ”, tức là bóng con thỏ, chỉ mặt trăng.

Tương truyền, trên mặt trăng có một con thỏ bạch. Vì vậy, trong văn chương người ta thường dùng chữ “Bóng thỏ”, “Thỏ bạc”… để chỉ mặt trăng.

Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ,

Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Mảng vui sào cạy, mái phê,

Doành Ngân bóng thỏ đã xê ngang đầu.

(Mai Đình Mộng Ký).



Bóng thỏ ven mây lồng đất trắng,

Gương thiềm đáy nước vẽ trời xanh.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BÓNG THUNG

Hay “Bóng xuân”.



Bóng: Hình bóng. Thung (hay xuân): Một loại cây, chỉ người cha.

Bóng thung là hình bóng ông cha.

Xem: Thung đường.

Nghĩ mình bồ liễu phận thường,

Bóng thung lạnh lẽo hoa đường hiếm hoi.

(Ngọc Kiều Lê).



BỌT BÈO

Bọt bèo là bọt nước và cánh bèo.

Bọt nước thường trôi trên mặt nước, dễ bị tan vỡ. Bèo cũng là loại cây trôi nổi, lênh đênh trên mặt sông nước, không bến không bờ. Do đó, chữ bọt bèo dùng để chỉ sự lưu lạc không định nơi và không bền bỉ.

Sinh rằng: Chút phận bọt bèo,

Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.

(Truyện Kiều).



BỌT GHỀNH SÓNG

Ghềnh là sông nhỏ.

Bọt ghềnh sóng là bọt nước nổi trên ngọn sóng ở ngoài ghềnh, chỉ sự trôi nổi, dễ tan vỡ như bọt nước linh đinh trên ngọn sóng.

Bọt ghềnh sóng, vờ mặt nước,

tựa thân người kiếp biến mờ mờ.

(Thập Giới Cô Hồn).



BỐ KINH 

Do thành ngữ “Bố quần kinh thoa  ”, nghĩa là quần bằng vải bô, trâm cài đầu bằng gai, dùng để chỉ người vợ giản dị, hiền đức. Lấy điển tích nàng Mạnh Quang khi về nhà chồng lột bỏ hết đồ gấm lụa, trang sức quý giá để mặc áo vải bô, dùng gai làm thoa giắt tóc (Kinh thoa bố quần), rồi theo chồng làm việc.

Ngoài ra, các từ kinh nhơn, kinh phụ, sơn kinh, chuyết kinh cũng dùng để chỉ bà vợ.

Đã cho vào bậc bố kinh,

Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầụ

(Truyện Kiều).



Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,

Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Vì chàng thiếp kết bố kinh,

Giữ câu thệ hải sơn minh với nàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỐ LIỆT TINH KỲ 

Bố liệt: Phô bày có hàng lối. Tinh kỳ: Chỉ chung các loại cờ.

Bố liệt tinh kỳ là cờ xí bày ra có hàng lối khắp nơi.



Truyền chúng tướng chỉnh tu qua giáp,

Rao tam quân bố liệt tinh kỳ.

(Nhạc Hoa Linh).



BỐ THÍ 

Rộng rãi giúp đỡ, trao tặng những vật chất và tinh thần của mình cho người, làm lợi ích người.

Có ba loại bố thí:

- Tài thí: Bố thí bằng tiền bạc, vật chất.

- Pháp thí: Bố thí bằng chánh pháp như thuyết pháp, truyền bá giáo lý, in ấn kinh sách.

- Vô uý thí: Bố thí bằng cách làm cho người ta hết sợ hãi, trấn an người.



Rạng giồi một tấm lòng son,

Của tiền bố thí, không còn so đo.

(Dương Từ Hà Mậu).



BỒ ĐỀ 

Một loại cây cao, to, lá bầu tròn, hạt dùng xỏ xâu làm chuỗi để niệm Phật. Lúc thành đạo, chính Đức Thích Ca Mâu Ni đã ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề nầy.

Bồ đề còn có nghĩa là tỉnh thức, giác ngộ.

Cửa bồ đề: Chỉ cửa Phật.



Cùng nhau nương cửa bồ đề.

Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.

(Truyện Kiều).



Ngán cho bên cõi bồ đề,

Phải đưòng ong bướm đi về đấy sao?

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Kiếp tu đã nguyện bồ đề,

Lòng son bảy mối tóc thề mười phương.

(Truyện Phan Trần).



BỒ ĐỀ ĐẠT MA 

Bồ Đề Đạt Ma còn gọi là Đạt Ma Đại Sư, một vị cao tăng Ấn Độ. Ngài là vị Tổ Sư thứ 28 sau Đức Phật Thích Ca của dòng thiền Ấn Độ và là Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa.

Ngài sang Trung Hoa đến chùa Thiếu Lâm, núi Tung Sơn tịnh tu. Ở đó Ngài ngồi thiền quay mặt vào vách (Diện bích) suốt chín năm liền. Về sau, Ngài truyền tâm ấn cho đệ tử là Huệ Khả làm Tổ Sư thứ hai của Tiền Tông Trung Hoa.

BỒ ĐOÀN 

Một tấm chiếu hình tròn được kết bằng cỏ bồ, dùng để các nhà sư ngồi thiền hay quỳ lạy, lễ bái.

Âu Dương Chiêm có câu: Thảo tịch bồ đoàn bất tảo trần  , nghĩa là chiếu cỏ bồ đoàn không quét bụi.

Bồ đoàn cạp góc lục lăng,

Mơ màng tràng hạt ngát lừng cà sa.

(Sơ Kính Tân Trang).



BỒ LIỄU 

Bồ liễu là một loại cây dương mọc bên bờ nước, còn có tên thuỷ dương. Thân cây bồ liễu có thể chất mềm yếu, nên người ta thường ví với thân người phụ nữ yếu đuối.

Cố Quân Thúc đời Tấn, cùng tuổi với vua Giản Văn Đế mà đầu bạc sớm, vua hỏi thì nói: Bồ liễu chi tư vọng thu nhi lạc  姿 , tức là cái tư chất loài bồ liễu, hễ thấy mùa thu là rụng.

Xem: Liễu bồ.



Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.

(Truyện Kiều).



Gặp cơn thảo muội cơ trời,

Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Nàng rằng: Bồ liễu chút thân,

Móc đường những lệ chúa xuân phải phiền.

(Hoa Tiên Truyện).



Nàng rằng: Bồ liễu phận thường,

Vì mang má phấn, nên vương tơ điều.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



BỒ LUÂN 

Bánh xe được vấn bằng cỏ bồ, cỏ lác để cho êm và tỏ ý tôn kính. Ngày xưa, khi vua đi rước hiền thần hay phái các quan đi phong thần sông, núi thì thường dùng xe bồ luân để đi cho êm và không nghiền hại cỏ cây.

Sử Ký chép: Cổ giả phong thiện, vi bồ luân xa, ố thương sơn chi thổ thạch, thảo mộc  , , , , nghĩa là thời cổ khi vua đi phong thiện (Lễ phong Thần núi, Thần sông) thì dùng xe bồ để tránh thương tổn đến đất đá cây cỏ.

Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn,

Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



BỒ TÁT 

Do chữ Phạn bodhi sattva, phiên âm Hán là Bồ Đề Tát Đoá, dịch nghĩa là giác hữu tình, hay giác ngộ chúng sinh.

Bồ Tát là bậc đã giác ngộ, nhưng không an hưởng Niết Bàn, mà lo cứu độ chúng sanh tự giác giác tha, tự độ độ tha.

Dốc theo Bồ Tát Như Lai,

Trước sau giữ một lòng trai chẳng mòn.

(Dương Từ Hà Mậu).



Thưa rằng: Làm phúc nào hơn,

Mở lòng Bồ Tát dẹp cơn lôi đình.

(Quan Âm Thị Kính).



BỒ TIÊN 

Hay “Bồ tiên thị nhục  鞭示辱”.



Bồ tiên: Cây roi được kết bằng cỏ bồ. Thị nhục: Nêu lên để biết nhục.

Sách có câu: “Hán Lưu Khoan trách dân bồ tiên thọ nhục , nghĩa là ông Lưu Khoan nhà Hán trị dân chỉ lấy roi bồ để làm nhục cho sửa lỗi mà thôi.

Theo Hán thư: Lưu Khoan là vị thái thú ở Nam Dương, tánh khoan dung, độ lượng và lại hay thương dân nghèo khổ. Mỗi khi trong hạt có người phạm lỗi, ông chỉ dùng roi bồ mà đánh, ý không muốn dân chịu hình phạt đau đớn, cốt để người chịu đòn nhục mà chừa lỗi.

Xem: Lưu Khoan.



Chủ huyện thanh liêm khéo dở trò,

Bồ tiên thì lại lấy vần bồ.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



BỔ THIÊN 

Vá trời.


Tương truyền bà Nữ Oa, con gái vua Phục Hy đời Thượng cổ thường luyện đá ngũ sắc để vá trời. Ý nói người có chí lớn, làm những việc to lớn, phi thường.

Xem: Vá trời.



Quyết ra tài dục nhật bổ thiên,

Nguyện hết sức trùng quang nghiệp thánh.

(Nhạc Hoa Linh).



BỘ HÀNH 

Bộ: Bước. Hành: Đi.

Bộ hành tức là người đi chân, đi bộ. Tiếng dùng để chỉ người đi đường.



Hoàng hôn gác bóng chênh chênh,

Truyền tìm quán khách bộ hành nghỉ ngơi.

(Nhị Độ Mai).



BỘ HỔ 

Bộ: Bắt. Hổ: Cọp.

Bộ hổ tức là bắt cọp, mà cọp thường được ví với bọn giặc cướp mạnh bạo, nên chữ “Bộ hổ” dùng để nói ra sức tiêu diệt bắt bọn giặc cướp.



Nào đợi ai đòi ai hỏi,

phen này ra sức đoạn kình.

Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi,

Chuyến này quyết ra tay bộ hổ.

(Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc)



BỐC PHƯỢNG 

Bốc: Bói quẻ. Phượng: Chim phụng.

Bốc phượng là bói quẻ phượng.

Tả truyện chép: Trần Trọng Kính chạy sang Tề, Tề Hầu cho làm quan Công chính. Đại phu họ Ý muốn gả con gái cho Kính Trọng, bói được một quẻ rằng: Phượng hoàng vu phi, hoà minh tương tương  , là quẻ rất tốt. vì thế, người ta mượn chữ “Bốc phượng” chỉ việc kết hôn.

Kìa như đông bích lân gia,

Kẻ đà bốc phượng, người đà mộng lan.

(Bần Nữ Thán).



BÔI CUNG XÀ ẢNH 

Hình cây cung và bóng con rắn ở trong chén.

Do tích: Lạc Quảng đời nhà Tấn, có một người bạn đến nhà chơi Lạc Quảng mời uống rượu. Người bạn vừa bưng chén rượu, thấy trong chén có bóng con rắn, bèn bỏ về không dám uống. Về sau, anh ta nhớ lại chỉ do bóng cây cung treo trên vách chiếu xuống chén rượu mà thôi.

Nghĩa bóng: Việc nghi ngờ huyễn hoặc.



BÔI CHUÔNG

Bởi chữ “Hấn chung  ” tức là lấy máu trâu bôi vào chuông.

Do tục lệ xưa, mỗi khi đúc xong một quả chuông thì giết trâu, lấy máu bôi vào chuông, lễ này người xưa gọi là “Hấn chung”.

Không nhớ thủa bôi chuông đường hạ,

Ơn Tề vương vô tội kiến tha.

(Lục Súc Tranh Công).



Bôi chuông nhớ thuở qua đường hạ,

Ân đội Tề vương bắt lại tha.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



BỐI DIỆP 

Bối: Một loại cây tên là “bối đa” mà người Ấn Độ xưa dùng để làm giấy viết chữ. Diệp: Lá cây.

Bối diệp là lá bối, một loại lá dùng làm giấy viết chữ, ý chỉ Kinh kệ.



Câu Kinh bối diệp câu thơ hoạ,

Giọt nước dương chi giọt lệ pha.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



BỒI CƠ 

Bồi: Xây đắp. : Nền móng.

Nền móng là nền tảng của cái nhà, nên cất nhà phải bồi cơ, tức là xây đắp nền móng cho vững chắc.



Dầu đến việc làm đình làm chợ,

Cũng lấy dê trảm thảo bồi cơ

(Lục Súc Tranh Công).



BỘI HOÀN 

Bội: Mang, đeo. Hoàn: Ngọc.

Bội hoàn là thứ trang sức bằng ngọc dùng để đeo.

Ngày xưa người ta dùng các thứ ngọc chạm hoa văn để các người đàn bà sang quý đeo tăng thêm vẻ đẹp. Ngoài ra, dùng ngọc kết thành chuỗi để đeo, đều gọi là “Bội hoàn”.

Đêm hồng thuý thơm tho mùi xạ,

Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



BỘI QUÂN PHẢN CHÚA 

Bội quân: Xây lưng lại, không nghĩ đến ơn của vua. Phản chúa: Phản nghịch với vua chúa.

Bội quân phản chúa là phản bội lại với ơn của vua chúa mình.



Bây thiệt loài hồ lỗ man di,

Xui cho mỗ bội quân phản chúa.

(Nhạc Hoa Linh).



BỘI ƯỚC HỒNG CÂU

Khi Hán Cao Tổ còn đánh nhau với Sở Bá Vương Hạng Võ đã lấy sông Hồng Câu làm giới hạn để giảng hòa. Nhưng Trương Lương vì căm thù Hạng Vương giết vua nước Hàn, nên xúi Hán Cao Tổ bội ước.

Xem: Mưu Bác Lãng.

Vì giận không thành mưu Bác Lãng,

Nên đành phải bội ước Hồng Câu.

(Thơ Lê Quý Đôn).



BÔN BA 

Bôn: Chạy. Ba: Sóng.

Hình ảnh sóng nước chảy dập dồn dùng để chỉ người đi chỗ nầy đến chỗ nọ một cách khổ sở, vất vả.

Bôn ba còn có nghĩa là công việc không hở tay.

Đi vừa một dặm xa xa,

Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.

(Lục Vân Tiên).



BÔN ĐÀO 

Bôn: Chạy. Đào: Trốn.

Bôn đào là chạy trốn.



Khóc than rền rĩ tâu rằng:

Khâu Khôi hôm nọ tự dưng bôn đào.

(Nhị Độ Mai).



BÔN HÀNH 

Bôn: Chạy. Hành: Đi.

Bôn hành là ra đi một cách vội vả, đi như chạy.



Phi tinh đái nguyệt mang mang khứ.

Vạn lý bôn hành đáo Giới quan.

(Nhạc Hoa Linh).



Trở về nhựt dạ bôn hành,

Thân thầy khổ não, chẳng thành thời thôi.

(Tội Vợ, Vợ Chịu).



BÔN TANG 

Ở nơi xa nghe người nhà chết thình lình, phải về vội vã để chịu tang, gọi là bôn tang.



Trong mình không cánh không vi,

Lấy chi tếch dặm, lấy gì bôn tang.

(Lục Vân Tiên).



BÔN TRÌ 

Bôn: Chạy. Trì: Chạy đến.

Bôn trì là chạy đến một cách vội vả.



Có quan Tổng đốc Bắc kỳ,

Tên là Thủ Độ bôn trì vào kinh.

(Hạnh Thục Ca).



Ải quan cách dặm bôn trì,

Ẩn thân thôn xá đợi thì cứu an.

(Nhạc Hoa Linh).



BỐN ÂN

Bởi chữ “Tứ ân  ” hay “Tứ trọng ân  ”.

Theo Phật giáo, bốn ân là bốn mối ơn mà người Phật tử phải đền đáp, báo ơn. Bốn ân đó là: 1/ Ân cha mẹ, ông bà, tổ tiên; 2/ Ân quốc gia, xã hội, quê hương, đất nước; 3/ Ân tam bảo; 4/ Ân chúng sanh, đồng bào, đồng loại.

Một thuyết khác cho bốn ân đó là: 1/ Ân cha mẹ; 2/ Ân quốc gia, xã hội; 3/ Ân sư trưởng, thầy tổ; 4/ Ân thí chủ.



Ắt là chứng quả hiện tiền,

Thong dong muôn kiếp, vẹn đền bốn ân.

(Hứa Sử Tân Truyện).



BỐN BÁU

Bởi chữ “Tứ bảo  ” là bốn báu, tức là bốn vật quý của học trò hay nhà văn, đó là giấy, bút, nghiên (mực) và mực, còn gọi là “Văn phòng tứ bảo”.



Trung đình bốn báu sẵn sàng,

Cánh mây mới thảo ngòi sương chửa rời.

(Mai Đình Mộng Ký).



BỐN BỂ NĂM HỒ

Hay “Bốn biển năm hồ”.

Bởi chữ “Tứ hải ngũ hồ  ” , như chữ “Năm châu bốn biển” dùng để nói khắp mọi nơi khắp thế giới.

Xem: Tứ hải ngũ hồ.



Dọc ngang bốn bể, năm hồ,

Khắp trong ba cõi chín châu mặc dầu.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Duyên đằng thuận gió đã êm thuyền,

Bốn biển năm hồ đã đậu yên.

(Đạo Sử).



Trai bốn biển năm hồ là xứ,

Rõ dạy khôn cư xử cùng đời.

(Phương Tu Đại Đạo).



BỐN DÂN

Bởi chữ “Tứ dân  ” là bốn hạng dân trong xã hội ngày xưa, đó là sĩ tức người đi học, nông người làm ruộng, công người làm thợ và thương người buôn bán.

Xem: Tứ dân.

Bốn dân nghiệp có cao cùng thấp,

Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng.

(Quốc Âm Thi Tập).



Gặp đời hải yến hà thanh,

Bốn dân trăm họ gặp vành ấm no.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Trà đình, tửu tứ, chớ thân,

Sĩ nông công cổ, bốn dân tập rèn.

(Huấn Nữ Ca).



BỐN ĐỨC

Bởi chữ “Tứ đức  ” là bốn đức hạnh của người phụ nữ ngày xưa phải gìn giữ. Đó là công, dung, ngôn, hạnh. Xem: Tứ đức.



Tánh khí hiền lành, nết na vẹn vẻ,

Bốn đức lòng gìn, năm hằng dạ để.

(Tử Tế Mẫu Văn).



BỐN HAY

Bốn điều hay biết, ý muốn nói việc làm mờ ám vẫn có người hay biết.

Do Dương Chấn người đời Hán nói với Ông Vương Mật rằng: Không có việc gì thầm lén được, bởi vì có bốn điều hay biết: “Sáng thì có trời hay biết, tối thì có thần soi biết, trong có ta biết, ngoài có ông biết”.

Xem: Tứ tri.



Dương Quan Tây còn sợ có bốn hay,

Khổng Phu Tử những dạy ba điều sợ.

(Sãi Vãi).



BỐN LÃO THƯƠNG SƠN

Tức “Thương sơn tứ hạo  ”.

Đời nhà Tấn có bốn người vào núi Thương Sơn tránh loạn là Đông Viên Công, Lộc Lý Tiên Sinh, Ỷ Lý Quý và Hạ Hoàng Công.

Xem: Thương Lãnh tứ hạo.



Thà như bốn lão Thương Sơn,

Hồng bay phụng lánh, ai ràng buộc đâu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BỐN NGÀN NĂM

Đó là khoảng thời gian kể từ ngày lập quốc của nước Việt Nam.

Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, nước Việt Nam về đời Hồng Bàng, gọi là Văn Lang , lập quốc vào năm 2897 trước Tây lịch, trải đến ngày nay thì hơn 4000 năm dựng nước và thay đổi nhiều quốc hiệu, đến đời vua Gia long thống nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An Nam , Việt là Việt Thường , nên mới đặt quốc hiệu là Việt Nam.

Dân hăm lăm triệu bơ sờ đất,

Nước bốn nghìn năm quạnh quẽ trời.

(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).



Bốn ngàn năm quốc gia đã lập,

Cõi Nam Châu bồi đắp giang sơn.

(Kinh Thế Đạo).



Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,

Văn hóa so cũng kịp tha bang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỒNG CHÂU 

Bởi hai chữ “Bồng Lai  ” và “Doanh Châu  ” ghép lại để chỉ cõi Tiên.

Xem: Hai chữ Bồng Doanh.

Non sông đã trót lời thề,

Hai người một phút hóa về Bồng Châu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



BỒNG DOANH 

Hay “Bồng Dinh”.

Cũng như chữ Bồng Châu, do hai từ Bồng Lai và Doanh Châu là hai hòn núi ở biển Bột Hải ghép lại với nhau, để chỉ cõi Tiên.

Ở trong bể Bột hải tục truyền có ba núi tên là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu, người tiên và thuốc tiên đều ở ba núi ấy, loài vật toàn sắc trắng, cung điện toàn làm bằng châu báu bạc vàng.



Tưởng mình lạc lối nguồn Đào,

Khi ra Động khẩu, khi vào Bồng Doanh.

(Mai Đình Mộng Ký).



Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,

Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.

(Kinh Tận Độ).



BỒNG ĐẢO 

Một hòn đảo ở biển Bột Hải, trên có núi Bồng Lai, nơi ở của các tiên,

Xem chữ: “Bồng Lai”.

Ngỡ là bể Doanh Châu, non Bồng đảo,

mình được hóa tiên,

Chẳng cốc quê hoàng nhưỡng, núi Bắc mang,

thân đà nên quỷ.

(Thập Giới Cô Hồn).



Chốn ấy thanh nhàn được thú,

Lọ là Bồng đảo mới là tiên.

(Bạch Vân Quốc Ngữ)



Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo,

Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân.

(Ai Tư Vãn).



Gìn lòng tu niệm cho bền chí,

Bồng đảo ngày nay đặng hiệp vầy.

(Đạo Sử).

BỒNG HỒ 

Như chữ “Bồng lai  ”.

Tương truyền giữa biển Bột Hải có ba hòn núi trên là nơi Thần Tiên ở. Đó là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu.

Kìa đâu khói biếc ngời ngời,

Mỗi am một đảnh kẻ nơi Bồng hồ.

(Tư Dung Vãn).



Lại có lúc muốn làm tiên tử,

Lên Bồng hồ suối cũ đào hoa.

(Thơ Học Canh).



Khác chi Lãng Uyển, Bồng Hồ,

Vui chung tám cõi, bốn mùa xuân riêng.

(Hương Sơn Hành Trình).



BỒNG LAI 

Còn gọi là Bồng Hồ, là một trong ba hòn đảo giữa biển Bột Hải, nơi có Tiên ở.

Hai hòn đảo kia là Phương Trượng (Phương đảo) và Doanh Châu (Doanh đảo).

Bốn bề phong cảnh lạ thay,

Bồng lai khi cũng thế này mà thôi.

(Quan Âm Thị Kính).



Người hay lại gặp cảnh hay,

Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.

(Lục Vân Tiên).



Bồng Lai riêng một bầu trời,

Màn hoa, cầu đá, mấy nơi thiên thành.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Bồng Lai Cực Lạc chỉ chừng,

Đẩy đưa xác tục dựa gần cõi linh.

(Kinh Thế Đạo).



Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,

Bồng Lai vui Ðạo hưởng an nhàn.

(Đạo Sử).



BỒNG SƠN 

Bồng sơn tức là non Bồng. Cũng như chữ Bồng Đảo , chỉ ngọn núi ở Bồng Lai Tiên Cảnh.

Xem: Bồng Lai.

Tấc gang gác khoá lầu then,

Bồng Sơn rằng cách muôn nghìn chẳng sai!

(Hoa Tiên Truyện).



Sắm nghiệp trần gian còn phải khó,

Lựa là nghi trưởng tại Bồng Sơn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BỒNG TANG 

Bồng: Cỏ bồng, Tang: Cây dâu.

Bồng tang do chữ “Tang hồ bồng thỉ  ” tức là cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng, dùng để chỉ sự vẩy vùng, dọc ngang bốn biển.



Gặp cơn thảo muội cơ trời,

Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang.

(Quốc Sử Diễn Ca).



BỒNG TẤT 

Bồng: Cỏ bồng, một thứ cỏ có hoa nhẹ, thường bay theo gió. Tất: Một loại tre có gai.

Bồng tất do chữ “Tất môn bồng hộ  ” là cửa bằng cây tất, nhà lợp cỏ bồng, dùng để chỉ nơi ở của kẻ nghèo nàn, hay kẻ ẩn dật.



Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,

Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh sằn.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



BỜ DƯƠNG

Bởi chữ “Dương bạn  ” trong câu “Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn  ” tức là chim phụng ngậm chiếc chiếu về bờ dương.

Dương là cây đại thụ. Đạo Đức Chơn Kinh có câu: Dương vô trần nhiễm, đạo giả như dương , , nghĩa là cây dương không nhiễm trần, đạo là cây dương. Như vậy dương bạn là bờ dương chỉ nền đạo đức.

Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh,

Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương.

(Đạo Sử).



Kính đem đến tận bờ dương liễu,

Tặng nghĩa đài sơn kẻ chực chầu.

(Đạo Sử).



BỜ GIÁC

Bởi chữ “Giác ngạn  ”.

Bờ giác, trái với bến mê, là bờ mà chúng sanh tìm đến, sau khi giác ngộ, vượt qua bể khổ bằng con thuyền Bát nhã. Bờ giác chỉ cõi của người đắc Đạo.

Xem: Giác ngạn.



Nước dương rưới sạch trần ai cũ,

Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BỢN SẦU

Bợn sầu là những thứ sầu não, buồn đau chất chứa trong tâm hồn như chất nhơ bợn, làm cho tâm hồn con người nặng nề ô trược.



Thuyền chờ bến tục buồm trương sẵn,

Ðưa đến nguồn trong rửa bợn sầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Soi gương hạnh đức trau lòng tục,

Hứng giọt Từ Bi rửa bợn sầu.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BỢN TỤC

Bợn tục, cũng như chữ “Bợn trần” là những thứ dơ bẩn, ô trược nơi cõi thế tục.

Xem: Bợn trần.

Xạo xự tuồng đời lừng bợn tục,

Trau tria nét đạo nực mùi hương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,

Trốn đau thương xa cảnh trần gian.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỢN TRẦN

Bợn trần là những thứ dơ bẩn nơi cõi trần, làm thân tâm con người bị uế trược.

Trần gian tánh vốn không trược (dơ bẩn), vì bị ngũ trược ô nhiễm, trở nên ô uế, không khiết tịnh. Tỉ như nước, tánh vốn sạch, trong trẻo, bị ô nhiễm đất, bùn vào sẽ trở thành đục, bẩn thỉu, nhưng khi lóng, gạn hết bụi đất, tánh trong của nước hiện ra.

Nước ví như chân tánh, đất bụi ví như phiền não. Bản tánh con người luôn trong sạch, do vọng niệm, tham dục, mê mờ che lấp, khiến tánh thuần nhiên thanh tĩnh không hiển hiện được, nên cứ chìm sâu vào luân hồi sanh tử.

Nếu muốn trở lại chân tánh thì phải giống như lóng nước đục: Gạn sạch hết bụi đất đi rồi thì chỉ còn nước trong, sạch. Ở đây, chúng ta gạn hết những phiền não ra khỏi bản tâm thì lúc ấy ta đã đoạn trừ được vô minh, mầm của luân hồi sanh tử.

Bảy dây oan nghiệt hết ràng,

Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.

(Kinh Tận Độ).



Trau tâm hiệp sức vun nền Thánh,

Dưỡng tánh chờ khi sạch bợn trần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BÚA NHÀ BAN

Hay “Búa Lỗ Ban”.

Bởi chữ “Ban môn lộng phủ  ” là múa búa trước của nhà họ Ban, tức là múa rìu búa trước cửa nhà của Lỗ Ban, một người thợ giỏi có danh tiếng thời Xuân Thu. Đồng nghĩa với múa rìu qua mắt thợ.

Xem: Lỗ Ban.



Em nhân bôi ác gọi nhàn,

Dám đâu dơ búa nhà Ban sánh tài.

(Song Tinh Bất Dạ).



Xách búa Lỗ ban đương chỉ vẽ,

Xây thành cảnh đẹp rất nên hay.

(Thiên Thai Kiến Diện).



BÚA VIỆT CỜ MAO

Búa Việt, Cờ mao là vật thể hiện binh quyền của vua Hiên Viên Huỳnh Đế ban cho các Trấn chư Hầu đặng quyền chinh phạt. Đáng giết thì ban búa Việt, đáng phạt thì phát cờ Mao, nên trên lưỡi của búa Việt có khắc bốn chữ: “Việt sát phản thần  ”, trên lá cờ Mao có đề bốn chữ “Mao trừ loạn tặc  ”. Đến thời Ngũ đế, Thương, Châu cũng còn dùng búa Việt, cờ Mao.

Xem: Mao việt.

Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,

Ðến hồi búa Việt giục cờ Mao.

(Đạo Sử).



BỦA ĐỨC

Bủa: Vây bọc khắp nơi. Đức: Cách cư xử, thái độ tốt đẹp hợp với đạo lý, nhơn đức.

Bủa đức là thi hành nhơn đức khắp mọi nơi đối với dân chúng.



An nước an dân toan bủa đức,

Sửa cơn nắng tối lại mưa mai.

(Đạo Sử).



BÙI HÀNG 

Bùi Hàng là tên một thư sinh đời nhà Đường, hỏng thi, trở về nhà tình cờ gặp phu nhân Vân Kiều tặng cho bài thơ: Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh, Huyền sương đảo tận kiến Vân Anh. Lam Kiều bổn thị thần tiên lộ, Hà tất khi khu thượng Ngọc kinh  漿 , . ,  , nghĩa là: Một chén quỳnh tương trăm cảm sanh, Sương mù vẹt hết thấy Vân Anh. Cầu Lam là ngõ thần tiên đấy, Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc kinh.

Hôm sau, Bùi Hàng bèn đi tìm, ngang qua một cây cầu tên là Lam Kiều, rồi vào một quán uống nước. Bà chủ quán bảo người con gái trông rất xinh đẹp, tên là Vân Anh, bưng nước ra cho chàng. Bùi Hàng thấy người đẹp, nhớ lại bài thơ của Vân Kiều, liền ngỏ ý cầu hôn nàng Vân Anh. Bà chủ quán giao hẹn: Hiện bà có cái cối bằng ngọc, nếu Bùi Hàng kiếm được cái chày cũng bằng ngọc đem đến giã thuốc cho bà thì bà sẽ gả con gái cho.

Bùi Hàng may mắn tìm được chiếc chày ngọc, nên mới cưới nàng Vân Anh. Bùi Hàng và Vân Anh sau đều thành tiên. Nghĩa bóng: Nơi gặp duyên nợ.

Xem: Lam Kiều.

Chốn Lam Kiều, cách nước mây,

Bùi Hàng kia dễ biết đây nẻo nào?

(Truyện Phan Trần).



BỤI GAI PHỤNG HOÀNG

Hay “Bụi gai phượng hoàng”.

Phụng hoàng là loài chim sang quý, khi muốn đỗ thì kiếm cây ngô đồng, chứ chẳng bao giờ đậu trên bụi gai. Ý nói người thiên kim tìm kẻ sang quý mà gá nghĩa. Xem: Linh phụng ngô đồng.

Huống chi là giá thiên kim,

Bụi gai sao nỡ đỗ chim phượng hoàng.

(Ngọc Kiều Lê).



BỤI HỒ

Tức bụi mù do ngựa chiến của rợ Hồ, chỉ sự chiến tranh, xâm lược. Người Hồ giỏi về cỡi ngựa bắn cung, nên khi kéo quân đi thì bụi tung mù mịt. Vì vậy, khi nói đến chiến tranh với rợ phương bắc, người xưa gọi là bụi Hồ.



Bụi Hồ quét sạch sành sanh,

Ơn trên sau nữa nghĩa mình trả xuôi.

(Hoa Tiên Truyện).



BỤI HỒNG

Bởi chữ “Hồng trần  ” tức là hạt bụi đỏ.

Theo Phật, chữ bụi không có nghĩa là đất cát, mà chỉ cho những việc rối rắm, phiền não làm cho con người ô nhiễm.

Bụi hồng theo nghĩa bóng là chỉ cõi trần gian thế tục, còn dùng để nói về cảnh phồn hoa náo nhiệt.



Sự đời đã tắt lửa lòng,

Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi.

(Truyện Kiều).



Từ khi khách lại 
cung sao,

Bụi hồng dứt nẻo chiêm bao đi về.

(Hoa Tiên Truyện).



Bụi hồng vắng vẻ mắt xanh,

Mình ơi ta nhớ…mà mình quên ta.

(Thơ Tản Đà).



Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,

Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.

(Đạo Sử).



BỤI TRẦN

Bụi: Cát bụi. Trần: Có nghĩa là bụi bặm, chỉ cõi thế gian, nơi con người đang sống.

Bụi trần do chữ “Trần cấu  ”, tức là bụi bặm của cõi trần gian, chỉ cõi con người đang sống.



Tai ương hoạn hoạ đều qua,

Bụi trần giũ sạch thiệt là từ đây.

(Gia Huấn Ca).



Cuộc thế lạnh lùng làn gió lọt,

Ðường đời ngán ngẩm bụi trần lồng.

(Đạo Sử).



BÙN THAN

Dịch từ chữ “Đồ thán  ” tức là bùn lầy và than nóng, dùng để ví cảnh đau khổ vất vả như bị sa xuống cảnh bùn lầy, rơi vào lửa than.



Sinh dân nào xiết bùn than,

U, Yên trọn cũng giao bàn về Liêu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BỤNG CÁ MỎ DIỀU

Bụng cá mỏ diều ý nói thây người chết bị rơi xuống nước thì cá ăn vào bụng, còn nằm trên đất thì bị mỏ của diều hâu.

Người xưa có bốn cách chôn kẻ chết, gọi là tứ táng . Hai cách thông dụng mà nước ta đã áp dụng, đó là thổ táng và hoả táng. Còn hai cách táng khác là thuỷ táng, tức là quăng thây người chết xuống sông, đương nhiên thây sẽ vào bụng cá, và điểu táng, tức phơi thây trên cây cho diều ăn thịt.

Có ai hầu lại quách quan?

Dưới phần bụng cá, trên tan mỏ diều.

(Hoài Nam Khúc).



BỤNG DẠ

Những ý nghĩ thầm kín trong lòng người ta đều cho rằng do bụng dạ mà có, như ý nghĩ hẹp hòi thì do bụng dạ nhỏ nhen.



Những người bụng dạ nhỏ nhen,

Hẳn nên lấy đó mà xem cho tường.

(Dì Ghẻ Con Chồng).



BUỘC RÀNG

Bởi chữ “Thằng phược  ”.

Buộc ràng hay ràng buộc là trói buộc lại, không để cho được tự do.

Dầu trọn kiếp sống không nên Đạo,

Dầu oan gia tội báo buộc ràng.

(Kinh Tận Độ).



BUÔN NGUYỆT BÁN HOA

Nguyệt hoa hay trăng hoa chỉ người lãng mạn, lẳng lơ, hay chỉ việc tình tự, chăn gối.

Buôn nguyệt bán hoa ý muốn nói đến những kỹ nữ (Gái điếm) hay những người con gái dâm bôn.

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,

Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa.

(Thập Loại Chúng Sinh).



BUÔN HƯƠNG

Hương tức là hương sắc, chỉ người đàn bà con gái.

Buôn hương là bán hương sắc, ý nói bán thân của hạng gái điếm.

Buôn hương đã chán nghiệp tinh ma,

Nên mới thiền môn gởi phận già.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



BUỒN TRÂU ĐẦY CỘT

Buồn trâu: Tức buồn hôi trâu, hay mồ hôi trâu, chỉ sự kéo xe nặng nhọc. Đầy cột: Chất cao bằng đầu cột.

Buồn trâu đày cột do chữ “Hãn ngưu sung đống  ”, ý nói rất nhiều sách vở, nếu chở đi thì trâu bò kéo xe phải toát mồ hôi, nếu chất trong nhà thì lấp cả cột nhà.

Xem: Hãn ngưu sung đống.

Y thư kể hết các nơi,

Buồn trâu đầy cột, sách đời biết bao.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



BUỒNG ĐÀO

Do chữ “Đào phòng  ”.

Hoa đào thường được dùng để ví với người con gái. Vì vậy, buồng đào, nơi có treo màn bông hoa đào, chỉ buồng ngủ của đàn bà con gái nhà giàu sang trọng.

Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,

Ra vào một mực nói cười như không.

(Truyện Kiều).



BUỒNG KHUÊ

Bởi chữ “Khuê phòng  ”.

“Khuê” hay “Khuê môn”, tức là một cái cửa nhỏ ở trong cung, dành riêng cho phụ nữ ở.

Như vậy, “Buồng khuê” hay “Khuê phòng” là buồng trong khuê môn, dành cho đàn bà con gái.



Xót mình cửa các, buồng khuê,

Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!

(Truyện Kiều).



BUỒNG THE

Buồng the là buồng treo màn bằng vải the, dùng để chỉ buồng riêng của đàn bà con gái.



Buồng the phải buổi 
thong dong,

Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.

(Truyện Kiều).



Phép nhà chẳng sửa buồng the,

Vợ anh sao nỡ đem về hậu cung.

(Quốc Sử Diễn Ca).



BUỒNG THÊU

Bởi chữ “Tú phòng  ” là phòng có treo màn trướng thêu dệt, dùng để chỉ buồng của đàn bà con gái.



Nàng thì vội trở buồng thêu,

Sinh thì dạo gót sân đào vội ra.

(Truyện Kiều).



Nước non cách mấy buồng thêu,

Những là trộm dấu thầm yêu chốc mồng.

(Truyện Kiều).



BUỒNG THƠM

Bỡi chữ “Hương khuê  ”, tức là cái khuê phòng có mùi thơm.

Buồng thơm là phòng của con gái ở thường có xông hương thơm. Nghĩa bóng: Phòng con gái.

Xem: Hương khuê.



Tự ta động nguyệt cày mây,

Buồng thơm chớ lọt mảy may gió tà.

(Hoa tiên Truyện).



BUỒNG XUÂN

Mùa xuân thường được ví với tuổi trẻ. Vì vậy, buồng xuân được dùng để chỉ buồng của người con gái trẻ tuổi (Thanh xuân).



Lỡ chân trót đã vào đây,

Khoá buồng xuân để đợi ngày đào non.

(Truyện Kiều).



BÚT GIÁ HƯƠNG BÌNH 

Bút giá: Cái giá dùng để gác cán bút. Hương bình: Cái bình đựng hương trầm.

Bút giá hương bình tức là cái giá gác bút và cái bình đựng hương trầm dùng để tại thư án.



Trên yên bút giá hương bình,

Tiên hoa ngày trước để dành hai trương.

(Hoa Tiên Truyện).



BÚT GIÁ THI ĐỒNG 

Bút giá: Cái giá dùng để gác bút lông. Thi Đồng: Cái ống dùng để bỏ thơ văn.

Bút giá thi đồng là cái giá gác viết và ống đựng thơ văn. Đây là văn kỷ của học trò thời xưa.



Trên yên, bút giá thi đồng,

Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên.

(Truyện Kiều).



BÚT HOA 

Hay “Bút nở hoa” là cây viết trổ bông.

Do tích Lý Bạch, một nhà thơ đời Đường nằm chiêm bao thấy cây viết mình trổ ra hoa rất đẹp. Từ đó thơ văn của ông càng ngày càng xuất sắc, tiếng tăm lừng lẫy.

Bút hoa dù vẽ nên tranh,

Lấy ai mà nhận nét tình cho hay?

(Hoa Tiên truyện).



Bút hoa tay thảo cẩn phong,

Gửi lời mụ lão tạ lòng ân nhân.

(Nữ Tú Tài).



Bút hoa chép lại đôi lời,

Đưa ai bốn bể là người tình chung.

(Thơ Tản Đà).



Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,

Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Bút nở mùa hoa đã có chừng,

Chẳng như củi mục hốt mà bưng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BÚT NGỌC 

Trong văn chương, người ta thường dùng chữ ngọc ghép vào một vật để tăng thêm giá trị vật đó. Bút ngọc là cây viết quý như ngọc.



Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,

Một kiếp sanh của bậc văn tài.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BÚT NGHIÊN 

Bút: Cây viết. Nghiên: Cái nghiên mực.

Bút nghiên là cây viết và nghiên mực, dùng để chỉ về chữ nghĩa và văn chương.



Họ Vương tên gọi Hỉ Đồng,

Bút nghiên tay giỏi, nghi dung con nhà.

(Nhị Độ Mai).



Trở vào bèn lấy bút nghiên,

Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.

(Lục Vân Tiên).



Nấu Kinh sử ra mùi son phấn,

Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,

Những là Bá Tước gánh đồ thơ.

(Đạo Sử).



BÚT PHÁP 

Bút: Viết. Pháp: Phép.

Bút pháp là phương pháp viết, lối viết như thế nào cho chữ đẹp và bay bướm.



Khen rằng: Bút pháp đã tinh,

So vào với thiếp Lan đình nào thua!

(Truyện Kiều).



BÚT THẦN

Do chữ “Thần bút  ” là cây bút huyền diệu, thiêng liêng.

Đối với đạo Cao Đài, bút Thần chỉ cây bút của các Đấng thiêng liêng sử dụng để giáng đàn dạy Đạo cho chúng sanh.

Chuyển luân thế sự đưa kinh Thánh,

Trừ diệt tà gian múa bút Thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BÚT THỎ

Bởi chữ “Thố hào  ” là lông thỏ.

Ngày xưa ngòi bút (Bút lông) thường được làm bằng lông thỏ. Vì vậy, cây viết được gọi là bút thỏ.

Dịp nhân vịnh đoá phù dung,

Tiện khi bút thỏ thuận dòng đề chơi.

(Lưu Nữ Tướng).



BỮA CÀY BUÔNG BỮA GIỖ

Bởi câu tục ngữ “Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ” để nói phải chọn một trong hai việc, không thể làm cùng một lúc được, tức là không thể bắt cá hai tay.



Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ,

Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



BƯNG MẮT BẮT CHIM

Bởi câu thành ngữ “Yểm mục bộ tước  ” tức là che mắt bắt chim sẻ.

Bưng mắt bắt chim là chuyện không thể nào có, ý chỉ những người tự dối mình.

Dễ loà yếm thắm trôn kim,

Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng.

(Truyện Kiều).



BƯỚM CŨ LÌA HUÊ

Bướm cũ: Người đàn ông, người chồng. Lìa huê: Hay lìa hoa, chỉ người đàn bà, hay người vợ.

Bướm cũ lìa huê, nói người chồng xa lìa người vợ.



Chừ sao bướm cũ lìa huê,

Vườn thu vắng khách, ử ê canh tàn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BƯỚM HOA

Bướm là loài con trùng tìm hoa để hút mật, tượng trưng cho người con trai. Hoa toả hương, khoe sắc, tượng trưng cho người con gái.

Bướm vờn hoa cũng như những chàng trai hay tìm những cô gái để tỏ tình, chọc ghẹo. Bướm hoa còn dùng để chỉ sự tình tự.

Hoa thơm bướm cũng khoe vàng,

Thế gian mấy kẻ không tình bướm hoa.

(Thanh Hoá Quan Phong).



BƯỚM LẠI ONG QUA

Bướm lại ong qua chỉ cánh hoa bị ong bướm thay phiên nhau tới hút mật. Ý nói người con gái được nhiều người con trai gấp ghé tới.

Xem: Bướm ong.

Buông rèm ngăn cách bóng hoa,

Tường đông bướm lại ong qua mặc lòng.

(Hoa Tiên Truyện).



BƯỚM ONG

Bướm ong là hai loại sinh vật thích hút mật nhuỵ của bông hoa. Bướm ong gặp hoa liền đáp vào để hút mật. Hoa ví với người con gái, bướm ong ví với đứa con trai. Trai gặp gái thường hay trêu ghẹo tỏ tình.

Xem: Ong bướm.

Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,

Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BƯỚM ONG XAO XUYẾN GIỠN

Bướm ong chỉ việc trai gái tư tình.

Bướm ong xao xuyến giỡn ý nói lòng vương vấn chuyện trai gái với nhau.

Dạy kế hay đào lý ngăn rào,

Đừng để trống bướm ong xao xuyến giỡn.

(Phương Tu Đại Đạo).



BƯỚM TỐI MẾN ĐÈN

Tức là bướm đêm bu vào ánh sáng đèn, được ví với những kẻ tầm thường, nơi nào có mồi danh bã lợi thì giống như những con thiêu thân bu vào đèn mà chết.



Tuồng đời trọng trọng hèn hèn,

Chẳng qua bướm tối mến đèn xôn xao.

(Nữ Trung Tùng Phận).



BỬU SONG TUYỂN TẾ  婿

Cửa sổ báu để chọn rể.

Do tích trong Đường Thư: Ông Lý Lâm Phủ có sáu người con gái đẹp, đến tuổi gả chồng. Trong mé vách nhà lớn, ông Lâm Phủ cho mở một cái cửa song (Cửa sổ), che phủ xuống một bức rèm đỏ. Hễ trong làng ngoài quận có hạng thanh niên nào muốn đến cưới xin thì ông cho vào yết kiến và bảo con gái mình ở sau tấm màn lụa đỏ, nơi cửa sổ tự lựa chọn hay không.

BỬU TOÀ

Bởi chữ “Bửu toạ  ” là chỗ ngồi hay cái ngai quý báu, chỉ nơi ngự của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Bửu Toà còn có nghĩa là Toà sen của chư Phật, và chư Bồ Tát.

Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,

Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).

 

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...