Thursday, September 17, 2020

Điển tích - L

 

L

LA Ỷ 

La: Một thứ lụa thưa, tốt. : Một loại hàng vải có nhiều màu sắc.

La ỷ là lụa là, một hàng lụa quý, có nhiều màu sắc và đẹp đẽ.



Ngựa ngựa xe xe la ỷ tốt,

Dập dìu là ấy chiêm bao.

(Quốc Âm Thi Tập).



LA THẬP CƯU MA 

Tức là Cưu Ma La Thập dịch từ chữ Phạn “Kumarajiva”, là tên một thầy tu Ấn Độ sang Trung Quốc, cũng là nhà dịch thuật quan trọng nhất những tác phẩm Phật giáo từ hệ phái sanskrit sang chữ Hán. Năm 402 được phong tặng danh hiệu Quốc Sư.



Tu cho tinh chuyên là La Thập Cưu Ma;

tu cho khổ não là Văn Thù Bồ Tát.

(Sãi Vãi).



LA VÕNG 

La: Lưới đánh chim. Võng: Lưới bẫy thú.

Do chữ “Thiên la địa võng  ” là lưới giăng trên trời và bẫy dưới đất.

La võng nghĩa bóng chỉ những điều người ta bày ra để đánh bẫy mình.

E đất khách lỡ đường la võng,

(Tự Tình Khúc).



LÁ BỐI

Lá cây bối đa.

Ngày xưa ở bên xứ Ấn Độ khi chưa có giấy viết, kinh điển của Phật giáo được ghi chép trên lá bối. Do vậy, lá bối được dùng để chỉ kinh sách, ngoài ra còn gọi là “Bối kinh”, “Bối văn” hay “Bối diệp”.

Sớm khuya lá bối phướn mây,

Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.

(Truyện Kiều).



LÁ DƯƠNG TÊN BẮN

Bỡi câu “Bách bộ xuyên dương” tức là xa trăm bước bắn trúng vào lá dương liễu.

Do điển Dưỡng Do Cơ người nước Sở, đời Xuân Thu, làm quan Đại phu và làm tuỳ tướng cho Nhạc Bá, có tài bắn cung, đứng xa cây dương liễu một trăm bước để bắn vào chiếc lá thì trăm phát trăm trúng.

Lá dương một phát đưa tên bắn,

Đèn sách cho cam thuở học hành.

(Lâm Tuyền Kỳ ngộ).



LÁ ĐÀO

Lá cây hoa đào, chỉ cõi Đào nguyên nơi có tiên ở.

Do tích một người đánh cá, quê ở Võ Lăng, chèo thuyền dọc theo dòng khe, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động trồng đầy hoa đào, người sau gọi nơi đó là Động đào, chỉ cõi tiên.

Xem: Động đào.



Thảo mà cánh điệp, lá đào,

Đi về Vu giáp, ra vào Vũ lăng.

(Mai Đình Mộng Ký).



LÁ ĐỒNG

Tức lá ngô đồng, một loại cây đến mùa thu thì bắt đầu rụng lá, do vậy người xưa thường có câu: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu  , , nghĩa là ngô đồng một lá rụng, thiên hạ biết mùa thu sang.



Bên tường sang sảng lá đồng,

Tuyết in đáy biếc, sương phong ráng vàng.

(Lưu Nữ Tướng).



LÁ GIÓ CÀNH CHIM

Chỉ cảnh kỹ nữ tấp nập tiếp khách làng chơi liên tiếp như là cây đưa gió qua lại, như cành đón chim tới đậu.

Do tích: Nàng Tiết Đào đời Đường thuở nhỏ làm thơ có hai câu: Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong  , , nghĩa là cành đón chim nam bắc, lá đưa gió qua lại. Người cha thấy hai câu thơ của Tiết Đào, biết sau này số phận không ra gì.

Dập dìu lá gió, cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.

(Truyện Kiều).



LÁ HỒNG

Bởi chữ “Hồng diệp  ”.

Do tích Vu Hựu bắt được chiếc lá hồng từ dòng nước ngự câu chảy ra, trên lá có bài thơ. Vu Hựu bèn lấy chiếc lá đỏ khác đề hai câu thơ, rồi thả nơi đầu ngòi nước cho chảy vào cung. Cung nữ Hàn Thị, người đề thơ trên lá ngày trước, bắt được. Sau Hàn Thị được thả và tình cơ kết duyên với Vu Hựu. Hai người sau khi thành hôn mới biết chiếc lá hồng đó làm mối.

Xem: Hồng diệp.



Hiếm gì ngòi bảng duềnh khơi,

Lá hồng bỗng đến chi nơi nổi chìm.

(Hoa Tiên Truyện).



Lá hồng đặt xuống nâng lên,

Mối duyên đo đắn chưa nên mối gì.

(Quan Âm Thị Kính).



Trông tin nhạn về đông mòn mỏi,

Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÁ NGỌC CÀNH VÀNG

Bởi câu thành ngữ “Kim chi ngọc điệp  ” là cành vàng lá ngọc, dùng để chỉ người trong dòng họ nhà vua.

Sách Tiêu Phong Nhạc Từ có câu: Kim chi phồn mậu, Ngọc diệp diên trường  , , nghĩa là cành vàng sum sê, lá ngọc dài tốt.

Thương thay lá ngọc cành vàng,

Vì sao nên nỗi lạc ràng khổ thay?

(Hạnh Thục Ca).



Cám thương vì lá ngọc cành vàng,

Khôn thoát khỏi lồng ưng lưới thỏ.

(Nhạc Hoa Linh).



LÁ NGÔ

Lá ngô, cùng nghĩa với lá đồng, tức chỉ lá cây ngô đồng, một loại cây có thân cao, cành lá xanh biếc, nhưng đến mùa thu thì lá vàng rụng. Chỉ thời gian dần trôi qua.

Xem: Ngô đồng.

Thú quê thuần vược bén mùi,

Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.

(Truyện Kiều).



Ngân hà từ bắc nhịp cầu,

Lá ngô lần đổi duyên ngâu chưa vầy.

(Lưu Nữ Tướng).



LÁ THẮM

Lá thắm, cũng như lá hồng, do chữ “Hồng diệp  ”, lấy tích Vưu Hựu đời Đường, kết duyên với cung nữ họ Hàn Thị, mới biết rằng nhân duyên hai người do chiếc lá kia làm mối.

Xem: Lá hồng.

Tơ hồng lá thắm là duyên,

Dầu bao giờ gặp cũng nên bấy giờ.

(Truyện Phan Trần).



Dầu khi lá thắm, chỉ hồng,

Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

(Truyện Kiều).



LẠC CUNG

Lạc: Đi lệch ra. Cung: Cung đàn.

Lạc cung tức là cung điệu của tiếng đàn lỗi nhịp, ý nói vợ chồng đổ vỡ, không hoà hợp nhau.



Phòng đào giữ rủi rơi trâm,

Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LẠC CHUNG 

Tức chuông ở đất Lạc Dương về phía đông ứng tiếng kêu vang khi núi Đồng ở phía tây nghiêng lỡ. Cùng nghĩa với câu “Đồng thanh tương ứng”, để chỉ sự

tương ứng của vạn vật trong trời đất.

Xem: Non Đồng.



Nghìn năm nghiêng lở non Đồng,

Biết còn ứng tiếng Lạc chung đó là?

(Quan Âm Thị Kính).



LẠC DĨ VONG ƯU 

Vui sướng cho đến quên sự lo âu.

Ngày xưa, Diệp Công hỏi Tử Lộ về con người của Đức Khổng Tử. Tử Lộ làm thinh, rồi về thuật lại với Thầy. Khổng Tử mới nói: Sao con không trả lời như thế này: Kỳ vi nhân giả, phát phẫn vong thực, lạc dĩ vong ưu, bất tri lão chi tương chí  , , , , nghĩa là ông là người suy nghĩ chưa ra thì bực tức bỏ ăn, nghĩ ra được thì vui sướng quên lo âu, mà không biết cái già đang lần tới.

LẠC DƯƠNG 

Thời Chu là đất Thành Chu, đến thời Chiến Quốc, đổi tên là Lạc Dương. Khi Tần diệt Đông Chu rồi, đổi thành quận Tam Xuyên. Hán đổi làm quận Hà Nam, đặt lại huyện Lạc Dương làm quận lỵ quận Hà Nam.

Ngày nay là một huyện, thuộc tỉnh Hà Nam của Trung Quốc.

Sao bằng ta ở Lạc Dương,

Lầu Tần, vườn Hán vẻ vang một nhà.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,

Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LẠC ĐẠO VONG BẦN 

Lạc đạo: Vui với mùi đạo. Vong bần: Quên sự nghèo đói.

Lạc đạo vong bần là nói người vui theo mùi đạo mà quên sự nghèo khổ.



Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ,

dường ngâm câu lạc đạo vong bần.

Gặp anh em khi bàn bạc sự đời,

lại đọc chữ vi nhân bất phú.

(Hàn Nho Phong Vị Phú).



LẠC ĐỆ 

Lạc: Rơi rớt. Đệ: Thứ tự về thi cử.

Lạc đệ tức là tên họ bị loại khỏi bảng danh sách, chỉ sự thi rớt.



Bởi vì Tần Liễu hai thiên,

Chẳng may lạc đệ cho nên lạc loài.

(Ngọc Kiều Lê).



LẠC ĐIÊU 

Lạc điêu là chim diều hâu bị bắn rớt.

Tương truyên, ngày xưa Cao Biền là người bắn giỏi, thấy hai con chim điêu bay qua, liền giương cung bắn một phát trúng cả hai rơi xuống đất. Người đương thời gọi Cao Biền là “Lạc Điêu Thị Ngự”.

Cao Biền là tướng lạc điêu,

Tài danh sớm đã dự vào giản tri.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LẠC HÀ CÔ LỘ 

Lạc hà: Ráng trời lơ lửng. Cô lộ: Con cò lẻ loi.

Lạc hà cô lộ là những từ diễn tả cảnh mùa thu mà Vương Bột trong Đằng Vương Các Tự viết: Lạc hà dữ cô lộ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc  , , nghĩa là ráng trời lơ lửng với con cò lẻ loi cùng bay, nước thu chung với trời xa một sắc.



Lạc hà cô lộ một màu,

Khen ai khéo vẻ nên bầu hồ thiên.

(Lưu Nữ Tướng).



LẠC HOAN

Bởi chữ “Hoan lạc  ”.

Lạc hoan chỉ việc rất vui mừng.

Lạc hoan chưa phải buổi cho mình,

Nghĩa mặn tình nồng chớ dễ khinh.

(Đạo Sử).



LẠC HỒNG

Do chữ “Hồng Lạc  ”, tức là họ Hồng Bàng sinh ra Lạc Long Quân là vị vua đầu tiên nước Việt Nam. Lạc Long Quân mới lấy bà Âu Cơ đẻ ra một trăm người con trai (Có sách nói đẻ ra trăm cái trứng) là giòng giống của dân tộc ta, nên ghép chung “Lạc Long Quân” và “Hồng Bàng” là “Lạc Hồng”.

Xem: Hồng Lạc

Nước nhà ta có tiếng anh phong,

Vẻ đẹp trời Ðông sắc Lạc Hồng.

(Đạo Sử).



LẠC LONG

Hay “Lạc Long Quân  ”.

Theo truyền thuyết: Vua Đế Minh cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh, tỉnh Hồ Nam gặp một nàng tiên lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục. Đế Minh có hai người con: Con lớn là Đế Nghi được cho làm vua ở phương bắc, còn Lộc Tục làm vua phương nam, lấy hiệu là Kinh Dương Vương.

Kinh Dương Vương lấy nàng long nữ, con gái Động Đình Quân, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi hiệu là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân mới lấy bà Âu Cơ, con của Đế Lai, sinh ra một trăm trứng, nở ra trăm người con trai, là tổ tiên nòi giống của dân tộc ta, nên được coi như “Cha rồng mẹ tiên” (Long phụ tiên mẫu).

Xem: Con rồng cháu tiên.

1.- Lạc Long:

Lạc Long lại sánh Âu ky.

Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.

(Quốc Sử Diễn Ca).

2.- Lạc Long Quân:

Sinh con là Lạc Long Quân,

Con sinh ra cháu gọi chưng vua Hùng.

(Việt Sử Tiệp Lục).



LẠC MAI 

Hoa mai rụng, tên một khúc nhạc.

Thơ Lý Bạch đời Đường có câu: Kim dạ hà nhân xuy ngọc địch, Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa  , , nghĩa là đêm nay người nào thổi địch ngọc, chốn thành bên sông tháng năm hoa mai rụng.

 

LẠC NGHIỆP ÂU CA 

Lạc nghiệp: Vui với nghề nghiệp. Âu ca: Nhiều người cùng nhau hát để ca tụng một việc gì hay công đức một người nào đó.

Lạc nghiệp âu ca là nói mọi người dân trong nước đều yên vui với nghề nghiệp của mình, và ca tụng đời thái bình thịnh trị,



Nơi nơi lạc nghiệp âu ca,

Nhân dân phú túc nhà nhà an khương.

(Tội Vợ Vợ chịu).



LẠC THIÊN 

Lạc thiên là vui sống với đạo trời.

Trong Kinh Dịch có câu: Lạc thiên tri mệnh cố bất ưu  , nghĩa là vui với đạo trời và biết mạng số mình cho nên không lo buồn gì.

Lạc thiên hai chữ ngân thư

Rèm in tễ nguyệt cửa chờ quang phong.

(Sơ Kính Tân Trang).



Vận gặp khi nên lọ ước cầu,

Lạc thiên quân tử vội chi đâu.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



LAI SINH 

Lai: Trở lại. Sinh: Đời sống.

Lai sinh là đời sống khi được đầu thai trở lại, tức chỉ kiếp sau.



Kiếp này duyên đã phụ duyên,

Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.

(Truyện Kiều).



Như lời thần mộng họa là,

Còn duyên chăng nữa, cũng chờ lai sinh.

(Nhị Độ Mai).



LAI THẾ 

Lai: Sẽ đến. Thế: Đời.

Lai thế là cuộc đời sắp đến, hoặc kiếp sống về sau.



Tuyết đã phơi mái tóc kim sinh,

Rum đâu nhuốm múi tơ lai thế.

(Tần Cung Nữ).



LẠI NHA 

Lại: Một chức quan nhỏ. Nha: Nơi làm việc quan.

Lại nha tức là một chức quan nhỏ làm trong nha.



Nói rồi truyền gọi lại nha,

Đương đường nhủ hết nỗi xa nỗi gần.

(Nhị Độ Mai).



LAM ĐIỀN

Bởi câu “Lam điền chủng ngọc  , tức là ruộng Lam trồng ngọc.

Tích trong Bộ Sưu Thần Ký chép: Nhà Dương Ung Bá có để một lu nước làm nghĩa, giúp người đi đường đỡ khát. Một hôm, có người bộ hành uống xong nước, lấy ở trong bọc đưa ra một thăng hạt giống cho Ung Bá và nói: Trồng hạt ngọc này, sẽ sinh ra ngọc tốt, sau lại được vợ đẹp. Ung Bá đem trồng hạt đó.

Về sau, Ung Bá cầu hôn con gái nhà họ Từ ở xứ Bắc Bình. Nhà họ Từ nói: Nếu có đôi bạch bích (Ngọc trắng), sẽ gả cho. Ung Bá về nhà, tình cờ đến chỗ trồng ngọc thì thấy được năm đôi bạch bích, đem làm lễ nói con gái nhà họ Từ. Vua nghe chuyện cho là kỳ dị, triệu Ung Bá vào cung, phong làm quan Đại phu và đặt tên chỗ đất ấy là “Ngọc điền” (Ruộng ngọc).



Gửi đây đã gác thị thành,

Thêu màn lan thất vẽ tranh Lam điền.

(Sơ Kính Tân Trang).



Đã người trong sách là duyên,

Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa giâm.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



LAM KIỀU 

Cây cầu bắc ngang sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây.

Đời nhà Đường có Bùi Hàng thi hỏng, trở về nhà tình cờ gặp phu nhân Vân Kiều tặng cho bài thơ: Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh, Huyền sương đảo tận kiến Vân Anh. Lam Kiều bổn thị thần tiên lộ, Hà tất khi khu thượng Ngọc kinh  漿 , . , . Dịch: Một chén quỳnh tương trăm cảm sanh, Sương mù vẹt hết thấy Vân Anh. Cầu Lam là ngõ thần tiên đấy, Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc kinh.

Hôm sau, Bùi Hàng bèn đi tìm, ngang qua một cây cầu tên là Lam Kiều, rồi vào một quán uống nước. Bà chủ quán bảo người con gái trông rất xinh đẹp, tên là Vân Anh, bưng nước ra cho chàng. Bùi Hàng thấy người đẹp, nhớ lại bài thơ của Vân Kiều, liền ngỏ ý cầu hôn nàng Vân Anh. Bà chủ quán giao hẹn: Hiện bà có cái cối bằng ngọc, nếu Bùi Hàng kiếm được cái chày cũng bằng ngọc đem đến giã thuốc cho bà thì bà sẽ gả con gái cho.

Bùi Hàng may mắn tìm mua được chày ngọc, nên mới cưới được nàng Vân Anh. Bùi Hàng và Vân Anh sau đều thành tiên.

Nghĩa bóng: Nơi gặp duyên nợ.



Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,

Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.

(Truyện Kiều).



Chốn Lam kiều cách nước mây,

Bùi Hàng kia dễ biết đây nẻo nào.

(Truyện Phan Trần).



Vẳng nghe họ Mãng gần miền,

Lam kiều là chốn thần tiên có người.

(Quan Âm Thị Kính).



LAM LŨ

Hay “Lam lụ”.



Lam lũ  : Quần áo rách rưới, hôi hám.

Lam lũ là người chịu đựng sự rách rưới, khổ sở, và vất vả để lo kiếm tiền nuôi sống.



Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,

Tánh siêng năng lam lũ làm ăn.

(Kinh Sám Hối).



Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,

Ở thôn quê lam lụ làm ăn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Rủi nghèo hèn đói khó hỏi ai xin,

Cũng một mảnh thân hình chồng lam lụ.

(Phương Tu Đại Đạo).



LAM SƠN 

Tên một làng ở huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá, là nơi Lê Lợi khởi binh ở núi Lam Sơn tự xưng là Bình Định Vương, suốt mười năm khởi nghĩa mới dẹp được giặc Minh, rồi lên ngôi xưng là Lê Thái Tổ, đem lại giang sơn cho nước nhà.



Đất thiêng khí thuỵ Lam sơn,

Trời sinh Thánh chúa long nhan khác thường.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Nhớ thuở Bắc Bình man mác,

đỉnh Lam Sơn mở dấu ấy thương dân,

Ngắm cơn sơn tặc lăng loàn,

trong hương khổn cắt yêu là vị nước.

(Khuyên Trung Nghĩa).



LÀM GHI

Vật làm ghi có nghĩa là vật để ghi nhớ trong lòng, tức vật kỷ niệm.

Như vậy, làm ghi là làm vật kỷ niệm.

Rằng: Trăm năm cũng từ đây,

Của tin, gọi một chút này làm ghi!

(Truyện Kiều).



LÀM PHƯỚC CÓ KHI MẮC NẠN

Làm phước là làm những việc thiện, việc có tính cách tạo ra phước đức.

Con người sống ở thế gian, ai cũng bị chi phối của luật nhơn quả. Hễ có nguyên nhân tất nhiên phải có kết quả tương thích với nguyên nhân ấy, đó là luật nhân nào quả nấy.

Luật nhân quả không bị hạn chế bởi thời gian, có khi nhanh cũng có khi chậm. Có nhiều loại nhân quả:

Nhân quả hiện tại gọi là Hiện báo  : Nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả báo ở hiện kiếp.

Nhân quả trong hai đời gọi là Sanh báo  : Đời trước tạo nhân đời nay mới thọ quả. Đời này gây nhân đời sau nhận quả.

Nhân quả trong nhiều đời gọi là Hậu báo  : Từ rất nhiều đời trước gây nhân, đời nay mới gặt quả, hoặc đời này tạo nhân nhưng mãi nhiều đời sau mới thọ quả.

Hiện báo thì dễ thấy, dễ hiểu, nhưng hậu báo là quả báo do nghiệp nhân tạo ra từ những kiếp sống trước, đến nay mới có kết quả thì khó tin, khó hiểu. Ví dụ người lương thiện mà vẫn gặp chuyện không may.



Người làm phước có khi mắc nạn cho ta thấy việc tai nạn, khổ sở là bởi nghiệp quả, tức do kiếp trước hay nhiều đời trước gây nhân, kiếp này phải đền trả. Việc làm phước làm lành trong hiện kiếp chưa đủ trả những oan nghiệt đã tạo ra ở tiền kiếp.

Như vậy, không phải người làm phước mà mắc nạn, nếu không làm phước thì người ấy vẫn phải mắc nạn, có thể tai nạn còn nhiều hơn nữa, bởi việc làm phước có thể làm giảm bớt một số tai nạn.



Người làm phước có khi mắc nạn,

Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.

(Kinh Sám Hối).



LÀM PHƯỚC KHỎI HAO KHỎI TỐN

Làm việc phước đức chẳng hao tốn về tiền bạc, của cải chi hết, chỉ lấy công sức ra để giúp đỡ cho người mà thôi. Ví dụ như khi đi trên đường gặp miểng bát miểng chai... hoặc là có những vật bén nhọn, chông gai thì nên lượm lấy để tránh những người đi sau đạp phải. Đó là làm phước khỏi hao khỏi tốn.



Ngoài ra còn có thể bắc cầu qua kênh rạch hay đắp sửa đường đi cho liền lạc bằng phẳng để người qua lại cho được yên ổn thuận lợi.

Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,

Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.

(Kinh Sám Hối).



LÀM QUAN HAI MIỆNG

Ý muốn nói kẻ làm quan phán quyết một vụ việc theo mình và đôi khi, do sự hối lộ còn phán quyết theo lời của vợ.



Lời tục ví: Làm quan hai miệng,

Ngoài miệng ông trong khiến miệng bà.

(Phương Tu Đại Đạo).



LẠM PHÁP 

Lạm: Bừa bãi. Pháp: Luật pháp.

Lạm pháp là làm một cách bừa bãi, vi phạm đến luật pháp.



Phủ quan nghe nói đảo điên,

Quở rằng lạm pháp cầm quyền cướp dân.

(Cai Vàng Tân Truyện).



LẠM VU 

Xưa vua Tề Tuyên Vương có lập một nhóm ba trăm người để thổi sáo. Ông Đông Quách không biết thổi sáo mà cũng lạm dụng xen vào đó để được ăn lương bổng, người ta gọi đó là “Lạm vu”.

Nghĩa bóng: Không tài mà có chức vị.

LAN CHI 

Cỏ chi cỏ lan, hai loại cỏ có hoa rất thơm, hương hoà hợp nhau, thường được ví với người quân tử.

Khổng Tử Gia Ngữ có câu: Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất, cửu bất văn kỳ hương, tức dữ chi lan hoá. Dữ ác nhân cư, như nhập bào ngư chi tứ, cửu bất văn kỳ xú, tức dữ chi câu hoá  , , , . , , , , nghĩa là cùng ở với người thiện, như vào nhà trồng chi lan, lâu ngày không thấy mùi thơm, đã cùng hoá theo mà không biết. Cùng ở với người ác, như vào tiệm bán cá, lâu ngày không biết thúi, vì đã hoá theo mà không biết.

Nghĩa bóng: Bạn bè ảnh hưởng tốt xấu lẫn nhau.



Rõ ràng còn có giấu gì?

Anh em là nghĩa lan chi bạn vàng.

(Nữ Tú Tài).



LAN CHÂU 

Lan: Cây mộc lan, một loại cây cao lớn, lá hình quả trứng, hai bên ngoài sắc tím đậm, bên trong tím nhạt. Tại sông Tầm Dương mọc rất nhiều cây mộc lan, do ngày xưa Ngô Vương Hạp Lư trồng để lấy gỗ làm cung điện. Châu: Chiếc đò.

Lan châu là đò làm bằng gỗ cây mộc lan, thường gọi là thuyền lan.

Xem: Thuyền lan.

Lục ỷ tiếng thanh đêm tựa ngọc,

Lan châu chèo vỗ nước bằng là.

(Bạch Vân Quốc ngữ).



LAN ĐÀI 

Lan Đài là một toà nhà, dùng để cất các loại sách do Ngự sử Trung thừa đời nhà Hán trông coi, nên Ngự sử còn gọi là Lan Đài Tự.

Do tích Ban Cố, nhà viết sử đời nhà Hán làm chức Lan Đài Lệnh sử, nên sau này các quan làm sử cũng được gọi là “Lan Đài”

Lan đài dừng bút thảnh thơi,

Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LAN ĐÌNH 

Xưa ông Vương Hy Chi cùng mấy bạn thơ tụ họp ở Lan Đình ngâm thơ uống rượu, có làm bài “Lan đình tập tự”.

Vương Hy Chi vốn là người viết chữ rất đẹp, nên những tờ thiếp ghi chép bài “Lan Đình Tập Tự” được người đời sau truyền tụng là “Thiếp Lan Đình”.

Chữ Lan đình cũng có nghĩa là chữ viết đẹp.



Sư rằng: Này bút thiên nhiên,

Lọ tìm Vũ kiếm, lọ khen Lan Đình.

(Nhị Độ Mai).



Vốn không học thói Lan Đình,

Đem nhau giụm miệng phẩm bình cổ câm.

(Dương Từ Hà Mậu).



Lan Đình tiệc họp mây huyễn,

Kim Cốc vườn hoang đế cày.

(Thơ Nguyễn Trãi).



LAN HUỆ 

Lan huệ là cây hoa lan và cây hoa huệ. Hai loại cây này tính chất yếu đuối, nên dùng để ví với người phụ nữ.



Sởn sơ lan huệ nức cành,

Lễ thi cứ phép cửi canh giữ lề.

(Hoa Tiên Truyện).



LAN PHÒNG 

Buồng thơm mùi hoa lan, chỉ buồng của những hạng phụ nữ sang trọng ở.



Hai người như thể một người,

Ngang tay tú các sánh vai lan phòng.

(Nhị Độ Mai).



LAN QUẾ 

Lan quế thơm tho, nói con cháu hiển đạt.

Sách Lễ Ký viết: Ông Tạ Huyền lấy cỏ chi, cỏ lan ví với con cháu. Năm người con ông Đậu Quân hiển đạt, được người đời gọi là ngũ quế. Vì vậy, con cháu được vinh hiển gọi là “Lan quế đằng phương”.

Xem: Quế lan.



Trước thềm lan quế thơm tho,

Say sưa ba chén bảy hồ là vui.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LAN TÔN QUẾ TỬ 

Lan tôn quế tử là con cháu thơm tho như lan quế, ý chỉ con cháu hiển đạt.

Do câu: Tử tôn phát đạt, vị chi lan quế đằng phương  , , nghĩa là con cháu phát đạt, gọi là cành lan, cành quế thơm tho.

Xem: Lan quế.



Mười chương khuyết hậu khắc xương,

Lan tôn quế tử lưu truyền miên diên.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LAN THẤT 

Tức nhà lan, có ý nói nhà đức vọng, thơm tho như chi lan, còn ví với người có tài đức.

Sách Gia Ngữ chép: Dữ thiện nhân cư, như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất văn kỳ hương, tức dữ chi hoá hỹ  , , , , nghĩa là ở với người tốt, như vào nhà có cỏ chi lan, ở lâu đến lúc không thấy mùi thơm, thì tức đã cùng hóa với nó.

Dứt lời Lưu mới thưa rằng:

Từ vào lan thất xem bằng Long môn.

(Hoa Tiên Truyện).



Gửi đây đã gác thị thành,

Thêu màn lan thất vẽ tranh Lam điền.

(Sơ Kính Tân Trang).



LÀN THU THUỶ

Làn sóng của nước mùa thu. Sóng nước thu gợn được ví với ánh mắt sáng trong của người phụ nữ.

Do câu trong Tình Sử chép: Nhãn như thu thuỷ, my tự xuân sơn  , , nghĩa là ánh mắt trong như nước mùa thu, lông mày phơn phớt tợ núi mùa xuân.

Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

(Truyện Kiều).



LÃN ÔNG 

Hiệu của vị danh y đời nhà Lê của Việt Nam, tên thật là Lê Hữu Huân hay Lê Hữu Trác.

Ông là tác giả pho sách giá trị khảo cứu về y học, đó là bộ: Tân Huê Hải Thượng Y Tông tâm Tỉnh, gọi tắc là “Lãn Ông Y Tập”.

LẠN KHA 


Lạn: Mục nát. Kha: Cái cán rìu.

Lạn Kha Sơn là một ngọn núi có tên là Thạch Thất, hay Thạch Kiều Sơn ở đất Tây An.

Đời nhà Tấn có người tên là Vương Chất, vào núi Thạch Thất đốn củi, dọc đường thấy hai ông tiên đánh cờ ở bên hòn đá. Chất bèn đứng lại xem, hai ông đánh chỉ có một ván cờ mà cái rìu cầm ở tay cán đã bị mục nát, vì vậy người đời gọi núi Thạch Thất là Lạn Kha Sơn (Lạn kha: Cái rìu mục nát).

Xem: Vương Chất.



Doanh thâu một cuộc vừa rồi,

Bàng quan song đã có người Lạn Kha.

(Truyện Từ Thức).



LẠN TƯƠNG NHƯ

Lạn Tương Như là người đời Chiến Quốc, làm Thượng khanh nước Triệu, nhờ có công đem viên ngọc Biện Hoà của Triệu sang Tần đổi lấy mười lăm thành. Trong triều có viên võ tướng là Liêm Pha, đã từng đánh nam dẹp bắc mà chức nhỏ hơn Tương Như, nên không phục, thường mong gặp mặt Tương Như để mắng cho đã giận, Tương Như biết được, nên tìm cách lánh mặt Liêm Pha. Kẻ thủ hạ thấy thế mới hỏi, thì Tương Như nói: Uy quyền như vua Tần mà ta còn chưa sợ, ta há lại sợ Liêm Pha hay sao? Ta tránh mặt Liêm Pha là sợ Tần, nhân ta và Liêm tướng quân ăn thua nhau như lưỡng hổ cộng đấu, thế bất cụ toàn, sau này việc nước hư thì có phải tại việc oán vặt thù riêng của ta chăng? Liêm Pha nghe được, ăn năn bèn đến tạ tội, kết làm anh em với nhau.



Chẳng vẹn nghiệp nhà đừng thối chí,

Ðợi thời noi chước Lạn Tương Như.

(Đạo Sử).



LANG ĐỘC 

Lang: Chó sói. Độc: Hung dữ, độc ác.

Lang độc là hung dữ, độc ác như loài lang sói.



Lòng lang độc vui cười hớn hở,

Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.

(Kinh Sám Hối).



LANG KHÓI

Tức là khói của phân chó sói đốt.

Ngày xưa ở các vùng biên giới thường xây những cái đài, trên đài có chất những đống củi thành ụ cao, trong đó có trộn với phân chó sói.

Nếu có giặc kéo đến thì đốt phân chó sói và củi để báo tin cho triều đình biết. Khói của phân chó sói (Lang yên) có đặc điểm khói bốc lên mà không bị gió thổi bạt ngang.

Xem: Khói lang.

Đội cùng đồng bác quẩy thâu,

Kẻo năng lang khói kẻo mau tăm kình.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LANG MIẾU 

Lang miếu là chữ dùng để chỉ triều đình.

Sách Văn Trung Tử có câu: Sơn lâm hữu lang miếu chi chí  , nghĩa là ở chốn núi rừng mà có chí như ở triều đình.

Lọ là cầu cạnh chi ai,

Chẳng trong lang miếu, cũng ngoài điền viên.

(Nhị Độ Mai).



Trong lang miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



LANG QUÂN 郎君

LangCon trai, đàn ông. Quân: Tiếng dùng để gọi nhau như: Con gọi cha mẹ, cháu gọi ông bà, vợ gọi chồng, ngang hàng gọi nhau bằng “Quân” đều được cả.

Lang quân dùng để tôn xưng con em người khác, hoặc tiếng vợ gọi chồng.



Trót lời hẹn với lang quân,

Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.

(Truyện Kiều).



Đừng chê chồng phận thiệt thòi,

Đáng danh quân tử phải người lang quân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Tơ đỏ nhờ tay Nguyệt lão,

Cửa vàng trộm sánh Lang quân.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



LÁNG GIỀNG

Láng giềng là những nhà chung quanh ở gần ngôi nhà mình, tức nhà hàng xóm.



Láng giềng có kẻ sang chơi,

Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.

(Truyện Kiều).



Mở ra bức tượng treo lên,

Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.

(Lục Vân Tiên).



LÁNG GIỀNG MẠNH MẪU

Mạnh mẫu là mẹ của thầy Mạnh Tử, một người đàn bà xưa dạy con rất kỹ lưỡng, chịu khó dọn nhà tới ba lần vì sợ con nhiễm tính xấu của người lối xóm.

Sách Liệt Nữ chép rằng: Mẹ Mạnh Tử là bà Cừu Thị, trước ở gần mồ mả. Lúc ấy Mạnh Kha còn nhỏ, thường vào chơi nơi nghĩa địa, rồi cùng chúng bạn bày cách tống táng, khóc kể. Bà mẹ liền dời nhà đến gần chợ, thì thấy con bắt chước bưng gánh rao hàng, buôn thịt bán bánh, bà lại thấy chỗ nầy ở chẳng tiện, bèn cho dọn nhà về gần trường học, từ đó bà thấy con bà bắt chước ôm sách đi học, bày mâm cúng tế theo nghi lễ, bà mới ưng bụng.

Khi Mạnh Kha đi học, có lần lười biếng bỏ trường về, lúc ấy bà đang dệt vải, bèn dùng dao chặt gãy khung cửi và tấm vải đang dệt, rồi nói rằng: Con đang học mà bỏ dở, chẳng khác nào mẹ chặt gãy khung cửi và tấm vải này. Mạnh Kha mới tỉnh ngộ, từ đó chẳng dám biếng nhác nữa, cố công học hỏi cho đến sau trở thành bậc Á Thánh.



Tạ gia báu ấy khôn noi,

Láng giềng Mạnh Mẫu tạm nguôi tấc thành.

(Thơ Lãng Nhân).



LÀNG CUNG KIẾM

Làng cung kiếm tức là chỉ những hạng thanh niên giỏi về võ nghệ, kiếm cung thuộc con nhà quyền quý, cao sang.



Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,

Khách công hầu ngấp nghé mong sao.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LÀNG XA MÃ

Xa mã là xe ngựa, chỉ hạng quan quyền giàu có, hay nhà quyền thế.



Mồi phú quí dữ làng xa mã,

Bả vinh hoa lừa gã công khanh,

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LÃNG PHÍ 

Lãng: Phóng túng. Phí: Tiêu xài.

Lãng phí là tiêu xài một cách phóng túng, tức là ăn mặc, tiêu pha hoang phí, không tiết kiệm.



Lòng chừa biếng nhác kiêu căng

Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.

(Kinh Sám Hối).



LÃNG TỬ 

Lãng: Sóng. Tử: Người.

Lãng tử là chỉ người sống tự do, không có nghề nghiệp, đi chơi nay đây mai đó chẳng có gì ràng buộc.



Kìa đường cũ bước mòn lãng tử,

Đám thú nhà dụ dự bước chiều.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÃNG UYỂN 

Đời nhà Đường, Vương Nguyên Anh trấn nhậm Lãng Châu, có xây một cái vườn rất đẹp đẽ, gọi là Long Uyên, về sau vì tránh tên huý của vua Đường Minh Hoàng là Long Cơ, nên đổi tên ngôi vườn ấy thành Lãng Uyển. Ngôi vườn nầy có phong cảnh u tịch, nên người sau cho là nơi thần tiên ở.

Lý Thương Ẩn đời Đường có câu: Bồng đảo yên hà Lãng Uyển chung  , nghĩa là khói mù Bồng đảo, tiếng chuông Lãng Uyển.

Nghĩa bóng: Cảnh tiên ở.



Mặt hoa Lãng uyển khoe tươi,

Mày ngang chữ triện châu rơi dầm đề.

(Bài Dồn Cung Nam).



Lãng uyển buổi thu tàn hoa chửa rã,

thêu hồng kết lục,

ví phân phương cùng xuân ấy không thua.

(Phản Tây Hồ Tụng).



Lãng uyển xuân tàn tin én dứt,

Hành dương non thẳm chiếc nhàn khơi.

(Truyện Vương Tường).



Khoe tốt hơn chưng vườn Lãng Uyển,

Kết đôi còn đợi chúa Đông hoàng.

(Hồng Đức Quốc Âm).



LÁNH BỢN TỤC

Bợn tục tức là những thứ dơ bẩn, ô trược nơi trần tục, chỉ cõi thế gian.

Lánh bợn tục là lánh khỏi cảnh bụi trần ô trược của cõi thế gian.

Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,

Trốn đau thương xa cảnh trần gian.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÀNH PHƯỚC DỮ TAI ƯƠNG

Có nghĩa là làm lành thì hưởng phước, làm dữ thì gặp tai ương.

Khổng Tử có câu: Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả thiên báo chi dĩ hoạ  ; , nghĩa là người làm việc lành thì Trời ban phước đức, kẻ làm việc dữ thì Trời lấy tai họa mà trả.

Như nhiên lành phước dữ tai ương,

Một trả một vay cũng lẽ thường.

(Đạo Sử).



LÀNH VAY TRẢ

Lành vay trả tức là quả báo điều lành.

Theo Nho giáo, hễ làm lành thì sẽ được báo trả điều lành. Sách có câu: Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc  , nghĩa là người làm lành thì trời sẽ ban cho điều phước.

Hoặc: Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo  , , nghĩa là lành có lành báo, dữ có dữ báo.



Làm lành sau cũng lành vay trả,

Chác dữ âu hay dữ vốn lời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



LÃNH CUNG 

Lãnh: Lạnh lẽo. Cung: Cung điện, nơi vua ở.

Lãnh cung tức một cái cung mà vua không bao giờ đi đến, nên nơi đó vắng vẻ, lạnh lẽo. Lãnh cung là chỗ ở của các vị phi bị vua ghét bỏ, hoặc dùng để giam lỏng các cung phi phạm tội.



Còn con ô thước bắc cầu,

Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LẠNH NỒNG

Bởi chữ “Hàn ôn  ” là lạnh và ấm.

Lạnh nồng tức lạnh và ấm, ý nói hỏi thăm về sức khoẻ nhau, tức quan tâm nhau.

Khi tối sớm lạnh nồng có kẻ,

Thân mật con đặng dễ giữ con.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LAO LUNG 

Lao: Chuồng nuôi thú, nhà ngục. Lung: Cái lồng nhốt súc vật.

Lao lung là cái chuồng và cái lồng để nhốt súc vật. Nghĩa bóng chỉ sự giam cầm tù tội, sự mất tự do.



Ngôi Hoàng đế đặt không,

há nước thấp lao lung thấy đặng;

Tội Hoàng trừ chẳng có,

lòng trinh thêu dệt vào hình.

(Hịch Tây Sơn).



Thượng Hoàng sánh đức Chí Công,

Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.

(Kinh Thế Đạo).



Thương kẻ lao lung nhiều ít giúp,

Còn thân khá gỡ gánh oan gia.

(Đạo Sử).

 

LÃO BẠNG SINH CHÂU 

Lão bạng: Con trai già. Sinh châu: Sanh ra ngọc. Lão bạng sinh châu là con trai già sinh ra ngọc.

Thành ngữ nầy dùng để chỉ những người tuổi già sinh ra con quý.

Xem: Trai già nở châu.

Người trong làng xóm đều mừng,

Ai hay lão bạng, có chừng sinh châu.

(Dương Từ Hà Mậu).



LÃO BÔ

Tức Lâm Bô, một ẩn sĩ đời nhà Tống, thơ hay, chữ tốt, và vẽ khéo. Ông không ham danh lợi, chỉ quen thú thiên nhiên, lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con (Mai thê hạc tử).

Xem: Lâm Bô.

Ngày nhàn mở sách xem Chu dịch,

Đêm vắng tìm mai bạn Lão Bô.

(Quốc Âm Thi Tập).



LÃO ĐỖ 

Chỉ ông Đỗ Phủ, nhà thơ trứ danh đời nhà Đường. Vì đời ấy có hai thi nhân nổi tiếng đều họ Đỗ: Đỗ Phủ và Đỗ Mục. Đỗ Phủ lớn tuổi gọi là Lão Đỗ, còn Đỗ Mục nhỏ tuổi gọi là Tiểu Đỗ.



Hong túi thơ nông hết gió trăng vào,

cơn xướng hoạ hẹn hò Lão Đỗ.

(Tài Tử Đa Cùng Phú).



LÃO LAI TỬ 

Người nước Sở đời Xuân Thu, đã quá 70 tuổi hãy còn cha mẹ. Ông thờ cha mẹ rất có hiếu, không muốn để cha mẹ thấy ông đã già mà lo buồn, ông thường mặc áo sặc sỡ, nhảy múa trước cha mẹ, lại có khi giả bộ té, rồi khóc oà lên, làm như đứa trẻ lên ba vậy. Ý ông là cốt làm cho cha mẹ lúc nào cũng vui vẻ trong lòng.



Lão Lai Tử đời Châu cao sĩ,

Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



LÃO QUÂN 

Tức Thái Thượng Lão Quân là vị tổ của Đạo Giáo. Tương truyền, Lý Nhĩ, thuỵ là Đam, tự là Bá Dương, là hậu thân của của Thái Thượng Lão Quân, vì mới sinh ra đã đầu bạc, nên người đương thời mới gọi là Lão Tử.



Đương khi lốt trắng điểm vàng,

Tỉnh say Vương Mẫu, mơ màng Lão Quân.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Ma đừng chữa thuốc đừng tra,

Thầy non Biển Thước, sư già Lão Quân.

(Sơ Kính Tân Trang).



Lão quân mất sách đến nay,

Đời sau bắt chước liền bày phép xiên.

(Dương Từ Hà Mậu).



Lão Quân ứng hóa Tam thanh,

Khuyến răn nhơn vật lòng lành chớ xao.

(Xưng Tụng Công Đức).



LÃO TUYỀN

Hay Tô Lão Tuyền tức Tô Tuân, người My Sơn, đời nhà Tống, hai mươi bảy tuổi mới đi học, thông hiểu kinh sử và các học thuyết của bách gia, viết văn rất cổ kính. Âu Dương Tu cùng Hàn Kỳ tâu vua Tống, được cử làm Hiệu Thư Lang. Hai người con trai là Tô Thức, hiệu là Đông Pha và Tô Triệt, hiệu là Đĩnh Tần đều đỗ Tiến sĩ đời Tống, có tiếng là bậc văn hào.



Lão Tuyền tuổi cả gia công,

Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề Nho.

(Gia Huấn Ca).



LÃO TỬ 

A.- Tức Lý Nhĩ.

Theo sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử là người nước Sở, huyện khổ, làng Lệ, xóm Khúc nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ.

Ông họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam, làm quan giữ Tàng thất (Kho sách) ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Châu.

Về gia thế thì sử sách không có nói đến, nhưng theo truyền thuyết thì nói rằng mẹ của Lão Tử mang thai có đến 80 năm mới sinh ông do hông bên trái dưới cội cây lý. khi ông được sinh ra thì râu tóc dài và bạc trắng, mới gọi ông là Lão Tử. Lão Tử chỉ cây lý mà bảo rằng đó là họ của ông.

Ở tại Lạc Dương phía đông nhà Châu một thời gian lâu, sau thấy nhà Châu suy, nên Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây, khi đi đến cửa ải Hàm Cốc, quan lệnh là Doãn Hỷ. Biết Lão Tử là một Thánh nhân nên quan Doãn tôn ông là Thầy để xin theo học Đạo.

Lão Tử ở lại Hàm Cốc dạy Đạo cho Doãn Hỷ và soạn ra bộ sách nói về Đạo Đức, sách phân làm hai thiên, gồm có trên 5000 chữ. Sau này được gọi là “Đạo Đức Kinh”.

Rồi từ đó, Lão Tử cỡi trâu đi về hướng tây mất dạng, người ta không biết ông đi về đâu.

Phán rằng: Đạo sĩ một môn,

Từ ông Lão Tử đạo tôn mở đầu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



B.- Lão Tử là Lão Lai Tử, một người trong Nhị Thập Tứ hiếu. Xem: Lão Lai Tử.

Đôi hàng ai luỵ,

lệ Tăng Sâm rày chẳng thấy đoái hoài;

Mấy tiết sum vầy,

do Lão Tử chẳng cùng ai vui vẻ.

(Tử Tế Mẫu Văn).



LẠP HOÀNG 

Lạp: Sáp. Hoàng: Màu vàng.

Lạp hoàng tức là sáp vàng.



Mai công lễ vật tầm thường,

Miến vài cân với lạp hoàng vài đôi.

(Nhị Độ Mai).



LAU THANH TRÁI CHỦ

Lau thanh: Lau sạch. Trái chủ  : Chủ nợ.

Lau thanh trái chủ là rửa sạch những nợ nần oan gia nghiệp báo từ một hay nhiều kiếp trước.



Từ bi hứng giọt nhành dương,

Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LẶN SUỐI TRÈO NON

Ba mươi mốt tuổi đà bao chốc,

Lặn suối trèo non đã mấy hồi.

(Thơ Trần Tế Xương).



LĂNG MIẾU 

Lăng: Mồ mả của vua chúa. Miếu: Nơi thờ Thần, hoặc chỉ Tông miếu là nơi thờ các đấng tiền nhân của vua.

Lăng miếu nơi chôn vua, hoặc chỉ nơi chôn và thờ người chết.



Trong lăng miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Rước voi phá mã đào lăng miếu,

Thả rắn xua ong nhiểu điện tà.

(Đạo Sử).



LĂNG TẨM 

Lăng: Nơi chôn cất nhà vua. Tẩm: Nơi cất chứa áo quần của người chết.

Lăng tẩm là nơi chôn cất, thờ phượng và nơi lưu những đồ vật của vua đã mất.



Ơn sâu nhuần gội cỏ cây,

chốn lăng tẩm chẳng phạm chồi du tử.

(Văn Tế Vua Quang Trung).



LĂNG VÂN 

Lăng Vân là tên một bài phú của Tư Mã Tương Như. Đời vua Võ Đế nhà Hán, Tư Mã Tương Như khi chưa gặp được Dương Ý tiến cử lên nhà vua, vẫn thường ngâm đọc bài phú “Lăng vân” mà than tiếc một mình.



Lăng vân ngâm ngợi chờ mong,

Chung Kỳ đã gặp, thẹn lòng nữ chi.

(Thơ Lãng Nhân).



LẰNG XANH

Lằng: Ruồi nhặng. Xanh: Màu xanh.

Do chữ “Thương nhặng  ”, tức là ruồi xanh, một loại côn trùng bay nhanh, thường bu đậu ở nơi chỗ hôi thúi. Người ta thường dùng để chỉ bọn tiểu nhân, kẻ ty tiện. Xem: Ruồi xanh.



Lằng xanh ưa ngửi mùi đồng,

Ham thân nô lệ, mến vòng tôi con.

(Ngụ Đời).



LẶNG NƯỚC ÊM THUYỀN

Lặng nước êm thuyền là nước sông yên lặng, thuyền lướt đi êm ả, ý nói công việc được êm xuôi, trôi chảy.



May gặp cơn lặng nước êm thuyền,

Mình dễ thế giao nguyền cùng thục nữ.

(Phương Tu Đại Đạo).



LẤY PHẬT LÀM LÒNG

Tức là lấy tâm Phật làm tâm của chúng sinh.

Tâm Phật là tâm thanh tịnh tuyệt đối, tâm đại từ đại bi của một vị Phật, cái tâm chân thật, sáng suốt, không hề biến đổi.

Tâm chúng sinh là tâm còn đầy ô nhiễm, bất tịnh, phiền não và tham dục. Tâm này vốn được sinh khởi tư duy hữu ngã.



Ai ơi lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

(Thập Loại Chúng Sinh).



LÂM BÔ 

Lâm Bô, người đời nhà Tống, viết chữ đẹp, làm thơ hay, nhưng không thích danh lợi, không vợ con, thường trồng mai và nuôi hạc. Vì vậy, người đương thời mới bảo rằng: “Mai thê hạc tử  ”, tức là vợ là mai, con là hạc.



Trúc Tưởng Hủ nên thêm thiết cứng,

Mai Lâm Bô đâm được câu thần.

(Thơ Nguyễn Trãi).



LÂM CƠ 

Lâm: Đang lúc. : Dịp.

Lâm cơ tức là gặp được thời cơ, gặp lúc.



Lâm cơ mặt ngảnh tai ngơ,

Miệng hùm gan sứa bấy giờ mới hay.

(Hạnh Thục Ca).



LÂM HÀNH 

Lâm: Đang lúc. Hành: Đi.

Lâm hành là đang lúc lên đường.



Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,

Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LÂM NGUY 

Lâm: Đang lúc. Nguy: Hiểm nguy.

Lâm nguy nghĩa là đang lúc nguy hiểm.



Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.

(Lục Vân Tiên).



Lâm nguy nguyện vái làm lành,

Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.

(Kinh Sám Hối).



LÂM PHỦ 

Lâm Phủ họ Lý, là tôn thất nhà Đường, người khôn ngoan, tính gian nịnh, mưu sĩ, bề ngoài thì ngon ngọt, mà trong lòng thì gian hiểm. Thường ganh ghét, đố kỵ với người văn tài, nên người đương thời gọi ông là người “Miệng mật lòng gươm” (Khẩu mật phúc kiếm).



Sợ Quách Khai hay đặt nên điều;

Sợ Lâm Phủ ngọt lời báng huỷ.

(Sãi Vãi).



LÂM TẨU 

Lâm: Rừng cây. Tẩu: Ao đầm lớn, hoặc chỗ đất thấp có nước và nhiều cỏ gọi là tẩu trạch.

Lâm tẩu là rừng rú và ao đầm, nơi trú ẩn của những người lánh đời, chỉ nơi người ở ẩn dật.



Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng,

Ai thành thị ai vui miền lâm tẩu.

(Thơ Cao Bá Quát).



LÂM TUYỀN 

Hay “Lâm toàn”.

Lâm tuyền là rừng cây và khe suối, chỗ thanh nhàn của bậc ẩn sĩ, nơi trú ngụ của những kẻ trốn nơi thị thành.

1.- Lâm tuyền:



Trải xem phong cảnh hữu tình,

Lâm tuyền pha lẫn thị thành mà ưa.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Lâm tuyền trong có thị thành,

Phong trần vẫn ít, cảnh thanh thêm nhiều.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



Am mây kinh kệ hôm mai,

Lâm tuyền dưỡng tánh, khoan thai thanh nhàn.

(Hứa Sử Tân Truyện).

2.- Lâm toàn:

Lọ là thành thị, lọ lâm toàn,

Được thú thì hơn miễn phận nhàn.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



LÂM XUÂN 

Lâm Xuân là tên một cái gác bằng gỗ trầm hương, do vua Trần Hậu Chúa dựng lên để cùng các cung phi mỹ nữ đến đó yến ẩm và múa hát. Vì vậy, nơi đó được gọi là “Trầm hương đình” hay “Lâm xuân các”.



Vườn Tây Uyển khúc trùng Thanh Dạ,

Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LẦM THAN

Bởi chữ “Đồ thán  ” là bùn và than nóng.

Lầm than chỉ cảnh bùn lầy than lửa để nói lên nỗi cơ cực, vất vả của người dân trong nước.

Trong Kinh Thư có câu: Hữu hạ hôn đức, dân truỵ đồ thán  , , nghĩa là nhà Hữu Hạ đức tối tăm, khiến dân phải rơi vào cảnh bùn than.



Chia phủ, huyện, đặt quân quan,

Cỏ cây đều phải lầm than hội này.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LẪM LIỆT OAI PHONG 

Lẫm kiệt: Dáng bộ làm cho kẻ khác trông thấy vừa run sợ, vừa kính trọng. Oai phong (Uy phong): Bộ dạng oai nghiêm.

Lẫm liệt oai phong tức là người có dáng bộ oai nghiêm, khiến người khác sợ sệt mà kính trọng.

Xem: Oai phong lẫm liệt.

Quân đi lẫm liệt oai phong,

Dao trì cung khuyết, nhác trông gần gần.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



LÂN CÁC 

Lân: Con kỳ lân. Các: Cái gác.

Lân các tức là Kỳ lân các. Đời Hán Cao Tổ, Tiêu Hà lập nên Kỳ lân các để chứa khách quý và để làm nơi cho các bậc hiền tài tụ tập. Đến đời Hán Tuyên Đế, nhà vua cho vẽ hình 11 công thần. Từ đó chữ Lân các được dùng để nói việc ghi công trạng của các công thần, việc lưu truyền tên tuổi trong sử sách.



Cội cây là đá lấy làm nhà,

Lân các ai hầu mạc đến ta.

(Thơ Nguyễn Trãi).



LÂN CHỈ 

Lân: Con kỳ lân. Chỉ: Ngón chân.

Lân chỉ là ngón chân con kỳ lân, dùng để chỉ dòng dỏi quý phái.

Theo quan niệm xưa, kỳ lân là con vật nhân hậu, không giẫm lên loài vật nhỏ và cỏ non. Theo Kinh Thi, thơ “Lân chỉ” khen ngợi con cháu Châu Văn Vương hiền đức. Về sau người ta dùng chữ “Lân chỉ” hay “Gót lân” để chỉ con nhà dòng dõi.

Thưa rằng: Cám nỗi dây dưa,

Đoái câu "lân chỉ", nhà chưa phỉ nguyền.

(Dương Từ Hà Mậu).



Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm,

Đầu mũ mao, mình tấm áo gai,

(Ai Tư Vãn).



LÂN KINH 

Khổng Tử viết quyển Kinh Xuân Thu đến chuyện: Bắt được con kỳ lân ngoài đồng thì dừng bút, vì thế người đời sau gọi Kinh Xuân Thu là Lân Kinh.



Trời đâu phụ nghĩa tiết nghì,

Lân Kinh, Mao Giản tạc ghi còn truyền.

(Truyện Trinh Thử).



LÂN MẪN 

Lân: Thương. Mẫn: Xót xa.

Lân mẫn là thương xót.



Sư còn lân mẫn chúng sinh,

Xin thương với tấm lòng thành với nao!

(Truyện Phan Trần).



Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,

Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc,

LÂN NHI 

Lân: Con kỳ lân. Nhi: Con.

Kỳ Lân là loài thú đem lại điềm lành, khi kỳ lân xuất hiện thì chúa thánh ra đời. Vì thế, lân chỉ dòng dõi tôn quý. “Lân tử”, “Lân nhi” dùng để chỉ dòng dõi quý phái.



Họ Diêu rạng vẻ môn mi,

Điềm lành sớm ứng lân nhi một chàng.

(Hoa Tiên Truyện)



Mới hay hổ phụ, lân nhi,

Khéo thay tính trẻ cũng y tính già.

(Nhị Độ Mai).



LÂN PHƯỢNG 

Tức Kỳ lân và Phượng hoàng, là hai vật trong tứ linh, người xưa cho là vật quý hiếm, thường dùng ví với bậc hiền tài.

Kỳ lân người ta gọi là nhân thú. Còn Phượng hoàng là giống chim báo điềm lành. Phượng là chim đực, hoàng là chim cái.

Kỳ lân và phượng hoàng xuất hiện là điềm vua thánh tôi hiền, đất nước thái bình thịnh trị.



Ruổi dặm dài quyết chí côn bằng,

Giúp đời trị mừng điềm lân phượng.

(Thập Giới Cô Hồn).



LÂN RA ẮT CÓ THÁNH QUÂN

Kỳ lân ra đời thì có Thánh quân xuất hiện.

Người xưa cho rằng kỳ lân là một loài trong tứ linh: Long, lân, quy, phụng. Bước chân kỳ lân đi không đạp côn trùng, không làm nát cỏ cây, nên người ta gọi là “Nhân thú”. Kỳ lân là vật quý hiếm, vì vậy, khi xuất hiện thì có vua Thánh ra đời.

Lân ra ắt có Thánh quân ra,

Nhiều gốm vòng Nam hiệp một nhà.

(Đạo Sử).



LÂN TUẤT 

Lân: Thương. Tuất: Xót xa.

Lân tuất là thương xót. Đồng nghĩa với chữ “Lân mẫn”.



Hạ từ van lạy suốt ngày,

Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.

(Truyện Kiều).



LẦN CHUỖI HỘT

Chuỗi là hạt xâu lại thành chuỗi, hay tràng hạt. Tràng hạt có loại 18 hạt, có loại 108 hạt. Người ta thường lấy hạt cây Bồ đề xâu lại thành chuỗi, nên gọi là “Chuỗi Bồ đề”.

Người Phật tử niệm Phật thường hay lần tràng hạt, cứ niệm một danh hiệu Phật thì lần một hạt. Việc lần chuỗi giúp cho người lần chuỗi được định tâm.

Lần chuổi hột từ bi cứu khổ,

Nương gió thanh trăng tỏ là nhà.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LẦN TRÀNG HẠT

Tràng hạt là xâu chuỗi dành cho người tu hành, có loại 18 hạt, có loại 108 hạt. Lần tràng hạt tức là tay lần một hạt chuỗi, miệng niệm danh hiệu Phật. Xem: Lần chuỗi hột.



Lần tràng hạt niệm: Nam Mô Phật!

Cửa Từ bi công đức biết là bao.

(Hương Sơn Phong Cảnh).



LẤP BỂ

Bởi tích chim tinh vệ ở biển ngậm đá ở núi Tây đem về để lấp biển Đông Hải.

Lấp biển dùng để nói người có chí lớn, thường làm công việc to tát.

Vá trời gặp hội mây năm vẻ,

Lấp bể ra công đặt một hòn.

(Thơ Trần Tế Xương).



LẤP NGÕ TÀI HIỀN

Lấp ngõ: Làm bít đường, che lấp mất ngõ đi. Tài hiền: Hay hiền tài , là người có tài có đức.

Lấp ngõ tài hiền là che lấp, ngăn chận không cho người tài đức tiến thân, yểm tài của người.

Phàm con người ta có tính “tốt thì khoe, xấu thì che”, nhưng khi thấy người khác có điều gì hay tốt, đáng lý phải nêu danh, hay giới thiệu cho mọi người cùng biết, đàng này lại giấu đi, bưng bít, ấy là che cái hay tốt của người hiền vậy. Đức Khổng Tử có dạy: Nặc nhơn chi thiện sở vị tế hiền  . Nghĩa là giấu cái lành của người ta thì gọi là che bậc hiền tài vậy

Mạnh Tử cũng nói rằng: Ngôn vô thực bất tường, bất tường chi thực, tế hiền giả đương chi  , , nghĩa là nói mà không chân thật, thì có sự tai hại, thực tai hại là những lời nói làm che lấp bậc hiền tài, khiến cho không tiến đạt được.



Hãy có dạ kỉnh già thương khó,

Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.

(Kinh Sấm Hối).



LẬP CÔNG 

Lập: Tạo ra, dựng nên. Công: Công đức.

Lập công là tạo lập công đức, tức là làm công quả để tạo dựng phước đức.



Siêng lo thì ắt đặng no lòng,

Siêng Ðạo thì đời phải lập công.

(Đạo Sử).



LẬP ĐỨC 

Lập đức là làm những việc có công đức. Đây là một trong Tam lập: Lập công, lập ngôn, lập đức.

Lập đức là làm những việc lành, việc thiện nhằm đem lại phước đức cho mình và cho người khác. Những việc như thí tài, thí công, thí pháp tức là giúp của, giúp công, in kinh, và làm chùa, hay ủng hộ những người tu hành chân chính, là những việc làm tạo nên công đức. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc tu hành vào thời Tam Kỳ Phổ Độ.

Thực vậy, vào thời hạ nguơn mạt Pháp, chúng sanh sống trong cảnh khổ đau của chiến tranh, thiên tai và bệnh tật, nên rất cần thiết có những tấm lòng, những bàn tay để xoa dịu những nỗi đau của sanh chúng. Lại nữa, Đức Chí Tôn mở Đạo lần này là lập một trường thi công quả. Thánh giáo dạy: “Người tu hành, nếu chưa trường trai trì giới nổi đặng thì hãy lo lập đức, bồi công để làm nền móng vững chắc cho việc luyện Đạo tương lai, chớ dục vọng mong sớm luyện Đạo để làm Tiên, Phật mà thiếu phần công quả, âm chất.Vì Thầy lập Đạo kỳ này là mở một trường thi công quả. Các con phải đi tại cửa này mới đến đặng Cực Lạc mà thôi”.

Phần nhiều, người tu hành thường thiếu công quả, mà công quả cũng là một phần của việc lập đức, vậy cần phải chuyên tâm lo về phần này, nên Chí Tôn thường nhắc nhở: “Người dưới thế này muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo, phải có công quả”.

Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

(Kinh Thế Đạo).



LẬP THÂN 

Lập: Dựng nên. Thân: Thân mình.

Lập thân là học tập, tu dưỡng cho nên người có tài và có đạo đức.

Xem: Lập thân trả hiếu.

Nay đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngà gặp hội phong vân

Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.

(Lục Vân Tiên).



Làm trai quyết chí lập thân,

Cương thường giữ lấy có phần hiển vinh.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Lập thân muốn tránh đường mưa gió,

Tìm Ðạo nương mình vững nghiệp sau.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Dạy trẻ bỏ tánh tình biếng nhác,

Cần lập thân mới thoát phận tôi đòi.

(Phương Tu Đại Đạo).



LẬP THÂN TRẢ HIẾU

Lập thân trả hiếu tức là học tập, tu dưỡng cho nên người tài đức, làm rạng danh ông bà, cha mẹ, đó là đền đáp công sinh thành dưỡng dục.

Khổng Tử có câu: Lập thân hành đạo, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi chung dã  , , , nghĩa là lập thân hành đạo để làm rạng danh cha mẹ, đó là trả trọn cái hiếu rốt cho cha mẹ.

Đừng làm nhục tổ hổ tông,

Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÂU LAN 

Tên một nước thuộc vùng Tây vực của Trung Quốc. Thời Hán Võ Đế thường sai sứ thông thương với nước Đại Uyển, Lâu Lan. Các nước nầy cũng thường hay tấn công sứ giả nhà Hán. Vì vậy, khi Chiêu Đế lên ngôi bèn sai Phó Giới Tử đem binh chinh phạt, chém vua nước Đại Uyển là Lâu Lan, sau đổi tên nước là Thiện Thiện. Phó Giới Tử được phong tước Nghĩa Dương Hầu.

Nay Lâu Lan bị cát lấp, trở thành bãi sa mạcthuộc huyện Nha Khuông, Tân Cương, Trung Quốc.

Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử,

Tới Man khê bàn sự Phục Ba

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LẦU CAO

Do thành ngữ “Lầu cao giếng cạn” dùng để chỉ việc liều thân mình để bảo vệ danh tiết.

Lầu cao do điển tích trong Tấn Thư, tỳ thiếp của Thạch Sùng là nàng Lục Châu rất đẹp, Tôn Tú muốn bắt về để hầu hạ, Lục Châu không chịu thọ nhục, bèn nhảy từ trên lầu cao xuống đất tự tận để giữ tròn danh tiết. Xem: Thạch Sùng.

Thế cô hầu biết làm sao,

Nghĩ rằng giếng cạn lầu cao đã đành.

(Lưu Nữ Tướng).



Hầu mong nát ngọc trầm châu,

Lầu cao chẳng quản, giếng sâu chẳng từ.

(Truyện Trinh Thử).



LẦU CHUÔNG GÁC TRỐNG

Lầu gác để chuông trống, chỉ nhà chùa.

Thường các chùa đều có xây lầu và gác để chuông, trống. Riêng Đạo Cao Đài, tại Tòa Thánh Tây Ninh có xây hai lầu cao phía trước để chuông trống, gọi là Bạch ngọc chung đài và Lôi âm cổ đài.

Lầu chuông gác trống đôi bên,

Cửa rồng năm sắc đài sen chín từng.

(Hương Sơn Hành Trình).



LẦU ĐÃI NGUYỆT

Bởi chữ “Đãi nguyệt lâu  ”. Đãi nguyệt là đợi trăng lên. Lầu đãi nguyệt tức là một cái lầu dựng trong hoa viên để người ta đến đó ngồi chờ trăng lên để thưởng ngoạn.



Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,

Gác thừa lương thức ngủ thu phong.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LẦU HỒNG

Do chữ Hán “Hồng lâu  ”, chỉ nhà của hạng phụ nữ giàu sang, quyền quý.

Ngày xưa, những nhà quyền quý thường lấy màu hồng, màu son sơn nhà cửa để dành riêng cho con gái ở, nên “Lầu hồng” chỉ nơi ở con gái quý phái.

Thơ Lý Bạch có câu: Mỹ nhân nhất tiếu khiên châu bạc, dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia  , , nghĩa là người đẹp mỉm cười, kéo bức rèm châu, chỉ lầu hồng nơi xa xôi và nói đó là của thiếp. Xem: Hồng lâu.



Đêm ngày lòng những dặn lòng,

Sanh đà về đến lầu hồng xuống yên.

(Truyện Kiều).



Lầu hồng cung cấm ấy ru,

Anh hùng kia với trượng phu ai từ.

(Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm).



Đến phồn hoa thân gần tục lự,

Chơi lầu hồng hỏi thử trái căn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Đừng học khách lầu hồng đánh bóng,

Nói với chồng dùng giọng cầu cao.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

LẦU NHẠC DƯƠNG

Bởi chữ “Nhạc Dương lâu  ”, tên một cái lầu ở Hồ Nam, trên Động Đình Hồ, một nơi danh lam thắng cảnh của Trung Quốc. Phạm Trọng Yêm có làm bài ký về lầu Nhạc Dương, gọi là “Nhạc Dương lâu ký ”.



Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,

Ấy nền Đồng tước, hay lầu Nhạc Dương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Lầu Nhạc Dương bóng chiều nắng sớm,

Khách văn chương đề phẩm đã nhiều.

(Thơ Lãng Nhân).



LẦU SON

Lầu sơn màu đỏ, như chữ “Chu môn” là cửa đỏ hay cửa son dùng để chỉ nhà hào phú.

Do vậy, lầu son cũng dùng để chỉ những nhà quyền quý, sang trọng.

Có khi ướm nguyệt chào hoa,

Lầu son phảng phất cửa Già gió trăng.

(Truyện Phan Trần).



Hai lẽ văn tài đồng đức tánh,

Chẳng ngồi bệ ngọc cũng lầu son.

(Đạo Sử).



LẦU TẦN

1.- Lầu của Tần Mục Công:

Lầu của Tần Mục Công đời Chiến Quốc cho cất để con gái là nàng Lộng Ngọc ở học thổi tiêu với chàng Tiêu Sử. Sau hai người lấy nhau, nên duyên vợ chồng.

Lâu Tần dùng để chỉ lầu gác cung điện nguy nga của vua Tần, hay những nơi ca xang múa hát.

Xem: Tần Lâu

Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ,

Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ.

(Cung Oán Ngâm Khúc).

2.- Lầu Tần, do chữ “Lầu Tần quán Sở” chỉ cảnh ca xang múa hát, lầu gác cung điện, phong lưu, tráng lệ:

Xem: Lầu Tần quán Sở.



Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,

Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LẦU TẦN QUÁN SỞ

Bởi thành ngữ “Tần lâu Sở quán  ”, chỉ chung lầu gác cung điện nguy nga, hay những nơi ăn chơi ca vũ.

Bài thơ “Bạch Hạ” đời Tống có câu: Lai vãng không lao Bạch Hạ thuyền, Tần lâu Sở quán tổng mang nhiên. Duy dư nhất quyển tân thi thảo, thính vũ giang hồ thập nhị niên  , . , , nghĩa là đi lại luống nhọc con thuyền ở xứ Bạch Hạ, những cảnh lầu Tần quán Sở phong lưu diêm giả thảy quên mang mác cả. Chỉ còn lại một tập thơ mới làm và một kỷ niệm bên tai là mười hai năm nghe mưa ở nơi giang hồ. Ý nói sự phong lưu đều quên hết, chỉ còn lưu tâm đến tập thơ mới làm và tinh thần là khi yên tịnh nghe mưa ban đêm đã mười hai năm qua.

Lầu Tần quán Sở thảnh thơi,

Tạm vào trú ngụ ở nơi nhà hàng.

(Nữ Tú Tài).



LẦU VỌNG TIÊN

Tương truyền Lê Thánh Tông ngự chơi chùa Ngọc Liên, nghe một ni cô ngâm câu kệ rằng: 
Ở đây mến cảnh mến thầy, tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng trần. Ngài bèn truyền ni cô làm thơ mà đầu bài lấy ngay câu ấỵ Ni cô ứng khẩu ngaỵ trong bài thơ như sau: Gió thông đưa kệ tan niềm tục, hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời.

Sau khi vịnh thơ, Lê Thánh Tông khen ni cô là tài nữ, cho ni cô ngồi cùng xe đem về cung, đến nửa đường bỗng biến mất. Ngài nhớ tiếc mãi, truyền dựng lầu trông ngóng. Nay ở phố Hàng Bông Hà nội, chỗ cây đa cửa quyền còn có Vọng tiên quán, phải chăng di tích tự bấy giờ? (Theo Đinh Gia Thuyết).



Mười lăm năm nọ chưa lâu,

Còn di tích đó là lầu vọng tiên.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



LẦU XANH

Ngày xưa, những nhà quyền quý sang trọng, nhà cửa thường sơn màu xanh, như Tào Thực đời nguỵ có viết: Thanh lâu lâm đại lộ, cao môn kết trùng quan  , , nghĩa là lầu xanh cách đường cái, cửa cao hai lần then.

Sau nầy lầu xanh không còn là nơi cao sang quyền quý nữa mà là nơi dành cho kỵ nữ ở. Như Đỗ Mục đời Đường có câu: Thập niên nhất giác Dương châu mộng, Doanh đắc thanh lâu bạc hạnh danh  , , nghĩa là mười năm một giấc chiêm bao ở Dương Châu, mang tiếng người bạc bẽo ở lầu xanh. Xem: Thanh lâu.

1.- Chỉ nhà quyền quý sang trọng:



Lầu xanh giặm, màu tu trở vẻ,

Cửa không môn mở hé chơn hồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Chỉ nơi kỹ nữ ở:

Lầu xanh quen lối xưa nay,

Nghề nầy thì lấy ông nầy tiên sư.

(Truyện Kiều).



Không đành nói thác ra ma.

Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Đừng học chiều rước yến mời anh,

Kìa nhục chốn lầu xanh xem những kẻ.

(Phương Tu Đại Đạo).



LÊ ĐÌNH 

: Cây lê. Đình: Cái sân trước nhà.

Lê đình là sân nhà có trồng cây lê.



Ngày mai vừa rạng chân trời,

Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình.

(Lục Vân Tiên).

LÊ NGUYÊN 

: Đông đúc, màu đen. Lê dân là dân chúng đông đúc, hay dân đen. Nguyên: Lành, thiện.

Lê nguyên là người lành, tức dân lành, sau người ta dùng để chỉ thứ dân hay dân đen.



Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ,

Thói thuần lương hóa cả lê nguyên.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



LÊ THỨ 

: Đông đúc, màu đen. Thứ: Nhiều.

Lê thứ, cũng như chữ lê dân, lê nguyên, có nghĩa dân đen đông đảo, dùng để chỉ chung dân chúng.



Thừa cơ phá huyện cướp châu,

Làm cho lê thứ lo âu nghiêng nghèo.

(Hạnh Thục Ca).



Lòng Trời cảm cứu an lê thứ,

Độ chúng sanh muôn xứ gội ơn.

(Xưng Tụng Công Đức).



Vương hầu lê thứ, ai là chí?

Chí quyết làm cho thế khác thường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



May quan cả, rủi cho lê thứ,

Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Vợ nhơn từ lê thứ đều bình,

Dẫu tội trọng cầu xin chồng chế giảm.

(Phương Tu Đại Đạo).



LÊ VIÊN 

Lê viên là vườn lê, ngôi vườn của vua Đường Minh Hoàng lập ra để cho các con hát học và dạy hát lẫn nhau.

Theo Đương Thư, vua Minh Hoàng thích âm nhạc, ưa sáng tác, nên truyền tuyển lựa ba trăm con hát dạy tại “Lê viên” (Vườn lê).

Nhân đó người đời sau gọi nơi ca hát là “Lê viên”, và con hát là “Lê viên đệ tử”.



LỄ NGHI 

Lễ: Phép tắc. Nghi: Cách thức.

Lễ nghi là nghi thức cuộc lễ. Lễ nghi cũng là cách thức bên ngoài để bày tỏ việc đạo đức, lễ nghĩa.



Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,

Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.

(Truyện Kiều).



Con người có trí khôn ngoan,

Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi,

(Kinh Sám Hối).



LỄ NHẠC 

Lễ nhạc là hai bộ sách cổ dạy về lễ, nhạc của Trung Quốc. Tương truyền ngày xưa có lục kinh gồm Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân thu và Dịch, nhưng từ khi Tần Thuỷ Hoàng ra lịnh đốt sách trong thiên hạ, Nhạc ký đã thất truyền, nên còn lại chỉ có “Ngũ kinh”.



Phép báu Thi, Thư dòng mực nát,

Màu xuê Lễ, Nhạc nhiễm sương bay.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



LỄ NHẠN

Do chữ “Nhạn tệ ”, tức là số tiền mà họ nhà trai đem qua nạp cho họ nhà gái.

Lễ nhạn là tiền nạp trong lễ cưới xin, còn gọi là sính lễ.

Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu,

Chưa trao lễ nhạn mới đầu thiếp canh.

(Nhị Độ Mai).



LỆ BÌ 

Lệ: Đôi lứa. : Miếng da.

Lệ bì là hai miếng da thuộc, để hai họ nhà trai, nhà gái giữ làm tin.

Theo hôn lễ thời xưa, trong lễ nạp trưng dùng hai miếng da, nhà trai giữ một miếng, nhà gái giữ một miếng, đổi cho nhau mỗi bên giữ một miếng để làm bằng, gọi là lễ “Lệ bì”.

Nghi lễ có câu: Nạp trưng huyền huân thúc bạch lệ bì như nạp cát lễ  , nghĩa là lễ nạp trưng có lụa màu đen và màu hồng nhạt và hai miếng da lệ bì giống như đồ lễ nạp cát.



Cũng còn có lễ lệ bì,

Chê loài cẩu hợp răn bề dâm bôn.

(Truyện Trinh Thử).



LỆ CHÂU 

Lệ: Nước mắt. Châu: Hạt ngọc.châu.

Lệ châu là giọt nước mắt đầm đìa rơi xuống, long lanh như hạt châu ngọc.

Do tích thời xưa có loài giao long hóa thành người, gọi là giao nhân , sống trên thế gian lấy vợ, lấy chồng và buôn bán với loài người. Nhưng đến cuối năm lại phải về thủy phủ để chầu vua. Lúc từ biệt gia đình, họ khóc rất thảm thiết, mà khóc bao nhiêu thì nước mắt hóa thành những hạt châu bấy nhiêu. Nên có câu: “Sái giao nhân chi châu lệ  ”, nghĩa là người giao nhân khóc, nước mắt sa xuống thành hạt châu.

Ai ai thương tiếc muôn phần,

Tưởng bề tiếc ngọc đòi lần lệ châu.

(Thiên Nam Minh Giám).



Cha ở đâu, mẹ nơi đâu?

Tâm tang kính gởi một bầu lệ châu.

(Kinh Thế Đạo).



LỆ HỒNG 

Lệ hồng là nước mắt chảy xuống đỏ như máu.

Do tích nàng Tiết Linh Vân con của một vị đình trưởng ở Thường Sơn, nhà rất nghèo, nhưng lại có một nhan sắc tuyệt trần. Quan quận thú mới mua nàng đem dâng cho Nguyên Đế. Khi từ biệt cha mẹ, nàng khóc thảm thiết, đem hứng nước mắt thì thấy giọt nước mắt đong lại đỏ như máu.

Xem: Hồng băng.



Chiều rong ruổi đến trướng hoa,

Tay nâng chén thọ xót xa lệ hồng.

(Lưu Nữ Tướng).



LỆ NGỌC 

Lệ ngọc như chữ “Lệ châu  ”, do tích người giao nhân khóc, giọt nước mắt chảy xuống long lanh như hạt châu ngọc.

Xem: Lệ châu.

E không lệ ngọc mà lên trông lầu,

Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu.

(Chinh Phụ ngâm Khúc).



Dỗ con lệ ngọc li bì,

Hạ ơi! Hạ có biết nghì phu thê ?

(Nữ Trung Tùng Phận).



LỆ QUÂN 

Tức Mạnh Lệ Quân, con gái của đại phu Mạnh Sĩ Nguyên, là một cô gái rất thông minh, giỏi về kinh thi, bách gia chư tử đều thuộc, tinh thông y thuật, cầm, kì, thi, hoạ. Nàng kết giao bằng hữu với Hoàng Phủ Thiếu Hoa, cũng là người có đính ước với Mạnh Lệ Quân từ khi còn nhỏ.

Lương Khuê Bích, con của một vị Thừa tướng muốn Mạnh Lệ Quân nên tìm cách hại cả gia đình Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Nàng Mạnh Lệ Quân giả trai, bỏ lên kinh kỳ ứng thí đậu trạng nguyên, rồi làm quan trong triều đình, giúp cho gia đình Hoàng Phủ Thiếu Hoa và diệt trừ Lương Khuê Bích. Sau Mạnh Lệ Quân và Hoàng Phủ Thiếu Hoa kết duyên với nhau.

Tưởng sắc đẹp Tây Thi là quí,

Chẳng học đòi mưu trí Lệ Quân.

(Phương Tu Đại Đạo).



LỆ U 

Tức là Lệ vương và U vương.

Lệ vương là vua nhà Châu, tính bạo ngược, không kể cang thường, tin dùng kẻ tiểu nhân, không tu nhân chính, giết hại người vô tội, khiến dân chúng oán ghét nổi lên đánh đuổi chạy vào đất Phệ và mất ở đó, trị vì được 51 năm.

U vương là vua nhà Đông Châu, say mê nàng Bao Tự, không lo triều chính, nên sau cũng bị mất nước.

Xem: U Lệ.

Ghét Kiệt, ghét Trụ, ghét Lệ ghét U,

ghét nhân chính chẳng tu,

ghét cang thường nỡ bỏ.

(Sãi Vãi).



LÊNH ĐÊNH

Hay “Linh đinh”.

Lênh đênh hay linh đinh chỉ sự bềnh bồng trôi nổi không có chỗ nương tựa, lưu lạc khắp bốn phương.

Xem: Bèo nước lênh đênh.

1.- Lênh đênh:

Chân trời mặt bể lênh đênh,

Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào,

(Truyện Kiều).



Lênh đênh chút phận bèo mây,

Duyên kia đã vậy thân này nương đâu.

(Ai Tư Vãn).

2.- Linh đinh:

Chàng thì biển cả vơi vơi,

Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Điều bạo tàn chẳng đủ tội hình,

Đày mãn kiếp linh đinh phận gái.

(Phương Tu Đại Đạo).



LỆNH ÁI 

Lệnh: Tiếng tôn xưng người thân của kẻ khác. Ái: Yêu mến.

Lệnh ái là tiếng tôn xưng con gái yêu của một người khác.



Có quan xu mật đương triều,

Rắp đem lệnh ái lọng điều ép duyên.

(Lưu Nữ Tướng).



LỆNH CHỈ 

Lệnh: Sai khiến. Chỉ: Mệnh lệnh của nhà vua, hoặc của cac quan có quyền ban ra.

Lệnh chỉ tức là ra lệnh bằng chỉ thị của vua hay của quan tướng.



Cung nga, thể nữ nối sau,

Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.

(Truyện Kiều).



LỆNH TIỄN 

Mũi tên có mang cờ hiệu lệnh.

Theo quan chế nhà Thanh, lệnh tiễn là một cây cờ lệnh, thân là một mũi tên nhọn làm bằng sắt, và một lá cờ bằng lụa, hình tam giác, trong có đề chữ lệnh và quan hàm, dành cho Đại tướng quân, Đốc phủ; còn Tướng quân và Đô thống thì dùng lá cờ hình vuông.

Lại sai lệnh tiễn truyền qua,

Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.

(Truyện Kiều).



Ruổi mau lệnh tiễn hỏa bài,

Mấy ngày thoắt đã tới nơi Châu Thường.

(Nhị Độ Mai).



LỆNH TỘC 

Lệnh: Tiếng tôn xưng. Tộc: Dòng họ.

Lệnh tộc là tiếng gọi một cách tôn kính họ tộc của người khác.



Mấy nơi lệnh tộc công khanh,

Lá hồng xuôi ngược sử xanh dập dìu.

(Lưu Nữ Tướng).



LY HOÀI 

Ly: Xa cách. Hoài: Nhớ nhau.

Ly hoài tức là xa cách nhau mà thương nhớ nhau.



Thơ nhã ái bốn câu đôi vận,

Rượu ly hoài ba chén làm khuyây.

(Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm).



LY LOAN 

Ly: Chia lìa. LoanChim loan, một loài chim mái, phụng chim trống, chỉ vợ chồng.

Ly loan tức là xa cách con chim loan, nói vợ chồng chia lìa nhau.



Đàn tiếng ly loan tay ngại gẩy,

Lấy ai lần gỡ mối sầu xong.

(Sơ Kính Tân Trang).



LY MINH 

Ly: Cung ly, một trong tám quẻ của Dịch, thuộc về phương nam. Minh: Sáng.

Ly minh nghĩa là ánh sáng của quẻ ly, thuộc hoả.



Nam giao là cõi ly minh,

Thiên thư định phận rành rành từ xưa.

(Quốc Sử Diễn Ca).

LY SƠN 

Tên một ngọn núi ở phía đông nam tỉnh Thiểm Tây, cũng có tên là Ly Nhung Sơn, bởi vì ngày xưa nơi đó là nước Ly Nhung.

Vì cái cười của Bao Tự, mà làm kế đốt phong hoả đài để gạt các chư hầu, cho nên sau này dưới núi Ly Sơn chính là nơi Châu U Vương bị rợ Khuyển Nhung đánh và giết chết, không có chư hầu nào đến cứu giá.

Cũng tại nơi đó Tần Thuỷ Hoàng đã làm đường, làm gác, sau này mất cũng được táng dưới núi Ly Sơn ấy. Đời Đường Minh Hoàng cho xây Thanh Hoa cung và xây hồ tắm cho Dương Quý Phi cũng ở dưới núi Ly Sơn này.



Ly Sơn cười một phút,

Bao Tự kia lầm hết chư hầu.

Vị Thuỷ đòi phen,

Dương Phi nọ độc hòa thiên hạ.

(Cung Trung Bảo Huấn).



Ví thân đã lây hương cấm dịch,

cỏ Ly Sơn đành lấp tóc da ròi.

(Tần Cung Nữ).



LY RƯỢU TRĂM THI

Uống rượu vào làm một trăm bài thơ.

Do tích Lý Bạch, một nhà thơ đời Thịnh Đường, giỏi rượu hay thơ, càng uống rượu vào chừng nào, thơ lại càng hay chừng nấy (Tửu nhập thi xuất).

Đỗ Phủ nói về Lý Bạch có tặng bài thi như sau: Lý Bạch đẩu tửu thi bách thiên, Trường An thị thượng tửu gia miên. Thiên tử hô lai bất thượng thuyềnTự xưng thần thị tửu trung tiên  , , , .

Xem: Lý Bạch.

Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,

Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



LY TAO 

Ly Tao là tên một thiên trong Sở Từ do Khuất Nguyên trước tác.

Khuất Nguyên tên Bình, làm chức Tả đồ cho Sở Hoài Vương, học rộng, giỏi về chính trị lại có tài văn chương. Mới đầu được vua rất tin dùng, sau bị gièm pha khiến vua Sở Hoài Vương ghét bỏ. Ông âu sầu, buồn bã mà viết nên thiên “Ly Tao” để tả nỗi lòng yêu nước thương dân không sợ chết, qua đó nói lên thái độ, nguyện vọng của nhân dân nước Sở sống dưới ách bốc lột nặng nề của triều đình nước Sở đang ngày một suy đồi.bị vua bỏ. Ông có viết: Khởi dư thân chi đạn ương hề, Khủng hoàng dư chi bại tích  , , nghĩa là ta nào sợ chết hề, lo cho triều đình suy sụp.

Một khúc Ly Tao buồn biếng đọc,

Đôi hàng giọt ngọc đượm bằng mưa.

(Hồng Đức Quốc Âm).



LÝ BẠCH 

Lý Bạch quê ở đất Thục, làng Thanh Liên, huyện Xương Minh, tỉnh Tứ Xuyên, tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên Cư Sĩ, là một thi hào bậc nhứt đời Đường, tính tình hào hiệp, thích uống rượu ngâm thơ.

Bạn của Lý Bạch là Hạ Tri Chương xem ông như trích tiên xuống trần, mới tiến cử đến Đường Huyền Tông, được vua phong chức Hàn lâm, và rất được yêu kính. Sau bị Cao Lực Sĩ gièm pha với Dương Quý Phi, nên vua không tin dùng nữa và đuổi về.

Nhân loạn An Lộc Sơn, Lý Bạch bị liên can với Lân Đương nên bị bắt giam, rồi bị đày, sau được đại xá. Đời vua Túc Tông 762, Lý Bạch mất, thọ 61 tuổi.



Thôi ngày trọn, lại đêm thâu,

Cạn chung Lý Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Khi lựa vận lúc so tơ,

Khi bầu Lý Bạch, khi cờ Trương Ba.

(Bần Nữ Thán).



Thiên cổ vị văn song Lý Bạch.

Nhất niên hà đắc lưỡng Đông Quân.

(Thơ Tản Đà).



LÝ CÔNG UẨN 李公

Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, nay thuộc huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc Ninh.

Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiêu Sơn, nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai sinh ra đứa con trai. Được ba tuổi đem cho vị sư ở chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là Lý Công Uẩn.

Công Uẩn lớn lên vào Hoa Lư làm quan triều Tiền Lê đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Khi vua Lê Long Đĩnh mất, thì Lý đã hơn 35 tuổi. Lúc bấy giờ lòng người đã oán hận nhà Tiền Lê lắm, ở trong triều có Đào Cam Mộc cùng với Sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, tức là Thái Tổ nhà Lý.



Bắc giang trời mở thánh minh,

Lý Công tên Uẩn nhân tình đới suy.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LÝ ĐỖ 

Lý, Đỗ tức Lý Bạch và Đỗ Phủ, là hai đại thi hào đời nhà Đường của Trung Quốc.

Xem: Lý Bạch và Đỗ Phủ.

Tài này Lý, Đỗ một hai,

Xuân in cảo liễu, tuyết tươi nét tùng.

(Mai Đình Mộng Ký).



Thi hào dậy tiếng Phượng thành,

Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



LÝ ĐỐI 

là tên của Bá Ngư, con đức Khổng Tử. Khổng Tử cho Bá Ngư học ở bên ngoài, thỉnh thoảng về có hỏi sự học thì Bá Ngư mới nói. Người đời sau, con nói với cha, thì gọi là “Lý đối”.



Đợi ngày khác đi trình lý đối,

May hôm nay được tới cửa rồng.

(Thơ Lãng Nhân).



LÝ LĂNG 

Lý Lăng là cháu của danh tướng Lý Quảng đời nhà Hán, cha là Dương Hộ mất lúc Lý Lăng vừa mới sinh.

Lý Lăng được vua phong là Kỵ đô uý, đem năm nghìn quân sĩ đánh sâu vào đất Hung Nô, sức địch không nổi phải hàng quân giặc, được thiền vu gả con gái cho và trọng dụng ông. Vua Hán hay tin, hạ lệnh giết cả nhà Lý Lăng.

Đá kêu rêu mọc bia Dương Nghiệp,

Cỏ úa hoa tàn mã Lý Lăng.

(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).



LÝ MIÊU 

Con mèo họ Lý, tức là Lý Lâm Phủ, người đời Đường Cao Tông, trong bụng rất hiểm độc, nhưng ngoài mặt vẫn làm bộ nhu mì, người đương thời đặt tên cho ông ấy là Lý Miêu, tức là con mèo họ Lý.

Xem: Lâm Phủ.

Vẫy vùng ếch giếng tự kiêu,

Tham lam chẳng khác Lý miêu đời Đường.

(Truyện Trinh Thử).



LÝ NHĨ 

Tức là Lão Tử, người nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ.

Ngài họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam. Ngài làm quan giữ Tàng thất (Kho sách) ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Châu.

Lão Tử có đến cửa ải Hàm Cốc, quan lệnh là Doãn Hỷ biết Ngài là một Thánh nhân nên tôn Ngài làm Thầy để xin theo học Đạo.

Lão Tử ở lại Hàm Cốc dạy Đạo cho Doãn Hỷ và soạn ra bộ sách nói về Đạo Đức, sách phân làm hai thiên, gồm có trên 5000 chữ. Sau này, quyển sách đó được gọi là “Đao Đức Kinh”.

Đức Lão Tử được vua Đường Cao Tông nhìn là thủy tổ, nên truy phong cho Ngài “Huyền Nguyên Hoàng Đế”.

Tương truyền Lão Tử là chơn linh của Đức Thái Thượng Đạo Quân hóa sinh ra, là giáo chủ của Đạo Tiên.

Ngọc Hoàng nghĩ đến gần xa,

Kip sai Lý Nhĩ xuống qua phàm trần.

(Tây Sương).



LÝ QUẢNG 

Lý Quảng làm quan đến chức Hữu Hình Bắc Hải Thái Thú đời Hán Võ Đế, có tài thao lược, giặc Hung Nô phải sợ, song chỉ vì có số kỳ dị mà không được phong hầu.



Số đâu Lý Quảng phong hầu,

Phùng Đường lận đận bạc đầu luống công.

(Thơ Lãng Nhân).



LÝ SINH 

Tức Lý Mật, người đời Tuỳ, quê ở Tương Bình, tính ham học, thường cỡi trâu thả trong miền núi, ngồi trên mình trâu đọc sách. Lúc nhà Tuỳ loạn, giúp con Dương Tố là Dương Huyền mưu tranh thiên hạ, nhưng bị Vương Thế Sung đánh bại, phải về hàng nhà Đường, làm quan tới chức Quan lộc khanh.

Xem: Treo sách trên sừng.

Lý sinh chẳng quản công phu,

Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.

(Gia Huấn Ca).



LÝ SƯƠNG 

: Giẫm lên, đạp. Sương: Hạt sương.

Lý sương là giẫm lên sương, ý nói phải đề phong tai hoạ đến.

Dịch có câu: Lý sương, kiên băng chí , nghĩa là giẫm lên sương lạnh, phải nghĩ đến giá tuyết đến.

Đồng thân kim cốt ai đương,

Lăng vân là chí lý sương là lòng.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LÝ TƯ 

Lý Tư là Tể tướng của vua Tần Thuỷ Hoàng, dùng chính sách của Hàn Phi Tử, tức theo phái pháp gia, thống nhứt tư tưởng, lấy quan nhà Tần làm thầy, để nhất trí văn tự, nên đề nghị vua thu hết sách vở trong nước đốt đi, ai phản đối thì đem chôn sống (Phần thư khanh nho).

Khi Tần Thuỷ Hoàng mất, Hoạn quan Triệu Cao giả mạo chiếu chỉ giết Thái tử Phù Tô, lập con thứ của Thuỷ Hoàng là Hồ Hợi lên làm vua, tức Nhị Thế Hoàng Đế. Khi mạo chỉ, Triệu Cao mưu tính với Lý Tư, Lý Tư do dự, nên Triệu Cao nghi ông, tố cáo ông với Nhị Thế Hoàng Đế là có ý làm phản; vì vậy ông bị giết chết.

Trất bánh xe là bởi tội Lý Tư,

nào ai đem nhất tiếu khuynh thành,

mà dượng Võ gọi vong Tần cho đáng;

(Tần Cung Nữ).



LÝ UYÊN 

Tức là vua Cao Tổ đời nhà Đường. Khi còn hàn vi nghe tin Đậu Nghị cho vẽ hình chim sẻ vào bức bình phong để cho các thanh niên thi bắn, nếu ai bắn trúng vào mắt chim, sẽ được gả con gái cho.

Lý Uyên bắn trúng nên được Đậu Nghị nhận làm con rể. Sau Lý Uyên làm vua tức là Đường Cao Tổ và phong cho con gái Đậu Nghị làm Hoàng Hậu.

Xem: Bắn sẻ.



Cũng như thiếp nặng khối tình,

Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).

 

LỊCH SẮC

Lịch: Tức lịch sự, chỉ sự đẹp đẽ. Sắc: Sắc đẹp.

Lịch sắc là nhan sắc lịch sự, tức nói người phụ nữ có nhan sắc sinh đẹp.



Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,

Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LỊCH SỰ 

Lịch: Trải qua, từng trải. Sự: Việc.

Lịch sự là người từng trải việc đời.



Làm người chấp nhứt sao đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngành,

Hễ là lịch sự có kinh có quyền.

(Lục Vân Tiên).

LỊCH TRIỀU 

Lịch: Trải qua. Triều: Triều đại, chỉ thời gian trị vì của một ông vua.

Lịch triều có nghĩa là trải từ triều vua này qua triều vua khác.



Phồn hoa nổi áng thị thành,

Này Phù thạch phố là danh lịch triều.

(Mai Đình Mộng Ký).



LIÊM CẦN 

Liêm: Ngay thẳng. Cần: Siêng năng.

Liêm cần tức là chỉ người có tính ngay thẳng thanh liêm và siêng năng, cần mẫn.



Liêm cần tiết cả tua hằng nắm,

Trung hiếu niềm xưa mựa nỡ dời.

(Quốc Âm Thi Tập).



LIÊM KHÊ 

Nơi ở của Chu Đôn Di , vì ông ở Liêm Khê cho nên người đời gọi ông là Liêm Khê Tiên sinh.

Chu Đôn Di là nhà triết học đời Tống, sinh năm 1017, chết năm 1093. Ông là người gốc ở Đạo Châu, thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ. Ông dựng lên nền Lý học, và phát huy “Dịch truyện” trong “Thái cực đồ”.

Đầu non Thiếu Thất đen bằng mực,

Dòng nước Liêm Khê lục nữa lam.

(Thơ Nguyễn Trãi).



LIÊM LẠC 

Chỉ hai triết gia đời nhà Tống.

Liêm, tức là Liêm Khê, chỗ ở của Chu Đôn Hy, là ông tổ lý học của đời nhà Tống và là thầy của Trình Di, Trình Hạo.

Lạc, tức Lạc Dương, nơi ở của hai anh em Trình Di và Trình Hạo.



Thương thầy Liêm Lạc đã ra,

Bị đời xưa đuổi về nhà giáo dân.

(Lục Vân Tiên).



LIỄM DUNG 

Liễm: Thu góp. Dung: Dáng mặt.

Sửa đổi, nghiêm chỉnh lại bộ mặt gọi là liễm dung.



Ra đi vừa thuở bình minh,

Thể Loan đứng trước lê https://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngđình liễm dung.

(Lục Vân Tiên).

LIÊN CHI 

Có hai nghĩa:

1. Liền cành hay giao cành.

Do tích: Vợ Hàn Bằng tên là Hà Thị, là người đàn bà đẹp người đẹp nết, đến đổi Tống Khang Vương thấy rồi mê thích. Nhưng biết Hà Thị là người tiết hạnh, khó mà ép uổng cho được, bèn ra lịnh giết Hàn Bằng. Vậy mà Hà Thị vẫn cương quyết không chịu thất thân với Khang Vương, cắn lưỡi tự tử và để lại một bức thư xin được chôn chung với chồng.

Tống Khang Vương tức giận, chôn hai người cách xa nhau nhưng hai mộ đối nhau. Sau người ta thấy mỗi cái mộ mọc lên một cây to, trên thì có cành giao nhau, còn dưới thì rể ăn liền với nhau.

Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ,

Đồ liên chi lần trỏ hoa kia.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Khoe khoang vẻ thắm màu xanh,

Kìa hoa tịnh đế nọ cành liên chi.

(Lộ Địch Diễn Ca).

2. Liên chi còn có nghĩa chỉ anh em cùng nòi giống, cũng như các cành cây từ một gốc sinh ra.

Tô Vũ có câu: Huống ngã liên chi thụ, dữ tử đồng nhất nhân  , , nghĩa là huống ta như cây liền cành, với ngươi cùng một thân.



LIÊN ĐÀI 

Liên đài là đài sen hay tòa sen.

Đài sen như một chiếc xe Thiêng liêng (Liên đài) đưa các Chơn linh đắc Đạo vào cõi Tây phương Cực Lạc. Liên đài còn là một Toà sen, nơi ngự của chư Phật và Bồ Tát.

Liên đài may nở thêm hoa.

Lão Đam cũng biết, Thích Già cũng quen.

(Kinh Tận Độ).



Tiên phong phủi ngọn phất trần,

Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.

(Kinh Thế Đạo).



LIÊN NGÂM 

Liên: Nối tiếp. Ngâm: Ngâm thơ, tức đọc thơ theo giọng trầm bổng.

Liên ngâm tức là cùng nhau làm thơ, người này làm xong thì ngâm lên, rồi các người kế tiếp nối theo như thế cho đến hết bài.



Liên ngâm đối ẩm đòi phen,

Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LIÊN THÀNH BÍCH 

Ngọc liên thành, tức là viên ngọc đổi với mười lăm thành.

Do điển: Triệu Huệ Vương đời Chiến Quốc được viên ngọc bích của Biện Hoà. Vua Chiêu Vương nhà Tần nghe được, gửi thư cho vua Triệu ngỏ ý muốn đem mười lăm thành đổi lấy viên ngọc ấy.

Lạn Tương Như dâng ngọc lên vua Tần, thấy ý vua không muốn giao thành, lừa lấy lại rồi đem giao trả về nước Triệu (Hoàn bích quy Triệu).

Xem: Lạn Tương Như.

LIÊN TRÌ 


Liên: Bông sen. Trì: Ao.

Liên trì là ao sen.



Sao bằng vui thú liên trì,

Dứt không tứ tướng, sá gì nhị biên.

(Quan Âm Thị Kính).



LIÊN Xà

Sư Tề Dĩ đời nhà Đường có biên soạn tập Bạch Liên, cũng được gọi là Bạch Liên xã, trong đó chữ viết và nét họa thành một trường phái đặc biệt, người ta gọi là thư hoạ “Liên xã”.



Tuyết Bá Ngạn, hoa Đỗ Lăng, chẳng câu chẳng lạ.

Thiếp Lan Đình, tập Liên Xã, mọi nét mọi màu

(Thập Giới Cô Hồn).



LIỀN NHÀNH

Liền nhành, cũng như liền cành, bởi chữ “Liên chi  ” tức là cành của hai cây liền với nhau, chỉ tình yêu chung thuỷ, gắn bó.

Do tích hai cây mọc trên mộ của vợ chồng Hàn Bằng có cành ôm liền với nhau.

Xem: Liên chi.



Liền nhành xưa đã thệ cùng nhau,

Sao nỡ để gương kép hại đào.

(Đạo Sử).



LIỆP ĐIỀN 

Liệp: Săn thú. Điền: Đi săn.

Liệp điền là đi săn bắn thú rừng.



Nghĩ trong điều ấy nghi thầm,

Truyền ra một lịnh: sơn lâm liệp điền.

(Dương Từ Hà Mậu).



LIỆT HẦU 

Liệt: Chỉ số nhiều. Hầu: Một trong năm tước.

Liệt hầu tức là chỉ chư vị tước hầu.

Đời nhà Hán ở Trung Quốc, con vua được phong hầu, gọi là chư hầu. Các quan khác họ với vua, vì công lao được phong hầu gọi là “Liệt hầu”.

Người tài lược, kẻ tinh trung,

So vào công tải đều phong liệt hầu.

(Hoa Tiên Truyện).



LIỆT NỮ 

Liệt: Ngay thẳng, cứng rắn. Nữ: Người con gái.

Liệt nữ là những người phụ nữ kiên trinh, có khí tiết khẳng khái, anh hùng, không chịu khuất phục.



Chở che khỏi kiếp phong trần,

Gìn gương liệt nữ hồng quần để soi.

(Kinh Thế Đạo).



LIỆT SĨ 

Liệt: Cứng cỏi, ngay thẳng. : Kẻ sĩ.

Liệt sĩ là người lấy nghĩa làm trọng, coi cái chết làm nhẹ, tức là người anh hùng chiến sĩ chết vì chính nghĩa, vì quốc gia dân tộc.



Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,

Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LIÊU HỮU 

Liêu: Quan. Hữu: Bạn bè.

Liêu hữu là bạn cùng làm quan với nhau.



Ân sư liêu hữu có ai,

Môn sinh xin được một người là may.

(Nhị Độ Mai).



LIỄU BỒ 

Liễu bồ là loại cây thuỷ dương mọc bên bờ nước, thể chất yếu ớt.

Liễu là dương liễu, bồ là cỏ bồ. Cây liễu mềm mỏng, cỏ bồ yếu ớt, nên người ta thường ví với người phụ nữ yếu đuối.

Xem: Bồ liễu.



Hãy xin hết kiếp liễu bồ,

Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau.

(Truyện Kiều).



Dạy rằng: May rủi đã đành,

Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.

(Truyện Kiều).



Liễu bồ đôi chút cành thơ,

Bao giờ bíu díu, bao giờ bồng mang.

(Tự Tình Khúc).



Hễ người mạnh thì hay cậy sức,

Phận liễu bồ lấy lực mưu mô.

(Phương Tu Đại Đạo).



LIỄU CHƯƠNG ĐÀI 

Cây liễu ở Chương Đài, trong thành Trường An, chỉ người yêu đã xa cách.

Do tích chép trong Toàn Đường Thi Thoại: Hàng Hoành yêu một kỹ nữ là Liễu Thị ở đường Chương Đài, tại Thành đô. Sau Hàng Hoành làm quan xa, Liễu Thị ở nhà bị giặt cướp mất. Hoành bèn viết lá thư gửi cho Liễu trong ấy có câu: Chương Đài liễu! Chương Đài liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thuỳ, dã ưng phan chiết tha nhân thủ!  ! ! ? 使 , , nghĩa là Liễu Chương Đài! Liễu Chương Đài! Ngày trước xanh xanh nay có còn không? Cho dù cành dài còn buông rủ như cũ thì hẳn tay người khác bẻ mất rồi. Sau Liễu Thị xem xong bèn trả lời: Dương liễu chi phương phi tiết, khả hận niên niên tặng ly biệt. Nhất diệp tuỳ phong hốt báo thu, túng sử quân lai khải kham chiết  , . , 使 , nghĩa là cành dương liễu đang lúc tốt tươi, đáng hận năm năm tặng ly biệt. Lá rơi theo gió báo thu sang, nếu anh có đến thì cũng không bẻ được. Về sau nhờ Hứa Tuấn tìm cách đưa Liễu về sum họp với Hàng Hoành.

Khi về hỏi Liễu Chương đài,

Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.

(Truyện Kiều).



Trăng thề vẫn đó tri tri,

Liễu Chương đài biết nay đi đâu rồi.

(Hoa Tiên Truyện).



Xanh xanh khóm liễu Chương đài,

Tiếc thay đã để tay ai vin cành.

(Quan Âm Thị Kính).



Chê vành xuân hết bịu mai,

Kiếm đường hỏi Liễu Chương đài bao mươi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LIỄU DOANH

Bởi chữ “Doanh liễu  ” tức Dinh Tế Liễu, tên một nơi đóng quân ở đất Tế Liễu.

Châu Á Phu đóng quân để chống cự với rợ Hồ ở tại đó. Vua thân hành đến uỷ lạo quân sĩ tại Dinh Tế Liễu thấy nơi đóng quân kỷ luật rất nghiêm minh, bèn khen rằng: Đây mới thực đáng là một vị tướng quân.

Xem: Doanh liễu.



Vâng ra trấn được Chiêm Thành,

Á Phu truyền lịnh liễu doanh nghiêm đồn.

(Thiên nam Ngữ Lục).



LIỄU DƯƠNG 

Tức cây liễu và dương, cùng một loại nhưng hai cây khác nhau. Dương có cành cứng và thẳng lên, còn liễu thì cành mềm rủ xuống. Nhưng về sau người ta thường gọi chung là dương liễu.

Xem: Dương liễu.

Quân đưa chàng ruổi lên đường,

Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LIỄU YẾU ĐÀO THƠ

Liễu yếu đào thơ tức là yếu ớt như cành liễu, non nỏn như hoa đào, dùng để chỉ về thể chất người đàn bà con gái mềm mại, non nớt.



Chút tôi liễu yếu đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngào thơ,

Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.

(Lục Vân Tiên).



LIỄU MAI 

Cây liễu và cây mai, là hai loại cây mềm mại, thước tha nên thường ví với người con gái mảnh mai.



Cội thung thấy càng cao tuổi hạc,

Nhớ liễu mai chếch mác mà đau.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LIỄU NGÕ HOA TƯỜNG

Cây liễu ngoài ngõ, cây hoa bên tường, ai muốn bẻ hái gì cũng được, ý chỉ những người con gái không giữ phẩm giá, hoặc chỉ gái lầu xanh, ai bỏ tiền ra cũng chiếm được.



Sá chi liễu ngõ, hoa tường,

Lầu xanh, lại bỏ ra phường lầu xanh.

(Truyện Kiều).



Bông dầu đẹp, khá gìn hương,

Quý chi liễu ngõ hoa tường trao duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LIỄU NHỨ 

Liễu: Cây liễu. Nhứ: Thứ hoa có chất mềm nhẹ bay bốc ra được.

Chữ “Liễu nhứ” là cái lông nhỏ mềm trên trái liễu, do tích Tạ Đạo Uẩn đời Tấn có tài văn chương, đã dùng chữ “Liễu nhứ” ví với cảnh tuyết rơi. Vì vậy, chữ “Liễu nhứ” hoặc “Liễu nhứ tài” được dùng để chỉ văn tài của phụ nữ.



Câu thơ liễu nhứ ngâm chơi,

Dẫu tài nàng Tạ đã xơi cho tày.

(Quan Âm Thị Kính).



LINH CỮU 

Linh: Chỉ người đã chết. Cữu: Cái hòm dùng để đựng xác người đã chết.

Linh cữu cùng nghĩa với quan tài, là một vật dùng để tẩn liệm xác người đã chết.



Xin đem linh cữu để nhờ,

Giục chàng Mai Bạch về nhà đưa tin.

(Nhị Độ Mai).



LINH CHI SINH DIỆP 

Do câu: Thuỵ ái Tống đình, tháp hạ linh chi sinh diệp  , , nghĩa là điềm tốt gom triều Tống, dưới giường nằm cỏ linh chi mọc lá.

Tống Thư chép: Dưới giường ngủ mẹ vua Nhân Tôn nhà Tống, mọc lên một cây cỏ linh chi có 42 lá. Sau đó, sinh vua Nhân Tôn, lên ngôi trị vì thiên hạ, tại vị 42 năm.

LINH ĐÀI 

Linh đài là một cái đài cao thiêng liêng.

Linh đài còn được dùng để chỉ trái tim hay tấm lòng, vì tim coi như một vật thiêng liêng sáng suốt.

Công minh làm cho người nhường chúng,

Tấm linh đài chẳng động thị phi.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



Am quạnh thiêu hương đọc ngũ kinh,

Linh đài sạch một đường thanh.

(Quốc Âm Thi Tập).



Thơ cao ẩn tay đằng nên tập,

Bức linh đài bút rập vào tranh.

(Tự Tình Khúc).



LINH ĐƠN 

Linh: Thiêng liêng. Đơn: Hay đan là thuốc.

Linh đơn (Linh đan) là thứ thuốc thiêng liêng do các vị Tiên luyện thành, uống vô rất thần hiệu.



Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,

Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LINH HỒN 

Linh: Chỉ người chết. Hồn: Chỉ phần tinh thần mà các tôn giáo đều cho là độc lập với thể xác.

Linh hồn, còn gọi là vong hồn, tức là hồn của người chết.



Giữ cho trong sạch linh hồn,

Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.

(Sám Hối Kinh).



LINH PHAN 

Linh: Thiêng liêng. Phan: Cây phướn, một cây tựa như lá cờ, bề ngang hẹp, có chiều dài, rìa lá phướn có ren lụa thêu rũ xuống.

Linh phan là phướn linh, tức cây phướn linh thiêng, theo bí pháp tôn giáo, cây phướn là một bửu pháp dùng để dìu dẫn các Chơn linh về cõi Thiêng Liêng, hay cõi Phật.



Nỗi cơn lệ vũ sầu vân,

Vang hồi pháp khí, rung cành linh phan.

(Quan Âm Thị Kính).



Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,

Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.

(Kinh Thế Đạo).



LINH PHỤNG NGÔ ĐỒNG 

Linh Phụng: Chim phụng hoàng, là một giống chim trong bốn vật linh (Tứ linh): Long, Lân, Qui, Phụng. Ngô đồng: Một loại cây mùa thu thì lá rụng.

Chim phụng hoàng là một loại chim linh, ưa thích âm nhạc, có lông ngũ sắc. Trong kinh Thư, thiên Ích Tắc có nói: Khi nhạc tiêu thiều tấu đến khúc thứ chín, thì chim phượng hoàng đến múa, có vẻ uy nghi Tiêu thiều cửu thành, phụng hoàng lai nghi  , .

Sách xưa cho rằng loại chim này chỉ tìm cây ngô đồng mà đậu ví với kẻ hiền tài chọn vua sáng (Như cây ngô đồng) mà phò.

Kinh Thi có câu: Phụng hoàng minh hỹ, vu bỉ cao cương. Ngô đồng sinh hỹ, vu bỉ triêu dương… , . , …, nghĩa là chim phượng hoàng cùng hót, ở trên đồi cao kia. Cây ngô đồng mọc tốt tươi, nơi sườn đồi mé đông.



Ngày nay thánh chúa trị đời,

Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng.

(Lục Vân Tiên).



LINH SÀNG 

Linh: Thiêng liêng. Sàng: Giường.

Linh sàng là một cái giường dùng để thờ người mới chết, tục gọi là giường thờ.



Sang nhà cha tới trung đường,

Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.

(Truyện Kiều).



Vật mình lăn trước linh sàng,

Khúc oan kể lể nỗi thương ngậm ngùi.

(Nhị Độ Mai).



LINH SƠN 

Còn gọi là “Linh Thứu  ”.

Tên một ngọn núi gần thành Vương Xá, Ấn Độ, nơi Đức Phật Thích Ca thường hay đến trú ngụ. Tương truyền Phật đã thuyết Kinh Pháp Hoa tại nơi đây.

Núi Kỳ Xà Quật được Hán dịch âm là núi Linh Thứu (Thứu là con chim ó) vì đỉnh núi có dạng giống như chim ó.

Phật giáo cho cảnh quang núi Linh Thứu hay Linh Sơn là nơi danh lam thắng cảnh.

Linh Sơn am quê ngụ,

Sãi sắc tứ tu trì.

(Sãi Vãi).



LINH TÊ 

Linh: Thiêng liêng. : Con tê giác (Tây ngưu).

Tục truyền sừng con tê giác thông hai đầu, rất linh thiêng, nên còn gọi là thông tê.

Theo Châu Dị Vật Chí, con tê giác là một con vật thần dị, cái sừng tiêu biểu sự linh thiêng của nó, nên mới gọi là “Linh tê”.

Mật bảo kính soi lòng ky tử,

Đuốc linh tê thấu chữ kỳ oan.

(Tự Tình Khúc).



LĨNH NAM 

Hay “Lãnh Nam”.

Lĩnh Nam là tên đất ở vào phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Người Trung Hoa thời xưa thường gọi chung đất đai ở phía nam núi Ngũ Lĩnh gồm Quảng Đông, Quảng Tây và nước ta.

Lĩnh nam mấy chốn bièn thùy,

Quế lâm, Tượng quận thu về bản chương.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,

Lĩnh nam riêng một triều đình nước ta.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LO BA

Hay “Lo bảy lo ba”.

Chữ “Lo ba” hay “Lo bảy lo ba” được dùng để diễn tả nhiều nỗi suy tư, lo lắng.

1.- Lo ba:



Cả triều kinh hãi lo ba,

Nay mà chẳng thuận ắt ra sự rầy.

(Hạnh Thục Ca).

2.- Lo bảy lo ba:

Một mình lo bảy lo ba,

Lo cau trổ muộn lo già hết duyên.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LO TOAN

Lo toan tức là lo nghĩ, tính toán thiệt hơn một cách cặn kẻ.



Cắp nắp làm chi hỡi thế gian,

Có thì ăn mặc chớ lo toan.

(Quốc Âm Thi Tập).



Quan tài sơn đỏ thếp vàng,

Vải sô nhang giắt lo toan chẳng chầy.

(Quan Âm Diễn Ca).



Thi họa vừa khi bước hứng nhàn,

Vòng trần luân chuyển luống lo toan.

(Đạo Sử).



LÒ CỪ

Lò cừ là chiếc lò to lớn, do chữ ở bài phú của ông Giả Nghị có câu: Thiên địa vi lô hề tạo hoá vi công  , , nghĩa là trời đất làm cái lò mà Đấng Tạo hoá làm thợ để đúc nặn ra vạn vật.



Lò cừ nung nấu sự đời,

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LÒ HOÁ CÔNG

Lò Hóa công, hay lò Tạo hóa.

Do trong bài phú của Giả Nghị nói: Trời đất làm cái lò, mà Đấng Tạo hóa làm thợ để đúc nặn ra muôn vật. Xem: Lò cừ.

Lò Tạo hoá chỉ Đấng Tạo Hoá.

Vàng son thêm nét điểm tô,

Bây giờ mới rõ thực lò Hoá công.

(Nhị Độ Mai).



Trên đường Thánh đức lần dò,

Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hoá công.

(Kinh Thế Đạo).



LÒ LỬA MŨI LÔNG

Lò lửa do chữ “Hoả tốc  ”, tức là giấy tờ, công văn muốn chuyển đi gấp, đều có kèm theo cục than, ý muốn nói gấp như lửa đốt.

Mũi lông bởi chữ “Vũ hịch  ” hay “Vũ thư  ”. Vũ hịch, Vũ thư tức là truyền bài hịch hay công văn, giấy tờ đi gấp thì phải cắm trên cờ một cái lông gà làm hiệu.

Lò lửa mũi lông là có ý nói truyền hịch hay văn thư đi nhanh đi gấp.



Thừa cơ lò lửa mũi lông,

Cúc kềnh lớp lớp, bụi hồng lưng lưng.

(Hoa Tiên Truyện).



LOA THÀNH 

Còn gọi là Cổ Loa thành, một cái thành xây hình xoắn ốc do vua Thục An Dương Vương dựng lên, thuộc tỉnh Vĩnh Yên ngày nay.



Thục từ dứt nước Văn lang,

Đổi tên Âu lạc, mới sang Loa thành.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Vua Thục lúc ấy,

Xây đắp Loa thành.

Xây lên bổ xuống,

Ai nấy đều kinh.

(Việt Sử Tứ Tự Ca).



LOÀ MÂY

Loà mây tức là che khuất và làm mờ cả bầu trời, ý muốn nói một vụ án hết sức oan uổng.



Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,

Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.

(Truyện Kiều).



LOÀI CẦM THÚ

Cầm là loài chim, thú là loài muông, tức loài động vật có vú, có bốn chân.

Loài cầm thú tức là loài vật thuộc giống chim và giống thú, tức là loài vật có lông cánh, bay được và loài vật đi trên đất.

Mặc loài cầm thú vào ra,

Nhện che phượng các yến ca Yên thành.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LOÀI CHIM CHẮP CÁNH

Theo sách Nhĩ Nhã, ở phương nam nước Tàu có loài tỷ dực điểu , tức là chim liền cánh. Loại chim này chỉ có một cánh và một mắt, nếu hai con không chắp liền cánh với nhau thì không bay được.



Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,

Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LOÀI ẾCH GIẾNG

Loài ếch giếng tức là loài ếch ở dưới đáy giếng.

Do câu tục ngữ “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung” để chỉ người có kiến thức thiển cận, hẹp hòi.

Học loài ếch giếng khoe khoang,

Tử Dương ngỡ đã vẻ vang hơn người.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LOÀI ONG TAY ÁO

Do câu thành ngữ: “nuôi ong tay áo”.

Loài ong tay áo nghĩa là đem loài ong nuôi trong tay áo thì sẽ bị chính ong chích, ý chỉ kẻ phản chủ, hưởng của chủ mà chống lại chủ.

Phải chừa thói loài ong tay áo,

Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà.

(Kinh Sám Hối).



LOAN CHUNG PHỤNG CHẠ

Như chữ “Phụng chạ loan chung”.

Phụng loan ví với trai gái, hay vợ chồng. Chung chạ ý chỉ ân ái, sum họp.

Loan chung phụng chạ có ý nói trai gái, vợ chồng ăn ở, sống sum họp với nhau.

Xem: Phụng chạ loan chung.

Đâu đến đỗi loan chung phụng chạ,

Lại rời ra hai ngã phụ phàng nhau.

(Phương Tu Đại Đạo).



LOAN GIÁ 

Loan: Cái lục lạc. Giá: Xe của vua đi.

Loan giá là xe của vua đi có chạm hình chim loan, dùng ngựa kéo, cổ ngựa có treo lục lạc, tiếng rung như tiếng kêu của chim loan.



Ngày ngày chầu chực sân rồng,

Bữa bữa dựa kề loan giá.

(Lục Súc Tranh Công).



LOAN HOÀNG 

Loan: Chim loan. Hoàng: Chim phượng hoàng.

Loan hoàng do đại ý câu chữ nho: "Chi cức phi loan hoàng sở thê  " nghĩa là chim phượng hoàng thường đỗ cây cao, những cành thấp bụi gai không xứng với loài chim quí, chỉ loài chim quý phái.

Nguyên Cừu Hương đời Hán, mới bổ chức Đình trưởng, có người đàn bà góa đến kiện đứa con ngỗ nghịch là Trần Nguyên, Cừu Hương khuyên bảo trở về, rồi thân đến nhà, đem đạo lý dạy bảo. Trần Nguyên cảm động nghe theo, trở nên người con chí hiếu. Quan Huyện lệnh là Vương Hoán khen ngợi cất lên làm Chủ bạ và hỏi: Nhà ngươi không trị tội Trần Nguyên, lại chịu khó đến khuyên bảo, chả cũng kém mất sự lập oai như giống chim cắt với đàn chim nhỏ hay sao? Cừu Hương thưa: Giữ kỳ làm chim cắt, sao bằng làm chim loan phụng! Vương Hoán cười nói: Vậy thì khóm cây gai (trỏ vào chức chủ bạ) không phải chỗ đậu của chim loan phụng!. Bèn đem tiền lương tháng giúp cho Cừu Hương vào nhà Thái học, sau trở nên bậc đại tài.

Thênh thênh nhẹ bước thanh vân,

Cành cây dám tưởng bận chân loan hoàng.

(Nhị Độ Mai).



Lại e chẳng xứng khó hèn,

Có đâu yến tước dám chen loan hoàng.

(Dì Ghẻ Con Chồng).



Nàng vâng thưa hết mọi đường,

Rằng: Từ gảy khúc loan hoàng đến nay.

(Quan Âm Thị Kính).

 

LOAN KÍNH 

Gương loan.

Do điển sau: Kế Tân Vương bắt được một con chim loan, đem nhốt vào lồng. Kế muốn nghe tiếng hót của chim, nhưng không biết làm sao được, vợ ông nói: Thiếp nghe có nhiều loại chim phải có cặp mới chịu hót, vậy thử treo tấm gương bên lồng xem sao? Thật vậy,chim loan thấy bóng mình trong gương, nó tưởng là đồng loại, cất tiếng hót một cách bi thảm, suốt mấy đêm liền rồi chết.

Chữ “Loan kính” (Gương loan) dùng để chỉ vợ chồng.



LOAN LINH 

Loan: Lục lạc. Linh: Cái chuông.

Loan linh là chuông ở xe của vua. Sách Thuyết Văn viết: Xe vua gồm bốn ngựa, hàm mang dải chuông, tiếng chuông như tiếng chim loan.

Trái lại, sách Cổ Kim Chú viết: Chuông treo ở hàm ngựa có hình con chim loan, chớ không phải phát ra tiếng như chim loan.

Loan linh tiếng dậy hoè nhai,

Đường thông rợp bóng, đồi mai chen hàng.

(Sơ Kính Tân Trang).



LOAN NGHI 

Loan: Chim loan. Nghi: Nghi môn, loại màn treo phủ.

Loan nghi là màn có thêu chim loan giăng phủ.



Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,

Hoa quan phấp phới, hà y rỡ ràng.

(Truyện Kiều).



LOAN PHÒNG 

Loan: Chim loan. Phòng: Buồng.

Loan phòng là phòng có màn gối thêu loan phượng, là phòng riêng của vợ chồng.



Người vào chung gối loan phòng,

Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:

(Truyện Kiều).



Trằn trọc chẳng an cẩm trướng,

Ngửa nghiêng khó nhắp loan phòng.

(Nhạc Hoa Linh).



LOAN PHỤNG 

Hay “Loan phượng”.

Người xưa cho rằng chim loan cùng một loài với chim phụng, lông ngũ sắc, nhiều sắc xanh. Chim loan và chim phụng là loài chim quý hiếm, khó thấy, thường đi với nhau từng cặp, nên người ta thường dùng để ví tình vợ chồng hoà hợp, hoặc cũng có khi người ta dùng để chỉ bậc hiền tài.

Song song loan phượng cùng chen bóng,

Lớp lớp hùng bi đã báo đền.

(Quốc Âm Thi Tập).



Nay đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngà loan phụng rẽ bầy,

Nệm nghiêng gối chích phận nầy đã cam.

(Lục Vân Tiên).



Nội Yên triều đặng quản một tay,

Hai họ hiệp phỉ duyên loan phụng.

(Nhạc Hoa Linh).



Nên ưa mèo mả gà đồng,

Bỏ hình loan phụng dựa lồng chim xanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LOAN PHỤNG CHIA LÌA

Hay “Loan phượng chia lìa”, dùng để nói vợ chồng xa cách nhau.

Loan và phụng thường sống từng đôi, con trống gọi là phụng, con mái gọi là loan. Loan phụng dùng để chỉ vợ chồng, hoà thuận, khắn khít nhau.

Xem: Loan Phụng.



Chừ sao loan phụng chia lìa,

Con trông vợ nhớ, mắt kề ngó song.

(Nữ Trung Tùng Phận)



LOẠN ĐỘC THƯ CAO 

Loạn: Nói lúc có chiến tranh, đời loạn lạc. Độc thư: Đọc sách. Cao: Hơn người.

Loạn độc thư cao tức là đời loạn lạc đọc sách thì hơn người.



Chữ rằng: Loạn độc thư cao,

Khi nên cũng thế khác nào người xưa.

(Gia Huấn Ca).



LOẠN LY 

Loạn: Loạn lạc, chỉ cảnh có chiến tranh. Ly: Lìa.

Loạn ly tức là khi có chiến tranh, gia đình gặp cảnh ly tán, cha con, vợ chồng, anh em phải chia lìa nhau.



Than thay dân sự tan tành,

Loạn ly mới biết thảm tình nỗi nây.

(Hạnh Thục Ca).



LOẠN MỆNH 

Loạn mệnh tức mệnh lệnh của người bị bịnh tâm thần, hoặc mệnh lệnh của người sắp chết, vì tâm thần bất định mà di chúc lại cho con cháu.

Ví như Nguỵ Thù truyền loạn mệnh lại cho con là Nguỵ Khoả, bảo khi ông chết rồi phải táng người vợ kế (Dì của Nguỵ Khoả) theo ông. Nhưng Nguỵ Khoả không tuân theo loạn mệnh của cha, nên sau được sự báo ân.

Đến cơn loạn mệnh nên nhầm,

Cán Long tuyền để trao cầm tay ai.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LOẠN QUỐC KHUYNH THÀNH 

Loạn quốc: Nước loạn. Khuynh thành: Thành trì nghiêng đổ.

Loạn quốc khuynh thành có ý nói nước nhà có giặc giã nổi lên, khiến thành trì nghiêng đổ.



Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,

Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LOẠN THẦN 

Loạn thần tức chỉ kẻ bề tôi không ngay chính, không phân biệt trên dưới.

Loạn thần còn chỉ kẻ bề tôi có ý tạo phản.

Bài đề hai chữ "Hỏa Quân",

Ngục này trị kẻ vô luân, loạn thần.

(Dương Từ Hà Mậu).



LONG ÁM HẠC QUY 

Do câu trong cổ thi: Vân ám đỉnh hồ, long khứ viễn, nguyệt minh hoa biểu hạc quy trì  , , nghĩa là mây phủ đỉnh hồ rồng bay khuất bóng, trăng soi trụ hoa, hạc trở lại muộn, để chỉ vua chết, sau này dùng chung để chỉ người chết.

Xem: Đỉnh hồ.

Cặp liễn tang còn câu long ám,

Hạc qui hồi lãnh đạm trần ai.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LONG BIÊN 

Tên đất cũ ở nước Việt Nam, nay ở địa hạt phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Xem: Long Thành.

Ngàn Tây nổi áng phong trần,

Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LONG CÂU 

Long: Rồng. Câu: Ngựa hay, khoẻ.

Long câu là một giống ngựa hay và khoẻ mạnh. Tương truyền long câu là loài ngựa được lai giống bởi cha rồng mẹ ngựa, nên sinh ra long câu là một giống ngựa chiến.



Theo chân đồng tử năm ba,

Con long câu, cái tỳ bà ruổi mau.

(Truyện Phan Trần).



LONG ĐÌNH 

Một cái án có chạm trổ rồng phụng, sơn son thếp vàng, phía trên làm như một mái nhà có chạm khắc rồng phụng. Long đình dùng để rước các vị Thần Thánh hay để đặt những giấy tờ sắc chỉ, đồ vật gì do nhà vua ban ra cho được tôn kính.



Ba tòa ngồi trước cung đình,

Nha môn chực dưới, long đình đặt trên.

(Nhị Độ Mai).



LONG HƯNG 

Long: Rồng, tượng trưng cho nhà vua. Hưng: Dấy lên, quật khởi.

Long hưng là tiếng dùng để chỉ việc ông vua quật khởi lên.

Ban Cố có câu: Châu dĩ long hưng, Tần dĩ hổ thị  , nghĩa là Nhà Châu lấy rồng mà dấy lên, nhà Tần lấy cọp mà biểu thị. Ý nói nhà Châu lấy vương đạo tức là nhơn nghĩa làm nên nghiệp Đế, nhà Tần dùng bá đạo, tức là bạo lực thị uy để đoạt thâu thiên hạ.

Long hưng còn đợi cơ đời có khi.

(Quốc Sử Diễn Ca).



LONG MÔN 

Có hai nghĩa:

- Cửa rồng, là chỗ nước chảy rất mạnh, con cá nào lội qua được thì hoá ra rồng. Nên người dùng chữ “Hoá long” để chỉ sự thi đỗ.

- Kẻ sĩ gặp được những bậc hiền tài đón tiếp thì lấy làm vinh hạnh như được đi vào cửa rồng.

Nghĩa bóng: Nhà đài các.

Cạn lời Lưu mới thưa rằng:

Từ vào chi thất xem bằng long môn.

(Hoa Tiên Truyện).



Đem ấn rồng nạp tới long môn,

Cho Tạ thị đăng quang cửu ngũ,

(Nhạc Hoa Linh).



LONG NHAN 

Long: Rồng. Nhan: Gương mặt.

Long nhan là mặt rồng dùng để ví với diện mạo, gương mặt của nhà vua.

Sử ký viết: Cao Tổ vi nhân long chuẩn nhi long nhan  , nghĩa là Cao Tổ người mũi cao và mặt như rồng.

Hoặc khi thừa hiệp long nhan,

Kẻ chầu người chực vui càng hổ thay.

(Mỹ Nữ Cống Hồ).



Đứng tâu trước mặt long nhan,

Lòng lo việc nước, nào toan việc cờ.

(Nhị Độ Mai).



Đất thiêng khí thuỵ Lam sơn,

Trời sinh Thánh chúa long nhan khác thường.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Xuân tín bỗng nhẻ cùng điệp sứ,

Phương tâm đành thẹn với long nhan.

(Tần Cung Nữ).



LONG NHIỄU 

Long: Rồng. Nhiễu: Vây, quấn quanh.

Khi Đức Phật Thích Ca giáng sinh, có chín con rồng đoanh chung quanh, nên chỗ ngồi của tượng Đức Phật thường có rồng quấn quanh.



Chân kinh ghi chữ tâm truyền,

Trực tòa Long nhiễu, vui miền Hổ khê.

(Quan Âm Thị Kính).



LONG TUYỀN 

Tên một thanh kiếm rất quý báu, cũng gọi là Long Uyên. Tấn Thư chép: Trương Hoa xem thiên văn thấy có khí tím sáng chói ở giữa khoảng sao Đẩu, bèn hỏi Lôi Hoán, Hoán đáp rằng: Đó là khí thiêng của gươm báu chiếu lên.

Về sau, Hoán tìm đến huyện Phong Thành đào ở nơi nhà ngục được cái hòm đá trắng đựng hai thanh kiếm đề là Long Tuyền và Thái A ở dưới đất bốn trượng sâu.

Đến cơn loạn mệnh nên nhầm,

Cán Long tuyền để trao cầm tay ai.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Kinh luân đã tỏ tài cao,

Thớ cong, rễ quánh, thủ dao Long tuyền.

(Nhị Độ Mai).



LONG THÀNH 

Vào thời Bắc thuộc, Hà Nội được gọi là Long Biên. Đến đời nhà Lý, Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp, không thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn dời đô về Long Biên và lấy cớ có điềm thấy rồng vàng hiện lên, bèn đổi ra Thăng Long thành , nên người ta sau này gọi Hà Nội là “Long Thành”.



Long Thành thấy đã truyền ngoa,

Xanh kia mấy trượng, dễ hoà khá lên.

(Hoàng Sĩ Khải).



LONG VÂN 

Long: Rồng. Vân: Mây.

Bởi chữ “Long vân hội  ”, tức hội rồng mây. Dùng để chỉ việc gặp thời cơ tốt, công danh hiển đạt.

Kinh Dịch có câu: Vân tùng long, phong tùng hổ  , , nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp, có ý nói những vật cùng khí loại thường cảm ứng mà tìm nhau.

Bấy lâu những đợi Long vân,

Đào thơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.

(Gia Huấn Ca).



May duyên gặp hội Long vân,

Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa.

(Kinh Thế Đạo).



LONG XA 

Long: Rồng. Xa: Chiếc xe.

Long xa là chiếc xe rồng, tức một loại xe có chạm khắc rồng để dành riêng cho vua đi.



Cầm vương truyền gọi sứ thần,

Bách thanh đâu đã đến gần long xa.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Hộ long xa nữ tướng đẳng danh,

Y đội ngũ Bài Quan tiến phát.

(Nhạc Hoa Linh).



LÒNG CÁ DẠ CHIM

Lòng cá dạ chim ý muốn nói là lòng dạ bất trắc, không thể nào lường được, như chim trời cá nước mênh mông, nay đây mai đó.



Bằng ra lòng cá dạ chim,

Tôi đương nạn ấy, người tìm nẻo xa.

(Nhị Độ Mai).



LÒNG CHA MẸ

Tức là lòng thương yêu con cái vô bờ bến của các bậc làm cha mẹ. Khi có con và nuôi nấng nó thì người con mới biết tấm lòng cao cả đó của cha mẹ.



Nuôi con mới biết lòng cha mẹ,

Thấy loạn thời hay thời Thuấn Nghiêu.

(Quốc Âm Thi Tập).



Lưỡi câu anh uốn đã vừa,

Sợ lòng cha mẹ kén lừa nơi đâu.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LÒNG ĐAN

Hay “Lòng đơn”.

Bởi chữ “Đan tâm  ” là lòng son, tức là tấm lòng ngay thẳng, trung thành.

Lòng đan (Hay lòng đơn) là lòng son sắt, lòng trung thành.



Lồng cửa động vân yên cách,

Dãi lòng đan nhật nguyệt thâu.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



Lo nghiệp chúa lòng đan cánh cánh,

Hổ phận tôi lệ ngọc san san.

(Nhạc Hoa Linh).



LÒNG KIẾN

Lòng kiến chỉ tấm lòng tha thiết, thành khẩn nhưng nhỏ mọn như loài kiến.



Mai công ra trước tâu rằng:

Dám bày lòng kiến xin dâng bệ rồng.

(Nhị Độ Mai).



Dấu bèo đã chắc đâu là đất,

Lòng kiến may ra thấu đến trời.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



LÒNG QUÊ

Lòng quê là tấm lòng luôn luôn hướng về quê hương, hay lòng thương nhớ quê hương.



Lối mòn cỏ nhợt mù sương,

Lòng quê đi một bước đường, một đau.

(Truyện Kiều).



Rằng: Đây quán hẹp chớ nề,

Để cưu dạ khách lòng quê kẻo thì...

(Nhị Độ Mai).



LÒNG QUỲ

Lòng của hoa quỳ, một loài hoa có màu vàng, buổi sáng luôn hướng về phía mặt trời, tức hướng đông, chiều hướng tây, còn gọi là hoa hướng dương.

Cổ Thi có câu: Huỳnh hoa linh lạc vô nhân khán, độc tự khuynh tâm hướng thái dương  , , nghĩa là Hoa vàng rời rã không ai thấy, chỉ tự một mình nghiêng lòng theo bóng mặt trời. Ý muốn nói mình có lòng trung trinh tự mình biết không ai hay.

Xem: Hướng dương.



Ví mà dốc tấm lòng quỳ,

Giữ sao cho được trọn bề hướng dương.

(Truyện Trinh Thử).



Ở trên hiếu thuận song đường,

Lòng quỳ dám trễ, tay khương nào rời.

(Quan Âm Thị Kính).



Ở đây nương bóng bồ đề,

Chăm chăm một tấm lòng quỳ hướng dương.

(Truyện Phan Trần).



LÒNG QUỲ HOẮC

Quỳ hoắc là hai giống cây tạp, nở vào mùa hè và mùa thu, luôn hướng theo mặt trời, để tự ví mình trung thành với người trên.

Tào Thực có câu: Thái dương tuy bất vị chi hồi quang, nhiên hướng chi giả, thành dã. Thần nguyện tự tỷ quỳ hoắc  , , . , nghĩa là ánh sáng mặt trời tuy không chiếu đến, nhưng quỳ hoắc vẫn hướng theo một cách chân thành. Thần nguyện tự ví mình như loài quỳ hoắc.

Bình dương nhật nguyệt rạng kiêu,

Tấm lòng quì, hoắc cũng đều hướng dương.

(Quốc Sử Diễn Ca).

Lòng quỳ hoắc, theo trời mà hướng,

Tiếng oanh già vất vưởng hồn thu.

(Thơ Học Canh).



LÒNG SON

Do từ chữ Hán “Đan tâm  ” để chỉ tấm lòng như màu son, không bao giờ phai lợt.

Lòng son dùng để chỉ tấm lòng ngay thẳng trung thành, trước sau như một, không bao giờ thay đổi.

Vái trời cho đặng vuông tròn,

Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.

(Lục Vân Tiên).



Rạng giồi một tấm lòng son,

Của tiền bố thí, không còn so đo.

(Dương Từ Hà Mậu).



May duyên gặp đặng vợ hiền,

Thanh liêm chánh trực giữ bền lòng son.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÒNG THÀNH

Bởi chữ “Thành tâm  ” tức là lòng thành thật, hay thật tâm.



Người tu hành cần phải trau giồi để được có lòng thành thực. Theo Mạnh Tử, 
Thành giả, thiên chi đạo dã, tư thành giả, nhân chi đạo dã. Chí thành nhi bất động giả, vị chi hữu dã; bất thành vị hữu năng động giả dã  , , , , , , , nghĩa là thành thực là cái Đạo của Trời, luyện tập để trở nên thành thực là cái Đạo của người. Hễ chí thành mà không cảm động được thiên hạ thì chưa hề có; không thành thực thì chẳng cảm động được ai cả.

Xem: Thành tâm.



Sư còn lân mẫn chúng sanh.

Xin thương với tấm lòng thành với nao.

(Truyện Phan Trần).

Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp

Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra.

(Kinh Cúng Tứ Thời).



Lòng thành thương tưởng ông bà,

Nước nguồn cây cội mới là tu my.

(Kinh Sám Hối).



LÒNG XUÂN

1.- Lòng xuân tức là lòng vui mừng hớn hở, như cảnh mùa xuân.



Xem trong xướng họa mấy vần,

Lấy mai mà vẽ lòng xuân cần quyền.

(Mai Đình Mộng Ký).

2.- Lòng xuân còn có nghĩa lòng chứa chan xuân tình, rộn rả tình yêu.

Đủ điều trung khúc ân cần,

Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.

(Truyện Kiều).



LÒNG XUÂN THU

Lòng Xuân Thu là tấm lòng theo tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo, đó là lòng công bình, chính trực. Do trong Kinh Xuân Thu Đức Khổng Tử khen chê đều có nguyên tắc, khiến cho bọn gian thần tặc tử phải kiêng nể sợ sệt.



Học theo ngòi viết chí công,

Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân Thu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



LỌNG TÍA VÕNG ĐÀO

Võng lọng là hai vật mà thời xưa vua ban cho người đỗ khoa bảng hay người làm quan dùng.

Lọng tía võng đào ý chỉ nghi vệ vinh hiển của người làm quan.

Làm nên quan thấp quan cao,

Làm nên lọng tía võng đào nghênh ngang.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LÔ KHOÁI 

Hay “Lư khoái”.



Lô (Lư): Cá vược. Khoái: Gỏi.

Lô khoái là gỏi cá vược, món ăn của quê nhà, chỉ phong vị và lòng nhớ quê hương.

Trương Hàn đời Tấn đang làm quan đất Lạc Dương. Đến mùa thu, gió bắt đầu thổi, bỗng nhớ đến canh rau thuần, gỏi cá vược ở quê nhà, bèn bỏ quan trở về làng cũ.

Xem: Canh thuần gỏi vược.



Nhớ lô khoái sẵn ngòi sâu, nước rộng,

Buổi quy lai gió thổi rụng cành ngô.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



LỖ BAN 

Lỗ Ban là một người thợ mộc giỏi, có danh tiếng của nước Lỗ đời Xuân Thu. Lỗ Ban là vị tổ sư của nghề thợ mộc và cũng nổi tiếng là người giỏi về bùa chú.

Theo chương Lâu Ly trong sách Mạnh Tử thì Công Thâu tên là Ban, một người thợ mộc khéo của nước Lỗ.

Quan thì phải tận trung vì chúa,

Dân thì hay tập búa Lỗ Ban.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LỖ BỘ  簿

Những thứ binh khí như siêu đao, xà mâu, trái đấm, tấm bảng đề hai chữ hồi tỵ … Tất cả những loại binh khí này được cắm trên một cái giá, trần thiết tại cung điện, đền chùa hay các công thự, được gọi là “Lỗ bộ”.



Trước sân lỗ bộ hai hàng,

Tả ban, hữu vệ, đứng giàn hầu xa.

(Dương Từ Hà Mậu).



LỖ MÃNG 

Lỗ: Đần độn. Mãng: Cọc cằn, thô tục.

Lỗ mãng là người đần độn thô tục.



Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,

Rằng thác rồi còn kể ra chi.

(Kinh Sám Hối).



Đối cùng em êm tiếng thuận lời,

Đừng ỷ lớn buông hơi tuồng lỗ mãng.

(Phương Tu Đại Đạo).



LỖ NGANG KHÓ ĐẦY

Lỗ ngang tức là lỗ trổ ngang thoát ra bên ngoài.

Lỗ ngang khó đầy tức là lỗ trổ ngang dù có đổ bao nhiêu nước cũng không bao giờ đầy, ý nói không thể nào bịt miệng thế gian được. Bởi vì thiên hạ vốn thích nói xấu người, càng kêu gọi họ không nói xấu, họ càng nói nhiều thêm.

Cổ nhơn đã nói rõ ràng,

Hào sâu dễ lấp, lỗ ngang khó đầy.

(Hứa Sử Tân Truyện).



LỖ TRÂU 

Đức Khổng Tử là vị Tổ của Nho Giáo, người nước Lỗ, thời Xuân Thu. Mạnh Tử là người nước Trâu, thời Chiến Quốc, được đời tôn xưng là hàng Á Thánh của Nho Giáo.

Lỗ Trâu là nơi sinh của Khổng Tử và Mạnh Tử, được dùng để chỉ Khổng Mạnh.

Ấy là chế độ kỷ cương,

Ấy người Tắc Tiết ấy làng Lỗ Trâu.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LỘ ĐỒ 

Lộ và đồ đều có nghĩa là con đường.

Lộ đồ chỉ chung là đường sá, lộ trình.

Lộ đồ diêu viễn xa khơi,

Thuyền tình chở một mình tôi nặng gì.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LỘ KỲ MẤT DÊ

Lộ kỳ là đường có nhiều ngả rẽ.

Sách Liệt Tử chép: Người láng giềng nhà Dương Chu mất dê, đã sai nhiều người nhà đi tìm không được, lại sang nhờ Dương Chu cho mượn người đi tìm hộ. Dương Chu hỏi mất một con dê, sao lại phải cần đến lắm người thế? Người láng giềng đáp: Vì đường có lắm ngả ba. Khi mọi người đi tìm về vẫn không được, cho Dương Chu biết đường có nhiều ngả ba lắm. Theo các ngả ba đi một đoạn, lại gặp nhiều ngả ba khác, thành thử không biết đi đàng nào. Ý muốn nói học đạo nếu quá thiên về nhiều điều vụn vặt thì chẳng khác nào đứng trước đường có nhiều ngả ba, không biết phải đi ngõ nào? Xem: Tam kỳ lộ.

Cho hay hoạ phúc bất kỳ,

Tái ông được ngựa lộ kỳ mất dê.

(Hoài Nam Ca Khúc).



LỘC ĐỘNG 鹿

Tức Bạch Lộc động là động nai trắng, ở tại tỉnh Giang Tây, dưới núi Ngũ Lão, nơi các triều đại Trung Hoa thường mở trường dạy học.

Đời Nam Đường lập học quán ở động này, đến đời Tống mới xây dựng thư viện, Chu Hy cũng dùng động nai để dạy học trò.

Lộc động chỉ nơi dạy học, thư viện hay chỉ nơi ẩn dật.



Ngụ miền Lộc động cảnh thanh,

Là Hồ Sinh vốn thiện danh đang thì.

(Truyện Trinh Thử).



LỘC QUYỀN 祿

Lộc: Những vật nhận được, bỗng lộc. Quyền: Quyền hành.

Lộc quyền là lợi lộc và quyền hành, tức là chức tước, bỗng lộc và quyền hành.



Làm lành đặng hưởng phước duyên,

Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.

(Kinh Sám Hối).



LỘC SƠN 祿

Tức An Lộc Sơn, con nuôi của Dương Quý Phi, là người được vua Đường Minh Hoàng sủng ái.

Vì tin dùng An Lộc Sơn, Đường Minh Hoàng trao binh quyền cho, sau An Lộc Sơn dấy binh làm phản, hãm Kinh Đô nhà Đường, khiến vua Đường Minh Hoàng phải bỏ Kinh Đô mà tỵ nạn sang đất Thục. An Lộc Sơn về sau bị con là Khánh Tự giết chết.

Tội Võ đà xấp xỉ Lộc Sơn;

Tội Lữ cũng rắp ranh Vương Mãng.

(Sãi Vãi).



LỘC THƯỞNG QUYỀN PHONG 祿

Lộc thưởng: Ban thưởng cho tiền bạc, vật phẩm. Quyền phong: Phong cho quyền tước.

Lộc thưởng quyền phong là ban thưởng cho quyền hành tước lộc.



Bắt đặng chàng lộc thưởng quyền phong,

Bằng sơ phạm tru di tam tộc.

(Nhạc Hoa Linh).



LÔI ÂM 

Tức “Lôi Âm Tự  ”, tên một ngôi chùa bên Phật quốc, chỉ cõi Phật.

Đời nhà Đường, khi Tam Tạng đi thỉnh kinh, dọc đường gặp bọn yêu quái giả làm Tiểu Lôi Âm Tự, gạt thầy trò Đường Tăng để bắt ăn thịt. Nhưng may Tam Tạng được thoát nạn và vượt qua chùa ấy để đến Lôi Âm Tự.

Lôi Âm tự có tu mới thành Phật;

Thiên Thai sơn có phước cũng nên tiên.

(Sãi Vãi).



Tây phương Tiếp Dẫn Đạo Nhơn,

Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.

(Kinh Tận Độ).



Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,

Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.

(Kinh Tận Độ).



Biếng thân hạc nội mây ngàn,

Nắm phan Tiếp Dẫn mở đàng Lôi Âm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LÔI ĐÌNH 

Lôi: Sấm. Đình: Sét.

Lôi đình là sấm sét. Nghĩa bóng dùng để nói nổi cơn giận dữ, tức bực, la thét ầm ĩ.



Vân Tiên nổi giận lôi đình,

Hỏi thăm: Lũ nó còn đình nơi nao?

(Lục Vân Tiên).



Thưa rằng: Làm phúc nào hơn,

Mở lòng Bồ tát dẹp cơn lôi đình.

(Quan Âm Thị Kính).



Ngự nghe thấu hết mọi tình,

Tức thì nổi giận lôi đình bởi đâu.

(Nhị Độ Mai).

 

LỖI BẬC CUNG CẦM

Lỗi bậc: Lỗi cung bậc, hay lỗi nhịp. Cung cầm: Cung đàn.

Lỗi bậc cung cầm là cung đàn bị lỗi nhịp, ý nói vợ chồng không hoà hợp.



Ta than lỗi bậc cung cầm,

Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LỖI MỌN CHỚ NGHI CHẲNG HẠI

Tức là đừng thấy lỗi lầm nhỏ mọn mà nghĩ rằng không có tai hại.

Điều nầy vua Chiêu Liệt đời nhà Hán có dạy con là vua Hậu Chủ như sau: Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi  , , nghĩa là dù cho những việc thiện nhỏ cũng chớ nên bỏ qua mà không làm, dù cho những việc ác nhỏ cũng chớ làm.

Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,

Thường dạn làm tội lại hằng hà.

(Kinh Sám Hối).



LÔNG HỒNG

Lông con chim hồng.

Ý nói bậc anh hùng hào kiệt xem nhẹ tính mệnh như lông con chim hồng.

Tư Mã Thiên nói: Nhân cố hữu tử, tử hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao  , , , nghĩa là người ta vẫn có cái chết, song cái chết đáng nặng như núi Thái Sơn, cũng có cái chết đáng nhẹ như lông chim hồng. Ý muốn nói có sự đáng chết và không đáng chết.

Xem: Hồng mao.

Tử sinh xem nhẹ lông hồng,

Quyết liều, Sinh đã gieo sông bao giờ.

(Nhị Độ Mai).



LÔNG NGA

Lông nga tức lông chim ngỗng.

Do điển tích nàng Mỵ Châu ước hẹn với chồng là Trọng Thuỷ, nếu có loạn ở Kinh Thành, sẽ lấy lông nga (tức lông ngỗng) trong chiếc áo lông ngỗng đang mặc mà rắc dọc theo đường để Trọng Thuỷ theo dấu đó mà tìm gặp nhau.

Xem: Nga mao.



Nẻo đường làm dấu lông nga,

Cho nên giặc đuổi theo đà nhặt nau.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LÔNG NGỖNG ĐƯA ĐƯỜNG

Lông chim ngỗng được Công chúa Mỵ Châu rắc dọc theo đường, khi cùng với cha là An Dương Vương tẩu thoát quân Triêu Đà, nhưng nó lại là dấu hiệu để đưa đường cho Trọng Thuỷ rượt theo.

Xem: Lông nga.

Vuốt rùa chàng đổi máy,

Lông ngỗng thiếp đưa đường.

(Thơ Tản Đà).



LÔNG PHƯỢNG

Bởi chữ “Phụng mao  ”, tức là lông con chim phượng, ý nói người con tài giỏi giống như cha.

Để tôn xưng con của một người khác, trong văn chương thường dùng: Phụng mao lân giác , tức là lông chim phụng, sừng con lân, đều là những thứ quý, hiếm có trên đời.

Hoàn Công trong sách Thế Thuyết khen Vương Kính Luân: “Đại nô tự hữu phụng mao  ”, tức nói Vương Kính Luân là người đẹp đẽ và tài giỏi không kém gì cha của ông.



Đông hàng lông phượng gót lân,

Kìa nhà ngũ quế nọ sân bát đồng.

(Nhị Độ Mai).



LỘNG CHƯƠNG 

Chơi ngọc chương, nghĩa bóng là sinh con trai.

Kinh Thi có câu: Nãi sinh nam tử, tái tẩm chi sàng, tái ý chi thường, tái lộng chi chương  , , , , tức là sinh con trai thì cho nằm trên giường, cho mặc áo đẹp, cho chơi ngọc chương.

Đến ngày mở tiệc lộng chương,

Nghiệm điềm mới đặt tên chàng Song Tinh.

(Song Tinh Bất Dạ).



Một phen mộng thấy điềm bay yến,

Chín tháng ca dăng khúc lộng chương.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



LỘNG NGOà

Chơi tấm ngói, tức sinh con gái.

Kinh Thi cũng có câu: Nãi sinh nữ tử, tái tẩm chi địa, tái ý chi tích, tái lộng chi ngoã  , , , , nghĩa là sinh con gái thì cho nằm dưới đẩt, cho mặc áo hở tay, cho chơi tấm ngói.

Ứng điềm bà Trịnh Phu nhân,

Kịp kỳ lộng ngoã đủ tuần khai hoa.

(Tây Sương).



LỘNG NGỌC 

Tên người con gái của vua Tần Mục Công, thời Xuân Thu, có nhan sắc tuyệt trần, lại có tài thổi tiêu. Vua Tần lấy ngọc bích cho thợ làm ống sinh nàng thổi và dựng cho một toà lầu gọi là Phụng đài. Sau nàng kết duyên với Tiêu Sử là người có tài thổi ống tiêu. Vợ chồng chung sống với nhau nơi Phụng đài, vào một đêm kia nhân đang thổi tiêu bỗng thấy có rồng và chim phượng bay đến chở Tiêu Sử và Lộng Ngọc lên cõi tiên.



Cô tiên thách mực chày đâm thuốc,

Lộng Ngọc xin làm bạn thổi tiêu.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Phòng khuê nấn ná bấy lâu,

Ống tiêu Lộng Ngọc trên lầu còn treo.

(Ngọc Kiều Lê).



LỘNG QUYỀN 

Lộng: Lấn hiếp. Quyền: Quyền hành.

Lộng quyền tức là vượt quyền của mình, lấn hiếp người trên.



Thề không dung kẻ lộng quyền,

Vì dân trừ hại mới nên anh tài.

(Nhị Độ Mai).



LỐT HÙM CÁO ĐỘI

Đồng nghĩa với câu “Hồ giả hổ uy  ”, tức là cáo mượn oai hùm.

Lốt hùm cáo đội dùng để nói kẻ hay mượn thế lực để áp bức, uy hiếp người khác.

Xem: Cáo giả oai hùm.



Lốt hùm cáo đội nạt người,

Vũ Hoàng giận chí bỏ loài phụ nhân.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LỠ NHỊP CẦU LAM

Cầu Lam lỡ hẹn. Do điển Bùi Hàng xin cưới Vân Anh, mẹ nàng đòi cây chày giã thuốc trường sinh bằng ngọc thì mới gả Vân Anh cho.

Lỡ nhịp cầu Lam ý nói Bùi Hàng đã lỡ hẹn ước. Nghĩa bóng tình duyên trắc trở.

Đương khi lỡ nhịp cầu Lam,

Mừng lời kim ngọc kể làm trọng thay.

(Lưu Nữ Tướng).



LỢI DANH 

Lợi: Những cái có ích thu được. Danh: Tiếng tăm.

Lợi danh là lợi lộc và công danh, tức những cái có ích thu được và tiếng tăm.

Danh lợi còn chỉ sự ham danh ham lợi.

Trong Chiến Quốc Sách, Trương Nghi có nói: Tranh danh giả ư triều, tranh lợi giả ư thị  , 巿, nghĩa là tranh danh ở triều đình, tranh lợi lộc ở chợ.



Cánh buồm bể hoạn mênh mang,

Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Phú quí lớn là giành với giựt

Lợi danh cao bởi mượn và xin

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Dạy cho biết những điều hàm hội,

Đặng cho tường căn cội lợi danh.

(Phương Tu Đại Đạo).



LỜI CHÂU NGỌC

Lời nói quý như châu ngọc, mở miệng ra tựa như nhả ngọc phun châu. Ý muốn nói lời nói đẹp đẽ bay bướm.



Nàng rằng: Vâng biết ý chàng.

Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.

(Truyện Kiều).



LỜI KIM NGỌC

Kim ngọc là vàng ngọc dùng để chỉ sự quý phái, bền vững.

Lời kim ngọc là lời vàng ngọc, tức lời hẹn hò gắn bó với nhau một cách bền vững như vàng ngọc.

Đương khi lỡ nhịp cầu Lam,

Mừng lời kim ngọc kể làm trọng thay.

(Lưu Nữ Tướng).



LỜI NON NƯỚC

Lời thề nguyền giữa đôi trai gái hay vợ chồng, lời ước hẹn của đôi bạn tâm giao trước sự chứng kiến của non nước, tức thề non hẹn bể, luôn gắn bó thương yêu nhau, không bao giờ dời đổi.

Xem: Lời nước non.

Tóc thề đã chấm ngang vai,

Nào lời non nước nào lời sắt son.

(Truyện Kiều).



LỜI NƯỚC NON

Chỉ lời “Thề non hẹn biển” giữa trai gái nguyện giữ mối tình gắn bó và bền chặt như non và nước.

Trong bài “Lời thề non nước” của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu có câu: Nước non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi không về cùng non.

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

(Truyện Kiều).



LỜI NGUYỀN XƯA

Tức là lời thề nguyền năm xưa giữa hai người tình, hay hai người bạn tâm giao, nguyện gắn bó, giữ vẹn sự yêu thương thắm thiết bên nhau



Còn duyên may lại còn người,

Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.

(Truyện Kiều).



LỜI NON SÔNG

Nghĩa từ câu “Thệ hải minh sơn  ” là thề non hẹn bể.

Lời non sông là lời thề trước núi và sông. Ngày xưa, mỗi khi trai gái thề nguyền về nhân duyên, thường bày bàn hương án giữa trời, chỉ sông núi mà thề hẹn với nhau. Xem: Thệ hải minh sơn.

Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,

Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.

(Truyện Kiều).



LỜI SẮT SON

Lời sắt son là lời thề nguyền gắn bó giữa trai gái, vợ chồng, hay giữa hai người bạn tâm giao, nguyện giữ lòng bền chặt như sắt đá, tươi thắm như màu son.



Tóc thề đã chấm ngang vai,

Nào lời non nước nào lời sắt son.

(Truyện Kiều).



LỢI KHOÁ DANH GIÀM

Bởi chữ “Danh cương lợi tỏa  ” tức là công danh như sợi dây cương ràng buộc người mê dính mắc vào đó, lợi lộc khoá chặt kẻ tham mồi giàu sang, phú quý.

Lợi khoá danh giàm tức là bị lợi danh ràng buộc trói chặt vào đó.

Thôi thì phụ tội cũng cam,

Còn vương lợi khoá danh giàm chi đây.

(Ngọc Kiều Lê).



LŨ KIẾN CHÒM ONG

Hay “Lũ kiến đàn ong”.

Kiến ong do chữ “Phong nghị  ” là loài ong, loài kiến, dùng để chỉ bọn giặc cỏ, chuyên quấy phá, sách nhiễu nhân dân.

“Lũ kiến chòm ong” hay “Lũ kiến đàn ong” là có ý nói một cách mỉa mai, khinh bỉ bọn giặc cỏ.

Xem: Chòm ong lũ kiến.

1.- Lũ kiến chòm ong:



Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,

Hỏi: Ai than khóc ở trong xe này?

(Lục Vân Tiên).

2.- Lũ kiến đàn ong:

Xanh xanh chẳng giúp anh hùng,

Thì chi lũ kiến đàn ong tơi bời.

(Truyện Phan Trần).



LUÂN DI 

Luân: Nhân luân, đạo lý. Di: Đạo thường của người đời.

Luân di là đạo rất bình thường mà ai cũng biết rõ đó là cương thường và ngũ luân.

Xem: Di luân.

Phôi pha hai chữ “Luân di”.

Một câu trung hiếu bỏ đi chẳng màng.

(Dương Từ Hà Mậu).



LUÂN ĐÀI 

Luân Đài là tên đất ở phía đông huyện Khố Xa, tỉnh Tân Cương, Trung Quốc.

Vua Hán Võ Đế về già nghe dân chúng trong nước ta thán phải hành dịch khổ sở, nên đã ăn năn sự xa xỉ của mình, ra lịnh cấm việc xây dựng điện thờ ở đất Luân Đài. Xem: Hối ngộ trách cung.

Đất Luân Đài phải Hớn chẳng hối ngộ trách cung;

Ải Hàm Cốc thì Tần cũng rắp ranh làm phản.

(Sãi Vãi).



LUÂN HỒI 

Luân: Bánh xe xoay vần. Hồi: Quay tròn vòng này trở lại vòng khác.

Theo Phật giáo, Luân hồi là sự xoay chuyển của chúng sanh trong sáu cõi (Lục đạo), sinh tử, tử sinh tiếp nối không ngừng, cho đến khi đạt được giải thoát.

Sở dĩ chúng sinh bị luân hồi sinh tử là tại nghiệp. Nghiệp là động cơ lôi chúng sanh đi trong vòng lục đạo, tức là quanh đi lộn lại trong sáu cõi giới.

Luân hồi nào dễ ai hay,

Oan gia thực lấy nước gì giải cho.

(Hương Sơn Hành Trình).



Lang thang từ độ luân hồi,

U Minh nẻo trước xa xôi dặm về.

(Thơ Vũ Hoàng Chương).



Ai ơi lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

(Thập Loại Cúng Sinh).



Nay chưa khứng độ thân nầy,

Luân hồi lâu kiếp không ngày nào ra.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Luật Nhơn quả để răn Thánh đức,

Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu.

(Kinh Tận Độ).



Xuống Địa ngục, đọa đày hành mãi,

Đúng số rồi, còn phải luân hồi.

(Kinh Sám Hối).



LUÂN THƯỜNG 

Luân: Đạo lý. Thường: Phép tắc thông thường mà ai cũng phải biết.

Luân thường là những phép tắc thông thường hợp đạo lý ở đời.



Luân thường quyết gánh lấy mình,

Treo gương trinh bạch rành rành cho coi.

(Hoa Tiên Truyện).



Các thơ truyện huê tình xé hủy,

Kẻo để đời làm lụy luân thường.

(Kinh Sám Hối).



LUẬN BIỆN 

Luận: Bàn. Biện: Xem xét để phân biệt.

Luận biện tức là phân biệt, bàn bạc cho rõ ràng.



Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,

Câu văn từ luận biện thật thà.

(Kinh Sám Hối).



Dầu đẹp xấu để đời luận biện,

Vui duyên con, thân miễn an vui.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Lựa chuyện xưa tích cũ cho hay,

Điều mở trí thường hay luận biện.

(Phương Tu Đại Đạo).



LUẬT ĐƯỜNG

Hay “Đường luật  ”.

Đường luật là một lối thơ có niêm luật, có phép đối, vần bằng hoặc trắc, gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ, xuất hiện trong đời nhà Đường, nên người ta gọi là Đường luật, hay thất ngôn bát cú.

Sinh càng tỏ nét càng khen,

Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.

(Truyện Kiều).



Trông theo tấc dạ thêm càng,

Tả lòng lại ngụ luật Đường bốn câu.

(Nhị Độ Mai).



LUẬT HÌNH

Bởi chữ “Hình luật  ”.



Hình: Cách phạt người có tội. Luật: Phép tắc.

Luật hình hay hình luật là những điều luật pháp minh định về việc hình phạt người có tội.



Dân dưới phép tụng đình,

Nước dưới phép đao binh,

Nhà dưới phép luật hình,

Còn chi hai chữ thái bình.

Ngửa nghiêng chín bệ, gập ghình ba châu.

(Ngụ Đời).



LUẬT LỊNH 

Luật lịnh là tên một con quỷ rất lẹ của Thần Lôi bộ. Sách Ấu Học chép: Lôi bộ chí tiệp chi quỷ viết Luật lịnh  , nghĩa là con quỷ rất lẹ của Thần Lôi bộ tên là Luật lịnh.

Sách Sưu Thần Khý viết: Ông Luật lịnh là người đời nhà Châu, vua Mục Vương, ông chạy rất giỏi, khi chết thành một con tiểu quỷ trong Lôi bộ.

LUẬT NHÂN QUẢ

Hay “Nhơn quả Luật  ” tức là luật về nguyên nhân và kết quả. Nhân: Là hạt giống, cái mầm, có năng lực tác động. Quả: Là trái, kết quả, là sự hình thành. Mỗi hiện tượng đều có nguyên nhân của nó. Hễ có nguyên nhân , tất nhiên sẽ có kết quả tương thích với nguyên nhân ấy, đó là luật nhân nào quả nấy.

Luật nhân quả không bị hạn chế bởi thời gian, có khi nhanh, cũng có khi chậm. Có nhiều loại nhân quả:

Nhân quả hiện tại gọi là Hiện báo  : Nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả báo ở hiện kiếp.

Nhân quả trong hai đời gọi là Sanh báo  : Đời trước tạo nhân đời nay mới thọ quả. Đời này gây nhân đời sau nhận quả.

Nhân quả trong nhiều đời gọi là Hậu báo  : Từ rất nhiều đời trước gây nhân, đời nay mới gặt quả, hoặc đời này tạo nhân nhưng mãi nhiều đời sau mới thọ quả.



Luật Nhơn quả để răn Thánh đức

Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu

(Kinh Tận Độ).



LỤC CHÂU 

Lục Châu là tên người ái thiếp của Thạch Sùng đời Tấn ở Trung Quốc. Nàng là người có nhan sắc, lại giỏi thổi tiêu. Tôn Tú muốn được Lục Châu, đến cầu với Thạch Sùng, nhưng Sùng không thuận. Tôn Tú bèn gièm pha với Triệu Vương Luân, làm chiếu tịch thu gia sản và giết Thạch Sùng. Lục Châu thấy vậy nhảy xuống lầu tự vẫn.

Xem: Thạch Sùng.

LỤC DỤC 

Lục dục là sáu điều ham muốn: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Phật giáo còn gọi là lục tặc  , tức sáu tên giặc hằng ngày theo quấy nhiểu những người tu. Đó là sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu giác quan nầy tiếp xúc với ngoại cảnh gọi là sáu trần cảnh (lục trần) là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà thâm nhập vào quấy phá thân tâm, sinh ra nhiễm ái, gây ra sự tội lỗi và đau khổ.

Thí dụ như mắt thấy sắc đẹp sinh ra mê đắm, rồi dục vọng dấy khởi, sau đó tội lỗi do đây mà hình thành. Vì vậy, người tu hành phải thường xuyên tu tập, gọi là thọ trì sáu căn.

Dây oan xe chặt buộc mình,

Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

(Kinh Tận Độ).



LỤC ĐẠO 

Lục đạo là sáu con đường, sáu nẻo luân hồi, hay sáu thế giới sống của các loài chúng sanh chưa được giải thoát, còn phải nhận chịu quả báo, còn phải tái sinh vào một trong sáu cõi của vòng luân hồi sanh tử.

Theo giáo lý nhà Phật, Lục đạo gồm: Cõi người, Cõi trời, Cõi thần A tu la, Cõi địa ngục, Cõi ngạ quỷ, Cõi súc sanh.

Tam đồ lục đạo đâu ngoa,

Kinh xưa truyền bảo chắc đà không sai.

(Hứa Sử Tân Truyện).



LỤC Y SỨ GIẢ  使

Sứ giả mặc áo màu lục, đó là tên riêng của chim anh vũ.

Do điển chép từ Khai Nguyên Thiên Bảo Di Sự: Tại Trường An, có một vị phú hào tên là Vương Sùng Nghĩa, có một người vợ lăng loàn và trắc nết, tư thông với người hàng xóm là Lý Hạp. Hai người âm mưu với nhau giết chết Sùng Nghĩa, rồi đem bỏ xác dưới giếng sâu.

Trong ngày quan huyện đến tra án, thình lình có con chim anh vũ đậu trên cây gần giếng vụt nói: Giết chết chủ ta, chính là Lý Hạp!. Quan huyện đem Hạp điều tra, quả đúng như vậy. Vua nghe tin, lấy làm lạ, mới phong cho chim anh vũ là “Lục Y Sứ Giả” (Sứ giả mặc áo màu lục).



So tài mẫn tiệp nói năng,

Lục y sứ giả và chàng Thăng ca.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



LỤC KINH 

Tức là sáu bộ kinh điển của Nho gia, đó là Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. Kinh Nhạc bị thất truyền, chỉ còn lại năm bộ kinh, gọi là Ngũ Kinh.



Trót thông mã sử Lục kinh,

Mới nên tám tuổi nổi danh thần đồng.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



Nguồn khơi Thánh học thâu chư sử,

Giềng cả cương thường liệt Lục kinh.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Cuốc cùn ước tháo vườn Chư Tử,

Thuyền mọn khôn đua biển Lục kinh.

(Thơ Nguyễn Trãi).



LỤC LÂM 

Lục Lâm là tên một dải núi tại Kinh châu, Trung Quốc. Theo Hán Thư, cuối đời Vương Mãng phương nam loạn lạc, dân chúng đói rét, nên thường tụ tập tại các vùng rừng sâu núi thẳm để cướp bóc, trong đó có bọn Vương Khuôn và Vương Phụng tụ tập tại rừng Lục Lâm hơn bảy, tám nghìn người đi cướp giựt các nơi.

Vì thế, người đời sau thường hay dùng chữ “Lục lâm” để chỉ bọn giặc cướp.

Dở trò cướp giựt theo phường lục lâm.

LỤC LỄ 

Sáu cuộc nghi lễ mà người xưa thường hay tổ chức: Quan lễ, Hôn lễ, Tang lễ, Tế lễ, Hương ẩm tửu lễ, Tương kiến lễ.

Trong hôn nhân cũng có sáu lễ được trích từ “Văn Công Gia Lễ” của Châu Hy: Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Nạp trưng, thỉnh kỳ và Thân nghinh.

Sắm làm lục lễ phương viên,

Truyền quan viết điệp tâu lên cửu trùng.

(Hoa Tiên Truyện).



LỤC NGA 

Lục nga là tên một bài thơ trong Kinh Thi, nói về công ơn của cha mẹ và bày tỏ lòng thương mến của con cái đối với công ơn của cha mẹ.



Đến khi đọc sách Thi Kinh,

"Lục Nga" thơ ấy động tình xiết bao.

(Dương Từ Hà Mậu).



Ngập ngừng kẻ cấp môn dũng cảm,

Thơ “Lục nga” chẳng dám còn ngâm.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Có khi mở sách làm vui,

Lục nga ngâm lại ngậm ngùi song thân.

(Thơ Bà Nhàn Khanh).



LỤC Ố VÀNG PHA

Lục ố: Màu xanh đã bị lem ố. Vàng pha: Pha trộn màu vàng vào.

Lục ố vàng pha tức là sắc lá cây đến mùa thu, màu lục đã ố lần mà màu vàng đã pha lần vào màu lục. Ý muốn chỉ cảnh hết hạ sang thu.



Tiếc thay lục ố vàng pha,

Gốc dương trơ một cội già khói tan.

(Hoa Tiên Truyện).



LỤC SONG 

Cửa sổ màu lục, chỉ nhà cô gái nghèo.

Do câu: Lục song thị bần nữ chi gia  , nghĩa là cửa lục (Màu xanh) là nhà cô gái nghèo.

Bài thi Đường Bạch Lạc Thiên chép rằng: Lục song bần gia nữ, Y thượng vô trân châu. Hồng lâu phú gia nữ, Kim lụ tú la nhu  , . , , nghĩa là cửa xanh nhà bần nữ, trên áo chẳng ngọc ngà. Lầu hồng nhà phú nữ, áo lụa thêu kim sa.



LỤC TÍCH 

Lục Tích tự là Công Kỳ, người nước Ngô thời Tam Quốc, lúc sáu tuổi, đã biết hiếu thảo. Có một hôm theo cha sang quận Cửu Giang gặp Viên Thuật, lén lấy hai quả quít giấu vào tay áo để đem về biếu mẹ, Viên Thuật khen là người con hiếu.

Khi lớn lên học rộng biết nhiều, chú thích Kinh Dịch, giảng luận đạo học. Ông được bổ làm Thái thú ở Uất Lâm, mất năm 32 tuổi.

Hán Lục Tích thuở còn sáu tuổi,

Quận Cửu Giang đến với họ Viên.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



LỤC TỐN 

Lục Tốn tự là Bá Ngôn, người nước Ngô thời Tam Quốc, có tài về chính trị, lại giỏi về quân sự.

Lục Tốn là Đô đốc giúp cho Ngô Tôn Quyền lấy được Kinh Châu, thắng được quân Thục tại Di Lăng, phá được quân Tào ở đất Hoàn, rồi được phong làm thừa tướng.

Sau vì hết sức can ngăn Tôn Quyền đừng phế Thái tử, không được, ông phẫn uất mà chết.



Lưu Huyền Đức giận Lục Tốn,

mong trả thù này;

Nghĩ đến câu “Thường đảm bất vong”,

lòng thêm dọi dọi.

(Văn Tế Nguyễn Biểu).



LỤC THAO 

Tức là sáu thao, gồm có: Văn thao, Võ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao và Khuyển thao.

Sáu thao được ghi chép trong quyển binh pháp của Thái Công Vọng tựa là “Lục Thao”.

Xem: Lục thao tam lược.



Nẻo mầu máy nhiệm binh cơ,

Lục thao đã đọc, thất thư lại bàn.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



LỤC THAO TAM LƯỢC 

Lục thao là tên một quyển binh pháp của Trung Quốc, do Thái Công Vọng soạn ra, chia thành sáu thao: Văn thao, Võ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao và Khuyển thao.

Tam lược là tên sách do Hoàng Thạch Công soạn. Sách này theo Sử Ký chép, Hoàng Thạch Công đã trao cho Thương Lương ở cầu Hạ Bì.

Lục thao tam lược dùng để chỉ người giỏi về mưu kế binh pháp.

Xem: Lược thao.

Những sớm khuya văn võ đua tài,

Hằng luyện tập lục thao tam lược.

(Nhạc Hoa Linh).



LỤC THÔNG 

Sáu phép thần thông, Phật gọi là sáu thắng trí.

1.- Thần túc thông là phép biến hoá đi lại khắp mọi nơi trong nháy mắt. 2. Thiên nhĩ thông là tai nghe được mọi âm thanh của loài người hoặc của chư thiên. 3. Tha tâm thông là biết được tâm ý của người khác đang nghĩ gì. 4. Thiên nhãn thông là mắt thấy mọi sự vật không hạn chế và thấy được vòng sinh tử luân hồi của mọi chúng sanh. 5. Túc mạng thông là nhớ lại được các kiếp sống trước của mình. 6. Lậu tận thông là biết cách đoạn trừ hết mọi phiền não, đoạn diệt ô nhiễm.

Mục Liên mới đặng lục thông,

Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.

(Phật Nói Vu Lan).



Lục thông trần thế chẳng ai hay,

Cái máy Thiên Cơ đã sắp bày.

(Đạo Sử).



LỤC TRAI 

Lục trai là ăn trai sáu ngày trong một tháng âm lịch. Lục trai gồm các ngày: Mồng 1, 8, ngày 14, 15, 23 và ngày 30, nếu tháng thiếu thay vì ăn vào ngày 30, ta ăn ngày 29.

Theo Phật giáo, ăn chay 6 ngày được gọi là “Nguơn Thỉ Lục Trai  ”.

Mỗi tháng giữ ngày ăn chay,

Lục trai cho đến những ngày thập trai.

(Hứa Sử Tân Truyện).

 

LỤC TRẦN 

Lục trần là sáu loại Trần Cảnh, còn được gọi là lục ngoại nhập hay lục tặc (Tức sáu tên giặc), gồm có: 1- Sắc: Tức là hình sắc, hình thể. 2- Thanh: Tức là âm thanh. 3- Hương: Tức mùi thơm. 4- Vị: Tức là vị nếm. 5- Xúc: Tức là đụng chạm. 6- Pháp: Mọi sự vật.

Sở dĩ được gọi là Lục tặc, vì nếu chúng ta không biết giữ gìn, bảo hộ thân tâm thì sáu trần có thể làm cho con người đắm say mà tạo ra các ác nghiệp.

Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,

Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LUY TIẾT 

Luy: Giây trói tội phạm. Tiết: Dây buộc người.

Luy tiết là sợi dây trói buộc tù phạm, trăn trói, giam cầm.

Ông Hoàn Phạm có nói: Hiên miện dĩ trọng quân tử, luy tiết dĩ phạt tiểu nhân  , , nghĩa là xe hiên, mão miện thì để kính trọng người quân tử, còn như trăng trói thì để hành phạt kẻ tiểu nhân.

Dầu mang tội với quân thân

Ở trong luy tiết, cũng gần chớ xa,

(Huấn Nữ Ca).



Giảm hình phạt bớt đường luy tiết,

Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.

(Kinh Cầu Siêu).



LUỴ ĐẾN SÔNG TƯƠNG

Sông Tương chỉ sự thương nhớ và ly biệt giữa trai gái. Do điển trong Tình Sử, nàng Lương Ý yêu Lý Sinh một cách tha thiết, sau phải xa nhau, nên làm bài thơ “Tương Giang” có câu: Giang thâm chung hữu để, Tương tư vô biên ngạn  , , nghĩa là sông sâu còn có đáy, tương tư không bến bờ.

Luỵ đến sông Tương tức là bị khốn đốn, khổ sở vì sự thương nhớ, tương tư.

Gái mẹ dạy ân cần cho lắm,

Đừng để mình lụy đến sông Tương.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LỤY NGỌC

Như chữ “Lệ ngọc  ” là giọt nước mắt chảy xuống long lanh như hạt châu ngọc.

Xem: Lệ ngọc.

Nhiều nơi cảm thiết chẳng vừa,

Bỗng rơi lụy ngọc như mưa khôn cầm

(Hứa Sử Tân Truyện).



Ứa bốn bể hai hàng luỵ ngọc,

Gầy ba đông một vóc xương mai.

(Thơ Tản Đà).



LUYẾN CHÚA 

Luyến: Thương mến, không rời ra được. Chúa: Vua chúa.

Luyến chúa tức là nặng tình với nhà vua, không thể nào xa rời được.



Quá quan này khúc Chiêu Quân,

Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.

(Truyện Kiều).



LUYỆN THẠCH BỔ THIÊN 

Luyện đá vá trời.

Theo truyền thuyết, ngày xưa Cung Công Thị đánh nhau với Chúc Dung, Thị làm sập hết quả núi chống trời là Bát Châu Sơn. Em gái vua Phục Hy là bà Nữ Oa, luyện được năm thứ đá (Ngũ sắc) mà vá lại trời, nên người ta thường nói: Nữ Oa luyện thạch bổ thiên.

LỤN CANH GÀ

Lụn: Tàn dần. Canh gà: Canh năm gà gáy.

Lụn canh gà tức là đêm hầu tàn, gần bước sang canh năm, gà sắp gáy sáng.



Nào là trời lặn bóng tà,

Đêm khuya chờ lụn canh gà thăm em.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LŨNG TÂY  西

Tên đất thuộc tỉnh Cam Túc, có một cửa ải ở Lũng Sơn, xưa kia là một nơi đóng binh quan trọng để gìn giữ Trường An. Nơi đây cũng có một dãy núi cao ở tỉnh Cam Túc.



Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,

Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



LƯ SƠN CHÂN DIỆN MỤC 

Không biết mặt mũi thực của núi Lư sơn.

Do bài thơ của Tô Đông Pha có câu: Hoành khan thành lĩnh, trắc thành phong, Viễn cận cao đê các bất đồng. Bất thức Lư sơn chân diện mục, Chỉ duyên thân tại thử sơn trung  , . , . Nghĩa là : Nhìn ngang thành núi dãy, nhìn bên thành núi trái, xa gần cao thấp đều không đồng nhau, không biết được diện mục của Lư Sơn thế nào, chỉ vì mình đứng trong núi ấy.

Bài thơ này để ví dụ những việc mà mình không thấy rõ chân tướng của nó.



LỮ BỐ 

Tự là Phụng Tiên, người đất Cửu Nguyên đời Đông Hán. Bố là người có sức mạnh phi thường, giỏi võ nghệ nhưng thiếu mưu trí. Lúc đầu theo Đinh Nguyên, rồi giết Nguyên, về thờ Đổng Trác và nhận Trác làm cha nuôi.

Sau đó do mưu của Tư Đồ Vương Doãn, đem người con gái nuôi là Điêu Thuyền vừa dâng cho Đổng Trác, vừa gả cho Lữ Bố. Lữ Bố muốn chiếm Điêu Thuyền nên âm mưu cùng Vương Doãn giết chết Đổng Trác, được phong làm Ôn Hầu.

Lữ Bố bị bè đảng của Đổng Trác là bọn Lý Thôi đánh bại, phải chạy theo Viên Thiệu, rồi sau thua quân Tào Tháo, bị bắt, Lữ Bố liền tự tử.



Hán xưa có gã Đổng Công,

Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.

(Lục Vân Tiên).



LỮ GIA 

Hay “Lã Gia”.

Lữ Gia là bậc tôi thần nhà Triệu, làm đến chức Tể tướng dưới triều Ai Vương.

Lữ Gia được tin vua Ai Vương cùng Hoàng Thái Hậu là Cù thị đem nước ta dâng cho nhà Hán. Ông nhiều lần can ngăn mà không được, liền truyền hịch bố cáo khắp nơi cho dân biết về hành động của Ai Vương và Cù thị, đồng thời cùng mấy quan đại thần đem quân vào cung giết Ai Vương, Cù thị cùng sứ giả nhà Hán, rồi tôn con trưởng của Triệu Minh Vương là Kiến Đức lên ngôi, tức là Triệu Dương Vương.

Sau Hán đem binh qua phạt Triệu, Lữ Gia đứng ra điều binh khiển tướng để chống lại và bị quân nhà Hán bắt giết cùng với vua Triệu.

1.- Lữ Gia:



Lữ Gia là tướng ở đầu.

Đem lời can gián bày mưu xa gần.

(Quốc Sử Diễn Ca).

2.- Lã Gia:

Ngồi buồn xem lại sử Nam nhà,

Quan đời vua Triệu: Ông Lã Gia.

(Thơ Tản Đà).



LỮ HẬU 

Lữ Hậu tên là Trĩ, vợ của vua Hán Cao Tổ, sinh ra Huệ Đế. Khi Huệ Đế mất, Thiếu Đế lên ngôi, bà nắm trọn quyền bính trong triều đình. Vì làm phật ý bà, bà giết Thiếu Đế, lập Hằng Sơn Vương là Nghĩa lên ngôi Hoàng đế. Trong thời gian bỉnh chánh, bà phong vương cho dòng họ Lữ của bà, đến lúc mất bà để di chiếu lập Lữ Sản làm Tướng quốc.

Sau bọn Lữ Sản muốn soán ngôi, làm loạn, Tể tướng Trần Bình và quan Thái uý Châu Bột họp các quan lại đem quân vào cung giết chết cả họ Lữ, rồi đón em vua Huệ Đế là Hằng lên ngôi, tức là vua Hán Văn Đế.

Rằng ngươi là tướng có danh,

Cớ chi Lữ Hậu tự tình giết ngươi.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



Hán xưa Lữ Hậu thanh xuân,

Còn vừa Cao Tổ mấy đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngành Dị Ky.

(Lục Vân Tiên).



Hớn dầu yếu, giận Lữ làm quái gở;

Đường chưa suy, giận Võ dám lăng loàn.

(Sãi Vãi).



Hán thời Lữ Hậu ai qua?

Sớm khuya cửa tía vào ra nhà vàng.

(Truyện Trinh Thử).



LỮ KHÁCH 

Lữ: Quán. Khách: Người ở nơi khác đến.

Lữ khách là người khách đến trọ, hoặc chỉ những người đi đường (Còn gọi là lữ hành).



Ðể thảm xuân đường như ác xế,

Gieo thương lữ khách ngóng tin mai.

(Đạo Sử).



LỮ MÔNG 

Lữ Mông tự là Tử Minh, tướng của Ngô Tôn Quyền, đời Tam Quốc, đã từng cùng với Châu Du phá binh Tào Tháo ở Ô Lâm. Mông hiến kế lấy được Kinh Châu và nhứt là đánh thắng và bắt được Quan Vân Trường của quân Thục, được phong làm Thái thú ở Nam quận. Sau ông bị bịnh mà chết.



Quan Vân Trường gặp Lữ Mông,

dễ sa cơ ấy;

mảng thấy chữ “Phê tê hà cập”,

dạ những ngùi ngùi.

(Văn Tế Nguyễn Biểu).



LỮ PHỤNG TIÊN

Tức Lữ Bố là người đời Đông Hán, có sức mạnh phi thường, giỏi võ nghệ nhưng thiếu mưu trí, làm con nuôi của Đổng Trác.

Sau đó vì mưu của Tư Đồ Vương Doãn, đem Điêu Thuyền dâng cho Đổng Trác, rồi lại gả cho Lữ Bố, nên Lữ Bố âm mưu cùng Vương Doãn giết chết Đổng Trác, được phong làm Ôn Hầu.

Xem: Lữ Bố.



Trực rằng: Ai Lữ Phụng Tiên,

Phòng loan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi?

(Lục Vân Tiên).



LỮ THẤN 

Lữ: Quán trọ, khách trọ . Thấn (Còn đọc là tẩn): Chết đem nhập quan nhưng chưa chôn.

Lữ thấn là quan tài còn quàn lại ở nơi đất khách.

Ngày xưa có tục những người xa quê hương chết, thân nhân thường tẩn liệm xong gửi vào chùa, hoặc quàn tại một nơi tạm để chờ ngày thuận tiện đưa về quê chôn cất, gọi là “Lữ thấn”.

Đem tin thúc phụ từ đường,

Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề.

(Truyện Kiều).



LỮ VI 

Hay “Lã Bất Vi  ”.

Lữ Bất Vi tên chữ là Lữ Hồng, người Dương Địch thuộc nước Tần, là một phú thương lại coi tướng giỏi, có vợ tên Châu Cơ, người nhan sắc, đang có thai ba tháng, đem gả cho Dị Nhân là cháu vua Tần, sinh ra một trai tên là Chính.

Sau Dị Nhân được trở về Tần, rồi nối ngôi vua là Trang Tương Vương, phong Bất Vi làm Thừa tướng.

Xem: Bất Vi.

Ăn đùa rẻ bán Lữ Vi vinh,

Một xảo trước kia sử giữ gìn.

(Đạo Sử).



LỮ VỌNG 

Lữ Vọng, tức Thái Công Vọng, tự là Tử Nha, họ Khương tên Thượng. Lúc còn hàn vi, ngồi câu trên sông Vị, sau được Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương) rước về làm Tướng quốc, và trở thành vị khai quốc công thần cho nhà Châu.

Khi Văn Vương mất, Lữ Vọng phò vua Võ vương và hội các chư hầu, đem quân phạt Trụ. Nhờ tài điều binh khiển tướng giỏi của ông, nên diệt được Trụ vương, và lập nên nhà Châu, truyền kế hơn tám trăm năm. Ông được tôn làm Tướng Phụ.

Xem: Khương Thượng.



Dựa bãi Nghiêm Lăng chờ bĩ thái,

Neo gành Lữ Vọng nhắp công hầu.

(Thơ Phan Văn Trị).



Đào Tiềm, Lữ Vọng tích đâu,

Thanh nhàn sánh với công hầu ai hơn.

(Nghĩ Lại Kẻo Già, Khuyết Danh).



Cười như Lữ Vọng lúc suy thời,

Chẳng lái chẳng chèo khó nổi bơi.

(Đạo Sử).



LỬA BÉN GẦN RƠM

Bởi câu tục ngữ Việt Nam: “Lửa gần rơm thế nào cũng bén”, dùng để ví với người con gái gần gũi, chung đụng với con trai mãi, thế nào cũng có khi lỡ lầm.

Xem: Lửa gần rơm.

Chớ cho lửa bén gần rơm,

Ếch này giếng nọ, người đơm kẻ bày.

(Huấn Nữ Ca).



LỬA CƠ ĐỐT RUỘT

Gặp cảnh tân toan, khổ nhọc lòng dạ tựa như ngọn lửa đốt cháy ruột gan.

Hoặc nói việc đói cồn cào như lửa thiêu trong ruột.

Bệnh trần đòi đoạn tân toan,

Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LỬA CHÁY ĐÁ NGỌC

Nghĩa từ câu “Ngọc thạch câu phần  ” là ngọc đá đều bị đốt cháy. Kinh Thư có câu: Hoả viêm côn cương, ngọc thạch câu phần  , , nghĩa là lửa đốt cháy núi Cương, ngọc đá đều cháy.

Lửa cháy đá ngọc chỉ thiên hạ dù thiện ác đều chịu chung số phận như nhau khi có chiến tranh, loạn lạc.

Xem: Ngọc thạch câu phần.



Lửa cháy đá nở hoà lầm ngọc,

dù hiền ngu khôn lọt lưới trời.

(Hịch Tây Sơn).



LỬA CHÁY THÊM DẦU

Bởi chữ “Hoả thượng thiêm du  ”. Lửa đang cháy tưới thêm dầu.

Dầu là một nhiên liệu (Chất đốt), gặp lửa càng cháy thêm. Thế mà lửa đang cháy, thêm dầu vào, lửa càng cháy mạnh hơn. Ví như người đang giận, đã không an ủi, trái lại còn nói khích thì càng tức giận thêm.

LỬA GẦN RƠM

Đồng nghĩa với câu “Lửa bén gần rơm”.

Do tục ngữ: “Lửa gần rơm thế nào cũng bén”.

Người xưa quan niệm trai gái chung đụng cũng như lửa gần rơm, vì vậy lễ nghi của Nho giáo mới có câu “Nam nữ thọ thọ bất thân”.

Xem: Lửa bén gần rơm:

Dễ mà gìn giữ đêm ngày,

Lửa gần rơm lỡ sự này biết sao!

(Nữ Tú Tài).



Lửa gần rơm sao chẳng bén vương,

Mèo thấy mỡ lại không mó hửi

(Nhạc Hoa Linh).



LỬA HƯƠNG

Hay hương lửa, do chữ “Hương hoả  ”.

Ngày xưa trong nghi lễ cúng tế, người ta thường lên đèn và đốt nhang trên bàn thờ, đó gọi là “Lửa hương”. Vì thế, sau nầy hai chữ “Lửa hương” dùng để chỉ trai gái thề nguyền với nhau, hoặc trong hôn lễ, vợ chồng làm lễ trước bàn thờ gia tiên.

Ngoài ra chữ “Lửa hương” còn dùng để chỉ việc nối dòng thờ cúng tổ tiên.

1.- Chỉ trai gái thề nguyền:

Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,

Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi.

(Truyện Kiều)



Kiếp này chưa trọn chữ duyên,

Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.

(Ai Tư Vãn).



Lửa hương tình lại ưa duyên mới,

Mưa gió hoa càng rạng vẻ xuân.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



Lửa hương ví bẳng ngày sao đượm,

Phải nhớ công ơn của Ðất Trời.

(Đạo Sử).

2.- Chỉ thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường:

Giọt máu mủ lưu truyền tại thế,

Con nhẫng mong truyền kế lửa hương.

(Kinh Thế Đạo).



LỬA LÒNG

Chỉ về dục vọng. Người ta thường ví dục vọng như ngọn lửa thiêu đốt trong lòng người, khiến trở nên tham dục, nóng nảy, hay điên cuồng.



Cho hay giọt nước cành dương,

Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.

(Truyện Kiều).



Sự đời đã tắt lửa lòng,

Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!

(Truyện Kiều).



LỬA NỒNG

Bởi chữ “Hoả khanh  ” là hầm lửa dùng để chỉ người con gái nhà thổ.

Lửa nồng nghĩa bóng là chỉ cảnh khổ nhục ở chốn lầu xanh.

Cúi đầu luồn xuống mái nhà,

Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.

(Truyện Kiều).



LỬA TẦN TRO HẠNG

Lửa Tần tro Hạng tức lửa của nhà Tần tro của Hạng Võ, chỉ việc Tần Thuỷ Hoàng đốt sách trong thiên hạ và Hạng Võ thiêu cung A Phòng của nhà Tần.



Lửa Tần, tro Hạng vừa nguôi dấu,

Am Hán, chùa Lương lại réo dầy.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



LỬA THÀNH

Cá trong ao bị vạ lây bởi lửa cháy thành, do câu “Thành môn thất hoả, ương cập trì ngư  , ” ý muốn nói bị tai bay vạ gió.

Xem: Lửa thành ao cá

Có người leo giếng đứt dây,

Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

(Thập Loại Chúng Sinh).



LỬA THÀNH AO CÁ.

Lửa cháy cửa thành vạ lây đến ao cá.

Do câu “Sở quốc vong viên, hoạ diên lâm mộc. Thành môn thất hoả, ương cập trì ngư  , . , ” nghĩa là nước Sở mất vượn, hoạ luỵ đến cây rừng. Cửa thành lửa cháy, cá trong ao bị lây. Bởi vì muốn tìm con vượn mất, phải phá tan rừng cây, muốn tưới tắt lửa thành, phải múc cạn nước ao. Vì thế, cây rừng phải nát, cá ao phải khô. Chỉ việc vô cớ bị vạ lây.

Lửa thành ao cá bấy chừ,

Thùng chàm tay rửa sao hoà khỏi xanh.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



LƯNG BẦU GIÓ TRĂNG

Lưng bầu: Lấy ý từ chữ “Bán nang  ” là nửa túi. Gió trăng: Bởi chữ “Phong nguyệt  ” tức là trăng và gió.

Lưng bầu gió trăng chỉ người phong lưu tài tử.

Xem: Lưng túi gió trăng.

Thuận dòng ngàn liễu cung dâu,

Một thuyền đèn sách, lưng bầu gió trăng.

(Hương Sơn Hành Trình).



LƯNG TÚI GIÓ TRĂNG

Do câu “Bán nang phong nguyệt  ”, tức là nửa túi gió trăng, dùng tả người phong lưu tài tử, chỉ mang theo người gió mát trăng thanh để làm chất liệu cho thi hứng như lời La Hồng Tiên viết: Thanh phong minh nguyệt nhất thi nang  , nghĩa là gió mát trăng thanh thơ một túi.

Xem: Bán nang phong nguyệt.

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau chưn theo một vài thằng con con.

(Truyện Kiều).



LƯỢC CÀI TRÂM GIẮT

Theo nghi lễ ngày xưa, con gái đến tuổi trưởng thành đều có làm lễ gia kê, tức là lễ cài trâm, vì vậy lược cài trâm giắt trở thành món trang sức của phụ nữ, dùng để chỉ người con gái.

Xem: Trâm giắt lược cài.

Trộm nhớ ai lược cài trâm giắt,

Chốn buồng thêu mau nhặt mũi kim.

(Mỹ Nữ Cống Hồ).



LƯỢC THAO 

Do chữ “Tam lược lục thao  ”.

Tam lược là một bộ sách binh thư, trong đó giải về chiến thuật, chiến lược, cách dùng binh trong chiến tranh thời xưa.

Lục thao là một bộ sách tương truyền của Thái Công Vọng làm ra, trong đó chia thành sáu thế binh pháp: Văn thao, Võ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao và Khuyển thao.



Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

(Truyện Kiều).



Ngư rằng: Vốn thật thầy Nhu,

Lòng cưu gấm nhiễu, lại giàu lược thao.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Ngâm ngợi năm pho kinh sử,

Tập tành ba quyển lược thao.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



LƯỚI THANG

Bởi chữ “Thang võng  ”.

Sử Ký chép: Vua Thành Thang đi ngang qua cánh đồng thấy một người bẫy chim, vây bốn mặt và cầu rằng: Trên trời dưới đất bốn phương đều vào lưới ta. Nghe thế, vua Thang mới nói: Ôi! Như vậy thì còn gì nữa. Vua mới mở ba mặt lưới và cầu rằng: Muốn bay bên tả hay bên hữu thì cứ bay, còn như mạng số hết thì bay vào lưới ta.

Các chư hầu nghe được chuyện này bèn khen vua Thang là người nhân đức ngay cả với loài cầm thú.



Lòng ngay chẳng dám mưu mô,

Lưới Thang rộng mở ơn nhờ xiết bao.

(Truyện Trê Cóc).



Ðợi thời toan mượn cần câu Lữ,

Dựng nghiệp tua chờ mặt lưới Thang.

(Đạo Sử).



LƯỚI THỎ

Do bài “Thố tư  ” trong Kinh Thi khen vua Văn Vương nhà Châu khéo giáo hoá người trong nước, đến những người đi giăng lưới thỏ mà cũng có tài võ nghệ. Bài Thi viết: Túc túc thố tư, Trác chi đinh đinh. Củ củ võ phu, Công hầu can thành  , . , , nghĩa là người đánh lưới thỏ tề chỉnh gọn gàng, đóng cây cọc nghe đinh đinh. Những người có dáng uy vũ, có thể dùng làm cái khiên cái thành để che chở cho vị công hầu.



Lưới thỏ giăng,

sãi muốn cho củ củ võ phu;

Gót lân xéo,

Sãi muốn cho chơn chơn công tử.

(Sãi Vãi).



LƯỚI TRỜI

Bởi chữ “Thiên võng  ” trong câu của Lão Tử: Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu  , , nghĩa là lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.

Lưới trời dùng để nói người gây tội lỗi, người làm bậy khó mà thoát được báo ứng của lưới trời.

Gian tà đắc chí mấy hơi,

Mắt thần khôn giấu lưới trời khôn dung.

(Nhị Độ Mai).



LƯỠI CẢO KHANH

Lưỡi Cảo Khanh là cái lưỡi của Nhan Cảo Khanh, một vị quan đời nhà Đường, làm Thái thú Thường Sơn. Khi An Lộc Sơn đem binh chống nhà Đường, Cảo Khanh đem quân đánh dẹp, thua Trận bị bắt, Cảo Khanh mắng chưởi không dứt nên bị cắt lưỡi mà chết.



Chính làm cái lưỡi Cảo Khanh.

Thường Sơn chưởi giặc, chịu hình cũng ưng.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



LƯỠI KHÔNG XƯƠNG

Bởi câu “Lưỡi không xương trăm đường lắt léo”, ý muốn nói người nhiều chuyện, nói tới nói lui, nói xuôi nói ngược đều được tựa như lưỡi không xương có thể bẻ qua bẻ lại.



So hơn đức hạnh mới nên giành,

Cái lưỡi không xương thiệt quá lanh.

(Đạo Sử).



LƯỠI THỌC TAY ĐÂM

Ý nói miệng lưỡi thì buông lời đâm thọc, gây sự căm thù chia rẽ, còn tay thì lại thích chém đâm.



Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc,

Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LƯƠNG DƯỢC KHỔ KHẨU 

Thuốc hay đắng miệng.

Sách có câu: Lương dược khổ khẩu lợi ư bệnh, trung ngôn nghịch nhĩ lợi ư hành  , , nghĩa là thuốc hay đắng miệng lợi cho bịnh, lời thẳng trái tai lợi cho hành động.

Nghĩa bóng: Lời nói tuy trái tai nhưng có ích.



LƯƠNG ĐỐNG 

Lương: Cái rường nhà. Đống: Cây đòn dông, cây cột là hai bộ phận chính và quan trọng của ngôi nhà.

Lương đống là rường cột, dùng để chỉ những người tài ba, giúp ích cho quốc gia dân tộc như rường và cột chống đỡ mái nhà.



Trong lăng miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Thiệt trang lương đống đã đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngành,

Khá khen hai họ tài lành hòa hai.

(Lục Vân Tiên).



Từ rằng: Ta tiếc cho chàng,

Chẳng phen lương đống, cũng trang anh hùng.

(Dương Từ Hà Mậu).



LƯƠNG NHÂN 

Lương nhân là người lương thiện.

Ngày xưa, người vợ gọi chồng cũng bằng “Lương nhân”. Ngoài ra, tiếng “Lương nhân” còn dùng để gọi người quân tử.

A.- Dùng để gọi người chồng:



Gọi con đến trước lạy người,

Lạy lương nhân đã, sẽ rời chân ra.

(Quan Âm Thị Kính).



Nào là hương đượm lửa nồng,

Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).

B.- Dùng chỉ người quân tử, người lành:

Dậm thẳng lương nhân xin khá gắng,

Ðường dài nghĩa nọ dễ đâu xa.

(Đạo Sử).



LƯƠNG TÂM 

Lương tâm là cái thiện tâm của con người, cũng là cái Thiên lương, hay Thiên tánh mà Trời ban cho con người.

Theo Mạnh Tử , con người nhờ có lương tâm mới biết được điều nhân điều nghĩa, lẽ phải lẽ trái. Còn người chỉ đắm đuối vào đường vật chất, do thất tình lục dục sai khiến, thì lương tâm của họ bị mờ tối đi, thành thử không hiểu được điều nhơn nghĩa.

Cho hay người cũng người ta,

Biết đâu đạo tặc chẳng là lương tâm?

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Lương tâm thường xét cho rành,

Của không phải nghĩa chớ sanh lòng tà.

(Kinh Sám Hối).



Già trí đừng lo trí chẳng già,

Lương tâm mình biết hỏi chi xa.

(Đạo Sử).



LƯƠNG TỂ 

Lương: Tốt, giỏi. Tể: Tể tướng, chức quan đứng đầu triều đình.

Lương tể là vị quan tài giỏi đứng đầu triều đình.

Người xưa có câu: Minh quân lương tể tao phùng dị  , nghĩa là vua sáng tôi hiền gặp nhau dễ.

Xuân Thu định vững ngôi lương tể,

Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



LƯƠNG THIỂU BINH HY 

Lương thiểu: Lương thực ít. Binh hy: Binh lính ít.

Lương thiểu binh hy là quân lính thưa thớt, lương thực ít ỏi, không đủ dùng để đánh giặc. Nói quân thế suy yếu.



Giặc bốn phía thiên trùng bách vạn,

Ta một thành lương thiểu binh hy.

(Nhạc Hoa Linh).

 

LƯƠNG VÕ 

Hay “Lương Vũ”.

Lương Võ hay Lương Vũ tức là Lương Võ Đế, là Thái Tổ nhà Lương, một vị vua sùng tín đạo Phật, cho lập chùa chiền và mời các vị cao tăng bên Ấn Độ sang Trung Quốc truyền đạo.

Xem: Lương Võ Đế.



Tới sau Lương Võ rất mê,

Lập chùa tượng cốt, chuyên nghề tu trai.

(Dương Từ Hà Mậu).



Chẳng tin Lương Vũ còn bia cũ,

Tra mà lại biết thực chẳng ngoa.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



LƯƠNG VÕ ĐẾ 

Hay “Lương Vũ Đế”.

Tên là Tiêu Diễn, tự Thúc Đạt, làm Thứ sử Ung Châu nước Tề. Vua Tề là Bảo Quyển hung bạo, giết anh của Diễn là Ý, Diễn khởi binh công hãm thành Kiến Khang, đón Bảo Dung đưa lên ngôi là Hoà Đế.

Hoà Đế bèn cho Diễn làm Đại Tư Mã và phong làm Lương Vương. Sau Hoà Đế mất nhường ngôi lại cho Diễn, lập nên nhà Lương, tức Lương Võ Đế.

Võ Đế là Thái Tổ nhà Lương, một vị vua sùng bái đạo Phật, cho vời các bậc cao tăng ở Ấn Đô sang truyền đạo ở Trung Quốc.

Sau Hầu Cảnh nổi loạn vây ông ở Đài Thành đến đói mà chết.



Đời nào tu cho hơn Tống Đạo Quân,

Đời nào tu cho kịp Lương Võ Đế.

(Sãi Vãi)



LƯƠNG VŨ KHỐN ĐÀI THÀNH

Lương Vũ Đế, tên là Tiêu Diễn, làm vua được bốn mươi tám năm, cuối cùng bị Hầu Cảnh, một hàng tướng đem quân bao vây ở Đài thành năm tháng, vua đói khát mà chết.

Xem: Lương Võ Đế.

Kìa Khổng tử ách nơi Trần Thái,

mặt đã rầu rầu.

Nọ Lương Vũ khốn thuở Đài Thành,

dạ đà ngằm ngặp.

(Thập Giới Cô Hồn).



LƯƠNG VƯƠNG 

Vua nước Lương, hiệu là Võ Đế, nên thường được gọi là Lương Võ Đế.

Lương Vương là vị vua rất sùng tín đạo Phật, ham mê theo việc tu hành, bỏ bê triều chính, nên Hầu Cảnh cất binh làm phản, vây khổn Đài Thành, khiến Lương Vương phải chết đói.

Xem: Lương Võ Đế.



Ðường tu ví bẳng không lo trước,

Ðền điện Lương Vương phải cháy tiêu.

(Đạo Sử).



LƯỜNG TÀI CÂN SẮC

Lường tài: Đo lường cái tài năng. Cân sắc: Cân xứng cái sắc đẹp.

Lường tài cân sắc tức là người con gái đo lường cái tài năng của người trai coi có cân xứng với cái sắc đẹp của mình không.



Trông người so sánh với ta,

Lường tài cân sắc hiệp hòa mới nên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LƯỠNG BAN QUẦN THẦN 


Lưỡng ban: Hai bên văn ban và võ ban. Quần thần: Bầy tôi.

Lưỡng ban quần thần là chỉ những bề tôi thuộc hai ban văn và võ của triều đình.



Đánh vào tới ải đồng quan,

Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần.

(Lục Vân Tiên).



LƯỢNG BỂ

Do chữ “Hải hà lượng  ” tức là sự dung chứa của sông biển thì thật là bao la, rộng lớn.

Vì vậy, “Lượng bể” dùng để nói sự độ lượng của người rộng rãi như biển cả.

Thày lay vâng chịu trót đà,

May nào lượng bể bao la muôn nhờ.

(Mai Đình Mộng Ký).



Dấu bèo nhờ có đèn trời rạng,

Lượng bể dong cho sóng đất êm.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



LƯỢNG XUÂN

Bởi chữ “Xuân lượng  ” tức là sự chứa đựng rộng rãi như mùa xuân đối với vạn vật.

Lượng xuân là độ lượng của chúa xuân, tức là của sắc đẹp và tuổi trẻ.

Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,

Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!

(Truyện Kiều).



LƯU ÁN 

Đời nhà Đường có vị thần đồng là Lưu Án, mới lên bảy tuổi đi thi đỗ khoa thần đồng, sau làm quan đến chức Chính tự.

Sách Tam Tự Kinh có câu: Đường Lưu Án, phương thất tuế, cử thần đồng, tác Chính tự  , , , , nghĩa là Lưu Án nhà Đường mới lên bảy tuổi đã đỗ khoa thần đồng, làm quan Chính tự.

Đường Lưu Án tuổi vừa lên bảy,

Đỗ thần đồng tiếng dậy gần xa.

(Gia Huấn Ca).



LƯU HUYỀN ĐỨC 

Tức Lưu Bị , là Hậu duệ của Trung Sơn Vương nhà Hán đời Tam Quốc. Thuở trẻ, ông có kết nghĩa đào viên với Quan Vân Trường và Trương Dục Đức. Nhờ công dẹp giặc khăn vàng mà được lãnh chức mục của hai Châu, sau lãnh mật chiếu của Hiến Đế sai giết Tào Tháo, việc bị bại lộ, ông phải chạy đến Hạ Khẩu, hợp sức với Ngô Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, rồi chiếm Kinh Châu. Sau khi Hiến Đế bị hại, Lưu Bị lên ngôi ở Thành Đô, cùng với Nguỵ và Ngô chia ba thiên hạ, gọi là thời Tam Quốc. Sau bị Lục Tốn nhà Ngô đánh bại, ông mất ở Bạch Đế Thành, thuỵ là Chiêu Liệt Hoàng Đế, người đời sau gọi là Lưu Tiên Chúa.



Lưu Huyền Đức giận Lục Tốn,

mong trả thù này;

Nghĩ đến câu “Thường đảm bất vong”,

lòng thêm dọi dọi.

(Văn Tế Nguyễn Biểu).



LƯU CẦU 

Lưu Cầu là tên một quần đảo ở phía nam của Nhật Bản, chỗ đó có rèn gươm dao rất sắc bén, nổi tiếng khắp nơi, gươm ấy gọi là Lưu Cầu kiếm dùng để hộ thân hoặc để đánh giặc.



Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu,

Giết nhau bằng cái ưu sầu độc chưa?

(Cung Oán Ngâm Khúc).



LƯU CÔN 

Lưu Côn là người Nguỵ Xương, đời Tấn, tự Việt Thạch, có công to trong việc đánh dẹp những cuộc nổi loạn trong nước. Lúc bị rợ Hồ vây, Lưu Côn thổi kèn rất hay, khiến quân giặc động lòng nhớ nhà mà bỏ về hết. Lưu Côn cùng Tổ Địch làm chủ bạ đất Tư Châu, hai người cùng nằm chung một giường chiếu, cùng sinh hoạt với nhau như anh em ruột vậy.



Canh gà hẹn bóng thiềm chen,

Lưỡi gươm Tổ Địch tiếng kèn Lưu Côn.

(Hoài Nam Khúc).



LƯU HẠNG 

Tức là Lưu Bang và Hạng Võ,

Lưu Bang tự là Quý, sinh tại đất Bái, nên người ta gọi là Bái Công, làm chức Đình trưởng ở Tứ Thượng. Ông đã từng chém rắn ở Mang Dịch, rồi chiêu tập binh mã khởi nghĩa tại đất Bái, sau với Hạng Võ phò Sở Hoài Vương diệt nhà Tần bạo ngược.

Hạng Võ, tên là Tịch, người đất Cối Kê, có sức mạnh hơn người, đã từng cử đảnh nặng năm ngàn cân trước miếu Võ Vương. Sau chiêu mộ binh mã cùng Bái Công chung sức đánh Tần.

Sau Lưu Bang và Hạng Võ đánh nhau để tranh ngôi vua. Cuộc chiến kéo dài hơn năm năm, kết cuộc Hạng Võ bị bại và tự tử ở sông Ô Giang

Thệ điều dạ ái ưu,

Hồ Việt tưởng một nhà lạc tiệc.

Tư vì ai hấn khích,

Lưu Hạng nên trăm trận chiến trường.

(Hoài Nam Khúc).



LƯU HẦU 

Tức Trương Lương, tự là Tử Phòng, người nước Hàn. Khi Hàn bị diệt, Trương Lương theo làm quân sư cho Hán Cao Tổ, lập được nhiều công lớn. Sau Hán Cao Tổ lên ngôi, ông được phong tước là Lưu Hầu.

Xem: Trương Lương.

Khôn thay rất mực bác Lưu Hầu,

Lui tới thong dong tự trước sau.

(Thơ Lê Quý Đôn).



LƯU HƯỚNG 

Một danh Nho đời Hán, cháu bốn đời của Sở Nguyên Vương, tự là Tử Chính, còn tên là Canh Sinh. Có tài văn chương lại tinh thông học thuật, thường lấy âm dương để luận lẽ đắc thất về chính sự.

Ban đêm ông đọc sách có thần sao Thái Ất đốt lửa soi cho sáng.

Lửa Thái Ất đêm soi Lưu Hướng,

Cầu thăng tiên ngày tưởng Tràng Khanh.

(Tự Tình Khúc).



LƯU KINH 

Lưu Kinh là một vị quan thời nhà Hán, rất thương yêu dân lành. Khi quân Hung Nô vây Hán Cao Tổ ở đất Bình Thành và uy hiếp ở phía bắc. Vua Hán Cao Tổ định đem quân đánh trả, bèn hỏi ý Lưu Kinh. Ông nói: Thiên hạ mới được yên, không nên gây lại cuộc binh đao. Chúng ta nên giao hòa, đem công chúa trưởng nữ gả cho chúa Thiền Vu, chắc chắn là nó sẽ xưng thần với bệ hạ. Sau nó có con lên nối ngôi Thiền Vu thì cũng phải xưng thần với bệ hạ là ông ngoại. Vua Hán nghe qua bằng lòng, sai Lưu Kinh sang sứ kết thân với Thiền Vu của Hung Nô.



Lưu Kinh nào từ dâng chước cả,

Cao hoàng xưa cũng khiến hòa thân.

(Hồng Đức Quốc Âm).



LƯU KHOAN 

Ông Lưu Khoan, đời nhà Hán, làm quan Thái Thú huyện Nam dương, có quyền kinh lịch, xem xét việc hành chính ba quận. Ông là người có tính ôn hoà, nhân hậu, nhiều khoan thứ, quan lại, dân chúng có lỗi, chỉ dùng roi cỏ bồ mà răn phạt để nêu cái nhục mà thôi. Do vậy, người đời thường nói: Hán Lưu Khoan trách dân, bồ tiên thị nhục  , , tức là ông Lưu Khoan nhà Hán trách dân, chỉ lấy roi cỏ bồ để răn dạy thị nhục.



LƯU LẠC 


Lưu: Nước chảy. Lạc: Rơi rụng.

Lưu lạc là lênh đênh, trôi nổi nơi này đến nơi khác, ví như hoa rơi nước chảy vậy.



Chung quanh những nước non người,

Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu.

(Truyện Kiều).



Nghĩ mình lưu lạc đã dày,

Chút niềm tâm sự dám bày cùng ai.

(Nhị Độ Mai).



Nơi tiên phần còn gửi mây xanh,

Xót thân lưu lạc phù bình bấy lâu.

(Tự Tình Khúc).



LƯU LANG 

Tức là Lưu Thần, vào núi Thiên Thai hát thuốc, bị lạc đường gặp được tiên nữ, cùng kết duyên vợ chồng.

Xem: Lưu Thần Nguyễn Triệu.

Chốn nguồn đào thẳng bước Lưu Lang,

Nơi động Bích sánh vai cùng tiên nữ.

(Lộ Địch Diễn Ca).



LƯU LY 


Lưu: Trôi chảy. Ly: Chia lìa.

Lưu ly là vì hoàn cảnh gia đình phải trôi nổi nơi đất khách quê người, tức là lưu lạc, xa lìa quê hương.



Nàng rằng: Phải bước lưu ly,

Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.

(Truyện Kiều).



Những là oan khổ lưu ly,

Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!

(Truyện Kiều).



Bước trời phải bước lưu ly,

Lòng người nhớ đến bình thì thuở xưa.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LƯU LINH 

Lưu Linh tự Bá Luân, người đời Tấn, là một người trong Trúc Lâm Thất Hiền. Ông là người nổi tiếng hay uống rượu, tính tình phóng khoáng, có làm bài “Tửu đức tụng  ” để ca ngợi những đức tánh của rượu.



Cờ Tiên, rượu Thánh ai đang,

Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Thôi ngày trọn, lại đêm thâu,

Cạn chung Lý Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Thơ một túi gieo vần Đỗ Lý,

Rượu lưng bầu rót chén Lưu Linh.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



LƯU MÃ MỘC NGƯU

Nghĩa là ngựa máy trâu gỗ, tức những thứ do Gia Cát Khổng Minh chế ra dùng để tải lương thực thế quân sĩ trong những đoạn đường núi hiểm trở. Chước lưu mã mộc ngưu được Khổng Minh dùng trong trận đánh giữa nhà Hán và Nguỵ tại núi Kỳ Sơn.



Chước nào chước chẳng ngoan nguỳ,

Chốn thì lưu mã, chốn thì mộc ngưu.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



LƯU NGUYỄN 

Tức Lưu Thần , Nguyễn Triệu .

Đời Đông Hán, có hai người là Lưu Thần và Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Cả hai người bị lạc đường trong núi Thiên Thai, loanh quanh tìm lối về, tình cờ gặp hai nàng Tiên nữ, rồi cùng nhau kết duyên vợ chồng.

Lưu Nguyễn ở đó được một thời gian, vì nhớ quê nhà, xin từ giã hai nàng trở về cố hương. Hai nàng Tiên nữ biết Lưu Nguyễn lòng phàm chưa dứt, nên đành đưa tiễn cả hai xuống trần thế. Về đến nơi, Lưu Nguyễn thấy cảnh vật đều thay đổi, những người thân thuộc đều chết hết, con cháu thì trải qua mấy đời rồi. Hai người buồn, tìm đường trở lại nhưng không thấy được lối vào, đành mất ở rừng sâu.



Lưu, Nguyễn dấu xưa ai cũng biết,

Ngươi về, nhà nước hiếm người thương.

(Dương Từ Hà Mậu).



Tương duyên kỳ ngộ xưa nay,

Trước kia Lưu, Nguyễn; sau này Bùi Trương.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



Soạn Chi nghe nói tỏ tường,

Khác nào Lưu, Nguyễn gặp nàng tiên nhân.

(Nữ Tú Tài).



Núi cao nhìn lại thêm cao,

Khác nào Lưu Nguyễn khi vào Thiên thai.

(Hương Sơn Hành Trình).



LƯU PHƯƠNG 


Lưu: Chảy. Phương: Thơm.

Lưu phương là tiếng thơm còn truyền lại về sau.

Người xưa thường đề khuôn biển treo giữa nhà: Đức Lưu Phương  , nghĩa là phước đức để lại tiếng thơm đời đời.

Trước là vinh hiển tổ đường,

Bõ công đèn sách lưu phương đời đời.

(Thanh Hoá Quan Phong).



LƯU QUAN TRƯƠNG 

Tức là Lưu Bị, Quan Võ và Trương Phi, là ba anh em kết nghĩa tại vườn đào đời Tam Quốc. Sau Quan Võ và Trương Phi phò anh là Lưu Bị dựng nên nhà Thục.

Xem: Quan Công, Trương Phi.

Lưu, Quan, Trương giữ còn nghiệp Hớn,

Gìn trọn thề chết sống có nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).



LƯU TÚ 

Lưu Tú là cháu sáu đời của vua Cảnh Đế nhà Tiền Hán, khởi binh ở Thung Lăng, thuộc huyện Táo Dương tỉnh Hồ Bắc.

Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, đặt quốc hiệu là Tân, Lưu Tú đem binh đi bình định Hà Bắc, rồi lập mưu giết Vương Mãng, lên ngôi Đế ở đất Cao, nay là Cao Ấp, tỉnh Hà Bắc, ấy là vua Quang Võ đời Hậu Hán.

LƯU THUỶ 

Tức là nước chảy, nói tính cách trôi chảy, thanh thoát của khúc đàn.



Cuộc doanh thâu bàn bạc bắc nam chơi,

khúc Lưu thủy gảy vài cung réo rắt;

(Phản Tây Hồ Tụng).



LƯU THUỶ CAO SƠN 

Hay “Lưu thuỷ cao san”.



Lưu thuỷ: Nước chảy. Cao sơn: Núi cao.

Lưu thuỷ cao sơn là tên bản đàn của Bá Nha.

Do điển: Quan Đại phu Bá Nha nhân một đêm trăng, lênh đênh trên thuyền về quê, ngồi ôm đàn khảy. Tử Kỳ ngồi trên bờ lắng nghe, nức nở khen. Bá Nha cho người mời xuống thuyền cùng nhau trò truyện, lấy làm ưng ý, bèn kết làm đôi bạn. Trong khi thử tài nhau, Bá Nha ngồi ôm đàn, nghĩ ngợi, chí ở chốn nước biếc, Tử Kỳ gật đầu, nghe đàn rồi bảo rằng: Vọi vọi chí đại nhân ở nơi lưu thuỷ. Bá Nha lại đàn, để chí ở chốn non cao, Tử Kỳ cười bảo: Vọi vọi chí đại nhân ở chốn cao sơn.

Than rằng: Lưu thủy cao sơn,

Ngày nào nghe đặng tiếng đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngàn tri âm.

(Lục Vân Tiên).



Dặt dìu lưu thuỷ cao san,

Mùi hương thơm ngát bực đàn trong veo.

(Bất Phong Lưu Truyện).



LƯU TRUYỀN 


Lưu: Chảy. Truyền: Lan rộng cho mọi người biết.

Lưu truyền là truyền đi khắp nơi cho mọi người, tựa như dòng nước chảy khắp chốn.



Giọt máu mủ lưu truyền tại thế,

Con nhẫng mong truyền kế lửa hương.

(Kinh Thế Đạo).

 

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...