Thursday, September 17, 2020

Điển tích - L

 

L

LA Ỷ 

La: Một thứ lụa thưa, tốt. : Một loại hàng vải có nhiều màu sắc.

La ỷ là lụa là, một hàng lụa quý, có nhiều màu sắc và đẹp đẽ.



Ngựa ngựa xe xe la ỷ tốt,

Dập dìu là ấy chiêm bao.

(Quốc Âm Thi Tập).



LA THẬP CƯU MA 

Tức là Cưu Ma La Thập dịch từ chữ Phạn “Kumarajiva”, là tên một thầy tu Ấn Độ sang Trung Quốc, cũng là nhà dịch thuật quan trọng nhất những tác phẩm Phật giáo từ hệ phái sanskrit sang chữ Hán. Năm 402 được phong tặng danh hiệu Quốc Sư.



Tu cho tinh chuyên là La Thập Cưu Ma;

tu cho khổ não là Văn Thù Bồ Tát.

(Sãi Vãi).



LA VÕNG 

La: Lưới đánh chim. Võng: Lưới bẫy thú.

Do chữ “Thiên la địa võng  ” là lưới giăng trên trời và bẫy dưới đất.

La võng nghĩa bóng chỉ những điều người ta bày ra để đánh bẫy mình.

E đất khách lỡ đường la võng,

(Tự Tình Khúc).



LÁ BỐI

Lá cây bối đa.

Ngày xưa ở bên xứ Ấn Độ khi chưa có giấy viết, kinh điển của Phật giáo được ghi chép trên lá bối. Do vậy, lá bối được dùng để chỉ kinh sách, ngoài ra còn gọi là “Bối kinh”, “Bối văn” hay “Bối diệp”.

Sớm khuya lá bối phướn mây,

Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.

(Truyện Kiều).



LÁ DƯƠNG TÊN BẮN

Bỡi câu “Bách bộ xuyên dương” tức là xa trăm bước bắn trúng vào lá dương liễu.

Do điển Dưỡng Do Cơ người nước Sở, đời Xuân Thu, làm quan Đại phu và làm tuỳ tướng cho Nhạc Bá, có tài bắn cung, đứng xa cây dương liễu một trăm bước để bắn vào chiếc lá thì trăm phát trăm trúng.

Lá dương một phát đưa tên bắn,

Đèn sách cho cam thuở học hành.

(Lâm Tuyền Kỳ ngộ).



LÁ ĐÀO

Lá cây hoa đào, chỉ cõi Đào nguyên nơi có tiên ở.

Do tích một người đánh cá, quê ở Võ Lăng, chèo thuyền dọc theo dòng khe, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động trồng đầy hoa đào, người sau gọi nơi đó là Động đào, chỉ cõi tiên.

Xem: Động đào.



Thảo mà cánh điệp, lá đào,

Đi về Vu giáp, ra vào Vũ lăng.

(Mai Đình Mộng Ký).



LÁ ĐỒNG

Tức lá ngô đồng, một loại cây đến mùa thu thì bắt đầu rụng lá, do vậy người xưa thường có câu: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu  , , nghĩa là ngô đồng một lá rụng, thiên hạ biết mùa thu sang.



Bên tường sang sảng lá đồng,

Tuyết in đáy biếc, sương phong ráng vàng.

(Lưu Nữ Tướng).



LÁ GIÓ CÀNH CHIM

Chỉ cảnh kỹ nữ tấp nập tiếp khách làng chơi liên tiếp như là cây đưa gió qua lại, như cành đón chim tới đậu.

Do tích: Nàng Tiết Đào đời Đường thuở nhỏ làm thơ có hai câu: Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong  , , nghĩa là cành đón chim nam bắc, lá đưa gió qua lại. Người cha thấy hai câu thơ của Tiết Đào, biết sau này số phận không ra gì.

Dập dìu lá gió, cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.

(Truyện Kiều).



LÁ HỒNG

Bởi chữ “Hồng diệp  ”.

Do tích Vu Hựu bắt được chiếc lá hồng từ dòng nước ngự câu chảy ra, trên lá có bài thơ. Vu Hựu bèn lấy chiếc lá đỏ khác đề hai câu thơ, rồi thả nơi đầu ngòi nước cho chảy vào cung. Cung nữ Hàn Thị, người đề thơ trên lá ngày trước, bắt được. Sau Hàn Thị được thả và tình cơ kết duyên với Vu Hựu. Hai người sau khi thành hôn mới biết chiếc lá hồng đó làm mối.

Xem: Hồng diệp.



Hiếm gì ngòi bảng duềnh khơi,

Lá hồng bỗng đến chi nơi nổi chìm.

(Hoa Tiên Truyện).



Lá hồng đặt xuống nâng lên,

Mối duyên đo đắn chưa nên mối gì.

(Quan Âm Thị Kính).



Trông tin nhạn về đông mòn mỏi,

Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÁ NGỌC CÀNH VÀNG

Bởi câu thành ngữ “Kim chi ngọc điệp  ” là cành vàng lá ngọc, dùng để chỉ người trong dòng họ nhà vua.

Sách Tiêu Phong Nhạc Từ có câu: Kim chi phồn mậu, Ngọc diệp diên trường  , , nghĩa là cành vàng sum sê, lá ngọc dài tốt.

Thương thay lá ngọc cành vàng,

Vì sao nên nỗi lạc ràng khổ thay?

(Hạnh Thục Ca).



Cám thương vì lá ngọc cành vàng,

Khôn thoát khỏi lồng ưng lưới thỏ.

(Nhạc Hoa Linh).



LÁ NGÔ

Lá ngô, cùng nghĩa với lá đồng, tức chỉ lá cây ngô đồng, một loại cây có thân cao, cành lá xanh biếc, nhưng đến mùa thu thì lá vàng rụng. Chỉ thời gian dần trôi qua.

Xem: Ngô đồng.

Thú quê thuần vược bén mùi,

Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.

(Truyện Kiều).



Ngân hà từ bắc nhịp cầu,

Lá ngô lần đổi duyên ngâu chưa vầy.

(Lưu Nữ Tướng).



LÁ THẮM

Lá thắm, cũng như lá hồng, do chữ “Hồng diệp  ”, lấy tích Vưu Hựu đời Đường, kết duyên với cung nữ họ Hàn Thị, mới biết rằng nhân duyên hai người do chiếc lá kia làm mối.

Xem: Lá hồng.

Tơ hồng lá thắm là duyên,

Dầu bao giờ gặp cũng nên bấy giờ.

(Truyện Phan Trần).



Dầu khi lá thắm, chỉ hồng,

Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

(Truyện Kiều).



LẠC CUNG

Lạc: Đi lệch ra. Cung: Cung đàn.

Lạc cung tức là cung điệu của tiếng đàn lỗi nhịp, ý nói vợ chồng đổ vỡ, không hoà hợp nhau.



Phòng đào giữ rủi rơi trâm,

Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LẠC CHUNG 

Tức chuông ở đất Lạc Dương về phía đông ứng tiếng kêu vang khi núi Đồng ở phía tây nghiêng lỡ. Cùng nghĩa với câu “Đồng thanh tương ứng”, để chỉ sự

tương ứng của vạn vật trong trời đất.

Xem: Non Đồng.



Nghìn năm nghiêng lở non Đồng,

Biết còn ứng tiếng Lạc chung đó là?

(Quan Âm Thị Kính).



LẠC DĨ VONG ƯU 

Vui sướng cho đến quên sự lo âu.

Ngày xưa, Diệp Công hỏi Tử Lộ về con người của Đức Khổng Tử. Tử Lộ làm thinh, rồi về thuật lại với Thầy. Khổng Tử mới nói: Sao con không trả lời như thế này: Kỳ vi nhân giả, phát phẫn vong thực, lạc dĩ vong ưu, bất tri lão chi tương chí  , , , , nghĩa là ông là người suy nghĩ chưa ra thì bực tức bỏ ăn, nghĩ ra được thì vui sướng quên lo âu, mà không biết cái già đang lần tới.

LẠC DƯƠNG 

Thời Chu là đất Thành Chu, đến thời Chiến Quốc, đổi tên là Lạc Dương. Khi Tần diệt Đông Chu rồi, đổi thành quận Tam Xuyên. Hán đổi làm quận Hà Nam, đặt lại huyện Lạc Dương làm quận lỵ quận Hà Nam.

Ngày nay là một huyện, thuộc tỉnh Hà Nam của Trung Quốc.

Sao bằng ta ở Lạc Dương,

Lầu Tần, vườn Hán vẻ vang một nhà.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,

Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LẠC ĐẠO VONG BẦN 

Lạc đạo: Vui với mùi đạo. Vong bần: Quên sự nghèo đói.

Lạc đạo vong bần là nói người vui theo mùi đạo mà quên sự nghèo khổ.



Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ,

dường ngâm câu lạc đạo vong bần.

Gặp anh em khi bàn bạc sự đời,

lại đọc chữ vi nhân bất phú.

(Hàn Nho Phong Vị Phú).



LẠC ĐỆ 

Lạc: Rơi rớt. Đệ: Thứ tự về thi cử.

Lạc đệ tức là tên họ bị loại khỏi bảng danh sách, chỉ sự thi rớt.



Bởi vì Tần Liễu hai thiên,

Chẳng may lạc đệ cho nên lạc loài.

(Ngọc Kiều Lê).



LẠC ĐIÊU 

Lạc điêu là chim diều hâu bị bắn rớt.

Tương truyên, ngày xưa Cao Biền là người bắn giỏi, thấy hai con chim điêu bay qua, liền giương cung bắn một phát trúng cả hai rơi xuống đất. Người đương thời gọi Cao Biền là “Lạc Điêu Thị Ngự”.

Cao Biền là tướng lạc điêu,

Tài danh sớm đã dự vào giản tri.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LẠC HÀ CÔ LỘ 

Lạc hà: Ráng trời lơ lửng. Cô lộ: Con cò lẻ loi.

Lạc hà cô lộ là những từ diễn tả cảnh mùa thu mà Vương Bột trong Đằng Vương Các Tự viết: Lạc hà dữ cô lộ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc  , , nghĩa là ráng trời lơ lửng với con cò lẻ loi cùng bay, nước thu chung với trời xa một sắc.



Lạc hà cô lộ một màu,

Khen ai khéo vẻ nên bầu hồ thiên.

(Lưu Nữ Tướng).



LẠC HOAN

Bởi chữ “Hoan lạc  ”.

Lạc hoan chỉ việc rất vui mừng.

Lạc hoan chưa phải buổi cho mình,

Nghĩa mặn tình nồng chớ dễ khinh.

(Đạo Sử).



LẠC HỒNG

Do chữ “Hồng Lạc  ”, tức là họ Hồng Bàng sinh ra Lạc Long Quân là vị vua đầu tiên nước Việt Nam. Lạc Long Quân mới lấy bà Âu Cơ đẻ ra một trăm người con trai (Có sách nói đẻ ra trăm cái trứng) là giòng giống của dân tộc ta, nên ghép chung “Lạc Long Quân” và “Hồng Bàng” là “Lạc Hồng”.

Xem: Hồng Lạc

Nước nhà ta có tiếng anh phong,

Vẻ đẹp trời Ðông sắc Lạc Hồng.

(Đạo Sử).



LẠC LONG

Hay “Lạc Long Quân  ”.

Theo truyền thuyết: Vua Đế Minh cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh, tỉnh Hồ Nam gặp một nàng tiên lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục. Đế Minh có hai người con: Con lớn là Đế Nghi được cho làm vua ở phương bắc, còn Lộc Tục làm vua phương nam, lấy hiệu là Kinh Dương Vương.

Kinh Dương Vương lấy nàng long nữ, con gái Động Đình Quân, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi hiệu là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân mới lấy bà Âu Cơ, con của Đế Lai, sinh ra một trăm trứng, nở ra trăm người con trai, là tổ tiên nòi giống của dân tộc ta, nên được coi như “Cha rồng mẹ tiên” (Long phụ tiên mẫu).

Xem: Con rồng cháu tiên.

1.- Lạc Long:

Lạc Long lại sánh Âu ky.

Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.

(Quốc Sử Diễn Ca).

2.- Lạc Long Quân:

Sinh con là Lạc Long Quân,

Con sinh ra cháu gọi chưng vua Hùng.

(Việt Sử Tiệp Lục).



LẠC MAI 

Hoa mai rụng, tên một khúc nhạc.

Thơ Lý Bạch đời Đường có câu: Kim dạ hà nhân xuy ngọc địch, Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa  , , nghĩa là đêm nay người nào thổi địch ngọc, chốn thành bên sông tháng năm hoa mai rụng.

 

LẠC NGHIỆP ÂU CA 

Lạc nghiệp: Vui với nghề nghiệp. Âu ca: Nhiều người cùng nhau hát để ca tụng một việc gì hay công đức một người nào đó.

Lạc nghiệp âu ca là nói mọi người dân trong nước đều yên vui với nghề nghiệp của mình, và ca tụng đời thái bình thịnh trị,



Nơi nơi lạc nghiệp âu ca,

Nhân dân phú túc nhà nhà an khương.

(Tội Vợ Vợ chịu).



LẠC THIÊN 

Lạc thiên là vui sống với đạo trời.

Trong Kinh Dịch có câu: Lạc thiên tri mệnh cố bất ưu  , nghĩa là vui với đạo trời và biết mạng số mình cho nên không lo buồn gì.

Lạc thiên hai chữ ngân thư

Rèm in tễ nguyệt cửa chờ quang phong.

(Sơ Kính Tân Trang).



Vận gặp khi nên lọ ước cầu,

Lạc thiên quân tử vội chi đâu.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



LAI SINH 

Lai: Trở lại. Sinh: Đời sống.

Lai sinh là đời sống khi được đầu thai trở lại, tức chỉ kiếp sau.



Kiếp này duyên đã phụ duyên,

Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.

(Truyện Kiều).



Như lời thần mộng họa là,

Còn duyên chăng nữa, cũng chờ lai sinh.

(Nhị Độ Mai).



LAI THẾ 

Lai: Sẽ đến. Thế: Đời.

Lai thế là cuộc đời sắp đến, hoặc kiếp sống về sau.



Tuyết đã phơi mái tóc kim sinh,

Rum đâu nhuốm múi tơ lai thế.

(Tần Cung Nữ).



LẠI NHA 

Lại: Một chức quan nhỏ. Nha: Nơi làm việc quan.

Lại nha tức là một chức quan nhỏ làm trong nha.



Nói rồi truyền gọi lại nha,

Đương đường nhủ hết nỗi xa nỗi gần.

(Nhị Độ Mai).



LAM ĐIỀN

Bởi câu “Lam điền chủng ngọc  , tức là ruộng Lam trồng ngọc.

Tích trong Bộ Sưu Thần Ký chép: Nhà Dương Ung Bá có để một lu nước làm nghĩa, giúp người đi đường đỡ khát. Một hôm, có người bộ hành uống xong nước, lấy ở trong bọc đưa ra một thăng hạt giống cho Ung Bá và nói: Trồng hạt ngọc này, sẽ sinh ra ngọc tốt, sau lại được vợ đẹp. Ung Bá đem trồng hạt đó.

Về sau, Ung Bá cầu hôn con gái nhà họ Từ ở xứ Bắc Bình. Nhà họ Từ nói: Nếu có đôi bạch bích (Ngọc trắng), sẽ gả cho. Ung Bá về nhà, tình cờ đến chỗ trồng ngọc thì thấy được năm đôi bạch bích, đem làm lễ nói con gái nhà họ Từ. Vua nghe chuyện cho là kỳ dị, triệu Ung Bá vào cung, phong làm quan Đại phu và đặt tên chỗ đất ấy là “Ngọc điền” (Ruộng ngọc).



Gửi đây đã gác thị thành,

Thêu màn lan thất vẽ tranh Lam điền.

(Sơ Kính Tân Trang).



Đã người trong sách là duyên,

Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa giâm.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



LAM KIỀU 

Cây cầu bắc ngang sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây.

Đời nhà Đường có Bùi Hàng thi hỏng, trở về nhà tình cờ gặp phu nhân Vân Kiều tặng cho bài thơ: Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh, Huyền sương đảo tận kiến Vân Anh. Lam Kiều bổn thị thần tiên lộ, Hà tất khi khu thượng Ngọc kinh  漿 , . , . Dịch: Một chén quỳnh tương trăm cảm sanh, Sương mù vẹt hết thấy Vân Anh. Cầu Lam là ngõ thần tiên đấy, Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc kinh.

Hôm sau, Bùi Hàng bèn đi tìm, ngang qua một cây cầu tên là Lam Kiều, rồi vào một quán uống nước. Bà chủ quán bảo người con gái trông rất xinh đẹp, tên là Vân Anh, bưng nước ra cho chàng. Bùi Hàng thấy người đẹp, nhớ lại bài thơ của Vân Kiều, liền ngỏ ý cầu hôn nàng Vân Anh. Bà chủ quán giao hẹn: Hiện bà có cái cối bằng ngọc, nếu Bùi Hàng kiếm được cái chày cũng bằng ngọc đem đến giã thuốc cho bà thì bà sẽ gả con gái cho.

Bùi Hàng may mắn tìm mua được chày ngọc, nên mới cưới được nàng Vân Anh. Bùi Hàng và Vân Anh sau đều thành tiên.

Nghĩa bóng: Nơi gặp duyên nợ.



Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,

Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.

(Truyện Kiều).



Chốn Lam kiều cách nước mây,

Bùi Hàng kia dễ biết đây nẻo nào.

(Truyện Phan Trần).



Vẳng nghe họ Mãng gần miền,

Lam kiều là chốn thần tiên có người.

(Quan Âm Thị Kính).



LAM LŨ

Hay “Lam lụ”.



Lam lũ  : Quần áo rách rưới, hôi hám.

Lam lũ là người chịu đựng sự rách rưới, khổ sở, và vất vả để lo kiếm tiền nuôi sống.



Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,

Tánh siêng năng lam lũ làm ăn.

(Kinh Sám Hối).



Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,

Ở thôn quê lam lụ làm ăn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Rủi nghèo hèn đói khó hỏi ai xin,

Cũng một mảnh thân hình chồng lam lụ.

(Phương Tu Đại Đạo).



LAM SƠN 

Tên một làng ở huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá, là nơi Lê Lợi khởi binh ở núi Lam Sơn tự xưng là Bình Định Vương, suốt mười năm khởi nghĩa mới dẹp được giặc Minh, rồi lên ngôi xưng là Lê Thái Tổ, đem lại giang sơn cho nước nhà.



Đất thiêng khí thuỵ Lam sơn,

Trời sinh Thánh chúa long nhan khác thường.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Nhớ thuở Bắc Bình man mác,

đỉnh Lam Sơn mở dấu ấy thương dân,

Ngắm cơn sơn tặc lăng loàn,

trong hương khổn cắt yêu là vị nước.

(Khuyên Trung Nghĩa).



LÀM GHI

Vật làm ghi có nghĩa là vật để ghi nhớ trong lòng, tức vật kỷ niệm.

Như vậy, làm ghi là làm vật kỷ niệm.

Rằng: Trăm năm cũng từ đây,

Của tin, gọi một chút này làm ghi!

(Truyện Kiều).



LÀM PHƯỚC CÓ KHI MẮC NẠN

Làm phước là làm những việc thiện, việc có tính cách tạo ra phước đức.

Con người sống ở thế gian, ai cũng bị chi phối của luật nhơn quả. Hễ có nguyên nhân tất nhiên phải có kết quả tương thích với nguyên nhân ấy, đó là luật nhân nào quả nấy.

Luật nhân quả không bị hạn chế bởi thời gian, có khi nhanh cũng có khi chậm. Có nhiều loại nhân quả:

Nhân quả hiện tại gọi là Hiện báo  : Nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả báo ở hiện kiếp.

Nhân quả trong hai đời gọi là Sanh báo  : Đời trước tạo nhân đời nay mới thọ quả. Đời này gây nhân đời sau nhận quả.

Nhân quả trong nhiều đời gọi là Hậu báo  : Từ rất nhiều đời trước gây nhân, đời nay mới gặt quả, hoặc đời này tạo nhân nhưng mãi nhiều đời sau mới thọ quả.

Hiện báo thì dễ thấy, dễ hiểu, nhưng hậu báo là quả báo do nghiệp nhân tạo ra từ những kiếp sống trước, đến nay mới có kết quả thì khó tin, khó hiểu. Ví dụ người lương thiện mà vẫn gặp chuyện không may.



Người làm phước có khi mắc nạn cho ta thấy việc tai nạn, khổ sở là bởi nghiệp quả, tức do kiếp trước hay nhiều đời trước gây nhân, kiếp này phải đền trả. Việc làm phước làm lành trong hiện kiếp chưa đủ trả những oan nghiệt đã tạo ra ở tiền kiếp.

Như vậy, không phải người làm phước mà mắc nạn, nếu không làm phước thì người ấy vẫn phải mắc nạn, có thể tai nạn còn nhiều hơn nữa, bởi việc làm phước có thể làm giảm bớt một số tai nạn.



Người làm phước có khi mắc nạn,

Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.

(Kinh Sám Hối).



LÀM PHƯỚC KHỎI HAO KHỎI TỐN

Làm việc phước đức chẳng hao tốn về tiền bạc, của cải chi hết, chỉ lấy công sức ra để giúp đỡ cho người mà thôi. Ví dụ như khi đi trên đường gặp miểng bát miểng chai... hoặc là có những vật bén nhọn, chông gai thì nên lượm lấy để tránh những người đi sau đạp phải. Đó là làm phước khỏi hao khỏi tốn.



Ngoài ra còn có thể bắc cầu qua kênh rạch hay đắp sửa đường đi cho liền lạc bằng phẳng để người qua lại cho được yên ổn thuận lợi.

Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,

Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.

(Kinh Sám Hối).



LÀM QUAN HAI MIỆNG

Ý muốn nói kẻ làm quan phán quyết một vụ việc theo mình và đôi khi, do sự hối lộ còn phán quyết theo lời của vợ.



Lời tục ví: Làm quan hai miệng,

Ngoài miệng ông trong khiến miệng bà.

(Phương Tu Đại Đạo).



LẠM PHÁP 

Lạm: Bừa bãi. Pháp: Luật pháp.

Lạm pháp là làm một cách bừa bãi, vi phạm đến luật pháp.



Phủ quan nghe nói đảo điên,

Quở rằng lạm pháp cầm quyền cướp dân.

(Cai Vàng Tân Truyện).



LẠM VU 

Xưa vua Tề Tuyên Vương có lập một nhóm ba trăm người để thổi sáo. Ông Đông Quách không biết thổi sáo mà cũng lạm dụng xen vào đó để được ăn lương bổng, người ta gọi đó là “Lạm vu”.

Nghĩa bóng: Không tài mà có chức vị.

LAN CHI 

Cỏ chi cỏ lan, hai loại cỏ có hoa rất thơm, hương hoà hợp nhau, thường được ví với người quân tử.

Khổng Tử Gia Ngữ có câu: Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất, cửu bất văn kỳ hương, tức dữ chi lan hoá. Dữ ác nhân cư, như nhập bào ngư chi tứ, cửu bất văn kỳ xú, tức dữ chi câu hoá  , , , . , , , , nghĩa là cùng ở với người thiện, như vào nhà trồng chi lan, lâu ngày không thấy mùi thơm, đã cùng hoá theo mà không biết. Cùng ở với người ác, như vào tiệm bán cá, lâu ngày không biết thúi, vì đã hoá theo mà không biết.

Nghĩa bóng: Bạn bè ảnh hưởng tốt xấu lẫn nhau.



Rõ ràng còn có giấu gì?

Anh em là nghĩa lan chi bạn vàng.

(Nữ Tú Tài).



LAN CHÂU 

Lan: Cây mộc lan, một loại cây cao lớn, lá hình quả trứng, hai bên ngoài sắc tím đậm, bên trong tím nhạt. Tại sông Tầm Dương mọc rất nhiều cây mộc lan, do ngày xưa Ngô Vương Hạp Lư trồng để lấy gỗ làm cung điện. Châu: Chiếc đò.

Lan châu là đò làm bằng gỗ cây mộc lan, thường gọi là thuyền lan.

Xem: Thuyền lan.

Lục ỷ tiếng thanh đêm tựa ngọc,

Lan châu chèo vỗ nước bằng là.

(Bạch Vân Quốc ngữ).



LAN ĐÀI 

Lan Đài là một toà nhà, dùng để cất các loại sách do Ngự sử Trung thừa đời nhà Hán trông coi, nên Ngự sử còn gọi là Lan Đài Tự.

Do tích Ban Cố, nhà viết sử đời nhà Hán làm chức Lan Đài Lệnh sử, nên sau này các quan làm sử cũng được gọi là “Lan Đài”

Lan đài dừng bút thảnh thơi,

Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LAN ĐÌNH 

Xưa ông Vương Hy Chi cùng mấy bạn thơ tụ họp ở Lan Đình ngâm thơ uống rượu, có làm bài “Lan đình tập tự”.

Vương Hy Chi vốn là người viết chữ rất đẹp, nên những tờ thiếp ghi chép bài “Lan Đình Tập Tự” được người đời sau truyền tụng là “Thiếp Lan Đình”.

Chữ Lan đình cũng có nghĩa là chữ viết đẹp.



Sư rằng: Này bút thiên nhiên,

Lọ tìm Vũ kiếm, lọ khen Lan Đình.

(Nhị Độ Mai).



Vốn không học thói Lan Đình,

Đem nhau giụm miệng phẩm bình cổ câm.

(Dương Từ Hà Mậu).



Lan Đình tiệc họp mây huyễn,

Kim Cốc vườn hoang đế cày.

(Thơ Nguyễn Trãi).



LAN HUỆ 

Lan huệ là cây hoa lan và cây hoa huệ. Hai loại cây này tính chất yếu đuối, nên dùng để ví với người phụ nữ.



Sởn sơ lan huệ nức cành,

Lễ thi cứ phép cửi canh giữ lề.

(Hoa Tiên Truyện).



LAN PHÒNG 

Buồng thơm mùi hoa lan, chỉ buồng của những hạng phụ nữ sang trọng ở.



Hai người như thể một người,

Ngang tay tú các sánh vai lan phòng.

(Nhị Độ Mai).



LAN QUẾ 

Lan quế thơm tho, nói con cháu hiển đạt.

Sách Lễ Ký viết: Ông Tạ Huyền lấy cỏ chi, cỏ lan ví với con cháu. Năm người con ông Đậu Quân hiển đạt, được người đời gọi là ngũ quế. Vì vậy, con cháu được vinh hiển gọi là “Lan quế đằng phương”.

Xem: Quế lan.



Trước thềm lan quế thơm tho,

Say sưa ba chén bảy hồ là vui.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LAN TÔN QUẾ TỬ 

Lan tôn quế tử là con cháu thơm tho như lan quế, ý chỉ con cháu hiển đạt.

Do câu: Tử tôn phát đạt, vị chi lan quế đằng phương  , , nghĩa là con cháu phát đạt, gọi là cành lan, cành quế thơm tho.

Xem: Lan quế.



Mười chương khuyết hậu khắc xương,

Lan tôn quế tử lưu truyền miên diên.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LAN THẤT 

Tức nhà lan, có ý nói nhà đức vọng, thơm tho như chi lan, còn ví với người có tài đức.

Sách Gia Ngữ chép: Dữ thiện nhân cư, như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất văn kỳ hương, tức dữ chi hoá hỹ  , , , , nghĩa là ở với người tốt, như vào nhà có cỏ chi lan, ở lâu đến lúc không thấy mùi thơm, thì tức đã cùng hóa với nó.

Dứt lời Lưu mới thưa rằng:

Từ vào lan thất xem bằng Long môn.

(Hoa Tiên Truyện).



Gửi đây đã gác thị thành,

Thêu màn lan thất vẽ tranh Lam điền.

(Sơ Kính Tân Trang).



LÀN THU THUỶ

Làn sóng của nước mùa thu. Sóng nước thu gợn được ví với ánh mắt sáng trong của người phụ nữ.

Do câu trong Tình Sử chép: Nhãn như thu thuỷ, my tự xuân sơn  , , nghĩa là ánh mắt trong như nước mùa thu, lông mày phơn phớt tợ núi mùa xuân.

Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

(Truyện Kiều).



LÃN ÔNG 

Hiệu của vị danh y đời nhà Lê của Việt Nam, tên thật là Lê Hữu Huân hay Lê Hữu Trác.

Ông là tác giả pho sách giá trị khảo cứu về y học, đó là bộ: Tân Huê Hải Thượng Y Tông tâm Tỉnh, gọi tắc là “Lãn Ông Y Tập”.

LẠN KHA 


Lạn: Mục nát. Kha: Cái cán rìu.

Lạn Kha Sơn là một ngọn núi có tên là Thạch Thất, hay Thạch Kiều Sơn ở đất Tây An.

Đời nhà Tấn có người tên là Vương Chất, vào núi Thạch Thất đốn củi, dọc đường thấy hai ông tiên đánh cờ ở bên hòn đá. Chất bèn đứng lại xem, hai ông đánh chỉ có một ván cờ mà cái rìu cầm ở tay cán đã bị mục nát, vì vậy người đời gọi núi Thạch Thất là Lạn Kha Sơn (Lạn kha: Cái rìu mục nát).

Xem: Vương Chất.



Doanh thâu một cuộc vừa rồi,

Bàng quan song đã có người Lạn Kha.

(Truyện Từ Thức).



LẠN TƯƠNG NHƯ

Lạn Tương Như là người đời Chiến Quốc, làm Thượng khanh nước Triệu, nhờ có công đem viên ngọc Biện Hoà của Triệu sang Tần đổi lấy mười lăm thành. Trong triều có viên võ tướng là Liêm Pha, đã từng đánh nam dẹp bắc mà chức nhỏ hơn Tương Như, nên không phục, thường mong gặp mặt Tương Như để mắng cho đã giận, Tương Như biết được, nên tìm cách lánh mặt Liêm Pha. Kẻ thủ hạ thấy thế mới hỏi, thì Tương Như nói: Uy quyền như vua Tần mà ta còn chưa sợ, ta há lại sợ Liêm Pha hay sao? Ta tránh mặt Liêm Pha là sợ Tần, nhân ta và Liêm tướng quân ăn thua nhau như lưỡng hổ cộng đấu, thế bất cụ toàn, sau này việc nước hư thì có phải tại việc oán vặt thù riêng của ta chăng? Liêm Pha nghe được, ăn năn bèn đến tạ tội, kết làm anh em với nhau.



Chẳng vẹn nghiệp nhà đừng thối chí,

Ðợi thời noi chước Lạn Tương Như.

(Đạo Sử).



LANG ĐỘC 

Lang: Chó sói. Độc: Hung dữ, độc ác.

Lang độc là hung dữ, độc ác như loài lang sói.



Lòng lang độc vui cười hớn hở,

Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.

(Kinh Sám Hối).



LANG KHÓI

Tức là khói của phân chó sói đốt.

Ngày xưa ở các vùng biên giới thường xây những cái đài, trên đài có chất những đống củi thành ụ cao, trong đó có trộn với phân chó sói.

Nếu có giặc kéo đến thì đốt phân chó sói và củi để báo tin cho triều đình biết. Khói của phân chó sói (Lang yên) có đặc điểm khói bốc lên mà không bị gió thổi bạt ngang.

Xem: Khói lang.

Đội cùng đồng bác quẩy thâu,

Kẻo năng lang khói kẻo mau tăm kình.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LANG MIẾU 

Lang miếu là chữ dùng để chỉ triều đình.

Sách Văn Trung Tử có câu: Sơn lâm hữu lang miếu chi chí  , nghĩa là ở chốn núi rừng mà có chí như ở triều đình.

Lọ là cầu cạnh chi ai,

Chẳng trong lang miếu, cũng ngoài điền viên.

(Nhị Độ Mai).



Trong lang miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



LANG QUÂN 郎君

LangCon trai, đàn ông. Quân: Tiếng dùng để gọi nhau như: Con gọi cha mẹ, cháu gọi ông bà, vợ gọi chồng, ngang hàng gọi nhau bằng “Quân” đều được cả.

Lang quân dùng để tôn xưng con em người khác, hoặc tiếng vợ gọi chồng.



Trót lời hẹn với lang quân,

Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.

(Truyện Kiều).



Đừng chê chồng phận thiệt thòi,

Đáng danh quân tử phải người lang quân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Tơ đỏ nhờ tay Nguyệt lão,

Cửa vàng trộm sánh Lang quân.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



LÁNG GIỀNG

Láng giềng là những nhà chung quanh ở gần ngôi nhà mình, tức nhà hàng xóm.



Láng giềng có kẻ sang chơi,

Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.

(Truyện Kiều).



Mở ra bức tượng treo lên,

Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.

(Lục Vân Tiên).



LÁNG GIỀNG MẠNH MẪU

Mạnh mẫu là mẹ của thầy Mạnh Tử, một người đàn bà xưa dạy con rất kỹ lưỡng, chịu khó dọn nhà tới ba lần vì sợ con nhiễm tính xấu của người lối xóm.

Sách Liệt Nữ chép rằng: Mẹ Mạnh Tử là bà Cừu Thị, trước ở gần mồ mả. Lúc ấy Mạnh Kha còn nhỏ, thường vào chơi nơi nghĩa địa, rồi cùng chúng bạn bày cách tống táng, khóc kể. Bà mẹ liền dời nhà đến gần chợ, thì thấy con bắt chước bưng gánh rao hàng, buôn thịt bán bánh, bà lại thấy chỗ nầy ở chẳng tiện, bèn cho dọn nhà về gần trường học, từ đó bà thấy con bà bắt chước ôm sách đi học, bày mâm cúng tế theo nghi lễ, bà mới ưng bụng.

Khi Mạnh Kha đi học, có lần lười biếng bỏ trường về, lúc ấy bà đang dệt vải, bèn dùng dao chặt gãy khung cửi và tấm vải đang dệt, rồi nói rằng: Con đang học mà bỏ dở, chẳng khác nào mẹ chặt gãy khung cửi và tấm vải này. Mạnh Kha mới tỉnh ngộ, từ đó chẳng dám biếng nhác nữa, cố công học hỏi cho đến sau trở thành bậc Á Thánh.



Tạ gia báu ấy khôn noi,

Láng giềng Mạnh Mẫu tạm nguôi tấc thành.

(Thơ Lãng Nhân).



LÀNG CUNG KIẾM

Làng cung kiếm tức là chỉ những hạng thanh niên giỏi về võ nghệ, kiếm cung thuộc con nhà quyền quý, cao sang.



Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,

Khách công hầu ngấp nghé mong sao.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LÀNG XA MÃ

Xa mã là xe ngựa, chỉ hạng quan quyền giàu có, hay nhà quyền thế.



Mồi phú quí dữ làng xa mã,

Bả vinh hoa lừa gã công khanh,

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LÃNG PHÍ 

Lãng: Phóng túng. Phí: Tiêu xài.

Lãng phí là tiêu xài một cách phóng túng, tức là ăn mặc, tiêu pha hoang phí, không tiết kiệm.



Lòng chừa biếng nhác kiêu căng

Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.

(Kinh Sám Hối).



LÃNG TỬ 

Lãng: Sóng. Tử: Người.

Lãng tử là chỉ người sống tự do, không có nghề nghiệp, đi chơi nay đây mai đó chẳng có gì ràng buộc.



Kìa đường cũ bước mòn lãng tử,

Đám thú nhà dụ dự bước chiều.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÃNG UYỂN 

Đời nhà Đường, Vương Nguyên Anh trấn nhậm Lãng Châu, có xây một cái vườn rất đẹp đẽ, gọi là Long Uyên, về sau vì tránh tên huý của vua Đường Minh Hoàng là Long Cơ, nên đổi tên ngôi vườn ấy thành Lãng Uyển. Ngôi vườn nầy có phong cảnh u tịch, nên người sau cho là nơi thần tiên ở.

Lý Thương Ẩn đời Đường có câu: Bồng đảo yên hà Lãng Uyển chung  , nghĩa là khói mù Bồng đảo, tiếng chuông Lãng Uyển.

Nghĩa bóng: Cảnh tiên ở.



Mặt hoa Lãng uyển khoe tươi,

Mày ngang chữ triện châu rơi dầm đề.

(Bài Dồn Cung Nam).



Lãng uyển buổi thu tàn hoa chửa rã,

thêu hồng kết lục,

ví phân phương cùng xuân ấy không thua.

(Phản Tây Hồ Tụng).



Lãng uyển xuân tàn tin én dứt,

Hành dương non thẳm chiếc nhàn khơi.

(Truyện Vương Tường).



Khoe tốt hơn chưng vườn Lãng Uyển,

Kết đôi còn đợi chúa Đông hoàng.

(Hồng Đức Quốc Âm).



LÁNH BỢN TỤC

Bợn tục tức là những thứ dơ bẩn, ô trược nơi trần tục, chỉ cõi thế gian.

Lánh bợn tục là lánh khỏi cảnh bụi trần ô trược của cõi thế gian.

Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,

Trốn đau thương xa cảnh trần gian.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÀNH PHƯỚC DỮ TAI ƯƠNG

Có nghĩa là làm lành thì hưởng phước, làm dữ thì gặp tai ương.

Khổng Tử có câu: Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả thiên báo chi dĩ hoạ  ; , nghĩa là người làm việc lành thì Trời ban phước đức, kẻ làm việc dữ thì Trời lấy tai họa mà trả.

Như nhiên lành phước dữ tai ương,

Một trả một vay cũng lẽ thường.

(Đạo Sử).



LÀNH VAY TRẢ

Lành vay trả tức là quả báo điều lành.

Theo Nho giáo, hễ làm lành thì sẽ được báo trả điều lành. Sách có câu: Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc  , nghĩa là người làm lành thì trời sẽ ban cho điều phước.

Hoặc: Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo  , , nghĩa là lành có lành báo, dữ có dữ báo.



Làm lành sau cũng lành vay trả,

Chác dữ âu hay dữ vốn lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



LÃNH CUNG 

Lãnh: Lạnh lẽo. Cung: Cung điện, nơi vua ở.

Lãnh cung tức một cái cung mà vua không bao giờ đi đến, nên nơi đó vắng vẻ, lạnh lẽo. Lãnh cung là chỗ ở của các vị phi bị vua ghét bỏ, hoặc dùng để giam lỏng các cung phi phạm tội.



Còn con ô thước bắc cầu,

Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LẠNH NỒNG

Bởi chữ “Hàn ôn  ” là lạnh và ấm.

Lạnh nồng tức lạnh và ấm, ý nói hỏi thăm về sức khoẻ nhau, tức quan tâm nhau.

Khi tối sớm lạnh nồng có kẻ,

Thân mật con đặng dễ giữ con.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LAO LUNG 

Lao: Chuồng nuôi thú, nhà ngục. Lung: Cái lồng nhốt súc vật.

Lao lung là cái chuồng và cái lồng để nhốt súc vật. Nghĩa bóng chỉ sự giam cầm tù tội, sự mất tự do.



Ngôi Hoàng đế đặt không,

há nước thấp lao lung thấy đặng;

Tội Hoàng trừ chẳng có,

lòng trinh thêu dệt vào hình.

(Hịch Tây Sơn).



Thượng Hoàng sánh đức Chí Công,

Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.

(Kinh Thế Đạo).



Thương kẻ lao lung nhiều ít giúp,

Còn thân khá gỡ gánh oan gia.

(Đạo Sử).

 

LÃO BẠNG SINH CHÂU 

Lão bạng: Con trai già. Sinh châu: Sanh ra ngọc. Lão bạng sinh châu là con trai già sinh ra ngọc.

Thành ngữ nầy dùng để chỉ những người tuổi già sinh ra con quý.

Xem: Trai già nở châu.

Người trong làng xóm đều mừng,

Ai hay lão bạng, có chừng sinh châu.

(Dương Từ Hà Mậu).



LÃO BÔ

Tức Lâm Bô, một ẩn sĩ đời nhà Tống, thơ hay, chữ tốt, và vẽ khéo. Ông không ham danh lợi, chỉ quen thú thiên nhiên, lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con (Mai thê hạc tử).

Xem: Lâm Bô.

Ngày nhàn mở sách xem Chu dịch,

Đêm vắng tìm mai bạn Lão Bô.

(Quốc Âm Thi Tập).



LÃO ĐỖ 

Chỉ ông Đỗ Phủ, nhà thơ trứ danh đời nhà Đường. Vì đời ấy có hai thi nhân nổi tiếng đều họ Đỗ: Đỗ Phủ và Đỗ Mục. Đỗ Phủ lớn tuổi gọi là Lão Đỗ, còn Đỗ Mục nhỏ tuổi gọi là Tiểu Đỗ.



Hong túi thơ nông hết gió trăng vào,

cơn xướng hoạ hẹn hò Lão Đỗ.

(Tài Tử Đa Cùng Phú).



LÃO LAI TỬ 

Người nước Sở đời Xuân Thu, đã quá 70 tuổi hãy còn cha mẹ. Ông thờ cha mẹ rất có hiếu, không muốn để cha mẹ thấy ông đã già mà lo buồn, ông thường mặc áo sặc sỡ, nhảy múa trước cha mẹ, lại có khi giả bộ té, rồi khóc oà lên, làm như đứa trẻ lên ba vậy. Ý ông là cốt làm cho cha mẹ lúc nào cũng vui vẻ trong lòng.



Lão Lai Tử đời Châu cao sĩ,

Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



LÃO QUÂN 

Tức Thái Thượng Lão Quân là vị tổ của Đạo Giáo. Tương truyền, Lý Nhĩ, thuỵ là Đam, tự là Bá Dương, là hậu thân của của Thái Thượng Lão Quân, vì mới sinh ra đã đầu bạc, nên người đương thời mới gọi là Lão Tử.



Đương khi lốt trắng điểm vàng,

Tỉnh say Vương Mẫu, mơ màng Lão Quân.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Ma đừng chữa thuốc đừng tra,

Thầy non Biển Thước, sư già Lão Quân.

(Sơ Kính Tân Trang).



Lão quân mất sách đến nay,

Đời sau bắt chước liền bày phép xiên.

(Dương Từ Hà Mậu).



Lão Quân ứng hóa Tam thanh,

Khuyến răn nhơn vật lòng lành chớ xao.

(Xưng Tụng Công Đức).



LÃO TUYỀN

Hay Tô Lão Tuyền tức Tô Tuân, người My Sơn, đời nhà Tống, hai mươi bảy tuổi mới đi học, thông hiểu kinh sử và các học thuyết của bách gia, viết văn rất cổ kính. Âu Dương Tu cùng Hàn Kỳ tâu vua Tống, được cử làm Hiệu Thư Lang. Hai người con trai là Tô Thức, hiệu là Đông Pha và Tô Triệt, hiệu là Đĩnh Tần đều đỗ Tiến sĩ đời Tống, có tiếng là bậc văn hào.



Lão Tuyền tuổi cả gia công,

Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề Nho.

(Gia Huấn Ca).



LÃO TỬ 

A.- Tức Lý Nhĩ.

Theo sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử là người nước Sở, huyện khổ, làng Lệ, xóm Khúc nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ.

Ông họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam, làm quan giữ Tàng thất (Kho sách) ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Châu.

Về gia thế thì sử sách không có nói đến, nhưng theo truyền thuyết thì nói rằng mẹ của Lão Tử mang thai có đến 80 năm mới sinh ông do hông bên trái dưới cội cây lý. khi ông được sinh ra thì râu tóc dài và bạc trắng, mới gọi ông là Lão Tử. Lão Tử chỉ cây lý mà bảo rằng đó là họ của ông.

Ở tại Lạc Dương phía đông nhà Châu một thời gian lâu, sau thấy nhà Châu suy, nên Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây, khi đi đến cửa ải Hàm Cốc, quan lệnh là Doãn Hỷ. Biết Lão Tử là một Thánh nhân nên quan Doãn tôn ông là Thầy để xin theo học Đạo.

Lão Tử ở lại Hàm Cốc dạy Đạo cho Doãn Hỷ và soạn ra bộ sách nói về Đạo Đức, sách phân làm hai thiên, gồm có trên 5000 chữ. Sau này được gọi là “Đạo Đức Kinh”.

Rồi từ đó, Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây mất dạng, người ta không biết ông đi về đâu.

Phán rằng: Đạo sĩ một môn,

Từ ông Lão Tử đạo tôn mở đầu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



B.- Lão Tử là Lão Lai Tử, một người trong Nhị Thập Tứ hiếu. Xem: Lão Lai Tử.

Đôi hàng ai luỵ,

lệ Tăng Sâm rày chẳng thấy đoái hoài;

Mấy tiết sum vầy,

do Lão Tử chẳng cùng ai vui vẻ.

(Tử Tế Mẫu Văn).



LẠP HOÀNG 

Lạp: Sáp. Hoàng: Màu vàng.

Lạp hoàng tức là sáp vàng.



Mai công lễ vật tầm thường,

Miến vài cân với lạp hoàng vài đôi.

(Nhị Độ Mai).



LAU THANH TRÁI CHỦ

Lau thanh: Lau sạch. Trái chủ  : Chủ nợ.

Lau thanh trái chủ là rửa sạch những nợ nần oan gia nghiệp báo từ một hay nhiều kiếp trước.



Từ bi hứng giọt nhành dương,

Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LẶN SUỐI TRÈO NON

Ba mươi mốt tuổi đà bao chốc,

Lặn suối trèo non đã mấy hồi.

(Thơ Trần Tế Xương).



LĂNG MIẾU 

Lăng: Mồ mả của vua chúa. Miếu: Nơi thờ Thần, hoặc chỉ Tông miếu là nơi thờ các đấng tiền nhân của vua.

Lăng miếu nơi chôn vua, hoặc chỉ nơi chôn và thờ người chết.



Trong lăng miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Rước voi phá mã đào lăng miếu,

Thả rắn xua ong nhiểu điện tà.

(Đạo Sử).



LĂNG TẨM 

Lăng: Nơi chôn cất nhà vua. Tẩm: Nơi cất chứa áo quần của người chết.

Lăng tẩm là nơi chôn cất, thờ phượng và nơi lưu những đồ vật của vua đã mất.



Ơn sâu nhuần gội cỏ cây,

chốn lăng tẩm chẳng phạm chồi du tử.

(Văn Tế Vua Quang Trung).



LĂNG VÂN 

Lăng Vân là tên một bài phú của Tư Mã Tương Như. Đời vua Võ Đế nhà Hán, Tư Mã Tương Như khi chưa gặp được Dương Ý tiến cử lên nhà vua, vẫn thường ngâm đọc bài phú “Lăng vân” mà than tiếc một mình.



Lăng vân ngâm ngợi chờ mong,

Chung Kỳ đã gặp, thẹn lòng nữ chi.

(Thơ Lãng Nhân).



LẰNG XANH

Lằng: Ruồi nhặng. Xanh: Màu xanh.

Do chữ “Thương nhặng  ”, tức là ruồi xanh, một loại côn trùng bay nhanh, thường bu đậu ở nơi chỗ hôi thúi. Người ta thường dùng để chỉ bọn tiểu nhân, kẻ ty tiện. Xem: Ruồi xanh.



Lằng xanh ưa ngửi mùi đồng,

Ham thân nô lệ, mến vòng tôi con.

(Ngụ Đời).



LẶNG NƯỚC ÊM THUYỀN

Lặng nước êm thuyền là nước sông yên lặng, thuyền lướt đi êm ả, ý nói công việc được êm xuôi, trôi chảy.



May gặp cơn lặng nước êm thuyền,

Mình dễ thế giao nguyền cùng thục nữ.

(Phương Tu Đại Đạo).



LẤY PHẬT LÀM LÒNG

Tức là lấy tâm Phật làm tâm của chúng sinh.

Tâm Phật là tâm thanh tịnh tuyệt đối, tâm đại từ đại bi của một vị Phật, cái tâm chân thật, sáng suốt, không hề biến đổi.

Tâm chúng sinh là tâm còn đầy ô nhiễm, bất tịnh, phiền não và tham dục. Tâm này vốn được sinh khởi tư duy hữu ngã.



Ai ơi lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

(Thập Loại Chúng Sinh).



LÂM BÔ 

Lâm Bô, người đời nhà Tống, viết chữ đẹp, làm thơ hay, nhưng không thích danh lợi, không vợ con, thường trồng mai và nuôi hạc. Vì vậy, người đương thời mới bảo rằng: “Mai thê hạc tử  ”, tức là vợ là mai, con là hạc.



Trúc Tưởng Hủ nên thêm thiết cứng,

Mai Lâm Bô đâm được câu thần.

(Thơ Nguyễn Trãi).



LÂM CƠ 

Lâm: Đang lúc. : Dịp.

Lâm cơ tức là gặp được thời cơ, gặp lúc.



Lâm cơ mặt ngảnh tai ngơ,

Miệng hùm gan sứa bấy giờ mới hay.

(Hạnh Thục Ca).



LÂM HÀNH 

Lâm: Đang lúc. Hành: Đi.

Lâm hành là đang lúc lên đường.



Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,

Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LÂM NGUY 

Lâm: Đang lúc. Nguy: Hiểm nguy.

Lâm nguy nghĩa là đang lúc nguy hiểm.



Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.

(Lục Vân Tiên).



Lâm nguy nguyện vái làm lành,

Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.

(Kinh Sám Hối).



LÂM PHỦ 

Lâm Phủ họ Lý, là tôn thất nhà Đường, người khôn ngoan, tính gian nịnh, mưu sĩ, bề ngoài thì ngon ngọt, mà trong lòng thì gian hiểm. Thường ganh ghét, đố kỵ với người văn tài, nên người đương thời gọi ông là người “Miệng mật lòng gươm” (Khẩu mật phúc kiếm).



Sợ Quách Khai hay đặt nên điều;

Sợ Lâm Phủ ngọt lời báng huỷ.

(Sãi Vãi).



LÂM TẨU 

Lâm: Rừng cây. Tẩu: Ao đầm lớn, hoặc chỗ đất thấp có nước và nhiều cỏ gọi là tẩu trạch.

Lâm tẩu là rừng rú và ao đầm, nơi trú ẩn của những người lánh đời, chỉ nơi người ở ẩn dật.



Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng,

Ai thành thị ai vui miền lâm tẩu.

(Thơ Cao Bá Quát).



LÂM TUYỀN 

Hay “Lâm toàn”.

Lâm tuyền là rừng cây và khe suối, chỗ thanh nhàn của bậc ẩn sĩ, nơi trú ngụ của những kẻ trốn nơi thị thành.

1.- Lâm tuyền:



Trải xem phong cảnh hữu tình,

Lâm tuyền pha lẫn thị thành mà ưa.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Lâm tuyền trong có thị thành,

Phong trần vẫn ít, cảnh thanh thêm nhiều.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



Am mây kinh kệ hôm mai,

Lâm tuyền dưỡng tánh, khoan thai thanh nhàn.

(Hứa Sử Tân Truyện).

2.- Lâm toàn:

Lọ là thành thị, lọ lâm toàn,

Được thú thì hơn miễn phận nhàn.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



LÂM XUÂN 

Lâm Xuân là tên một cái gác bằng gỗ trầm hương, do vua Trần Hậu Chúa dựng lên để cùng các cung phi mỹ nữ đến đó yến ẩm và múa hát. Vì vậy, nơi đó được gọi là “Trầm hương đình” hay “Lâm xuân các”.



Vườn Tây Uyển khúc trùng Thanh Dạ,

Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LẦM THAN

Bởi chữ “Đồ thán  ” là bùn và than nóng.

Lầm than chỉ cảnh bùn lầy than lửa để nói lên nỗi cơ cực, vất vả của người dân trong nước.

Trong Kinh Thư có câu: Hữu hạ hôn đức, dân truỵ đồ thán  , , nghĩa là nhà Hữu Hạ đức tối tăm, khiến dân phải rơi vào cảnh bùn than.



Chia phủ, huyện, đặt quân quan,

Cỏ cây đều phải lầm than hội này.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LẪM LIỆT OAI PHONG 

Lẫm kiệt: Dáng bộ làm cho kẻ khác trông thấy vừa run sợ, vừa kính trọng. Oai phong (Uy phong): Bộ dạng oai nghiêm.

Lẫm liệt oai phong tức là người có dáng bộ oai nghiêm, khiến người khác sợ sệt mà kính trọng.

Xem: Oai phong lẫm liệt.

Quân đi lẫm liệt oai phong,

Dao trì cung khuyết, nhác trông gần gần.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



LÂN CÁC 

Lân: Con kỳ lân. Các: Cái gác.

Lân các tức là Kỳ lân các. Đời Hán Cao Tổ, Tiêu Hà lập nên Kỳ lân các để chứa khách quý và để làm nơi cho các bậc hiền tài tụ tập. Đến đời Hán Tuyên Đế, nhà vua cho vẽ hình 11 công thần. Từ đó chữ Lân các được dùng để nói việc ghi công trạng của các công thần, việc lưu truyền tên tuổi trong sử sách.



Cội cây là đá lấy làm nhà,

Lân các ai hầu mạc đến ta.

(Thơ Nguyễn Trãi).



LÂN CHỈ 

Lân: Con kỳ lân. Chỉ: Ngón chân.

Lân chỉ là ngón chân con kỳ lân, dùng để chỉ dòng dỏi quý phái.

Theo quan niệm xưa, kỳ lân là con vật nhân hậu, không giẫm lên loài vật nhỏ và cỏ non. Theo Kinh Thi, thơ “Lân chỉ” khen ngợi con cháu Châu Văn Vương hiền đức. Về sau người ta dùng chữ “Lân chỉ” hay “Gót lân” để chỉ con nhà dòng dõi.

Thưa rằng: Cám nỗi dây dưa,

Đoái câu "lân chỉ", nhà chưa phỉ nguyền.

(Dương Từ Hà Mậu).



Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm,

Đầu mũ mao, mình tấm áo gai,

(Ai Tư Vãn).



LÂN KINH 

Khổng Tử viết quyển Kinh Xuân Thu đến chuyện: Bắt được con kỳ lân ngoài đồng thì dừng bút, vì thế người đời sau gọi Kinh Xuân Thu là Lân Kinh.



Trời đâu phụ nghĩa tiết nghì,

Lân Kinh, Mao Giản tạc ghi còn truyền.

(Truyện Trinh Thử).



LÂN MẪN 

Lân: Thương. Mẫn: Xót xa.

Lân mẫn là thương xót.



Sư còn lân mẫn chúng sinh,

Xin thương với tấm lòng thành với nao!

(Truyện Phan Trần).



Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc,

LÂN NHI 

Lân: Con kỳ lân. Nhi: Con.

Kỳ Lân là loài thú đem lại điềm lành, khi kỳ lân xuất hiện thì chúa thánh ra đời. Vì thế, lân chỉ dòng dõi tôn quý. “Lân tử”, “Lân nhi” dùng để chỉ dòng dõi quý phái.



Họ Diêu rạng vẻ môn mi,

Điềm lành sớm ứng lân nhi một chàng.

(Hoa Tiên Truyện)



Mới hay hổ phụ, lân nhi,

Khéo thay tính trẻ cũng y tính già.

(Nhị Độ Mai).



LÂN PHƯỢNG 

Tức Kỳ lân và Phượng hoàng, là hai vật trong tứ linh, người xưa cho là vật quý hiếm, thường dùng ví với bậc hiền tài.

Kỳ lân người ta gọi là nhân thú. Còn Phượng hoàng là giống chim báo điềm lành. Phượng là chim đực, hoàng là chim cái.

Kỳ lân và phượng hoàng xuất hiện là điềm vua thánh tôi hiền, đất nước thái bình thịnh trị.



Ruổi dặm dài quyết chí côn bằng,

Giúp đời trị mừng điềm lân phượng.

(Thập Giới Cô Hồn).



LÂN RA ẮT CÓ THÁNH QUÂN

Kỳ lân ra đời thì có Thánh quân xuất hiện.

Người xưa cho rằng kỳ lân là một loài trong tứ linh: Long, lân, quy, phụng. Bước chân kỳ lân đi không đạp côn trùng, không làm nát cỏ cây, nên người ta gọi là “Nhân thú”. Kỳ lân là vật quý hiếm, vì vậy, khi xuất hiện thì có vua Thánh ra đời.

Lân ra ắt có Thánh quân ra,

Nhiều gốm vòng Nam hiệp một nhà.

(Đạo Sử).



LÂN TUẤT 

Lân: Thương. Tuất: Xót xa.

Lân tuất là thương xót. Đồng nghĩa với chữ “Lân mẫn”.



Hạ từ van lạy suốt ngày,

Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.

(Truyện Kiều).



LẦN CHUỖI HỘT

Chuỗi là hạt xâu lại thành chuỗi, hay tràng hạt. Tràng hạt có loại 18 hạt, có loại 108 hạt. Người ta thường lấy hạt cây Bồ đề xâu lại thành chuỗi, nên gọi là “Chuỗi Bồ đề”.

Người Phật tử niệm Phật thường hay lần tràng hạt, cứ niệm một danh hiệu Phật thì lần một hạt. Việc lần chuỗi giúp cho người lần chuỗi được định tâm.

Lần chuổi hột từ bi cứu khổ,

Nương gió thanh trăng tỏ là nhà.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LẦN TRÀNG HẠT

Tràng hạt là xâu chuỗi dành cho người tu hành, có loại 18 hạt, có loại 108 hạt. Lần tràng hạt tức là tay lần một hạt chuỗi, miệng niệm danh hiệu Phật. Xem: Lần chuỗi hột.



Lần tràng hạt niệm: Nam Mô Phật!

Cửa Từ bi công đức biết là bao.

(Hương Sơn Phong Cảnh).



LẤP BỂ

Bởi tích chim tinh vệ ở biển ngậm đá ở núi Tây đem về để lấp biển Đông Hải.

Lấp biển dùng để nói người có chí lớn, thường làm công việc to tát.

Vá trời gặp hội mây năm vẻ,

Lấp bể ra công đặt một hòn.

(Thơ Trần Tế Xương).



LẤP NGÕ TÀI HIỀN

Lấp ngõ: Làm bít đường, che lấp mất ngõ đi. Tài hiền: Hay hiền tài , là người có tài có đức.

Lấp ngõ tài hiền là che lấp, ngăn chận không cho người tài đức tiến thân, yểm tài của người.

Phàm con người ta có tính “tốt thì khoe, xấu thì che”, nhưng khi thấy người khác có điều gì hay tốt, đáng lý phải nêu danh, hay giới thiệu cho mọi người cùng biết, đàng này lại giấu đi, bưng bít, ấy là che cái hay tốt của người hiền vậy. Đức Khổng Tử có dạy: Nặc nhơn chi thiện sở vị tế hiền  . Nghĩa là giấu cái lành của người ta thì gọi là che bậc hiền tài vậy

Mạnh Tử cũng nói rằng: Ngôn vô thực bất tường, bất tường chi thực, tế hiền giả đương chi  , , nghĩa là nói mà không chân thật, thì có sự tai hại, thực tai hại là những lời nói làm che lấp bậc hiền tài, khiến cho không tiến đạt được.



Hãy có dạ kỉnh già thương khó,

Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.

(Kinh Sấm Hối).



LẬP CÔNG 

Lập: Tạo ra, dựng nên. Công: Công đức.

Lập công là tạo lập công đức, tức là làm công quả để tạo dựng phước đức.



Siêng lo thì ắt đặng no lòng,

Siêng Ðạo thì đời phải lập công.

(Đạo Sử).



LẬP ĐỨC 

Lập đức là làm những việc có công đức. Đây là một trong Tam lập: Lập công, lập ngôn, lập đức.

Lập đức là làm những việc lành, việc thiện nhằm đem lại phước đức cho mình và cho người khác. Những việc như thí tài, thí công, thí pháp tức là giúp của, giúp công, in kinh, và làm chùa, hay ủng hộ những người tu hành chân chính, là những việc làm tạo nên công đức. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc tu hành vào thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Thực vậy, vào thời hạ nguơn mạt Pháp, chúng sanh sống trong cảnh khổ đau của chiến tranh, thiên tai và bệnh tật, nên rất cần thiết có những tấm lòng, những bàn tay để xoa dịu những nỗi đau của sanh chúng. Lại nữa, Đức Chí Tôn mở Đạo lần này là lập một trường thi công quả. Thánh giáo dạy: “Người tu hành, nếu chưa trường trai trì giới nổi đặng thì hãy lo lập đức, bồi công để làm nền móng vững chắc cho việc luyện Đạo tương lai, chớ dục vọng mong sớm luyện Đạo để làm Tiên, Phật mà thiếu phần công quả, âm chất.Vì Thầy lập Đạo kỳ này là mở một trường thi công quả. Các con phải đi tại cửa này mới đến đặng Cực Lạc mà thôi”.

Phần nhiều, người tu hành thường thiếu công quả, mà công quả cũng là một phần của việc lập đức, vậy cần phải chuyên tâm lo về phần này, nên Chí Tôn thường nhắc nhở: “Người dưới thế này muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo, phải có công quả”.

Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

(Kinh Thế Đạo).



LẬP THÂN 

Lập: Dựng nên. Thân: Thân mình.

Lập thân là học tập, tu dưỡng cho nên người có tài và có đạo đức.

Xem: Lập thân trả hiếu.

Nay đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngà gặp hội phong vân

Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.

(Lục Vân Tiên).



Làm trai quyết chí lập thân,

Cương thường giữ lấy có phần hiển vinh.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Lập thân muốn tránh đường mưa gió,

Tìm Ðạo nương mình vững nghiệp sau.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Dạy trẻ bỏ tánh tình biếng nhác,

Cần lập thân mới thoát phận tôi đòi.

(Phương Tu Đại Đạo).



LẬP THÂN TRẢ HIẾU

Lập thân trả hiếu tức là học tập, tu dưỡng cho nên người tài đức, làm rạng danh ông bà, cha mẹ, đó là đền đáp công sinh thành dưỡng dục.

Khổng Tử có câu: Lập thân hành đạo, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã  , , , nghĩa là lập thân hành đạo để làm rạng danh cha mẹ, đó là trả trọn cái hiếu rốt cho cha mẹ.

Đừng làm nhục tổ hổ tông,

Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÂU LAN 

Tên một nước thuộc vùng Tây vực của Trung Quốc. Thời Hán Võ Đế thường sai sứ thông thương với nước Đại Uyển, Lâu Lan. Các nước nầy cũng thường hay tấn công sứ giả nhà Hán. Vì vậy, khi Chiêu Đế lên ngôi bèn sai Phó Giới Tử đem binh chinh phạt, chém vua nước Đại Uyển là Lâu Lan, sau đổi tên nước là Thiện Thiện. Phó Giới Tử được phong tước Nghĩa Dương Hầu.

Nay Lâu Lan bị cát lấp, trở thành bãi sa mạcthuộc huyện Nha Khuông, Tân Cương, Trung Quốc.

Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử,

Tới Man khê bàn sự Phục Ba

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LẦU CAO

Do thành ngữ “Lầu cao giếng cạn” dùng để chỉ việc liều thân mình để bảo vệ danh tiết.

Lầu cao do điển tích trong Tấn Thư, tỳ thiếp của Thạch Sùng là nàng Lục Châu rất đẹp, Tôn Tú muốn bắt về để hầu hạ, Lục Châu không chịu thọ nhục, bèn nhảy từ trên lầu cao xuống đất tự tận để giữ tròn danh tiết. Xem: Thạch Sùng.

Thế cô hầu biết làm sao,

Nghĩ rằng giếng cạn lầu cao đã đành.

(Lưu Nữ Tướng).



Hầu mong nát ngọc trầm châu,

Lầu cao chẳng quản, giếng sâu chẳng từ.

(Truyện Trinh Thử).



LẦU CHUÔNG GÁC TRỐNG

Lầu gác để chuông trống, chỉ nhà chùa.

Thường các chùa đều có xây lầu và gác để chuông, trống. Riêng Đạo Cao Đài, tại Tòa Thánh Tây Ninh có xây hai lầu cao phía trước để chuông trống, gọi là Bạch ngọc chung đài và Lôi âm cổ đài.

Lầu chuông gác trống đôi bên,

Cửa rồng năm sắc đài sen chín từng.

(Hương Sơn Hành Trình).



LẦU ĐÃI NGUYỆT

Bởi chữ “Đãi nguyệt lâu  ”. Đãi nguyệt là đợi trăng lên. Lầu đãi nguyệt tức là một cái lầu dựng trong hoa viên để người ta đến đó ngồi chờ trăng lên để thưởng ngoạn.



Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,

Gác thừa lương thức ngủ thu phong.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LẦU HỒNG

Do chữ Hán “Hồng lâu  ”, chỉ nhà của hạng phụ nữ giàu sang, quyền quý.

Ngày xưa, những nhà quyền quý thường lấy màu hồng, màu son sơn nhà cửa để dành riêng cho con gái ở, nên “Lầu hồng” chỉ nơi ở con gái quý phái.

Thơ Lý Bạch có câu: Mỹ nhân nhất tiếu khiên châu bạc, dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia  , , nghĩa là người đẹp mỉm cười, kéo bức rèm châu, chỉ lầu hồng nơi xa xôi và nói đó là của thiếp. Xem: Hồng lâu.



Đêm ngày lòng những dặn lòng,

Sanh đà về đến lầu hồng xuống yên.

(Truyện Kiều).



Lầu hồng cung cấm ấy ru,

Anh hùng kia với trượng phu ai từ.

(Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm).



Đến phồn hoa thân gần tục lự,

Chơi lầu hồng hỏi thử trái căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Đừng học khách lầu hồng đánh bóng,

Nói với chồng dùng giọng cầu cao.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

LẦU NHẠC DƯƠNG

Bởi chữ “Nhạc Dương lâu  ”, tên một cái lầu ở Hồ Nam, trên Động Đình Hồ, một nơi danh lam thắng cảnh của Trung Quốc. Phạm Trọng Yêm có làm bài ký về lầu Nhạc Dương, gọi là “Nhạc Dương lâu ký ”.



Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,

Ấy nền Đồng tước, hay lầu Nhạc Dương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Lầu Nhạc Dương bóng chiều nắng sớm,

Khách văn chương đề phẩm đã nhiều.

(Thơ Lãng Nhân).



LẦU SON

Lầu sơn màu đỏ, như chữ “Chu môn” là cửa đỏ hay cửa son dùng để chỉ nhà hào phú.

Do vậy, lầu son cũng dùng để chỉ những nhà quyền quý, sang trọng.

Có khi ướm nguyệt chào hoa,

Lầu son phảng phất cửa Già gió trăng.

(Truyện Phan Trần).



Hai lẽ văn tài đồng đức tánh,

Chẳng ngồi bệ ngọc cũng lầu son.

(Đạo Sử).



LẦU TẦN

1.- Lầu của Tần Mục Công:

Lầu của Tần Mục Công đời Chiến Quốc cho cất để con gái là nàng Lộng Ngọc ở học thổi tiêu với chàng Tiêu Sử. Sau hai người lấy nhau, nên duyên vợ chồng.

Lâu Tần dùng để chỉ lầu gác cung điện nguy nga của vua Tần, hay những nơi ca xang múa hát.

Xem: Tần Lâu

Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ,

Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ.

(Cung Oán Ngâm Khúc).

2.- Lầu Tần, do chữ “Lầu Tần quán Sở” chỉ cảnh ca xang múa hát, lầu gác cung điện, phong lưu, tráng lệ:

Xem: Lầu Tần quán Sở.



Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,

Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LẦU TẦN QUÁN SỞ

Bởi thành ngữ “Tần lâu Sở quán  ”, chỉ chung lầu gác cung điện nguy nga, hay những nơi ăn chơi ca vũ.

Bài thơ “Bạch Hạ” đời Tống có câu: Lai vãng không lao Bạch Hạ thuyền, Tần lâu Sở quán tổng mang nhiên. Duy dư nhất quyển tân thi thảo, thính vũ giang hồ thập nhị niên  , . , , nghĩa là đi lại luống nhọc con thuyền ở xứ Bạch Hạ, những cảnh lầu Tần quán Sở phong lưu diêm giả thảy quên mang mác cả. Chỉ còn lại một tập thơ mới làm và một kỷ niệm bên tai là mười hai năm nghe mưa ở nơi giang hồ. Ý nói sự phong lưu đều quên hết, chỉ còn lưu tâm đến tập thơ mới làm và tinh thần là khi yên tịnh nghe mưa ban đêm đã mười hai năm qua.

Lầu Tần quán Sở thảnh thơi,

Tạm vào trú ngụ ở nơi nhà hàng.

(Nữ Tú Tài).



LẦU VỌNG TIÊN

Tương truyền Lê Thánh Tông ngự chơi chùa Ngọc Liên, nghe một ni cô ngâm câu kệ rằng: 
Ở đây mến cảnh mến thầy, tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng trần. Ngài bèn truyền ni cô làm thơ mà đầu bài lấy ngay câu ấỵ Ni cô ứng khẩu ngaỵ trong bài thơ như sau: Gió thông đưa kệ tan niềm tục, hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời.

Sau khi vịnh thơ, Lê Thánh Tông khen ni cô là tài nữ, cho ni cô ngồi cùng xe đem về cung, đến nửa đường bỗng biến mất. Ngài nhớ tiếc mãi, truyền dựng lầu trông ngóng. Nay ở phố Hàng Bông Hà nội, chỗ cây đa cửa quyền còn có Vọng tiên quán, phải chăng di tích tự bấy giờ? (Theo Đinh Gia Thuyết).



Mười lăm năm nọ chưa lâu,

Còn di tích đó là lầu vọng tiên.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



LẦU XANH

Ngày xưa, những nhà quyền quý sang trọng, nhà cửa thường sơn màu xanh, như Tào Thực đời nguỵ có viết: Thanh lâu lâm đại lộ, cao môn kết trùng quan  , , nghĩa là lầu xanh cách đường cái, cửa cao hai lần then.

Sau nầy lầu xanh không còn là nơi cao sang quyền quý nữa mà là nơi dành cho kỵ nữ ở. Như Đỗ Mục đời Đường có câu: Thập niên nhất giác Dương châu mộng, Doanh đắc thanh lâu bạc hạnh danh  , , nghĩa là mười năm một giấc chiêm bao ở Dương Châu, mang tiếng người bạc bẽo ở lầu xanh. Xem: Thanh lâu.

1.- Chỉ nhà quyền quý sang trọng:



Lầu xanh giặm, màu tu trở vẻ,

Cửa không môn mở hé chơn hồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Chỉ nơi kỹ nữ ở:

Lầu xanh quen lối xưa nay,

Nghề nầy thì lấy ông nầy tiên sư.

(Truyện Kiều).



Không đành nói thác ra ma.

Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Đừng học chiều rước yến mời anh,

Kìa nhục chốn lầu xanh xem những kẻ.

(Phương Tu Đại Đạo).



LÊ ĐÌNH 

: Cây lê. Đình: Cái sân trước nhà.

Lê đình là sân nhà có trồng cây lê.



Ngày mai vừa rạng chân trời,

Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình.

(Lục Vân Tiên).

LÊ NGUYÊN 

: Đông đúc, màu đen. Lê dân là dân chúng đông đúc, hay dân đen. Nguyên: Lành, thiện.

Lê nguyên là người lành, tức dân lành, sau người ta dùng để chỉ thứ dân hay dân đen.



Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ,

Thói thuần lương hóa cả lê nguyên.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



LÊ THỨ 

: Đông đúc, màu đen. Thứ: Nhiều.

Lê thứ, cũng như chữ lê dân, lê nguyên, có nghĩa dân đen đông đảo, dùng để chỉ chung dân chúng.



Thừa cơ phá huyện cướp châu,

Làm cho lê thứ lo âu nghiêng nghèo.

(Hạnh Thục Ca).



Lòng Trời cảm cứu an lê thứ,

Độ chúng sanh muôn xứ gội ơn.

(Xưng Tụng Công Đức).



Vương hầu lê thứ, ai là chí?

Chí quyết làm cho thế khác thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



May quan cả, rủi cho lê thứ,

Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Vợ nhơn từ lê thứ đều bình,

Dẫu tội trọng cầu xin chồng chế giảm.

(Phương Tu Đại Đạo).



LÊ VIÊN 

Lê viên là vườn lê, ngôi vườn của vua Đường Minh Hoàng lập ra để cho các con hát học và dạy hát lẫn nhau.

Theo Đương Thư, vua Minh Hoàng thích âm nhạc, ưa sáng tác, nên truyền tuyển lựa ba trăm con hát dạy tại “Lê viên” (Vườn lê).

Nhân đó người đời sau gọi nơi ca hát là “Lê viên”, và con hát là “Lê viên đệ tử”.



LỄ NGHI 

Lễ: Phép tắc. Nghi: Cách thức.

Lễ nghi là nghi thức cuộc lễ. Lễ nghi cũng là cách thức bên ngoài để bày tỏ việc đạo đức, lễ nghĩa.



Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,

Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.

(Truyện Kiều).



Con người có trí khôn ngoan,

Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi,

(Kinh Sám Hối).



LỄ NHẠC 

Lễ nhạc là hai bộ sách cổ dạy về lễ, nhạc của Trung Quốc. Tương truyền ngày xưa có lục kinh gồm Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân thu và Dịch, nhưng từ khi Tần Thuỷ Hoàng ra lịnh đốt sách trong thiên hạ, Nhạc ký đã thất truyền, nên còn lại chỉ có “Ngũ kinh”.



Phép báu Thi, Thư dòng mực nát,

Màu xuê Lễ, Nhạc nhiễm sương bay.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



LỄ NHẠN

Do chữ “Nhạn tệ ”, tức là số tiền mà họ nhà trai đem qua nạp cho họ nhà gái.

Lễ nhạn là tiền nạp trong lễ cưới xin, còn gọi là sính lễ.

Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu,

Chưa trao lễ nhạn mới đầu thiếp canh.

(Nhị Độ Mai).



LỆ BÌ 

Lệ: Đôi lứa. : Miếng da.

Lệ bì là hai miếng da thuộc, để hai họ nhà trai, nhà gái giữ làm tin.

Theo hôn lễ thời xưa, trong lễ nạp trưng dùng hai miếng da, nhà trai giữ một miếng, nhà gái giữ một miếng, đổi cho nhau mỗi bên giữ một miếng để làm bằng, gọi là lễ “Lệ bì”.

Nghi lễ có câu: Nạp trưng huyền huân thúc bạch lệ bì như nạp cát lễ  , nghĩa là lễ nạp trưng có lụa màu đen và màu hồng nhạt và hai miếng da lệ bì giống như đồ lễ nạp cát.



Cũng còn có lễ lệ bì,

Chê loài cẩu hợp răn bề dâm bôn.

(Truyện Trinh Thử).



LỆ CHÂU 

Lệ: Nước mắt. Châu: Hạt ngọc.châu.

Lệ châu là giọt nước mắt đầm đìa rơi xuống, long lanh như hạt châu ngọc.

Do tích thời xưa có loài giao long hóa thành người, gọi là giao nhân , sống trên thế gian lấy vợ, lấy chồng và buôn bán với loài người. Nhưng đến cuối năm lại phải về thủy phủ để chầu vua. Lúc từ biệt gia đình, họ khóc rất thảm thiết, mà khóc bao nhiêu thì nước mắt hóa thành những hạt châu bấy nhiêu. Nên có câu: “Sái giao nhân chi châu lệ  ”, nghĩa là người giao nhân khóc, nước mắt sa xuống thành hạt châu.

Ai ai thương tiếc muôn phần,

Tưởng bề tiếc ngọc đòi lần lệ châu.

(Thiên Nam Minh Giám).



Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?

Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.

(Kinh Thế Đạo).



LỆ HỒNG 

Lệ hồng là nước mắt chảy xuống đỏ như máu.

Do tích nàng Tiết Linh Vân con của một vị đình trưởng ở Thường Sơn, nhà rất nghèo, nhưng lại có một nhan sắc tuyệt trần. Quan quận thú mới mua nàng đem dâng cho Nguyên Đế. Khi từ biệt cha mẹ, nàng khóc thảm thiết, đem hứng nước mắt thì thấy giọt nước mắt đong lại đỏ như máu.

Xem: Hồng băng.



Chiều rong ruổi đến trướng hoa,

Tay nâng chén thọ xót xa lệ hồng.

(Lưu Nữ Tướng).



LỆ NGỌC 

Lệ ngọc như chữ “Lệ châu  ”, do tích người giao nhân khóc, giọt nước mắt chảy xuống long lanh như hạt châu ngọc.

Xem: Lệ châu.

E không lệ ngọc mà lên trông lầu,

Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu.

(Chinh Phụ ngâm Khúc).



Dỗ con lệ ngọc li bì,

Hạ ơi! Hạ có biết nghì phu thê ?

(Nữ Trung Tùng Phận).



LỆ QUÂN 

Tức Mạnh Lệ Quân, con gái của đại phu Mạnh Sĩ Nguyên, là một cô gái rất thông minh, giỏi về kinh thi, bách gia chư tử đều thuộc, tinh thông y thuật, cầm, kì, thi, hoạ. Nàng kết giao bằng hữu với Hoàng Phủ Thiếu Hoa, cũng là người có đính ước với Mạnh Lệ Quân từ khi còn nhỏ.

Lương Khuê Bích, con của một vị Thừa tướng muốn Mạnh Lệ Quân nên tìm cách hại cả gia đình Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Nàng Mạnh Lệ Quân giả trai, bỏ lên kinh kỳ ứng thí đậu trạng nguyên, rồi làm quan trong triều đình, giúp cho gia đình Hoàng Phủ Thiếu Hoa và diệt trừ Lương Khuê Bích. Sau Mạnh Lệ Quân và Hoàng Phủ Thiếu Hoa kết duyên với nhau.

Tưởng sắc đẹp Tây Thi là quí,

Chẳng học đòi mưu trí Lệ Quân.

(Phương Tu Đại Đạo).



LỆ U 

Tức là Lệ vương và U vương.

Lệ vương là vua nhà Châu, tính bạo ngược, không kể cang thường, tin dùng kẻ tiểu nhân, không tu nhân chính, giết hại người vô tội, khiến dân chúng oán ghét nổi lên đánh đuổi chạy vào đất Phệ và mất ở đó, trị vì được 51 năm.

U vương là vua nhà Đông Châu, say mê nàng Bao Tự, không lo triều chính, nên sau cũng bị mất nước.

Xem: U Lệ.

Ghét Kiệt, ghét Trụ, ghét Lệ ghét U,

ghét nhân chính chẳng tu,

ghét cang thường nỡ bỏ.

(Sãi Vãi).



LÊNH ĐÊNH

Hay “Linh đinh”.

Lênh đênh hay linh đinh chỉ sự bềnh bồng trôi nổi không có chỗ nương tựa, lưu lạc khắp bốn phương.

Xem: Bèo nước lênh đênh.

1.- Lênh đênh:

Chân trời mặt bể lênh đênh,

Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào,

(Truyện Kiều).



Lênh đênh chút phận bèo mây,

Duyên kia đã vậy thân này nương đâu.

(Ai Tư Vãn).

2.- Linh đinh:

Chàng thì biển cả vơi vơi,

Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Điều bạo tàn chẳng đủ tội hình,

Đày mãn kiếp linh đinh phận gái.

(Phương Tu Đại Đạo).



LỆNH ÁI 

Lệnh: Tiếng tôn xưng người thân của kẻ khác. Ái: Yêu mến.

Lệnh ái là tiếng tôn xưng con gái yêu của một người khác.



Có quan xu mật đương triều,

Rắp đem lệnh ái lọng điều ép duyên.

(Lưu Nữ Tướng).



LỆNH CHỈ 

Lệnh: Sai khiến. Chỉ: Mệnh lệnh của nhà vua, hoặc của cac quan có quyền ban ra.

Lệnh chỉ tức là ra lệnh bằng chỉ thị của vua hay của quan tướng.



Cung nga, thể nữ nối sau,

Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.

(Truyện Kiều).



LỆNH TIỄN 

Mũi tên có mang cờ hiệu lệnh.

Theo quan chế nhà Thanh, lệnh tiễn là một cây cờ lệnh, thân là một mũi tên nhọn làm bằng sắt, và một lá cờ bằng lụa, hình tam giác, trong có đề chữ lệnh và quan hàm, dành cho Đại tướng quân, Đốc phủ; còn Tướng quân và Đô thống thì dùng lá cờ hình vuông.

Lại sai lệnh tiễn truyền qua,

Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.

(Truyện Kiều).



Ruổi mau lệnh tiễn hỏa bài,

Mấy ngày thoắt đã tới nơi Châu Thường.

(Nhị Độ Mai).



LỆNH TỘC 

Lệnh: Tiếng tôn xưng. Tộc: Dòng họ.

Lệnh tộc là tiếng gọi một cách tôn kính họ tộc của người khác.



Mấy nơi lệnh tộc công khanh,

Lá hồng xuôi ngược sử xanh dập dìu.

(Lưu Nữ Tướng).



LY HOÀI 

Ly: Xa cách. Hoài: Nhớ nhau.

Ly hoài tức là xa cách nhau mà thương nhớ nhau.



Thơ nhã ái bốn câu đôi vận,

Rượu ly hoài ba chén làm khuyây.

(Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm).



LY LOAN 

Ly: Chia lìa. LoanChim loan, một loài chim mái, phụng chim trống, chỉ vợ chồng.

Ly loan tức là xa cách con chim loan, nói vợ chồng chia lìa nhau.



Đàn tiếng ly loan tay ngại gẩy,

Lấy ai lần gỡ mối sầu xong.

(Sơ Kính Tân Trang).



LY MINH 

Ly: Cung ly, một trong tám quẻ của Dịch, thuộc về phương nam. Minh: Sáng.

Ly minh nghĩa là ánh sáng của quẻ ly, thuộc hoả.



Nam giao là cõi ly minh,

Thiên thư định phận rành rành từ xưa.

(Quốc Sử Diễn Ca).

LY SƠN 

Tên một ngọn núi ở phía đông nam tỉnh Thiểm Tây, cũng có tên là Ly Nhung Sơn, bởi vì ngày xưa nơi đó là nước Ly Nhung.

Vì cái cười của Bao Tự, mà làm kế đốt phong hoả đài để gạt các chư hầu, cho nên sau này dưới núi Ly Sơn chính là nơi Châu U Vương bị rợ Khuyển Nhung đánh và giết chết, không có chư hầu nào đến cứu giá.

Cũng tại nơi đó Tần Thuỷ Hoàng đã làm đường, làm gác, sau này mất cũng được táng dưới núi Ly Sơn ấy. Đời Đường Minh Hoàng cho xây Thanh Hoa cung và xây hồ tắm cho Dương Quý Phi cũng ở dưới núi Ly Sơn này.



Ly Sơn cười một phút,

Bao Tự kia lầm hết chư hầu.

Vị Thuỷ đòi phen,

Dương Phi nọ độc hòa thiên hạ.

(Cung Trung Bảo Huấn).



Ví thân đã lây hương cấm dịch,

cỏ Ly Sơn đành lấp tóc da ròi.

(Tần Cung Nữ).



LY RƯỢU TRĂM THI

Uống rượu vào làm một trăm bài thơ.

Do tích Lý Bạch, một nhà thơ đời Thịnh Đường, giỏi rượu hay thơ, càng uống rượu vào chừng nào, thơ lại càng hay chừng nấy (Tửu nhập thi xuất).

Đỗ Phủ nói về Lý Bạch có tặng bài thi như sau: Lý Bạch đẩu tửu thi bách thiên, Trường An thị thượng tửu gia miên. Thiên tử hô lai bất thượng thuyềnTự xưng thần thị tửu trung tiên  , , , .

Xem: Lý Bạch.

Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,

Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



LY TAO 

Ly Tao là tên một thiên trong Sở Từ do Khuất Nguyên trước tác.

Khuất Nguyên tên Bình, làm chức Tả đồ cho Sở Hoài Vương, học rộng, giỏi về chính trị lại có tài văn chương. Mới đầu được vua rất tin dùng, sau bị gièm pha khiến vua Sở Hoài Vương ghét bỏ. Ông âu sầu, buồn bã mà viết nên thiên “Ly Tao” để tả nỗi lòng yêu nước thương dân không sợ chết, qua đó nói lên thái độ, nguyện vọng của nhân dân nước Sở sống dưới ách bốc lột nặng nề của triều đình nước Sở đang ngày một suy đồi.bị vua bỏ. Ông có viết: Khởi dư thân chi đạn ương hề, Khủng hoàng dư chi bại tích  , , nghĩa là ta nào sợ chết hề, lo cho triều đình suy sụp.

Một khúc Ly Tao buồn biếng đọc,

Đôi hàng giọt ngọc đượm bằng mưa.

(Hồng Đức Quốc Âm).



LÝ BẠCH 

Lý Bạch quê ở đất Thục, làng Thanh Liên, huyện Xương Minh, tỉnh Tứ Xuyên, tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên Cư Sĩ, là một thi hào bậc nhứt đời Đường, tính tình hào hiệp, thích uống rượu ngâm thơ.

Bạn của Lý Bạch là Hạ Tri Chương xem ông như trích tiên xuống trần, mới tiến cử đến Đường Huyền Tông, được vua phong chức Hàn lâm, và rất được yêu kính. Sau bị Cao Lực Sĩ gièm pha với Dương Quý Phi, nên vua không tin dùng nữa và đuổi về.

Nhân loạn An Lộc Sơn, Lý Bạch bị liên can với Lân Đương nên bị bắt giam, rồi bị đày, sau được đại xá. Đời vua Túc Tông 762, Lý Bạch mất, thọ 61 tuổi.



Thôi ngày trọn, lại đêm thâu,

Cạn chung Lý Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Khi lựa vận lúc so tơ,

Khi bầu Lý Bạch, khi cờ Trương Ba.

(Bần Nữ Thán).



Thiên cổ vị văn song Lý Bạch.

Nhất niên hà đắc lưỡng Đông Quân.

(Thơ Tản Đà).



LÝ CÔNG UẨN 李公

Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, nay thuộc huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc Ninh.

Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiêu Sơn, nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai sinh ra đứa con trai. Được ba tuổi đem cho vị sư ở chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là Lý Công Uẩn.

Công Uẩn lớn lên vào Hoa Lư làm quan triều Tiền Lê đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Khi vua Lê Long Đĩnh mất, thì Lý đã hơn 35 tuổi. Lúc bấy giờ lòng người đã oán hận nhà Tiền Lê lắm, ở trong triều có Đào Cam Mộc cùng với Sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, tức là Thái Tổ nhà Lý.



Bắc giang trời mở thánh minh,

Lý Công tên Uẩn nhân tình đới suy.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LÝ ĐỖ 

Lý, Đỗ tức Lý Bạch và Đỗ Phủ, là hai đại thi hào đời nhà Đường của Trung Quốc.

Xem: Lý Bạch và Đỗ Phủ.

Tài này Lý, Đỗ một hai,

Xuân in cảo liễu, tuyết tươi nét tùng.

(Mai Đình Mộng Ký).



Thi hào dậy tiếng Phượng thành,

Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



LÝ ĐỐI 

là tên của Bá Ngư, con đức Khổng Tử. Khổng Tử cho Bá Ngư học ở bên ngoài, thỉnh thoảng về có hỏi sự học thì Bá Ngư mới nói. Người đời sau, con nói với cha, thì gọi là “Lý đối”.



Đợi ngày khác đi trình lý đối,

May hôm nay được tới cửa rồng.

(Thơ Lãng Nhân).



LÝ LĂNG 

Lý Lăng là cháu của danh tướng Lý Quảng đời nhà Hán, cha là Dương Hộ mất lúc Lý Lăng vừa mới sinh.

Lý Lăng được vua phong là Kỵ đô uý, đem năm nghìn quân sĩ đánh sâu vào đất Hung Nô, sức địch không nổi phải hàng quân giặc, được thiền vu gả con gái cho và trọng dụng ông. Vua Hán hay tin, hạ lệnh giết cả nhà Lý Lăng.

Đá kêu rêu mọc bia Dương Nghiệp,

Cỏ úa hoa tàn mã Lý Lăng.

(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).



LÝ MIÊU 

Con mèo họ Lý, tức là Lý Lâm Phủ, người đời Đường Cao Tông, trong bụng rất hiểm độc, nhưng ngoài mặt vẫn làm bộ nhu mì, người đương thời đặt tên cho ông ấy là Lý Miêu, tức là con mèo họ Lý.

Xem: Lâm Phủ.

Vẫy vùng ếch giếng tự kiêu,

Tham lam chẳng khác Lý miêu đời Đường.

(Truyện Trinh Thử).



LÝ NHĨ 

Tức là Lão Tử, người nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ.

Ngài họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam. Ngài làm quan giữ Tàng thất (Kho sách) ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Châu.

Lão Tử có đến cửa ải Hàm Cốc, quan lệnh là Doãn Hỷ biết Ngài là một Thánh nhân nên tôn Ngài làm Thầy để xin theo học Đạo.

Lão Tử ở lại Hàm Cốc dạy Đạo cho Doãn Hỷ và soạn ra bộ sách nói về Đạo Đức, sách phân làm hai thiên, gồm có trên 5000 chữ. Sau này, quyển sách đó được gọi là “Đao Đức Kinh”.

Đức Lão Tử được vua Đường Cao Tông nhìn là thủy tổ, nên truy phong cho Ngài “Huyền Nguyên Hoàng Đế”.

Tương truyền Lão Tử là chơn linh của Đức Thái Thượng Đạo Quân hóa sinh ra, là giáo chủ của Đạo Tiên.

Ngọc Hoàng nghĩ đến gần xa,

Kip sai Lý Nhĩ xuống qua phàm trần.

(Tây Sương).



LÝ QUẢNG 

Lý Quảng làm quan đến chức Hữu Hình Bắc Hải Thái Thú đời Hán Võ Đế, có tài thao lược, giặc Hung Nô phải sợ, song chỉ vì có số kỳ dị mà không được phong hầu.



Số đâu Lý Quảng phong hầu,

Phùng Đường lận đận bạc đầu luống công.

(Thơ Lãng Nhân).



LÝ SINH 

Tức Lý Mật, người đời Tuỳ, quê ở Tương Bình, tính ham học, thường cỡi trâu thả trong miền núi, ngồi trên mình trâu đọc sách. Lúc nhà Tuỳ loạn, giúp con Dương Tố là Dương Huyền mưu tranh thiên hạ, nhưng bị Vương Thế Sung đánh bại, phải về hàng nhà Đường, làm quan tới chức Quan lộc khanh.

Xem: Treo sách trên sừng.

Lý sinh chẳng quản công phu,

Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.

(Gia Huấn Ca).



LÝ SƯƠNG 

: Giẫm lên, đạp. Sương: Hạt sương.

Lý sương là giẫm lên sương, ý nói phải đề phong tai hoạ đến.

Dịch có câu: Lý sương, kiên băng chí , nghĩa là giẫm lên sương lạnh, phải nghĩ đến giá tuyết đến.

Đồng thân kim cốt ai đương,

Lăng vân là chí lý sương là lòng.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LÝ TƯ 

Lý Tư là Tể tướng của vua Tần Thuỷ Hoàng, dùng chính sách của Hàn Phi Tử, tức theo phái pháp gia, thống nhứt tư tưởng, lấy quan nhà Tần làm thầy, để nhất trí văn tự, nên đề nghị vua thu hết sách vở trong nước đốt đi, ai phản đối thì đem chôn sống (Phần thư khanh nho).

Khi Tần Thuỷ Hoàng mất, Hoạn quan Triệu Cao giả mạo chiếu chỉ giết Thái tử Phù Tô, lập con thứ của Thuỷ Hoàng là Hồ Hợi lên làm vua, tức Nhị Thế Hoàng Đế. Khi mạo chỉ, Triệu Cao mưu tính với Lý Tư, Lý Tư do dự, nên Triệu Cao nghi ông, tố cáo ông với Nhị Thế Hoàng Đế là có ý làm phản; vì vậy ông bị giết chết.

Trất bánh xe là bởi tội Lý Tư,

nào ai đem nhất tiếu khuynh thành,

mà dượng Võ gọi vong Tần cho đáng;

(Tần Cung Nữ).



LÝ UYÊN 

Tức là vua Cao Tổ đời nhà Đường. Khi còn hàn vi nghe tin Đậu Nghị cho vẽ hình chim sẻ vào bức bình phong để cho các thanh niên thi bắn, nếu ai bắn trúng vào mắt chim, sẽ được gả con gái cho.

Lý Uyên bắn trúng nên được Đậu Nghị nhận làm con rể. Sau Lý Uyên làm vua tức là Đường Cao Tổ và phong cho con gái Đậu Nghị làm Hoàng Hậu.

Xem: Bắn sẻ.



Cũng như thiếp nặng khối tình,

Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

LỊCH SẮC

Lịch: Tức lịch sự, chỉ sự đẹp đẽ. Sắc: Sắc đẹp.

Lịch sắc là nhan sắc lịch sự, tức nói người phụ nữ có nhan sắc sinh đẹp.



Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,

Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LỊCH SỰ 

Lịch: Trải qua, từng trải. Sự: Việc.

Lịch sự là người từng trải việc đời.



Làm người chấp nhứt sao đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngành,

Hễ là lịch sự có kinh có quyền.

(Lục Vân Tiên).

LỊCH TRIỀU 

Lịch: Trải qua. Triều: Triều đại, chỉ thời gian trị vì của một ông vua.

Lịch triều có nghĩa là trải từ triều vua này qua triều vua khác.



Phồn hoa nổi áng thị thành,

Này Phù thạch phố là danh lịch triều.

(Mai Đình Mộng Ký).



LIÊM CẦN 

Liêm: Ngay thẳng. Cần: Siêng năng.

Liêm cần tức là chỉ người có tính ngay thẳng thanh liêm và siêng năng, cần mẫn.



Liêm cần tiết cả tua hằng nắm,

Trung hiếu niềm xưa mựa nỡ dời.

(Quốc Âm Thi Tập).



LIÊM KHÊ 

Nơi ở của Chu Đôn Di , vì ông ở Liêm Khê cho nên người đời gọi ông là Liêm Khê Tiên sinh.

Chu Đôn Di là nhà triết học đời Tống, sinh năm 1017, chết năm 1093. Ông là người gốc ở Đạo Châu, thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ. Ông dựng lên nền Lý học, và phát huy “Dịch truyện” trong “Thái cực đồ”.

Đầu non Thiếu Thất đen bằng mực,

Dòng nước Liêm Khê lục nữa lam.

(Thơ Nguyễn Trãi).



LIÊM LẠC 

Chỉ hai triết gia đời nhà Tống.

Liêm, tức là Liêm Khê, chỗ ở của Chu Đôn Hy, là ông tổ lý học của đời nhà Tống và là thầy của Trình Di, Trình Hạo.

Lạc, tức Lạc Dương, nơi ở của hai anh em Trình Di và Trình Hạo.



Thương thầy Liêm Lạc đã ra,

Bị đời xưa đuổi về nhà giáo dân.

(Lục Vân Tiên).



LIỄM DUNG 

Liễm: Thu góp. Dung: Dáng mặt.

Sửa đổi, nghiêm chỉnh lại bộ mặt gọi là liễm dung.



Ra đi vừa thuở bình minh,

Thể Loan đứng trước lê https://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngđình liễm dung.

(Lục Vân Tiên).

LIÊN CHI 

Có hai nghĩa:

1. Liền cành hay giao cành.

Do tích: Vợ Hàn Bằng tên là Hà Thị, là người đàn bà đẹp người đẹp nết, đến đổi Tống Khang Vương thấy rồi mê thích. Nhưng biết Hà Thị là người tiết hạnh, khó mà ép uổng cho được, bèn ra lịnh giết Hàn Bằng. Vậy mà Hà Thị vẫn cương quyết không chịu thất thân với Khang Vương, cắn lưỡi tự tử và để lại một bức thư xin được chôn chung với chồng.

Tống Khang Vương tức giận, chôn hai người cách xa nhau nhưng hai mộ đối nhau. Sau người ta thấy mỗi cái mộ mọc lên một cây to, trên thì có cành giao nhau, còn dưới thì rể ăn liền với nhau.

Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ,

Đồ liên chi lần trỏ hoa kia.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Khoe khoang vẻ thắm màu xanh,

Kìa hoa tịnh đế nọ cành liên chi.

(Lộ Địch Diễn Ca).

2. Liên chi còn có nghĩa chỉ anh em cùng nòi giống, cũng như các cành cây từ một gốc sinh ra.

Tô Vũ có câu: Huống ngã liên chi thụ, dữ tử đồng nhất nhân  , , nghĩa là huống ta như cây liền cành, với ngươi cùng một thân.



LIÊN ĐÀI 

Liên đài là đài sen hay tòa sen.

Đài sen như một chiếc xe Thiêng liêng (Liên đài) đưa các Chơn linh đắc Đạo vào cõi Tây phương Cực Lạc. Liên đài còn là một Toà sen, nơi ngự của chư Phật và Bồ Tát.

Liên đài may nở thêm hoa.

Lão Đam cũng biết, Thích Già cũng quen.

(Kinh Tận Độ).



Tiên phong phủi ngọn phất trần,

Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.

(Kinh Thế Đạo).



LIÊN NGÂM 

Liên: Nối tiếp. Ngâm: Ngâm thơ, tức đọc thơ theo giọng trầm bổng.

Liên ngâm tức là cùng nhau làm thơ, người này làm xong thì ngâm lên, rồi các người kế tiếp nối theo như thế cho đến hết bài.



Liên ngâm đối ẩm đòi phen,

Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LIÊN THÀNH BÍCH 

Ngọc liên thành, tức là viên ngọc đổi với mười lăm thành.

Do điển: Triệu Huệ Vương đời Chiến Quốc được viên ngọc bích của Biện Hoà. Vua Chiêu Vương nhà Tần nghe được, gửi thư cho vua Triệu ngỏ ý muốn đem mười lăm thành đổi lấy viên ngọc ấy.

Lạn Tương Như dâng ngọc lên vua Tần, thấy ý vua không muốn giao thành, lừa lấy lại rồi đem giao trả về nước Triệu (Hoàn bích quy Triệu).

Xem: Lạn Tương Như.

LIÊN TRÌ 


Liên: Bông sen. Trì: Ao.

Liên trì là ao sen.



Sao bằng vui thú liên trì,

Dứt không tứ tướng, sá gì nhị biên.

(Quan Âm Thị Kính).



LIÊN Xà

Sư Tề Dĩ đời nhà Đường có biên soạn tập Bạch Liên, cũng được gọi là Bạch Liên xã, trong đó chữ viết và nét họa thành một trường phái đặc biệt, người ta gọi là thư hoạ “Liên xã”.



Tuyết Bá Ngạn, hoa Đỗ Lăng, chẳng câu chẳng lạ.

Thiếp Lan Đình, tập Liên Xã, mọi nét mọi màu

(Thập Giới Cô Hồn).



LIỀN NHÀNH

Liền nhành, cũng như liền cành, bởi chữ “Liên chi  ” tức là cành của hai cây liền với nhau, chỉ tình yêu chung thuỷ, gắn bó.

Do tích hai cây mọc trên mộ của vợ chồng Hàn Bằng có cành ôm liền với nhau.

Xem: Liên chi.



Liền nhành xưa đã thệ cùng nhau,

Sao nỡ để gương kép hại đào.

(Đạo Sử).



LIỆP ĐIỀN 

Liệp: Săn thú. Điền: Đi săn.

Liệp điền là đi săn bắn thú rừng.



Nghĩ trong điều ấy nghi thầm,

Truyền ra một lịnh: sơn lâm liệp điền.

(Dương Từ Hà Mậu).



LIỆT HẦU 

Liệt: Chỉ số nhiều. Hầu: Một trong năm tước.

Liệt hầu tức là chỉ chư vị tước hầu.

Đời nhà Hán ở Trung Quốc, con vua được phong hầu, gọi là chư hầu. Các quan khác họ với vua, vì công lao được phong hầu gọi là “Liệt hầu”.

Người tài lược, kẻ tinh trung,

So vào công tải đều phong liệt hầu.

(Hoa Tiên Truyện).



LIỆT NỮ 

Liệt: Ngay thẳng, cứng rắn. Nữ: Người con gái.

Liệt nữ là những người phụ nữ kiên trinh, có khí tiết khẳng khái, anh hùng, không chịu khuất phục.



Chở che khỏi kiếp phong trần,

Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.

(Kinh Thế Đạo).



LIỆT SĨ 

Liệt: Cứng cỏi, ngay thẳng. : Kẻ sĩ.

Liệt sĩ là người lấy nghĩa làm trọng, coi cái chết làm nhẹ, tức là người anh hùng chiến sĩ chết vì chính nghĩa, vì quốc gia dân tộc.



Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,

Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LIÊU HỮU 

Liêu: Quan. Hữu: Bạn bè.

Liêu hữu là bạn cùng làm quan với nhau.



Ân sư liêu hữu có ai,

Môn sinh xin được một người là may.

(Nhị Độ Mai).



LIỄU BỒ 

Liễu bồ là loại cây thuỷ dương mọc bên bờ nước, thể chất yếu ớt.

Liễu là dương liễu, bồ là cỏ bồ. Cây liễu mềm mỏng, cỏ bồ yếu ớt, nên người ta thường ví với người phụ nữ yếu đuối.

Xem: Bồ liễu.



Hãy xin hết kiếp liễu bồ,

Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau.

(Truyện Kiều).



Dạy rằng: May rủi đã đành,

Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.

(Truyện Kiều).



Liễu bồ đôi chút cành thơ,

Bao giờ bíu díu, bao giờ bồng mang.

(Tự Tình Khúc).



Hễ người mạnh thì hay cậy sức,

Phận liễu bồ lấy lực mưu mô.

(Phương Tu Đại Đạo).



LIỄU CHƯƠNG ĐÀI 

Cây liễu ở Chương Đài, trong thành Trường An, chỉ người yêu đã xa cách.

Do tích chép trong Toàn Đường Thi Thoại: Hàng Hoành yêu một kỹ nữ là Liễu Thị ở đường Chương Đài, tại Thành đô. Sau Hàng Hoành làm quan xa, Liễu Thị ở nhà bị giặt cướp mất. Hoành bèn viết lá thư gửi cho Liễu trong ấy có câu: Chương Đài liễu! Chương Đài liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thuỳ, dã ưng phan chiết tha nhân thủ!  ! ! ? 使 , , nghĩa là Liễu Chương Đài! Liễu Chương Đài! Ngày trước xanh xanh nay có còn không? Cho dù cành dài còn buông rủ như cũ thì hẳn tay người khác bẻ mất rồi. Sau Liễu Thị xem xong bèn trả lời: Dương liễu chi phương phi tiết, khả hận niên niên tặng ly biệt. Nhất diệp tuỳ phong hốt báo thu, túng sử quân lai khải kham chiết  , . , 使 , nghĩa là cành dương liễu đang lúc tốt tươi, đáng hận năm năm tặng ly biệt. Lá rơi theo gió báo thu sang, nếu anh có đến thì cũng không bẻ được. Về sau nhờ Hứa Tuấn tìm cách đưa Liễu về sum họp với Hàng Hoành.

Khi về hỏi Liễu Chương đài,

Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.

(Truyện Kiều).



Trăng thề vẫn đó tri tri,

Liễu Chương đài biết nay đi đâu rồi.

(Hoa Tiên Truyện).



Xanh xanh khóm liễu Chương đài,