M
MA CẬT
Tức tên tự của Vương Duy, một nhà thơ đời nhà Đường, đậu Tiến sĩ làm quan đến chứcThượng thư hữu thừa. Ông là một thi sĩ vừa là một họa sĩ, nên “Trong thơ có vẽ, trong vẽ có thơ” (Thi trung hữu hoạ, hoạ trung hữu thi 詩 中 有 畫, 畫 中 有 詩). Vương Duy rất yêu cảnh thiên nhiên, nên trong thơ thường ca tụng tranh sơn thuỷ.
Bút thiêng Ma Cật tay khôn
mạc,
Câu khéo Huyền Huy ý chửa đông.
(Quốc Âm Thi Tập).
MA CHIẾT 磨 折
Ma:
Mài dũa. Chiết: Gãy.
Bởi chữ “Thiên ma bách chiết 千 磨 百 折” là trải qua trăm nghìn gian nan, vất vả, vùi dập như trăm lần mài, nghìn lần gãy.
Xem: Thiên ma bách chiết.
Cát lầm ngọc trắng cũng là,
Càng kiên trinh lắm, càng ma chiết nhiều.
(Thơ Bùi Kỷ).
MA XỬ 魔 杵
Ma xử hay còn gọi là Ma chử, viết tắt của Giáng ma xử hay Hàng ma xử, nghĩa là cái chày để hàng phục ma vương quỉ quái. Cây Giáng ma xử là một bửu bối của Vi Hộ trong truyện Phong Thần, sau thành Hộ Pháp.
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức Đạo Cao Đài, Hộ
Pháp cũng cầm cây Giáng ma xử.
Giáng linh Hộ Pháp Di Đà,
Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.
(Kinh Tận Độ).
MÁ ĐÀO
Do chữ “Đào kiểm 桃 臉”, tức là gò má đỏ hồng như đoá hoa đào.
Trong văn chương người ta thường dùng chữ má đào để chỉ người đàn bà, con gái.
Xem: Đào kiểm.
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Số còn nặng nợ má đào,
Người dầu muốn quyết trời nào đã cho.
(Truyện Kiều).
Nấu Kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,
Vẽ cho hay mày liễu má đào.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nếu trước xuân để thẹn má đào,
Hễ càng nhắc đến càng đau lòng bạn.
(Phương Tu Đại Đạo).
MÁ HỒNG
Bởi chữ “Hồng kiểm 紅 臉” tức là gò má đỏ hồng, do phụ nữ thường đánh phấn hồng.
Trong văn chương người ta thường dùng chữ “Má
hồng” để chỉ người đàn bà, con gái.
Tuồng chi là giống hôi tanh,
Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.
(Truyện Kiều).
Thị Mầu cùng bạn má hồng,
Để tang phải khóc là chồng dở dang.
(Quan Âm Thị Kính).
Dần dần tháng trọn ngày qua,
Má hồng mấy chốc đã ra bạc đầu.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Nâng khăn trót đã long đong.
Còn toan tiếc mảnh má hồng nữa
ru.
(Hoa Tiên Truyện).
Khéo vô duyên bấy cửu trùng,
Son nào nhuộm được má hồng cho
tươi.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
MÁ PHẤN
Da mặt người con gái trắng trẻo như dồi phấn, nên đôi gò má được gọi là má phấn. Từ đó, chữ má phấn được dùng để chỉ người đàn bà con gái.
Thôi thôi đã vậy thì thôi,
Cũng liều má phấn, cho rồi ngày
xanh.
(Hoa Tiên Truyện).
Hôm xưa Tướng phủ mời vào,
Khoe con má phấn, ướm trao chỉ hồng.
(Nhị Độ Mai).
Khách má phấn môi son đậm
sắc,
Đặng đem mồi trêu mặt ác phong.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MÃ BÀI 馬 牌
Mã:
Ngựa. Bài: Cái thẻ lịnh bằng gỗ.
Ngày xưa khi có lịnh khẩn cấp, người ta viết vào một cái thẻ bài bằng gỗ, rồi cầm thẻ bài đó cưỡi ngựa đi truyền lịnh cho nhanh chóng.
Ai quan chân chửa kịp dời,
Mã bài đã có chỉ đòi Đảng công.
(Nhị Độ Mai).
MÃ DỊCH 馬 驛
Mã:
Con ngựa. Dịch: Ngựa trạm.
Mã dịch là ngựa trạm, dùng để chuyển công văn, chỉ lệnh của vua.
Đồn binh cách một dặm trường,
Sai công mã dịch tin sang
triều đình.
(Lưu Nữ Tướng).
MÃ DUNG 馬 傭
Theo Hán Thư, Mã Dung, tự là Quý Trường, người đất Phù Phong nhà Đông Hán, giữ chức Hiệu Thư Lang. Ông dạy học, dưới có hàng ngàn học trò, hàng ngày buông trướng bằng sa đỏ ngồi dạy học.
Trướng Mã Dung, màn Đổng Trọng,
Lạnh lùng nào quản tuyết sương.
(Thập Giới Cô Hồn).
MÃ
ĐƯƠNG 馬 當
Tên một hòn núi ở huyện Đông Lưu, Trung Quốc, có hình dáng giống như hình một con ngựa. Ngọn núi này chạy thẳng ra bờ sông lớn, trên sông thường có sóng gió dữ dội. Cạnh bên núi có dựng một ngôi miếu thờ Thần Mã Đương.
Chính tại nơi đây, ngày xưa Dương Bột đi thuyền
may mắn gặp cơn gió thổi mạnh đưa thuyền thẳng đến gác Đằng Vương.
Tỏ chơi Nguyệt hãy đành hanh,
Rằng đây chẳng phải là gành Mã Đương.
(Hoa Tiên Truyện).
MÃ NGÔI 馬 嵬
Mã Ngôi là một hòn núi mà Dương Quý Phi đã bị bức tử nơi đây.
Đường Minh Hoàng vì sủng ái Dương Quý Phi, bỏ phế việc nước. Anh của Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung lại lộng quyền, làm những việc tổn dân hại nước, khiến nhân dân ta thán.
An Lộc Sơn vì muốn chiếm đoạt Dương Quý Phi, kéo quân đến đánh triều đình, Đường Minh Hoàng phải bỏ chạy vào đất Thục. Khi đoàn đi qua Mã Ngôi, quân lính đồng đứng lên đòi vua phải giết Dương Quý Phi, nếu không chẳng tiến quân và bỏ cả hàng ngũ. Dương Quý Phi đành phải tự thắt cổ chết tại Mã Ngôi.
MÃ SỬ 馬 史
Tức cuốn Sử ký Tư Mã Thiên đời nhà Hán, một bộ sử ký nổi tiếng, được truyền tụng từ trước đến nay, chép từ đời vua Hoàng Đế đến đời Hán Võ Đế.
Xem: Sử mã.
Trót thông Mã sử Lục kinh,
Mới nên tám tuổi nổi danh Thần đồng.
(Trọng Tương Vấn Hớn).
MÃ TÍCH
XA TRẦN 馬 跡 車 塵
Mã tích: Dấu vết ngựa. Xa trần: bụi bặm của
xe.
Mã tích xa trần là dấu vết ngựa, bụi bặm xe.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngổn ngang mã tích xa trần thiếu
ai.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
MÃ VIỆN 馬 援
Một danh tướng đời Đông Hán, tự là Văn Uyên, người đất Mậu Lăng, sinh vào năm 14 trước kỷ nguyên.
Vua Quang Vũ nhà Hán phong cho Mã Viện chức Phục
Ba Tướng Quân rồi sai đem binh qua Việt Nam đánh hai bà Trưng Trắc và Trưng
Nhị. Hai bà bị thua quân tại hồ Lãng Bạc, chạy đến dòng Hát Giang tự tận. Để
ghi công sự chiến thắng đó, Mã Viện cho dựng cột đồng đề sáu chữ: Đồng
trụ chiết, Giao Chỉ diệt 銅 柱 折, 交 指 滅
nhưng hiện nay cột đồng đó đã bị mất tích.
Uy thanh động đến Bắc phương.
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Cật ngựa ra tài Mã Viện,
Trong màn vận chước Ngô Quân.
(Tiễn Chồng Đánh Giặc)
MẠC DA 莫 耶
Tên một thanh bửu kiếm.
Vua Ngô Hạp Lư sai người thợ rèn là Can Tương đúc hai thanh kiếm, nhưng nấu mãi sắt trong lò không chảy. Vợ là Mạc Da tình nguyện hy sinh mạng sống, nhảy vào lò luyện kim, nên rèn được hai thanh kiếm báu, cây trống đặt tên là Can tương, cây mái gọi là Mạc Da.
Xem: Can Tương.
MẠC
ĐĨNH CHI 莫 挺 之
Một danh sĩ đời nhà Trần, tự là Tiết Phu, người làng Lủng Động, huyện Chí Kinh, nay thuộc phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Mạc Đĩnh Chi có dáng bé nhỏ, xấu xí, nhưng tư chất rất thông minh, học rộng, thi đỗ Trạng Nguyên khoa Giáp Thìn 1304. Ông có làm bài “Ngọc Tỉnh Liên Phú 玉 井 蓮 賦” tự ví mình như bông sen ở dưới giếng ngọc để thuyết phục vua Trần, vì Trần Anh Tông thấy ông có tướng xấu, không muốn dùng.
Khi ông đi sứ sang Tàu, được vua Nguyên phong làm “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên”. Tương truyền, vào dịp đi sứ này, có một vị công chúa Tàu từ trần. Quan Tàu muốn thử tài ông, viết bốn chữ “nhất” vào giấy làm văn tế nhờ ông đọc. Ông liền ứng khẩu đọc thành bài văn tế sau: 青 天 一 朵 雲, 紅 爐 一 點 雪, 上 苑 一 枝 花, 瑤 池 一 片 月. 嗚 呼! 雲 散, 雪 消, 花 殘, 月 缺! Thanh thiên nhất đóa vân, Hồng lô nhất điểm tuyết, Thượng uyển nhất chi hoa, Dao trì nhất phiến nguyệt. Ô hô! Vân tán, tuyết tiêu, Hoa tàn, nguyệt khuyết! Nghĩa là: Một đám mây trên trời xanh, Một giọt tuyết trong lò hồng. Một cành hoa ở vườn Thượng uyển, Một vầng trăng ở dưới ao Tiên. Than ôi! Mây tản, tuyết tan, Hoa tàn trăng khuyết!
MẠCH TUỆ 麥 穗
Mạch:
Lúa mạch. Tuệ: Bông lúa.
Mạch tuệ ý nói lúa tươi tốt.
Do câu: “Trương Kham thú Ngư dương, mạch tuệ lưỡng kỳ” 張 堪 守 魚 陽, 麥 穗 兩 歧, nghĩa là Trương Kham làm quan Thái Thú Ngư Dương, bông lúa sinh hai nhánh.
Hán Thư ghi: Ông Trương Kham làm quan Thái Thú đất Ngư Dương, khai khẩn, mở rộng ruộng lúa hơn tám mươi khoảnh, khuyên dân cày cấy, do đó người được no ấm. Dân mới đặt bài ca tụng rằng: Tang vô phụ chi, mạch tuệ lưỡng kỳ 桑 無 負 枝, 麥 穗 兩 歧, nghĩa là cây dâu không có cành phụ, bông lúa mạch có hai chẽ, ý nói dâu tươi lúa tốt.
Tấc lòng xem bẵng mẹ cha,
Đọc ca mạch tuệ ngâm thơ
cam đường.
(Nhị Độ Mai).
MẠCH
TƯƠNG
Đồng nghĩa với “Dòng Tương”, chỉ dòng nước mắt.
Do tích: Khi vua Thuấn đã băng hà tại Thương Ngô,
hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đến dòng sông Tương khóc lóc thảm thiết, vì
vậy trong văn chương người ta thường dùng “Dòng Tương”, “Mạch Tương” để ví với
dòng nước mắt.
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch tương.
(Truyện Kiều).
Tỉnh ra về đến trú phường,
Giấc buồn chưa giã, mạch tương lại
đầy.
(Hoa Tiên Truyện).
MAI CỐT
CÁCH 梅 骨 格
Mai:
Hoa mai. Cốt cách: Dáng dấp con người.
Mai cốt cách có nghĩa là dáng vẻ người mảnh khảnh như vóc dáng cây mai.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
(Truyện Kiều).
Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai, tuyết ấy trần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
MAI
DANH ẨN TÍCH 埋 名 隱 跡
Mai danh:
Chôn tên họ. Ẩn tích: Giấu vết tích.
Mai dánh ẩn tích là chôn tên giấu vết. Ý nói người ẩn giấu tung tích và chôn mất tên tuổi, không muốn người ta biết đến mình.
Nghĩa bóng: Chỉ người ở ẩn.
Vừa may mà gặp chùa này,
Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương.
(Lục Vân Tiên).
MAI
DONG
Mai dong tức là người đứng ra làm mai, dắt mối cho trai gái thành vợ thành chồng.
Xem: Môi chước.
Trần Đoàn lãnh việc mai dong,
Phải đi lên trấn, theo cùng họ Dương.
(Dương Từ Hà Mậu).
MAI HẠC 梅 鶴
Cây mai và chim hạc là hai vật yêu thích nhứt của Lâm Bô, người đời Tống, sống ẩn dật ở núi Cô Sơn vùng Tây Hồ. Ông không lấy vợ, chỉ trồng mai và nuôi hạc để làm bạn.
Xem: Lâm Bô.
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ, hạc là người quen.
(Truyện Kiều).
MAI
HÌNH TÚ BỘ 梅 形 繡 步
Mai hình:
Vóc như hình mai. Tú bộ: Gót đi như thêu thùa.
Thủa xưa người con gái Tàu ưa thân hình mảnh khảnh và bó gót chân thon nhỏ. Đây nói về tướng người con gái lịch sự, bóng bảy thanh thoát.
Quả nhiên nhan sắc dị thường,
Mai hình tú bộ khác thường ngư gia.
(Nhị Độ Mai).
MAI LÂM
BÔ
Tức là cây mai do Lâm Bô trồng.
Lâm Bô là người đời Tống, tính điềm đạm, không
thích danh lợi, ẩn ở núi Cô Sơn vùng Tây Hồ, không lấy vợ, chỉ trồng mai và
nuôi hạc để làm bạn. Người đương thời cho ông lấy mai làm vợ, hạc làm con (Mai
thê hạc tử).
Trúc Tưởng Hũ nên thêm tiết cứng,
Mai Lâm Bô đâm được câu thần.
(Hồng Đức Quốc Âm).
MAI PHỤC 埋 伏
Mai:
Chôn, giấu. Phục: Nép, ẩn nấp.
Mai phục tức là đem binh ẩn nấp chung quanh chờ đối phương ngang qua, bất ngờ ra đánh.
Truyền tam quân mai phục sơn
trung,
Ngã dụ địch sanh cầm lão tướng.
(Nhạc Hoa Linh).
MAI
THÚC LOAN 枚 叔 鸞
Mai Thúc Loan, là vị anh hùng dân tộc, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Đường đô hộ vào năm Nhâm Tuất 722.
Người châu Hoan, thuộc huyện Thiên Lộc, nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tỉnh.
Năm 722, ông lên ngôi xưng Đế, gọi là Mai Hắc Đế, rồi lo xây thành đắp luỹ, tu dưỡng binh mã để chống với quân nhà Đường, nhưng vì quân ít thế yếu, chống không nổi, thua chạy vào núi Đôn Sơn, được ít lâu thì mất.
Nay ở núi Vệ Sơn thuộc huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An
còn di tích thành cũ của Mai Hắc Đế.
Mai Thúc Loan ở Hoan Châu,
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa
(Quốc Sử Diễn Ca).
MAI
TRÚC 梅 竹
Hay “Mai trước”.
Cây mai và cây trúc.
Mai trúc là hai loại cây thường dùng chung với nhau để nói tình bè bạn hoặc tình vợ chồng.
Xem: Trúc mai.
Chắc rằng mai trúc lại vầy,
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
(Truyện Kiều).
Lòng em há phải như ai,
Mặn duyên mai trúc lạt mùi
chi lan.
(Ngọc Kiều Lê).
MÁI
SƯƠNG
Tức là mái tóc trên đầu đã điểm sương, ý muốn nói mái đầu đã bạc hoa râm.
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
MÁI TÂY
Mái tây bởi chữ “Tây sương 西 廂”, là tên một tác phẩm (Tây Sương Ký) của Vương Thiệt Phủ, đời nhà Nguyên, và cũng là nơi mái tây chùa Phổ Cứu mà Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thuỵ đã hẹn hò tình tự với nhau nơi đó.
Mái tây để lạnh hương nguyền,
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
(Truyện Kiều).
Mái Tây còn để tiếng đời,
Treo gương kim cổ cho người soi chung.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
MÀI SẮT
Bởi câu tục ngữ “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Cổ ngữ Hán cũng có câu “Ma chử thành châm 磨 杵 成 針” tức dùi mài nên kim.
Mài sắt ý nói có chí dồi mài, trau luyện ắt có ngày cũng sẽ thành công.
Xem: Sắt mài nên kim.
Có công mài sắt những là,
Khi nhờ lộc nước rồi ra dồi dào.
(Thanh Hoá Quan Phong).
MÃI MÃ
HUYỀN DƯƠNG 買 馬 炫 陽
Tức là việc mua ngựa để làm sáng cái đức chuộng hiền của nhà vua.
Yên Chiêu Vương chí muốn báo thù nước Tề, bèn bảo Tướng quốc Quách Ngỗi chọn người hiền. Quách Ngỗi thưa: Ngày xưa có ông vua sai một tên môn dịch đem ngàn vàng để mua ngựa thiên lý. Tên môn dịch đi giữa đường gặp ngựa thiên lý đã chết, còn lại bộ xương, liền bỏ ra 500 nén vàng mua bộ xương ấy. Về bị vua quở thì người môn dịch tâu: Đem 500 nén vàng mua bộ xương ngựa, việc lạ chắc sẽ truyền xa, rồi đây thế nào cũng có người đem ngựa quý đến. Sau quả đúng như vậy.
Nay xin bệ hạ coi Ngỗi như bộ xương ngựa, đãi kẻ hạ thần như là một kẻ sĩ thì thiếu gì người đua nhau tìm đến. Vua nghe lời, đãi Quách Ngỗi như bậc hiền tài, truyền xây cho một cái đài cao chứa vàng bạc để cung cấp cho hiền sĩ, gọi là Hoàng Kim Đài. Sau hiền sĩ khắp nơi như Kịch Tân, Trâu Diễn, Nhạc Nghị…đều tìm đến nước Yên.
Xem: Quách Ngỗi.
Già cám ơn mãi mã huyền dương;
hùm nghe chánh cong đuôi về núi.
(Sãi Vãi).
MÃI THẦN 買 臣
Họ Châu, người đời Hán, nhà nghèo nhưng rất chăm học, vừa gánh củi đi bán, vừa mang theo sách để học. Vợ chê nghèo, bỏ ông để đi lấy chồng khác. Ông nài nĩ: Nay tôi 49 tuổi rồi, đến 50 tuổi tôi thế nào cũng lập được công danh. Lâu nay mình chịu cực khổ, ráng thêm một thời gian nữa đi. Người vợ không nghe, bỏ ông đi lấy một người làm ruộng.
Sau Châu Mãi Thần được người tiến cử lên vua Hán
Võ Đế, vua phong làm quan to, người vợ muốn trở lại, nhưng Mãi Thần bảo người
vợ cũ đổ tô nước xuống đất nếu hốt lại đầy như cũ thì ông cho nàng về. Tuy vậy,
để đền đáp tình nghĩa trước kia, ông cấp cho vợ chồng người vợ cũ một số tài
sản, người vợ lấy làm xấu hổ, bèn tự vận chết.
May duyên rủi nợ dễ phò,
Chớ nghi Ngô Khởi, hãy lo Mãi Thần.
(Lục Vân Tiên).
Mãi Thần kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.
(Gia Huấn Ca).
Gương đẹp đẽ Mãi Thần thuở
trước,
Trọng nhơn luân sau phước nên quan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MÁY
HÀNH TÀNG
Hành 行: Làm, dùng. Tàng 藏: Cất giấu. Hành tàng là chữ
trong Luận Ngữ “Dụng chi tắc hành, xả chi tắc
tàng 用 之 則 行, 捨 之 則 藏” nghĩa là dùng thì đem ra làm, bỏ thì đem cất giấu, ý nói đến hai lẽ
xuất xử, tiến thoái ở đời. Máy hành tàng còn có nghĩa là động lực chi phối mọi
việc xảy ra ở đời.
Xem: Hành Tàng.
Muốn cho rõ máy hành tàng,
Phải tìm dấu trước, hỏi han sự tình.
(Dương Từ Hà Mậu).
MÁY
LINH CƠ TẠO
Máy linh:
Bộ máy thiêng liêng. Cơ tạo: Bộ máy của Đấng Tạo hoá.
Máy linh cơ tạo là bộ máy thiêng liêng của Đấng Tạo hoá, tức sự xếp đặt, an bài một cách thiêng liêng của cơ Tạo.
Cùng nghĩa với chữ “Thiên cơ 天 機” là máy Trời.
Cứ nương dưới máy linh cơ Tạo,
Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà.
(Kinh Thế Đạo).
Học cho thấu máy linh cơ Tạo,
Học cho toàn trí xảo văn minh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phút chút Càn Khôn nên sáng suốt,
Máy linh cơ tạo thảy đều khai.
(Thiên Thai Kiến Diện).
MÁY NHIỆM
Bởi chữ “Cơ mầu nhiệm” tức là bộ máy huyền vi mầu nhiệm, chỉ quy luật tự nhiên của Tạo hoá.
Khôn hay máy nhiệm ở trời,
Sấm bèn thấy đọc miệng loài tiểu nhi.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
MÁY SÂU
HOẠ KÍN
Máy sâu: Do chữ cơ thâm 機 深 là lòng dạ sâu hiểm. Người xưa nhận thấy sự phát động của
tâm như máy móc nên gọi là cơ tâm 機 心. Trong Hán Việt có từ Cơ tâm là cái
lòng biến trá khéo léo, giống như máy móc, tâm con người ẩn bên trong những mưu
mô xảo quyệt để đối xử nhau, giết hại lẫn nhau, không chút thương yêu, không
lòng đạo đức. Đấy là bản tâm con người trong thời xu hướng theo văn minh vật chất,
mà quên đi luân thường đạo đức.
Trang Tử có câu: “Hữu cơ giới giả, tất hữu cơ sự, hữu cơ sự giả tất hữu cơ
tâm 有 機 械 者, 必 有 機 事, 有 機 事 者, 必 有 機 心” nghĩa là có cơ giới tất
có cơ sự, có cơ sự tất có cơ tâm.
Họa kín: Tai họa ngầm đến, bởi vì tai họa không lộ ra, chừng đến
thì mới biết.
Máy sâu hoạ kín là lòng dạ sâu hiểm bao nhiêu thì cái tai họa ngầm đến cũng bấy nhiêu!
Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh, Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
(Kinh Sám Hối).
MÀY ĐIỂM
NHẠT
Mày điểm nhạt có nghĩa là chỉ trang điểm sơ đôi lông mày.
Do câu thơ của Trương Hựu vịnh bà Quắc Quốc Phu
Nhân là em thứ ba bà Dương Quý Phi, có nhan sắc đẹp tự nhiên, không dùng son
phấn, khi vào chầu vua chỉ vẽ một nét mực nhạt ở đôi mày mà được vua yêu
chuộng. Thơ rằng: Khước hiềm chi phấn ô nhan sắc, đạm tảo nga my triều
chí tôn 卻 慊 脂 粉 污 顏 色, 淡 掃 蛾 眉 朝 至 尊,
nghĩa là vì sợ phấn son làm nhơ nhan sắc, chỉ vẽ sơ đôi mày vào chầu nhà vua.
Đóa lê ngon mắt cửu trùng,
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
MÀY LIỄU
Lông mày cong và nhỏ như lá liễu, do câu thơ trong “Trường Hận Ca” của Bạch Cư Dị có câu: Phù dung như diện, liễu như mi 芙 蓉 如 面, 柳 如 眉, nghĩa là mặt như hoa phù dùng, mày như lá liễu.
Mặt hoa rười rượi chiều đeo tuyết,
Mày liễu rầu rầu dáng ủ sương.
(Truyện Vương Tường).
Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,
Vẽ cho hay mày liễu má
đào.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Soi kính cũ mặt hoa đã nhíu,
Tóc hoa râm mày liễu ướm
sương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MÀY LIỄU
MÁ ĐÀO
Mày liễu do chữ “Liễu my 柳 眉”, chỉ cặp lông mày cong và nhỏ như lá liễu. Bạch Cư Dị đời Đường có câu thơ: Phù dung như diện, liễu như my 芙 蓉 如 面, 柳 如 眉, nghĩa là mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu.
Má đào do chữ “Đào kiểm 桃 臉”, chỉ gò má đỏ hây hây như hoa đào.
Mày liễu má đào chỉ người con gái đẹp có lông mày như lá liễu, gò má hồng hồng như đóa hoa đào.
Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,
Vẽ cho hay mày liễu má đào.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MÀY LIỄU
ƯỚM SƯƠNG
Mày liễu:
Đôi lông mày như lá liễu. Ướm sương: Mới bắt đầu điểm sương.
Mày liễu ướm sương tức là đôi lông mày bắt đầu điểm sương, muốn nói đã bắt đầu có vài cọng bạc, ý chỉ sắp già rồi.
Soi kính cũ mặt hoa đã nhíu,
Tóc hoa râm mày liễu ướm sương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MÀY
NGÀI
Bởi chữ “Nga my 蛾 眉”.
Nga là con bướm ngài, do con tằm hoá ra, có đôi
mày cong và đẹp, nên trang điểm mày phụ nữ thường vẽ như mày con ngài, gọi là
mày ngài.
Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân duyên.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
MÀY RÂU
Do chữ “Tu my 鬚 眉”, tức là râu, lông mày.
Mày râu là chữ dùng để chỉ giới và cương vị của người đàn ông con trai.
Xem: Tu my.
Đường mây những khách công danh,
Mày râu cụ lớn thay hình thanh niên.
(Thơ Tản Đà).
Kiếm xứng mặt mày râu dưới
thế,
E không mưu đủ kế gìn duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Mày râu đứng giữa cõi trần gian,
Gắng sức chống cho vững miếu đàng.
(Giới Tâm Kinh).
Mày râu đã đủ phận cùng người,
Biết Ðạo thì con chớ dể ngươi.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
MÀY TẰM
MẮT PHƯỢNG
Hay “Mày tằm mắt phụng”.
Bởi chữ “Nga my phượng nhãn 蛾 眉 鳳 眼”
tức là mày ngài mắt phượng, dùng để nói lông mày và đôi mắt của người phụ nữ
đẹp.
Mày tằm mắt phượng tốt tươi,
Sinh ra sớm đã biết ngồi đứng ngay.
(Tây Sương).
Mày tằm, mắt phụng, môi son,
Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.
(Lục Vân Tiên).
MÀY
XANH ĐẦU BẠC
Mày xanh là tiếng dùng để chỉ người còn trẻ tuổi; đầu bạc dùng để chỉ người cao tuổi.
Mày xanh, đầu bạc là hai hình ảnh gợi cho thấy con
người bị thời gian thay hình đổi dạng.
Mày xanh khá nhớ cơn đầu bạc,
Ngọc trắng đừng cho nhiễm bợn bùn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MAN DI 蠻 夷
Man:
Người Mán, dân tộc ở phía Nam Trung Quốc. Di: Bộ tộc ở phía
Đông.
Ngày xưa người Trung Quốc cho rằng đất nước của họ ở giữa, còn những dân tộc ở bốn phương đều chưa được khai hoá, mà họ gọi là Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch.
Man Di dùng chung để chỉ dân tộc chưa khai hoá.
Trương Kiều thành tín phủ tuy,
Chúc Lương uy đức, man di cũng gần.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Bây thiệt loài hồ lỗ man di,
Xui cho mỗ bội quân phản chúa.
(Nhạc Hoa Linh).
MAN
KHÊ 蠻 溪
Tức là Ngũ Khê Man, một cuộc nổi dậy của nhân dân Hồ Nam chống triều đình ở đất Khê Man, quận Vũ Lăng. Mã Viện tức Phục Ba tướng quân đời nhà Hán lúc ấy đã 80 tuổi rồi mà vẫn có công bình định cuộc nổi loạn đó.
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
MAN KHI 瞞 欺
Man:
Dối trá. Khi: Lừa dối.
Man khi tức là sự lừa dối.
Tôn thân có dạ kính vì,
Xem tình chẳng chút man khi lộ
mầu.
(Hạnh Thục Ca).
MÀN BÁT
TIÊN
Bát tiên là tám vị Tiên tu luyện đắc đạo ở núi Bồng Lai là: Lý Thiết Quả, Hớn Chung Ly, Lữ Đồng Tân, Hàn Tương Tử, Trương Quả Lão, Lâm Thái Hoà, Tào Quốc Cựu và Hà Tiên Cô.
Màn bát tiên là tấm màn có thêu hình bát tiên, tức
tám vị tiên ở núi Bồng lai.
Buồn riêng sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
(Truyện Kiều).
MÀN ĐỔNG
TỬ
Màn Đổng Tử tức là màn của Đổng Trọng Thư.
Theo Hán Thư, Đổng Trọng Thư người Quảng Xuyên nhà Tây Hán, đỗ đầu khoa Hiền Lương phương chính, giữ chúc Bác sĩ, thường buông màn dạy học, ba năm không ra đến vườn.
Xem: Trọng Thư.
Màn Đổng Tử gối Ôn Công,
Lớn lên em phải ra công học hành.
(Thơ Nguyễn Khuyến).
MÀN ĐỔNG
TRỌNG
Như màn Đổng Tử, tức màn của Đổng Trọng Thư, người đời Hán, học rất tinh cần, buông màn ngồi đọc sách và giảng sách, học trò ngồi ngoài rèm học tập không bao giờ thấy mặt, có khi ba năm không ra ngắm vườn.
Xem: Đổng Tử.
Trướng Mã Dung, màn Đổng Trọng,
Lạnh lùng nào quản tuyết sương.
(Thập Giới Cô Hồn).
MÀN ĐỔNG
XUYÊN
Như màn Đổng Tử, màn Đổng Xuyên có nghĩa là màn của Đổng Trọng Thư, người ở đất Quảng Xuyên.
Xem: Màn Đổng Tử.
Thư trung dành có ngọc nhan,
Sách đèn còn bận buông màn Đổng Xuyên.
(Quan Âm Thị Kính).
MÀN
SƯƠNG ĐỆM GIÁ
Tức là lấy sương gió làm màn, lấy băng giá làm đệm. Câu thành ngữ này muốn nói đến những người chịu gian nan vất vả về sương gió và băng tuyết.
Thiết vì thủa theo cờ trước gió,
thân chả quản màn sương đệm giá,
những chờ xem cao thấp bức cân thường.
(Trận Vong Tướng Sĩ).
MÀN TRỌNG
THƯ
Đổng Trọng Thư người đời Hán, thường buông màn đọc sách, ba năm không nhìn ra ngoài.
Xem: Màn Đổng Trọng.
Đèn Mông Chính canh khuya một ngọn,
Màn Trọng Thư năm trọn nửa vây.
(Tự Tình Khúc).
MÀN TRỜI
CHIẾU ĐẤT
Bởi câu “Mạc thiên tịch địa 幕 天 席 地” tức màn trời chiếu đất.
Nghĩa đen dùng chỉ sự cao rộng, để tả sự phóng khoáng của người ham thích thú thiên nhiên.
Ngoài ra thành ngữ này còn dùng để chỉ những kẻ gặp cảnh tai biến, nghèo khổ, sống không nhà không cửa, lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao,
(Lục Vân Tiên).
Màn trời chiếu đất,
gẫm tợ am thanh.
(Sãi Vãi).
MANG
SAO ĐỘI NGUYỆT
Mang sao:
Mang ngôi sao bên mình. Đội nguyệt: Đội trăng trên đầu.
Mang sao đội nguyệt bởi chữ “Phụ tinh đái nguyệt 負 星 戴 月” là nói đêm ngày cực nhọc, cảnh sống gian nan, vất vả, phải dãi gió dầm sương.
Ông Phục Tử Tiện làm quan ở huyện Đan Phụ, ngồi khảy đờn mà địa phương được trị. Trong khi đó ông Vu Mã Tử Kỳ cũng làm quan nơi ấy, hằng ngày mang sao ra, (Đi sớm), đội nguyệt về (Về tối), đêm ngày không rảnh công việc, như thế đất Đan Phụ mới được trị an. Do vậy, Tử Kỳ mới hỏi Tử Tiện rằng: Chỉ thấy ngài khảy đờn, chẳng nhọc sức với công việc, thế mà dân tình vẫn bình ổn. Tử Tiện nói: Tôi dùng người, ngài dùng sức. Kẻ dùng người thì rảnh rang, người dùng sức thì nhọc nhằn.
Xem: Phụ tinh đái nguyệt.
Chỉ Bài thành giá lướt sương xông,
Thân chi sá mang sao đội nguyệt.
(Nhạc Hoa Linh).
MÃNG
BÀO 蟒 袍
Mãng:
Một loại rắn to. Bào: Áo.
Mãng bào là loại áo có thêu hình con mãng, tức là loại rắn to giống hình con rồng, có vảy.
Theo quan chế đời nhà Thanh, vua và Thái tử mặc
long bào, tức áo thêu rồng, còn Hoàng tử, Hoàng thân mặc áo mãng bào.
Rõ ràng phẩm phục mới ban,
Mãng bào hai bộ hoa quan bốn tòa.
(Nhị Độ Mai).
MÃNG
TÀO 莽 曹
Tức là Vương Mãng và Tào Tháo.
Vương Mãng người đời Hán, làm chức Đại Tư Mã, giết vua Bình Đế, lập Nhũ Tử Anh, rồi tự xưng Nhiếp Hoàng Đế. Sau Mãng cướp luôn ngôi vua nhà Hán, đổi quốc hiệu là Tân. Mãng đặt ra nhiều pháp lệnh làm loạn thiên hạ, trộm cướp khắp nơi, nên bị Lưu Tú (Tức vua Quang Võ) khởi binh trừ dẹp.
Xem: Vương Mãng.
Tào Tháo là người có tánh đa nghi, nổi tiếng là gian hùng. Có công dẹp Đổng Trác, nên Hiến Đế ban cho Tháo coi tòa Thượng Thư. Khi đánh thắng Viên Thiệu, Viên Thuật, Tháo được phong làm đại tướng quân, rồi dần giữ chức Thừa tướng.
Xem: Tào Man.
Mãng với Tào người rằng gian ngụy,
Còn Y cùng Châu thế gọi trung lương.
(Nhạc Hoa Linh).
MÀNH
TƯƠNG
Bởi chữ “Tương liêm 湘 簾”, là bức mành mành làm bằng cây tương trúc, tức cây tre đồi mồi kết lại. Tương trúc do điển hai ba Nga Hoàng, Nữ Anh đi tìm vua Thuấn, đến bờ sông Tương ngồi khóc, nước mắt vấy vào hàng tre ở bên bờ, làm tre có đốm như đồi mồi, nên gọi tre đó là tương trúc.
Xem chữ: Tương liêm.
Mành tương phơn phớt gió đàn,
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
(Truyện Kiều).
MẢNH
HƯƠNG NGUYỀN
Tức là những mảnh hương thơm, hay những mảnh gỗ trầm đốt trong cuộc lễ thề nguyền giữa trai gái hoặc vợ chồng giữ vẹn thuỷ chung với nhau.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày
xưa.
(Truyện Kiều).
MẢNH
TƠI
Mảnh:
Miếng, mảnh quần. Tơi: Áo kết bằng lá khoác ngoài để che mưa, rách tưa ra.
Mảnh tơi là tấm áo tơi khoác ngoài
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan núc, mở dành làng ăn.
(Ngụ Đời).
MẠNH ĐẶNG
YẾU THUA
Trong cuộc chiến đấu hoặc tranh giành với nhau, người mạnh bao giờ cũng đặng, người yếu bao giờ cũng thua. Vì vậy, muốn tranh đấu nhau hai bên thường phải so đồng sức mạnh.
Mạnh đặng yếu thua ấy lẽ thường,
Phải lo đồng chủng để lòng thương.
(Đạo Sử).
MẠNH HẠO
NHIÊN 孟 浩 然
Mạnh Hạo Nhiên (689- 740), người đời Đường, quê ở Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc, nổi tiếng về thơ ngũ ngôn, cùng với Vương Duy chung một thi phái.
Từ lúc thiếu thời, ông đã biết chuộng tiết nghĩa.
Ẩn cư ở núi Lộc Môn, đến năm bốn mươi tuổi mới lên Kinh đô ứng thí, đỗ tiến sĩ.
Người đương thời gọi ông là Mạnh Tương Dương.
Cầm một trương, thơ mấy quyển,
đủ tháng ngày ngâm ngợi,
ấy thú mầu ông Mạnh Hạo Nhiên.
(Nguyễn Hãng).
MẠNH HIỀN
CHỊU TIẾNG TÀNG THƯƠNG
Mạnh Tử còn chịu tiếng chê bai của Tàng Thương.
Thiên Lương Huệ Vương hạ có chép: Vua Bình Công
nước Lỗ muốn đi thăm Mạnh Tử. Tàng Thương nói rằng: Kìa sao vua lại hạ mình đi
thăm một kẻ tầm thường? Hay là ngài cho rằng người ấy là bậc hiền nhơn? Bậc
hiền nhơn tự mình phải thi hành lễ tiết và đạo nghĩa trước đặng cho đời bắt
chước theo, nhưng Mạnh Tử trước kia làm lễ chôn cha kém phần long trọng hơn lễ
chôn mẹ sau này. Cho nên vua chẳng nên đi thăm viếng người. Câu trên có ý muốn
nói bậc hiền nhơn còn phải bị chê bai.
Khổng thánh còn mang lời hạ quỷ,
Mạnh hiền luống chịu tiếng Tàng Thương.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
MẠNH KHA 孟 柯
Tức Mạnh Tử, tự là Tử Dư, sanh ở Ấp Trâu, nước Lỗ đời Chiến Quốc, học với thầy Tử Tư. Ông thuộc dòng công tộc Mạnh Tôn, cha là Khích Công Nghi, mẹ là Cừu Thị.
Khi ông được ba tuổi thì cha mất, nhờ mẹ lành giáo
hoá một cách kỹ lưỡng mà sau trở nên bậc hiền triết. Mạnh Tử có trước tác bảy
thiên sách, gọi là Mạnh Tử, được người sau tôn là lên làm bậc Á thánh, sau Đức
Khổng Tử.
MẠNH KHƯƠNG 孟 姜
Mạnh Khương là vợ của Khỉ Lương, một tướng của vua Tề Trang Công đời Đông Châu. Khỉ Lương bị tướng nước Cử là Lê Tỷ Công giết chết. Sau khi Cử và Tề hoà nhau, nước Cử phái người đem thi hài Khỉ Lương trao trả lại. Khi đến địa hạt Tề, Mạnh Khương ra rước thây chồng.
Vua Tề Trang Công sai sứ làm lễ truy điệu, Mạnh Khương
xá sứ thần và nói: Nếu chồng thiếp có tội mà vua thương tưởng truy điệu ở đây
thì mông ân chẳng cùng, còn như chồng thiếp vô tội, lại có công với nước mà làm
lễ truy điệu dọc đường thì đau lòng cho linh hồn chồng thiếp lắm, xin sứ giả
hãy đem về nhà Truy điệu mới đúng lễ. Mạnh Tử nghe được câu chuyện đó bèn khen
nàng Mạnh Khương là người đàn bà tiết liệt, biết lễ nghi, làm thay đổi phong
tục nước Tề, thật là một tấm gương sáng cho thế hệ sau.
MẠNH QUANG 孟 光
Mạnh Quang là người đời Hậu Hán, tính nết đoan chính, đã ba mươi tuổi rồi vẫn còn chưa chồng. Bà chỉ chờ đợi Lương Hồng tới cưới xin, chứ ngoài ra không chịu ưng người nào khác.
Lương Hồng nhà nghèo, nhưng có hạnh đức, ở cùng huyện với Mạnh Quang, nghe vậy mới tới xin cưới làm vợ. Mạnh Quang ưng chịu.
Khi về nhà chồng, Mạnh Quang hằng ngày vẫn đeo vòng vàng, ăn mặc rực rỡ, sang trọng. Lương Hồng không ngó tới Mạnh Quang và chẳng nghĩ việc động phòng với nàng, mặc dù lễ cưới đã qua bảy ngày. Mạnh Quang thắc mắc hỏi lý do, thì Lương Hồng trả lời: Tôi sở nguyện lấy vợ áo bả quần gai, cùng cực khổ làm ăn, nay thấy nàng như vậy, tôi rất buồn lòng. Mạnh Quang nghe chồng nói vậy, liền lột vòng vàng đem cất, thay quần áo bô vải, lấy gai trâm cài đầu, theo chồng làm việc hết sức vui vẻ. Mỗi khi dâng cơm cho chồng, nàng bưng chén ngang mày, người đương thời gọi là “Cử án tề my 舉 案 齊 眉”.
Xem: Cử án ngang mài.
Mạnh Quang tích trước ghi tài,
Tề mi vẹn đạo chẳng nài khổ thân
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đạo chồng vợ muốn bền tơ tóc,
Gương tề mi khá học Mạnh Quang.
(Phương Tu Đại Đạo).
MẠNH
THƯỜNG 孟 嘗
Hay “Mạnh Thường Quân 孟 嘗 君”.
Mạnh Thường Quân tên là Điền Văn, con của Điền
Anh, người nước Tề đời Chiến Quốc. Ông là người nghĩa hiệp, trong nhà luôn luôn
nuôi trên ba ngàn hiền sĩ và thực khách, vua Tần nghe tiếng sai Kinh Dương Quân
sang làm con tin nước Tề, rước Điền Văn về làm Thừa tướng. Nhưng quan Tần là Vu
Lý Tật bàn ra, khiến vua Chiêu Vương mới đem giam Điền Văn, tính sau này sẽ
giết. Môn hạ của Điền Văn có người thuyết phục Yên Cơ là quý phi vua Tần, nhờ
tâu xin vua tha cho Điền Văn. Trên đường trốn khỏi nước Tần, sợ nhà vua đổi ý,
phải nhờ các môn hạ kẻ giả tiếng gà gáy, người giả tiếng chó sủa để nữa đêm các
quan ải mở cửa cho bọn họ thoát khỏi nước Tần.
Đã cứu nạn Mạnh Thường đặng thoát,
Lại khuyên người Tấn sĩ năm canh.
(Lục Súc Tranh Công).
MẠNH
TÔNG 孟 宗
Mạnh Tông tự là Cung vũ, người ở Giang Hạ thuộc nước Ngô đời Tam Quốc, mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ rất chí hiếu.
Một hôm mẹ ốm, thèm ăn canh măng, nhưng vì khi ấy
đương mùa đông, khó tìm được măng, ông đành đi lần vào rừng tre, một mình ngồi
khóc, bỗng có một mụt măng mọc lên, ông bèn đem về nấu canh cho mẹ ăn. Người
sau cho rằng nhờ lòng chí hiếu của ông đã cảm ứng như vậy.
Ngô, Mạnh Tông phụ thân sớm khuất,
Thờ mẫu thân lòng thực khăng khăng.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
MAO GIẢN 毛 簡
Mao:
Tức Mao Công. Sách xưa chép: Mao Công đã truyền Kinh Thi lại, cho nên người ta
còn gọi là Mao Thi. Giản: Cái thẻ bằng tre, dùng để viết chữ.
Ngày xưa khi chưa có giấy, người ta mới chế một cây thẻ bằng tre dùng để biên chép sử sách.
Mao Giản là những kinh sách được chép trên thẻ tre do Mao Công truyền lại đời sau.
Nghĩa rộng: Chỉ Kinh Thi.
Trời đâu phụ kẻ tiết nghì,
Lân Kinh, Mao Giản tạc ghi
còn truyền.
(Truyện Trinh Thử).
MAO
KHANH 毛 卿
Mao Khanh tên là Mao Nghĩa, quê ở Lô Giang, người đời Đông Hán, có tiếng là người con chí hiếu.
Lúc nhận chiếu chỉ bổ đi làm Tri huyện ở An Dương
thì ông vui mừng, phụng lệnh đi trấn nhậm. Khi được tin mẹ mất, ông từ quan để
về lo tang sự cho mẹ, đến ngày mãn tang, nhiều lần có sắc chỉ vua triệu ra làm
quan, ông đều từ chối, không chịu xuất chính. Có người hỏi lý do sao lúc trước
vui vẻ đi trấn nhậm, nay lại từ chối. Ông nói rằng: Ông làm quan là để vui lòng
mẹ già. Nay mẹ đã qua đời rồi, ông không thiết làm quan nữa. Xem: Mao Nghĩa.
Thư phụng hoàng đưa đến Mao Khanh
(Tự Tình Khúc).
MAO
NGHĨA BỔNG HỊCH 毛 義 捧 檄
Ông Mao nghĩa vâng theo tờ hịch.
Hán Thư chép: Ông Mao Nghĩa hiếu thảo có tiếng. Một hôm ở phủ đưa công văn đến, dùng ông Nghĩa làm quan Thái Thú huyện An Dương. Ông Nghĩa vâng theo công văn và lại mừng. Ông Trương Phụng thấy vậy, khinh ông Mao Nghĩa.
Đến khi mẹ ông Mao Nghĩa qua đời, ông liền từ quan. An táng xong, ông Nghĩa vẫn ở nhà vui với cảnh nghèo. Thấy vậy, Trương Phụng mới tấm tắt than rằng: Cái mừng ngày trước của ông Mao Nghĩa chỉ là vì làm vui lòng mẹ vậy.
MAO VIỆT 旄 鉞
Mao:
Một thứ cờ màu hồng, đầu cán có kết lông, tiêu biểu cho mệnh lệnh nhà vua, trên
lá cờ có đề bốn chữ “Mao trừ loạn tặc 旄 除 亂 賊”. Việt: Búa lớn, là một thứ binh khí dùng để thể sự chinh phạt.
Trên lưỡi búa có khắc bốn chữ “Việt sát phản thần 鉞 殺 反 臣”.
Mao việt chỉ sự đánh tan hết giặc giã.
Nghìn thu quang nhạc khí thiêng,
Sắp mao việt để mở nền
bình trị.
(Văn Tế Võ Tánh).
MÃO QUẢN
NINH
Quản Ninh tự là Ấn An, ở đất Châu Hủ, người nước Nguỵ, đời Tam Quốc, tính cao thượng, học rộng biết nhiều, ở ẩn không ra làm quan, quanh năm đội mão đen. Vì vậy, mão Quản Ninh dùng để chỉ người ở ẩn.
Xem: Quản Ninh.
Gặp cơn Tam Quốc chia giành,
Chính làm cái mão Quản Ninh sạch mình.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
MẠO BÀO 帽 袍
Mạo:
Mão. Bào: Cẩm bào, áo dành cho quan.
Mạo bào là áo mão dành cho quan lại mặc. Một khi nghỉ chức quan phải trả lại áo mão.
Truyền thu chức tước mạo bào,
Cải tòng mẫu tính ải Lao lưu hình.
(Hạnh Thục Ca).
MẠT CƯA
MƯỚP ĐẮNG
Chỉ sự gian giảo, lường gạt lẫn nhau.
Do câu chuyện sau: Có một con buôn nọ đem mạt cưa giả làm cám đi bán và một người khác đi bán dưa chuột mà lấy mướp đắng để gạt người. Hai người bán cho nhau, cả hai đều bị mắc lừa nhau: Kẻ mua cám bị lầm mạt cưa, người mua dưa, bị đưa mướp đắng.
Chuyện này dùng để chỉ những phường gian xảo, không ngay thật, chuyên lừa gạt người khác.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường.
(Truyện Kiều).
MẶC DƯƠNG 墨 楊
Tức là Mặc Địch và Dương Chu.
Mặc Địch là một triết gia đời Chiến Quốc, chủ trương thuyết kiêm ái, tức là yêu mọi người như yêu mình, không phân biệt thân sơ. Xem: Mặc Địch.
Dương Chu là người đầu tiên của phái Đạo gia, chủ trương thuyết vị ngã, tức là khinh vật trọng sinh.
Dương Chu cho rằng: Bạt nhất mao nhi lợi thiên hạ bất vi dã 拔 一 毛 而 利 天 下 不 為 也, nghĩa là nhổ một sợi lông mà lợi thiên hạ cũng chẳng làm. Trái lại, Mặc Tử chủ về “Kiêm ái 兼 愛”, tức là yêu mọi người như nhau, không phân biệt thân sơ.
Phái Nho gia, đại diện là Manh Tử đã công kích kịch liệt học thuyết của Dương Mặc như sau: Dương thị vị ngã, thị vô quân dã. Mặc thị kiêm ái, thị vô phụ dã 楊 氏 為 我 是 無 君 也. 墨 氏 兼 愛 是 無 父 也, nghĩa là họ Dương chủ vị ngã, là kẻ không vua. Họ Mặc xướng thuyết kiêm ái, là kẻ không cha.
Xem: Dương Chu.
Dùi mõ Mặc, Dương thêm chộn rộn,
Tiếng chuông Phật, Lão rất vang ngầy.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
MẶC ĐỊCH 墨 翟
Mặc Địch là một triết gia đời Chiến Quốc, có thuyết cho ông là người Tống, có thuyết lại cho ông là người nước Lỗ. Nếu lấy nguyên nhân phát sinh học thuyết thì có thể nói rằng: Thuyết Mặc Tử người Lỗ đúng hơn Mặc Tử người Tống.
Mặc Tử là người chủ trương thuyết “Kiêm ái” (Vị
nhân), tức là yêu mọi người như yêu mình, không phân biệt thân sơ. Ông có viết
lưu lại một bộ sách gọi là Mặc Tử, lập thành phái Mặc gia.
Kìa như Mặc Địch Dương Chu,
Tu một việc vị nhơn, vị ngã.
(Sãi Vãi).
MẶN MÀ
Mặn mà nghĩa đen là mặn vừa, hợp khẩu vị, nên càng nếm càng thấy ngon. Do vậy, chữ mặn mà:
A.- Dùng để chỉ người có sắc đẹp duyên dáng ưa
nhìn, dễ mến:
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
(Truyện Kiều).
Con người là Võ Thể Loan,
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn
mà.
(Lục Vân Tiên).
B.- Dùng để chỉ người ăn nói có duyên, dễ gây
thiện cảm:
Nghe lời nàng nói mặn mà,
Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
(Truyện Kiều).
C.- Dùng để nói có tình cảm gắn bó sâu đậm:
Vui là vui gượng kẻo mà,
Ai tri âm đó, mặn mà với ai?
(Truyện Kiều).
Huệ lan sực nức một nhà,
Từng cay đắng lại mặn mà hơn
xưa.
(Truyện Kiều).
MẮT TRỜI
NGÓ THIẾU PHƯƠNG
Do bởi nghĩa “Hoàng thiên hữu nhãn 皇 天 有 眼” nghĩa là Trời cao có mắt. Trong Kinh Thư lại có câu: Thiên vô sở bất văn, vô sở bất kiến 天 無 所 不 聞, 無 所 不 見 nghĩa là không có gì mà Trời
không nghe, không thấy được. Do vậy, người ta cho rằng mắt trời soi tỏ khắp mọi
nơi.
Mắt trời ngó thiếu phương, ý muốn nói chẳng lẻ mắt trời không thấy hết được mọi nơi, mọi vật.
Tai phân nạn trả lẽ thường thường,
Chớ tưởng mắt Trời ngó thiếu phương.
(Đạo Sử).
MẮT
XANH
Bởi chữ “Thanh nhãn 青 眼” là mắt xanh.
Trong văn chương, người ta thường nói “đã lọt vào mắt xanh”, tức là chỉ sự đặc biệt được lưu ý và ưa mến. Do tích Nguyễn Tịch đời Tấn, khi vừa lòng ai thì nhìn với đôi mắt xanh, không vừa lòng thì nhìn với đôi mắt trắng.
Xem: Mắt xanh trắng.
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
(Truyện Kiều).
Cuộc tiên đôi ả má đào,
Riêng làn xiêm trắng đem vào mắt
xanh.
(Hoa Tiên Truyện).
MẮT
XANH TRẮNG
Do chữ “Thanh bạch nhãn 青 白 眼”, tức là mắt xanh, mắt trắng, bởi tích Nguyễn Tịch đời nhà Tấn, một người trong Trúc Lâm Thất Hiền. Khi tiếp khách, gặp người đáng trọng hay tri kỷ thì mắt Nguyễn Tịch lên màu xanh, người bình thường hay đáng khinh ghét thì mắt hiện màu trắng.
Giá khuynh thành nhất tiếu thiên kim,
Mắt xanh trắng đổi nhầm bao khách tục?
(Thơ Tản Đà).
MẶT HOA
Do chữ “Hoa diện 花 面”.
Người ta thường ví người con gái đẹp như là một bông hoa, vì vậy gương mặt được gọi là “Hoa diện” hay “Mặt hoa”.
Lưu Vũ Tích có câu: Hoa diện a đầu thập tam tứ, 花 面 丫 頭 十 三 四, nghĩa là người con gái, mười ba mười bốn tuổi, tóc rẻ hình chữ “A”.
Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
(Tỳ Bà Hành).
Lòng nàng xiết nỗi xót xa,
Má đào ủ dột mặt hoa âu sầu.
(Quan Âm Thị Kính).
Sầu đã cháy mặt hoa ủ dột,
Thảm đã tràn hình cốt héo don.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MẶT NƯỚC
CHÂN MÂY
Mặt nước chỉ sự lênh đênh, trôi nổi. Chân mây là nói nơi chân trời, xa thẳm
Mặt nước chân mây ý chỉ sự bềnh bồng, trôi nổi nơi
đất khách xa xôi.
Tính rằng mặt nước chân mây,
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
(Truyện Kiều).
Bềnh bồng mặt nước chân mây,
Đêm đêm sương tuyết, ngày ngày nắng mưa.
(Thơ Tản Đà).
MẶT NƯỚC
CÁNH BÈO
Mặt nước cánh bèo chỉ cánh bèo linh đinh trên mặt nước, ý nói thân phận con người bềnh bồng trôi nổi nơi đất khách quê người một cách gian khổ.
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
(Truyện Kiều).
MẶT
NGUYỆT
Bởi chữ “Nguyệt diện 月 面” chỉ khuôn mặt của người con gái đẹp, tròn như vầng nguyệt.
Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Mặt vành vạnh nguyệt, tóc ngà ngà mây.
(Nhị Độ Mai).
MẶT RỒNG
Bởi chữ “Long nhan 龍 顏”, chữ dùng để gọi diện mạo vua, vì vua thường được ví với con rồng, là vật rất linh, đứng đầu tứ linh: Long, lân, quy, phụng.
Sử ký viết: Cao Tổ vi nhân long chuẩn nhi long nhan 高 祖 為 人 龍 準 而 龍 顏, nghĩa là Cao Tổ người mũi cao và mặt như rồng.
Xem: Long nhan.
Đất Hồ sương tuyết gầy mình hạc,
Đền Hán đêm ngày nhớ mặt rồng.
(Tô Công Phụng Sứ).
Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân duyên.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách gián lâu nay,
(Ai Tư Vãn).
Ta đây một tấm lòng trung,
Quyết tâm giải trước mặt rồng có
phen.
(Nhị Độ Mai).
MẶT RỒNG
GANG TẤC
Bởi câu “Thiên uy bất vi nhan chỉ xích 天 威 不 違 顏 咫 尺” nghĩa là mặt rồng gang tấc không xa.
Mặt rồng gang tấc không xa,
Giãi tình oan khuất, họa nhờ thiên ân
(Nhị Độ Mai).
MẶT SẮT
Bởi chữ “Thiết diện 鐵 面” tức là nói người có bộ mặt cứng cỏi, đen và lạnh như sắt. Chỉ gương mặt của người hoặc vị quan nghiêm nghị, cương trực, không có tình cảm.
Nghe càng đắm ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây
vì tình!
(Truyện Kiều).
Trông lên mặt sắt đen sì,
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:
(Truyện Kiều).
MẶT TRỜI
GANG TẤC
Bởi chử “Chỉ nhan 咫 顏” tức mặt vua ở rất gần trong gan tấc.
Trong Tả Truyện có câu: Thiên uy bất di
nhan chỉ xích 天 威 不 迻 顏 咫 尺,
nghĩa là oai trời không xa, chỉ nơi gang tấc. Ý muốn nói oai vua chỉ ở gần kẻ
bầy tôi.
Trên chín bệ mặt trời gang tấc,
Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
MÂY BẠC
Bởi chữ “Bạch vân” là mây trắng, chỉ việc nhớ quê hương cha mẹ.
Do điển Địch Nhân Kiệt trông thấy đám mây bạc trên núi Thái Hàng, bỗng nhớ đến cha mẹ ở quê hương.
Xem: Mây trắng.
Nam cai khuất non xanh man mác,
Thái hàng xa mây bạc lân
vân.
(Tự Tình Khúc).
MÂY MƯA
Bởi chữ “Vân vũ 雲 雨”, trích từ điển Sở Tương Vương đi chơi ở đầm Vân Mộng, gần núi Vu Sơn, chiêm bao thấy một người con gái đẹp đến hầu vua và tự xưng Vu Sơn Thần nữ, có nhiệm vụ sáng làm mây, tối làm mưa. Sau vua lập đền thờ ở dưới chân núi Dương Đài.
Do vậy, người đời sau lấy hai chữ “Mây mưa” để chỉ
việc ân ái của đôi nam nữ.
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
(Truyện Kiều).
Mây mưa mấy giọt chung tình,
Đình trầm hương khoá một cành mẫu đơn.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Mây mưa quen thói nhớp đời,
Bà con nào kể, lẽ trời nào kiêng.
(Dương Từ Hà Mậu).
MÂY MƯA
ĐẢNH GIÁP
Chỉ việc ái ân giữa trai gái.
Do điển tích vua Sở Tương Vương nằm mộng thấy cùng một nàng con gái chăn gối. Vua hỏi lai lịch, nàng cho biết là Thần nữ núi Vu Giáp có nhiệm vụ sáng làm mây, tối làm mưa.
Xem: Triêu vân mộ vũ.
Nào khi đổ mây mưa đảnh giáp,
Nào khi lo ấm áp cung thiềm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hễ đôi đàng ý hiệp duyên ưa,
Đừng vội đổ mây mưa trên đảnh
giáp.
(Phương Tu Đại Đạo).
MÂY RỒNG
Bởi chữ “Long vân hội 龍 雲 會”, tức hội rồng mây. Dùng để chỉ việc gặp thời cơ tốt, công danh hiển đạt.
Kinh Dịch “Vân tòng long, phong tòng hổ 雲 從 龍, 風 從 虎,
nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp. Ý chữ này muốn nói: Vua Thánh gặp tôi
hiền, hay gặp được công danh, thi đỗ đạt.
Thưa rằng: Lượng cả bao dong,
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
(Truyện Kiều).
Tưởng đà đèn sách nên công,
Sớm cho gặp hội mây rồng hiển
dương.
(Hoa Tiên Truyện)
Tưởng là đèn sách nên công,
Sớm cho gặp hội mây rồng hiển
vang.
(Dương Từ Hà Mậu).
MÂY TẦN
1.- Chỉ nơi ở của người đẹp:
Do câu trong Tấn Thư: Tần vân như mỹ nhân 秦 雲 如 美 人, nghĩa là mây Tần như con gái đẹp.
Sách Tình Sử cũng có câu: “Tần vân Triệu vũ 秦 雲 趙 雨” nghĩa là mây nước Tần, mưa nước Triệu, ý chỉ nơi ở của đàn bà ở chốn thâm nghiêm, là chỗ yên tĩnh và mát mẽ
Mây Tần khoá kín song the,
Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.
(Truyện Kiều).
2.- Chỉ lòng nhớ quê:
Do câu thơ của Hàn Dũ như sau: Vân hoành Tần lãnh gia hà tại? Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền 雲 橫 秦 嶺 家 何 在, 雪 擁 藍 關 馬 不 前, nghĩa là mây giăng Tần lĩnh nhà đâu tá? Tuyết ủng Lam quan ngựa chẳng lên.
Đoái trông muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa
xa.
(Truyện Kiều).
MÂY TRẮNG
Từ chữ “Bạch vân 白 雲” đám mây bạc.
Do tích Địch Nhân Kiệt, người đời nhà Đường, đi làm quan xa quê nhà, trông thấy đám mây trắng lờ lửng trên núi Thái hàng, bèn than rằng: Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng đó..
Nghĩa bóng: Nhớ quê hương cha mẹ.
Não người thay! nỗi tang thương,
Trông vùng mây trắng ngất
đường non xanh.
(Bích Câu Kỳ ngộ).
Ngàn mây trắng bạc như tờ,
Bóng dâu chênh chếch đã vừa ngang vai.
(Hoa Tiên Truyện).
Tưởng chữ cù lao ơn rất nặng,
buồn những trông may trắng ngang
trời.
(Tử Tế Mẫu Văn).
MÂY TRẮNG
CHÓ XANH
Mây trắng chó xanh bởi chữ “Bạch vân thương cẩu 白 雲 蒼 狗”.
Do thơ Đỗ Phủ có câu: Thiên thượng phù vân như bạch y, Tu du hốt biến vi thương cẩu 天 上 浮 雲 如 白 衣 須 臾 忽 變 為 蒼 狗 nghĩa là mây nổi trên trời như áo trắng, Chốc lát liền biến ra chó xanh.
Nghĩa bóng: Chỉ cuộc đời thay đổi mau chóng.
Xem: Bạch vân thương cẩu.
MÂY VÀNG
Mây vàng là áng mây màu vàng, chỉ sự nhớ nhà.
Do trong Cổ Thi có câu: Thiên thượng hoàng
vân ảnh, Du tử hà thời quy? 天 上 黃 雲 影, 遊 子 何 時 歸?,
nghĩa là trên trời có đám mây vàng, người du tử bao giờ trở lại?
Lòng còn gửi áng mây Vàng.
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.
(Truyện Kiều).
MẤY DẶM
ĐƯỜNG DÊ
Đường dê dùng để nói đường sá hẻo lánh, hiểm nguy, không người qua lại.
Mấy dặm đường dê là mấy dặm đường vắng vẻ, gian
nan hiểm trở.
Trải qua mấy dặm đường dê.
Thương cha nhớ chị dầm dề dòng châu.
(Nhạc Hoa Linh).
MẤY
VÀNG KHẮC XUÂN
Người xưa cho rằng: Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim 春 宵 一 刻 值 千 金, nghĩa là một khắc đêm xuân đáng giá nghìn vàng.
Mấy vàng khắc xuân ý muốn nói một khắc xuân giá
nghìn vàng.
Mấy vàng đổi được khắc xuân.
Xưa nay tài tử, giai nhân lạ gì?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
MẪN ĐẠT 敏 達
Mẫn:
Thông minh. Đạt: Suốt.
Mẫn đạt là thông minh, hiểu thấu đáo công việc.
May phước đặng sanh con mẫn đạt,
Mình khởi toan phú thác việc đời.
(Phương Tu Đại Đạo).
MẪN TỬ 閔 子
Tức là Mẫn Tử Khiên, người đời Xuân Thu, học trò Đức Khổng Tử, là một người con rất có hiếu với cha và bà mẹ kế, được liệt vào một trong hai mươi bốn người con hiếu.
Xem: Mẫn Tử Khiên.
Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
Tiều rằng: trong miếu Hiếu từ,
Thờ ông Mẫn tử thuở kỳ
xuân thu.
(Dương Từ Hà Mậu).
MẪN TỬ
KHIÊN 閔 子 騫
Mẫn Tử Khiên tên chữ là Tổn, sinh vào thời Xuân Thu, học trò Đức Khổng Tử, mẹ mất sớm, cha lấy vợ sau, sinh thêm được hai đứa con. Mẹ kế đối với ông rất khắc nghiệt, nhưng ông vẫn thờ cha và mẹ kế rất hiếu thảo. Mùa đông, mẹ kế cho hai đứa con mình mặc áo bông ấm áp, còn cho ông mặc áo hoa lau, thưa mỏng, lạnh lẽo. Ông tuy thấy lạnh nhưng không hề dám oán trách mẹ.
Một hôm, ông đẩy xe cho cha đi chơi, bị rét lạnh,
cống cả tay chân, phải rời tay xe. Cha ông mới phát hiện bà mẹ ghẻ đối xử tệ
với ông, tức giận định đuổi đi, Mẫn Tử Khiên quỳ xuống van xin và cho rằng nếu
đuổi mẹ kế đi thì cả ba anh em đều bị rét và chịu khổ sở. Cha ông nghe lời tha
cho người vợ kế. Bà kế mẫu nghe được đầu đuôi câu chuyện, bèn ăn năn hối hận,
từ đó đối xử tốt và thương yêu ông hơn.
Kìa như chàng Mẫn Tử Khiên,
Dì chàng cay nghiệt đảo điên nhiều bề.
(Dì Ghẻ Con Chồng).
Mẫn Tử Khiên tích còn roi dấu,
Dẩy xe cha áo xấu mặt dơ.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MẪN THẾ 憫 世
Mẫn:
Lo lắng. Thế: Đời.
Mẫn thế là người thường hay lo lắng cho đời. Thường dùng chung với chữ “Ưu thời” trong câu thành ngữ “Ưu thời mẫn thế 憂 時 憫 世”.
Mẫn thế khá tua tính ích đời,
Ích đời chẳng vụ một mình ngươi.
(Đạo Sử).
MẬN ĐÀO
Dịch nghĩa từ chữ “Đào lý 桃 李” là đào và mận, chỉ chung nơi hội họp của những người tài ba lỗi lạc.
Do tích Địch Nhân Kiệt đời nhà Đường tiến cử lên
vua đều là những người tài năng, nên người đương thời khen: Thiên hạ
đào lý tận tại công môn 天 下 桃 李 盡 在 公 門,
nghĩa là người hiền tài trong thiên hạ đều ở tại nhà Ngài mà ra.
Vả con người cửa mận đào,
Việc gì mà khéo tìm vào non sâu.
(Truyện Phan Trần).
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.
(Quốc Âm Thi Tập).
Ngoài cửa mận đào là khách
đỗ,
Trong nhà cam quít ấy tôi mình.
(Quốc Âm Thi Tập).
MẤT DÊ
MẤT LỄ
Theo cổ lễ thì cứ đến ngày mồng một mỗi tháng, gọi là sóc nhật, các vua chư hầu đều giết một con dê để tế ở thế miếu, gọi là lễ cốc sóc. Đến lệ, vua nước Lỗ chỉ sai giết một con dê mà không đến lễ ở thế miếu. Tử Cống cho rằng việc giết con dê là hình thức, nên đề nghị bỏ việc giết dê. Khổng Tử nói: Tứ giả, nhĩ ái kỳ dương, ngã ái kỳ lễ 賜 也! 爾 愛 其 羊, 我 愛 其 禮, nghĩa là Tứ này, anh tiếc con dê, còn ta tiếc cổ lễ. Bởi Ngài nghĩ rằng: Hễ còn tục giết con dê thì người ta còn nhớ đến cổ lễ, tức là mất dê là mất lễ.
Thánh xưa lời để dạy răn,
Mất dê mất lễ ấy rằng sao nên.
(Hạnh Thục Ca).
MẬT MIỆNG GƯƠM LÒNG
Bởi chữ “Khẩu mật phúc kiếm 口 蜜 腹 劍” tức là miệng ngọt mà lòng chứa gươm.
Mật miệng gươm lòng có
nghĩa là miệng nói ngọt như mật mà lòng lại chứa gươm đao, ý nói người nói ngọt
ngào nhưng lòng hung hiểm.
Chớ nên mật miệng gươm lòng,
Pha chơi pha thiệt mắc vòng họa thâm.
(Huấn Nữ Ca).
MẬT THẤT 密 室
Nhà kín đáo, bí mật.
Cổ ngữ có câu: Toạ
mật thất như thông cù 坐 密 室 如 通 衢, nghĩa là ngồi ở trong nhà kín tưởng rằng không ai hay biết,
nhưng thật như ngoài đường cái trống trải, ai cũng rõ.
Tuy ngồi mật thất,
nào khác thông cù.
(Sãi Vãi).
MÂU THUẪN 矛 盾
Mâu: Một loại binh khí có cán, mũi nhọn. Thuẫn: Cái khiên,
cái mộc.
Sách Hàn Phi Tử có chép: Nước Sở có người bán cái mâu, cái thuẫn. Để quảng cáo ông ấy nói: Cái mâu tôi rất nhọn và sắc bén, bất cứ vật gì cũng có thể đâm thủng được cả. Đến khi giới thiệu cái thuẫn thì ông ta nói: Cái thuẫn này có thể ngăn cản các loại binh khí không thể phạm vào thân mình được.
Có người nghe vậy hỏi: Như thế, nếu lấy cái mâu của anh để đâm cái thuẫn của anh thì sao? Người ấy đứng thừ ra, không thể nào đáp được.
Do đó, sau này những điều trái ngược nhau người ta đều gọi là “Mâu thuẫn”.
Anh em mâu thuẫn hai bề,
Thừa cơ Mạc lại kéo về nội xâm.
(Quốc Sử Diễn Ca).
MẪU ĐƠN 牡 丹
Mẫu đơn là một loại hoa đẹp, quý ở nước Tàu, thường được cho là vua các loài hoa, gọi là hoa vương. Hoa mẫu đơn có hai giống: Hoa màu vàng do nhà họ Diêu trồng, gọi là Diêu vàng, hoa màu đỏ tía do nhà họ Nguỵ trồng gọi là Nguỵ tía. Nên người ta gọi là “Diêu vàng Nguỵ tía” hay “Nàng Diêu ả Nguỵ”, dùng để chỉ người con gái đẹp.
Hoa vương tên gọi Mẫu đơn,
Ngọc vàng, sắm đủ mọi bàn kính dâng.
(Hoa Điểu Tranh Năng).
Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
(Truyện Kiều).
Mẫu đơn lộ mở con đình,
Xạ đâu đòi trận lọt mành phôi pha.
(Hoa Tiên Truyện).
Mây mưa mấy giọt chung tình,
Đình trầm hương khóa một cành mẫu đơn.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
MẪU NGHI 母 儀
Mẫu: Bà mẹ. Nghi: Khuôn phép.
Mẫu nghi là làm khuôn phép bà mẹ cho mọi người noi theo. Vì vậy, Thái Hậu hay Hoàng Hậu ngày xưa thường gọi là “Mẫu nghi thiên hạ 母 儀 天 下” tức là làm khuôn phép cho thiên hạ.
Giúp trong nhờ có mẫu nghi,
Ngoài thời thứ chức cơ nghi giữ gìn.
(Hạnh Thục Ca).
MẸ VÒ CON NHỆN
Mẹ là vò vò, con là nhền nhện, tức mẹ con không đồng một loài với nhau. Ca dao Việt Nam có câu: Tò vò mầy nuôi con nhện, Đến khi nó lớn nó quện nhau đi, Tò vò ngồi khóc tỉ ti, nhện ơi! nhện hỡi! mầy đi đàng nào?. Đây là sự quan sát của người xưa, thực ra loài tò vò này bắt nhện vào tổ để làm thức ăn.
Ý muốn nói mất công nuôi
nấng, tốn công tốn của nuôi dưỡng vô ích.
Mẹ vò thì sữa khát khao,
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền.
(Quan Âm Thị Kính).
MÈO MẢ GÀ ĐỒNG
Mèo mả là loại mèo hoang, sống ngoài nghĩa địa, mồ mả. Gà đồng tức là loại gà rừng, không ai nuôi, sống lang thang ngoài đồng nội.
Mèo mả gà đồng chỉ hạng
người trai thì vô lại đi hoang, du thủ du thực, gái thì lang chạ, dâm đãng.
Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
(Truyện Kiều).
Nên ưa mèo mả gà đồng,
Bỏ hình loan phụng dựa lồng chim xanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
(Sám Hối Kinh).
Phải đợi lịnh mẹ cha cưới gả,
Đừng học đòi mèo mả gà đồng.
(Phương Tu Đại Đạo).
MÊ HOẶC 迷 惑
Mê: Rối loạn trí não. Hoặc: Bị ngoại vật cám dỗ.
Mê hoặc là lòng bị ngoại vật dụ dỗ, quyến rủ khiến không thể nào tự chủ được.
Dị đoan mê hoặc khôn chừa,
Chùa tô phật tượng, đình thờ Thích Ca.
(Quốc Sử Diễn Ca).
MÊ TÂN 迷 津
Bến mê, là một cảnh giới lầm lạc của chúng sanh.
Theo Phật, chúng sanh bị
đau khổ là vì cứ mê lầm nhận những cái lăng xăng trần cảnh là tâm, chứ không
biết nó chỉ là vọng tưởng, không phải chân tâm. Vì thế, pháp của Phật như một chiếc
bè từ đưa chúng sanh ở bến mê (Mê tân) qua bờ giác ngộ.
Rằng: Đây lầm xuống mê tân,
Tiền duyên xin để kim thân tu đền.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Nước công đức, cửa từ bi,
Dịp cầu khổ hải cánh bè mê tân.
(Hương Sơn Hành Trình).
Hứng giọt Ma Ha lau tục luỵ,
Ngừa thuyền Bát nhã thoát mê tân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
MÊ TÍN 迷 信
Mê tín là tin tưởng một cách sai lầm, mù quáng, trái với chánh tín, là tin tường chơn chánh, đúng đắn. Mê tín thường có tính cách vụ lợi, nên người mê tín dễ mất đức tin, tức là đức tin không bền bỉ, mạnh mẽ.
Khỏi vòng mê tín lại đường ngay,
Lạc nẻo mau chơn liệu trở quày.
(Đạo Sử).
MỀ ĐAY
Đọc âm từ tiếng Pháp “médaille” dùng để chỉ huy chương, tức những thứ nhà nước ban cho đeo vào mình để chứng nhận công trạng.
Rứt cái mề đay ném xuống sông,
Thôi thôi tôi cũng mét xì ông.
(Thơ Trần Tế Xương).
Dày công đếm số mề đay,
Mực văng nhuộm tánh, viết mài tiêu tâm.
(Ngụ Đời).
MỆNH BẠC 命 薄
Hay “Mạng bạc”.
Mệnh: Số mệnh. Bạc: Mỏng, mong manh.
Mệnh bạc là mạng số mỏng manh, bạc bẽo.
Tô Thức có nói rằng: Tự cổ giai nhân đa bạc mệnh 自 古 佳 人 多 薄 命, nghĩa là tự nghìn xưa giai nhân đều bạc mệnh.
Xem: Bạc mệnh.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
(Truyện Kiều).
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
MỆNH CUNG 命 宮
Mệnh: Bổn mạng. Cung: Chỉ một phần trong bảng trang quẻ tử
vi.
Mệnh cung là cung để xem số mệnh của người đến xem bói toán, trong ấy chỉ sự kiết hung, cùng thông hay đắc thất.
Mệnh cung đang mắc nạn to,
Một năm nữa mới thăm dò được tin.
(Truyện Kiều).
MỆNH PHỤ 命 婦
Hay “Mạng phụ”.
Mệnh phụ là từ phong tặng cho các bà vợ quan.
Theo quan chế đời nhà Thanh và đời Nguyễn tại Việt Nam thì các mệnh phụ là: Nhứt phẩm và Nhị phẩm gọi là Phu nhân 夫 人 (Phu: Phò trợ). Tam phẩm gọi là Thục nhân 淑 人 (Thục: Hiền thục). Tứ phẩm gọi Cung nhân 躬 人 (Cung: Kính nhường). Ngũ phẩm gọi Nghi nhân 宜 人 (Nghi: Đương nhiên). Lục phẩm gọi An nhân 安 人 (An: Hoà lặng). Thất phẩm gọi Nhụ nhân 孺 人 (Nhụ: Thanh nhã).
1.- Mệnh phụ:
Tuy chưa chắc cung phi hoàng hậu,
Thì cũng rằng mệnh phụ phu nhân,
(Bần Nữ Thán).
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
(Truyện Kiều).
2.- Mạng phụ:
Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,
Ở thôn quê lam lụ làm ăn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MỸ NGÔN 美 言
Mỹ: Đẹp đẽ. Ngôn: Lời nói.
Mỹ ngôn là lời đẹp, không phải là lời nói văn hoa bóng bẩy, mà là lời nói êm ái dịu dàng, dễ thu phục cảm tình người nghe, gây sự hoà hợp giữa mọi người.
Thêm duyên chước quí giao tình,
Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MỸ TỤC 美 俗
Do thành ngữ “Thuần phong mỹ tục 淳 風 美 俗” là phong tục thuần hậu tốt đẹp.
Mỹ: Tốt đẹp. Tục: Lề thói, phong tục.
Mỹ tục là phong tục tốt đẹp.
Phật pháp khuyến nhơn qui mỹ tục,
Nho Tông phục thế hưởng thuần phong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
MỊCH LA 汨 羅
Tên một con sông ở tỉnh Hồ Nam, nước Trung Hoa. Ngày xưa Khuất Nguyên làm chức Tam Lư Đại Phu nước Sở bị vua Hoài Vương ghét bỏ, sau ông buồn bã, phẫn uất ôm phiến đá, gieo mình xuống sông Mịch La mà chết vào ngày tiết đoan ngọ.
Dòng Mịch La dầu đục dầu trong,
Đèn bất dạ hỡi soi người thiên cổ.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
MIẾNG ĂN ĐÈ CỘT
Câu tục ngữ “Miếng ăn đè cột” có nghĩa là miếng ăn bưng cất, rồi lấy cột giằn lên, ý nói đem giấu đi thật kỷ, khó có thể lấy ra được.
Vắt chày ra nước ròng ròng,
Miếng ăn đè cột chớ hòng mon men.
(Truyện Trinh Thử).
MIẾNG KHI ĐÓI GÓI KHI NO
Khi người đói, dù cho một miếng cơm cũng đủ no lòng, còn hơn người no phải cho cả gói. Ý nói giúp người đúng lúc, đúng thời rất nên quý giá.
Miếng khi đói gói khi no,
Của tuy tơ tóc nghĩa so ngàn trùng.
(Gia Huấn Ca).
MIỆNG MẬT LÒNG ĐAO
Bởi chữ “Khẩu mật tâm đao 口 蜜 心 刀”.
Miệng mật lòng đao là
miệng nói như mật ngọt, lòng bén nhọn như gươm đao, ý nói ngoài miệng ngọt
ngào, trong hung dữ.
Đổng Chánh Cung miệng mật lòng đao,
Ắt Thứ Hậu không toàn mạng một.
(Nhạc Hoa Linh).
MIỆNG NGAY LÒNG VẠY
Miệng ngay lòng vạy là miệng nói ngay thật, mà lòng dạ vạy tà. Chỉ những hạng người ngoài miệng ăn nói đàng hoàng, ngay thẳng mà trong lòng thì gian tà xảo trá.
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
(Kinh Sám Hối).
MIỆNG TỰA BÌNH
Bởi câu nói của Chu Tử: Thủ khẩu như bình, phòng ý như thành 守 口 如 瓶, 防 意 如 城, nghĩa là giữ miệng kín như bình, phòng ý như thành.
Miệng tựa bình có ý nói
thận trọng giữ gìn lời ăn tiếng nói, tức là cẩn thận lời nói khi muốn phát
biểu.
Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ,
Có lòng bằng trúc mỗ nên hư.
(Quốc Âm Thi Tập).
MIỆNG TRƯƠNG TUẦN
Trương Tuần là người đời Đường. Khi An Lộc Sơn đem binh nổi dậy chống nhà Đường, Trương Tuần lúc ấy đang giữ thành Tuy Dương, đánh không lại giặc An Lộc Sơn, thành bị hạ, Trương Tuần bị bắt, chẳng chịu hàng , mắng giặc thét rồi chết.
Chính làm lỗ miệng Trương Tuần,
Tuy Dương mắng giặc, tưng bừng đều kinh.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
MIẾU ĐƯỜNG 廟 堂
Miếu: Nơi thờ phụng tổ tiên. Đường: Nhà thờ.
Miếu đường chỉ nơi thờ phụng tổ tiên, hoặc chỉ nơi tôn miếu của nhà vua, đồng nghĩa với thái miếu 太 廟, thế miếu 世 廟, tông miếu 宗 廟, tất cả đều chỉ nơi thờ tự Tổ tiên dòng họ của nhà vua.
Miếu đường còn dùng để
chỉ triều đình.
Đã hay thành toán miếu đường,
Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
(Truyện Kiều).
Miếu đường rốt lẽ xử phân,
Hành biên lại khiến trọng thần chỉ huy.
(Hoa Tiên Truyện).
Thảo lai trong có anh hùng,
Miếu đường chống vững thấy còn tài cao.
(Ngọa Long Cương Vãn).
MIẾU MẠO 廟 貌
Miếu: Miếu thờ. Mạo: Diện mạo.
Do bước vào miếu thờ, người ta thường hình dung đến dáng mặt của người thờ trong miếu, nên gọi chung miếu thờ là miếu mạo.
Nguy nga miếu mạo hẳn hoi,
Một tòa thần tượng trên ngồi nghiễm nhiên.
(Nhị Độ Mai).
MINH CỔ GIÁC 鳴 鼓 角
Minh: Đánh. Cổ, giác: Cái trống, cái tù và, đồ hiệu lịnh
trong quân binh thời xưa, mà cũng là đồ hiệu lịnh để dẹp đường cho quan đi. Ý
nói làm quan.
Sách Bắc Tề chép: Mẹ Vương Kính Tắc thường nói chuyện với người rằng: Thằng Kính Tắc muốn được đánh hiệu lịnh (Minh cổ giác). Người bàng quan cười mà nói: Con của bà được làm người thổi hiệu lịnh đúng vậy!. Về sau, quả thật con bà được phong hầu, được vua ban quyền hiệu lịnh.
MINH CHÁNH 明 正
Hay “Minh chính”.
Minh: Trong sáng. Chính: Ngay thẳng.
Minh chánh là trong sáng, ngay thẳng.
Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
Nói năng minh chánh lời ra phải nhìn.
(Kinh Sám Hối).
Cơ huyền diệu Đạo cao minh chánh,
Hiển phép mầu ma lánh quỉ kiêng.
(Xưng Tụng Công Đức).
Nếu quả dữ răn cùng hiền thưởng,
Mới hay minh chánh cái quyền Trời.
(Đạo Sử).
MINH ĐỨC 明 德
Minh đức là cái đức sáng.
Chữ trong sách Đại
Học: Đại học chi đạo, tại minh minh đức 大 學 之 道, 在 明 明 德, nghĩa là đạo của đại
học dạy cho người ta phải tu thân làm sáng cái đức sáng của mình.
Hai con giữ dạ cho bền,
Một câu "minh đức" chớ quên thơ nầy.
(Dương Từ Hà Mậu).
MINH ĐỨC TÂN DÂN 明 德 新 民
Làm sáng cái đức của mình để dạy cho dân được đổi mới. Minh đức tân dân được trích ra trong sách “Đại Học”: Đại Học chi Đạo tại minh Minh đức, tại Tân dân, tại chỉ ư Chí thiện 大 學 之 道 在 明 明 德 在 新 民 在 止 於 至 善” nghĩa là đạo của Đại Học ở chỗ làm cho sáng tỏ cái đức sáng, ở chỗ làm cho con người đổi mới luôn luôn, ở chỗ lo cho đến hoàn toàn tốt mới thôi.
Tu minh đức để mà tân dân,
Tu tề gia để mà trị quốc.
(Sãi Vãi).
MINH GIÁM 明 鑑
Minh: Sáng, rõ ràng. Giám: Làm gương.
Minh giám nghĩa là lấy người đó hay việc đó để làm tấm gương sáng cho mọi người.
Họ Lưu nữ phạm sách biên,
Khen rằng minh giám khả truyền khuê vi.
(Nữ Phạm Diễn Nghĩa Từ).
MINH LINH 螟 蛉
Minh linh là một thứ sâu có màu xanh, lớn lên hoá thành con bươm bướm.
Người xưa cho rằng: Con
quả loã, tức là con tò vò, nuôi con của minh linh làm con mình. Vì vậy, sau này
con của người khác đem về nuôi làm con mình (Con nuôi) được gọi là “Minh linh”,
hay “Dưỡng tử minh linh 養 子 螟 蛉”.
Minh linh sớm phải chọn hiền,
Hoàng trừ ba vị mời khuyên bù chì.
(Hạnh Thục Ca).
Tòng quyền cho nghĩ nương nhờ,
Minh linh rồi sẽ đổi ra đông sàng.
(Nhị Độ Mai).
Trong nhà không gái hậu sinh,
Ngày nay lại gặp minh linh phước trời.
(Lục Vân Tiên).
Hoặc là trời chút thương tình,
Sớm cho đặng chữ minh linh nối dòng.
(Dương Từ Hà Mậu).
MINH LƯƠNG 明 良
Tức chữ “Minh quân lương tể 明 君 良 宰” là vua sáng tôi hiền.
Cổ ngữ Tàu thường có
câu: Minh quân lương tể tao phùng dị, tài tử giai nhân tế ngộ nan 明 君 良 宰 遭 逢 易, 才 子 佳 人 際 遇 難, nghĩa là vua sáng tôi
hiền gặp nhau dễ dàng, tài tử giai nhân khó mà gặp gỡ.
Minh lương hai chữ vầy trên dưới,
Nước trị nhà an, bốn biển vui,
(Dương Từ Hà Mậu).
MINH MẠC 暝 漠
Minh: Tối tăm. Mạc: Mờ mịt.
Minh mạc chỉ quang cảnh tối tăm mù mịt.
Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc,
mịt mù gió lốc, thổi dầu tha hương.
(Trận Vong Tướng Sĩ).
MINH MẠNG 明 命
Minh Mạng huý Nguyễn Phước Đảm, vị vua thứ hai của triều Nguyễn, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.
Sinh vào tháng tư năm Tân Hợi 1791. Đến năm 25 tuổi, được lập làm Hoàng thái tử. Năm 29 tuổi, tháng giêng năm Canh Thìn 1820, nối ngôi cha, lấy niên hiệu là Minh Mạng, đổi quốc hiệu là Đại Nam.
Minh Mạng là vị vua có tư chất thông minh, tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh. Ông là người rất cần mẫn, chăm xem xét mọi việc, sửa sang lại chính trị, định lại binh chế.
Minh Mạng mất năm Canh
Tý 1840, thọ 50 tuổi, trị vì được 21 năm.
Sách đèn học tập năm Minh Mạng,
Áo mũ ăn ngồi xã Vị Xuyên.
(Thơ Trần Tế Xương).
MINH MỤC 暝 目
Minh: Tối tăm. Mục: Con mắt.
Minh mục cặp mắt tối tăm. Dùng với nghĩa bóng, minh mục dùng để chỉ sự chết.
Nhạn hàng phỏng có đôi ba,
Thà rằng minh mục, hơn là ô danh.
(Quan Âm Thị Kính).
MINH NÔNG 明 農
Minh: Sáng. Nông: Làm ruộng.
Ngày xưa, có đặt ra một chức quan để chăm lo mở mang đất ruộng, dạy dân chúng biết kỷ thuật canh tác, tức là dạy cho dân chúng hiểu rõ một cách sáng suốt về nghề nông.
Diêu đường Dương nhạc hai thân,
Viện lề nhân cũng sớ trần minh nông.
(Hoa Tiên Truyện).
MINH QUÂN 明 君
Minh: Sáng suốt. Quân: Vua.
Minh quân tức là ông vua cần mẫn, sáng suốt.
Ta lại nghĩ anh hùng lắm hội,
Chờ minh quân chớ lỗi duyên lành!
(Thơ Học Canh).
MINH TÂM 明 心
Người tu hành phải minh tâm, tức là rèn luyện cho tâm được sáng suốt để thấy được tự tánh, nên giáo pháp thường dạy phải minh tâm kiến tánh thì mới thành Phật.
Xem: Minh tâm kiến tánh.
Trăm ngàn đức tánh chỉ minh tâm,
Ðạo đức thương em một mối cầm.
(Đạo Sử).
MINH TÂM KIẾN TÍNH 明 心 見 性
Hay “Minh tâm kiến tánh” là sáng tâm thấy tánh.
Rèn luyện cho tâm sáng suốt để thấy được tánh, tức là thấy được tự tánh của mình, thấy được bản thể chân thật của mình vốn sáng suốt trong lặng, tức là thấy được Thiên tánh, Phật tánh hay Viên minh tánh.
Chúng ta hiện diện trên cõi đời này mỗi người đều mang sẵn một “Chơn tánh”, nhưng vì xa rời nó để đi vào sanh tử rồi thì cứ theo dòng mê mà trôi nổi bềnh bồng chịu mọi khổ đau như lời Sám “Quy mạng” của Phật viết: “Đệ tử chúng đẳng tự di chơn tánh, uổng nhập mê lưu, tùy sanh tử dĩ phiêu trầm…弟 子 眾 等 自 移 真 性, 枉 入 迷 流, 隨 生 死 以 飄 沉”. Từ bỏ chơn tánh là mất tánh sáng suốt thì phiền não trần lao sẽ phát sinh làm khổ lụy thân tâm và mãi mãi luân hồi.
Minh tâm kiến tính đã rồi,
Vậy sau mới khá ra đời ứng cơ.
(Hứa Sử Tân Truyện).
MINH SINH 銘 旌
Minh sinh là Cờ nêu, tục gọi là lá triệu. Đó là một tấm lụa hay vải đỏ, người ta dùng phấn trắng viết quan chức, họ tên người chết, treo vào một cái giá hay một cần nêu dẫn đi trước linh cữu trong khi đưa ma. Lúc hạ huyệt thì đem tấm lụa ấy phủ lên trên mặt linh cữu.
Xem: Minh Tinh.
Đặt bày lễ vật nghiêm trang.
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh.
(Lục Vân Tiên).
MINH TINH 銘 旌
Minh: Khắc vào. Tinh: Lá cờ nhỏ.
Minh tinh, còn gọi “Minh sinh” hay “Minh sanh”, tục gọi là tấm triệu hay tấm phan, là một tấm lụa trắng, dài dùng để ghi tên tuổi, ngày sinh, ngày chết, quê quán cùng chức tước của người chết để dùng đưa rước trong đám tang.
Tấm minh tinh được treo
trên một cây tre, hay gắn vào một cái giá làm bằng khung tre để dẫn đi đường
trước xe tang.
Minh tinh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ đây mịt gió thâu.
(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).
MINH TRA 明 查
Minh: Sáng tỏ, rõ ràng. Tra: Xem xét.
Minh tra tức là xem xét cho rõ ràng, hay điều tra cho sáng tỏ vụ việc.
Kêu oan đến cửa quan
nha,
Làm đơn mà khống minh tra cho tường.
(Truyện Trê Cóc).
MÌNH CHIÊU PHƯỚC HOẠ
Mình chiêu phước hoạ ý nói tự mình vời lấy cái phước cái hoạ, do câu trong thiên Thái Thượng Cảm Ứng Kinh: “Họa phước vô môn duy nhân tự triệu.禍 福 無 門, 惟 人 自 召. Nghĩa là cái điều hoạ phước không có cửa, là không có chỗ định, tại mình tự vời nó mới tới mình mà thôi.
Lành dữ nơi mình chiêu phước họa,
Thành tâm ắt thấy hết thần minh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
MÌNH NGỒI DỰA CỘT
Do câu tục ngữ Việt Nam: Biết thì thưa thốt, Không biết thì dựa cột mà nghe.
Mình ngồi dựa cột ý nói
mình dốt nát thì phải dựa cột mà nghe.
Đừng ưa me chịu dốt chúng cười,
Người ghế giữa mình ngồi dựa cột.
(Phương Tu Đại Đạo).
MY THANH MỤC TÚ 眉 清 目 秀
My thanh: Mày thanh tân. Mục tú: Mắt đẹp đẽ.
My thanh mục tú là mày thanh mắt đẹp, tức là mặt mày trông đẹp đẽ, có vẻ thông minh sáng suốt.
Vằng vặc my thanh mục tú,
kỳ sĩ phong tư;
Nhơn nhơn thức viễn tài cao,
danh nho khí tượng.
(Trương Lưu Hầu Phú).
MỴ CHÂU 媚 珠
Mỵ Châu là con gái Thục Phán, tức vua An Dương Vương nước Âu Lạc, có chồng là Trọng Thuỷ con của tướng nhà Tần là Triệu Đà.
Sau Triệu Đà mang binh sang đáng thắng Âu Lạc, khiến An Dương Vương phải chở Mỵ Châu chạy về phương nam. Trên đường thoát nạn, Mỵ Châu ngồi sau lưng vua cha lấy lông ngỗng rãi để Trọng Thuỷ theo dấu mà tìm. Vua An Dương Vương chạy đến núi Mộ Dạ mới biết được, tức giận bèn rút gươm ra chém chết Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biển mà tự tận.
Xem: Trọng Thuỷ Mỵ Châu.
Rằng: Xưa Trọng Thuỷ, Mỵ Châu,
Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.
(Quốc Sử Diễn Châu).
MỎ CHIM NANH CHUỘT
Do chữ “Tước giác thử nha 雀 角 鼠 牙” là chim sẻ có sừng và chuột có răng, đó là tên hai bài ca trong Kinh Thi có câu: Thuỳ vị tước vô giốc, hà dĩ xuyên ngã ốc…Thuỳ vị thử vô nha, hà dĩ xuyên ngã dong. Thuỳ vị nhữ vô gia, hà dĩ tốc ngã tụng. Tuy tốc ngã tụng, diệc bất nhữ tùng 誰 謂 雀 無 角, 何 以 穿 我 屋… 誰 謂 鼠 無 牙, 何 以 穿 我 墉. 誰 謂 汝 無 家, 何 以 速 我 訟. 雖 速 我 訟, 亦 不 女 從, nghĩa là ai bảo chim sẻ không sừng? Nó lấy gì đục được nóc nhà ta… Ai bảo chuột không nanh? Nó lấy gì đục được tường ta. Ai bảo mầy không nhà, mầy lấy cớ gì kiện tao được? Mầy dù đem tao đi kiện, tao cũng chẳng theo mà lấy mầy. Ý nói về tính hay kiện tụng của những người ở chốn thôn quê như chim sẻ khoét nóc nhà, chuột hay gậm nhấm.
Xem: Tước giác.
Biết rằng hươu chết tay ai,
Mỏ chim nanh chuột tranh hơi còn nhiều.
(Truyện Trê Cóc).
MÕ CÁ
Mõ là một nhạc cụ dùng để tụng kinh niệm Phật, để dẫn tiếng tụng đọc lên xuống cho được nhịp nhàng. Tiếng mõ giữ nhịp điệu điều hoà để mọi người đều tụng theo. Trên mặt của mõ có chạm nổi hình một con cá mở to đôi mắt nhằm nhắc nhở mọi người lúc nào cũng biết tỉnh thức, lúc nào cũng đều mở mắt cả.
Mõ được gõ thành tiếng, gọi là “trường canh”, phát ra âm thanh dài liên tục để hướng dẫn mọi người tụng cùng một lúc.
Xem: Mộc ngư.
Muối dưa đắp đổi ít nhiều,
Sớm khua mõ cá, tối khiêu chuông kình.
(Truyện Phan Trần).
Tuần điếm kìa ai
khua mõ cá,
Dâng hương nọ kẻ nện chày kình.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Chùa Châu Long hương cúng khét mù,
Nghe mõ cá đã dức vang cầu Trúc.
(Phản Tây Hồ Tụng).
MÕ CÁ CHUÔNG KÌNH
Mõ cá tức mõ tụng kinh có chạm hình con cá, dùng để gõ trong thời công phu.
Chuông kình là loại chuông to, chày đánh chạm một
con cá kình.
Muối dưa đắp đổi ít nhiều,
Sớm khua mõ cá, tối khêu chuông kình.
(Truyện Phan Trần).
MÓC ĐƯỜNG
Tức là hạt sương móc rơi trên đường đi, nói về người con gái giữ lòng trong sạch, không đi ban đêm sợ những đứa con trai ức hiếp, nói thác móc sương ướt đường sá.
Do Kinh Thi có câu: Yếm ấp hành lộ, khí
bất túc dạ, vị hành lộ đa 厭 浥 行 路, 豈 不 夙 夜, 謂 行 露 多,
nghĩa là sương móc ướt đường, há lại chẳng muốn đi từ lúc chưa sáng, ngặt nỗi
đường đầy sương móc.
Nàng rằng: Bồ liễu chút thân,
Móc đường những lệ chúa xuân phải phiền.
(Hoa Tiên Truyện).
MÓC MƯA
Bởi chữ “Vũ lộ 雨 露” tức là hạt mưa và hạt móc.
Móc mưa dùng để chỉ ân huệ ở trên ban xuống cũng như cây cỏ thọ ơn mưa móc.
Xem: Vũ lộ.
Móc mưa nhuần gội chập chùng,
Bể sôi, chợ họp người trong sảnh đường.
(Hoa Tiên Truyện).
Mà nay lượng cả ân sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.
(Ai Tư Vãn).
MONG NHẠN
Mong nhạn nghĩa là mong mỏi tin tức.
Nhạn là con chim ngỗng trời, con mái là nhạn, con trống là hồng. Nhạn là tiếng gọi chung.
Do điển Tô Võ đi sứ Hung Nô bị bắt đày đi chăn dê. Mưu thần nhà Hán là Thường Huệ dặn sứ qua nói với Hung Nô rằng Tô Võ đi chăn dê có bắt được con chim nhạn, xé áo lụa, viết thư buộc vào chân thả nhạn bay về, vua Hán bắt được nhạn, biết ông hãy còn sống. Hung Nô tưởng thật, bèn thả Tô Võ trở về Hán.
Về sau, người ta dùng điển ấy để chỉ tin tức.
Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
MONG
SAO
Trông mong ngôi sao trên trời, do chữ “Tinh kỳ 星 期” trong Kinh Thi để chỉ sự thành hôn.
Kinh Lễ có chép: Trù mâu thúc tân, Tam tinh tại thiên. Kim tịch hà tịch, Kiến thử lương nhân 綢 繆 束 薪, 三 星 在 天. 今 夕 何 夕. 見 此 良 人, nghĩa là chăm chỉ bó củi, trông ba ngôi sao trên trời. Đêm này hay là đêm nào, sẽ thấy người bạn lành của ta.
Ngày xưa lễ nghinh hôn thường đợi đến khi sao bắt đầu mọc mới khởi hành, nên người ta thường gọi hôm rước dâu là “Tinh kỳ”.
Nghĩa bóng: Cưới vợ.
Xem: Tinh kỳ.
Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,
Khách công hầu ngấp nghé mong sao.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
MỌT NƯỚC
SÂU DÂN
Mọt sâu là hai loài côn trùng chuyên phá hoại cây cối mùa màng, thường được ví với những kẻ có hại cho nhân quần xã hội.
Mọt nước sâu dân tức là người đục khoét đất nước
như loài mọt, phá hoại nhân dân như loài sâu.
Quấy đem trách bấy tôi yêu,
Mở đường mọt nước xui điều sâu dân.
(Hoài Nam Khúc).
MỘ CỔ
THẦN CHUNG 暮 鼓 晨 鐘
Buổi chiều đánh trống, buổi sáng đánh chuông.
Chuông trống trong các ngôi chùa khi công phu có mục đích là hàng ngày buổi sáng và buổi chiều cảnh tỉnh cho chúng sanh được giác ngộ.
Vì vậy, mộ cổ thần chung có nghĩa rộng dùng lời nói mạnh mẽ mà làm cho người tỉnh giác.
Mộ cổ thần chung, cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách,
Triêu kinh vãng kệ, hoán hồi khổ hải mộng
mê nhân.
(Liễn Phật Tự).
MỘ VŨ
TRIÊU VÂN 暮 雨 朝 雲
Mộ vũ:
Chiều làm mưa. Triêu vân: Sáng làm mây.
Mộ vũ triêu vân là sáng làm mây tối là mưa, do điển Sở Tương Vương đi chơi núi Vu Sơn, chiêm bao thấy một người con gái đẹp đến hầu và tự xưng là Vu Sơn Thần nữ, có nhiệm vụ sáng làm mây, tối làm mưa, chỉ việc ân ái của đôi nam nữ.
Nén lòng mộ vũ triêu vân,
Khách Sở nàng Tần chẳng khỏi mỗ ly.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
MỘC BỔN
THUỶ NGUYÊN 木 本 水 源
Mộc bổn:
Cây cội. Thuỷ nguyên: Nước nguồn.
Mộc bổn thuỷ nguyên tức là cây có cội, nước có nguồn. Trong muôn vật đều phải có nguồn gốc, như cây cội nước nguồn, con người cũng vậy có tổ tiên ông bà.
Nghĩa bóng: Cùng một nguồn gốc mà ra.
Lăm đền mộc bổn thuỷ nguyên;
Dốc báo càn khôn phù tái.
(Sãi Vãi).
MỘC DỤC 沐 浴
Mộc:
Gội. Dục: Tắm.
Mộc dục là tắm gội.
Ngoài ra, còn có nghĩa tên một vị trong 12 Thuỷ
thần. Theo địa lý phong thuỷ, ngôi mộ nào có nước ở phương mộc dục chảy đến thì
con gái hay đa tình và chửa hoang.
Một là động địa làm sao,
Nước phương mộc dục chảy vào chẳng sai.
(Quan Âm Thị Kính).
MỘC ĐẠC 木 鐸
Cái mõ bằng gỗ.
Ngày xưa người ta dùng mộc đạc để gõ lên báo hiệu vào giờ học, cho nên người ta thường gọi thầy học là mộc đạc.
Luận ngữ có câu: Thiên hạ chi vô đạo cửu hỹ, thiên tương dĩ Khổng Tử vi mộc đạc 天 下 之 無 道 久 矣, 天 將 以 孔 子 為 木 鐸, nghĩa là thiên hạ không đạo đã lâu rồi, trời cho Khổng Tử ra làm cái mõ để cảnh tỉnh nhơn tâm.
Mộc đạc vang lừng trong bốn cõi,
Kim thanh chuyển động khắp đôi nơi.
(Thơ Lê Thánh Tôn).
MỘC NGƯ 木 魚
Mộc:
Cây. Ngư: Con cá.
Mộc ngư là cái mõ bằng gỗ có chạm hình con cá của các nhà tu hành dùng để tụng kinh.
Chạm mõ hình con cá với ý con cá đêm ngày không
nhắm mắt, nên làm mõ hình con cá để tỏ rằng công phu khuya sớm không mệt mỏi và
thường tỉnh thức.
Rỗi mộc ngư diễn kệ sớm khuya,
Nương thạch khánh phần hương sớm tối.
(Sãi Vãi).
MỘC VỊ 木 位
Mộc vị còn gọi là Thần chủ, hoặc mộc chủ được khắc lên một tấm gỗ dày, có cái đế dựng đứng được. Trên mặt gỗ viết tên họ ngày sinh ngày mất của người chết... đặt trên bàn thờ để linh hồn người quá cố nương tựa vào “Mộc vị”.
Xem: Bài vị.
Tìm nơi đình tử xa xa,
Trông ngay trước mộc vị cha, thở dài.
(Nhị Độ Mai).
MỘC VŨ
TRẤT PHONG 沐 雨 櫛 風
Gội mưa chải gió dùng để chỉ người dầm mưa giải gió, chịu mọi sự gian nan vất vả.
Sách Ấu Học viết: Mộc vũ trất phong vị phong trần chi lao khổ 沐 雨 櫛 風 謂 風 塵 之 勞 苦, nghĩa là gội mưa chải gió là nói sự khổ nhọc trong cảnh phong trần.
Đường thư chép: Địch Nhân Kiệt tâu với bà Võ Hậu rằng: Văn Hoàng Đế gội mưa chải gió, xông pha tên đạn để bình định thiên hạ, truyền cho con cháu. Tiên đế đem hai con gởi gấm bệ hạ, nay bèn dời sang họ khác! Phải chăng là thiên ý ư?
Nghĩa bóng: Chỉ sự vất vả khó nhọc.
MÔI CHƯỚC 媒 妁
Môi: Người làm mối. Chước: Người giới thiệu hai người khác
họ nhau.
Môi chước tức là người làm mối cho cuộc hôn nhân của hai đứa trẻ.
Xem: Môi nhân.
Thái sư dùng lễ vật sang,
Mượn người môi chước kết đàng sui gia.
(Lục Vân Tiên).
MÔI
NHÂN 媒人
Người là mai mối.
Ngày xưa vì quan niệm người đàn bà con gái không
ra khỏi khuê phòng, nên định cuộc hôn nhân phải có người làm mối, gọi là “Môi
nhân” hay “Môi chước”.
Môi nhân đến trước ngỏ lời,
Trạng rằng đã định duyên hài bố kinh.
(Song Tinh Bất Dạ).
MỐI
DUYÊN
Mối duyên tức là mối tơ, hay mối chỉ của Nguyệt Lão xe duyên vợ chồng cho đôi trai gái.
Xem: Nguyệt lão.
Người dung hạnh, bậc tài danh,
Nghìn thu để mối duyên lành làm gương.
(Hoa Tiên Truyện).
Lá hồng đặt xuống nâng lên,
Mối duyên đo đắn chưa nên mối gì.
(Quan Âm Thị Kính).
Bạch, Tô sẵn mối duyên lành,
Mượn câu cảnh, ngụ câu tình họa may.
(Hoa Tiên Truyện).
MỐI GIỀNG
Mối giềng tức là cái mối của giềng lưới.
Cái giềng lưới rất quan trọng, chỉ cần nắm bốn cái mối của giềng lưới thì tất cả các mắt lưới đều giương ra hết. Do vậy, có ba giềng mối quan hệ trong đạo nhân luân, đó là quân thần (Vua tôi), Phụ tử (Cha con), Phu phụ (Vợ chồng).
Xem: Giềng mối.
Lo Hàn triều điên đảo mối giềng,
Không kẻ cứu con rồng mẹ phượng.
(Nhạc Hoa Linh).
Ðường mây sẵn lối gặp may duyên,
Nâng gánh xa thơ sửa mối giềng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Trên lo thảo, giữa hòa, dưới thuận,
Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MỐI HỒNG
Tức là mối dây tơ hồng, hay mối chỉ hồng mà Nguyệt Lão dùng để buộc chân những cặp có duyên nợ với nhau. Xem: Nguyệt lão.
Lại có điển: Trương Gia Trinh có năm người con gái, muốn gả một đứa cho Đặng Nguyên Chẩn, mà không biết phải gả người nào. Bèn bảo năm đứa con ngồi sau màn cầm năm sợi tơ khác màu nhau. Nguyên Chẩn đứng ngoài, hễ chọn mối tơ của ai thì cưới người đó. Nguyên Chẩn lựa sợi tơ màu đỏ, nhằm đứa thứ ba là đứa con gái đẹp nhất.
Xem: Tơ hồng.
Thương chàng phận bạc trong đời,
Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mốì hồng.
(Lục Vân Tiên).
MỐI TẠO
Mối tạo nghĩa là mối chỉ của Tạo hoá, của Thiêng liêng buộc chặt hai người con trai và con gái với nhau để kết nên duyên vợ chồng.
Cho hay mối tạo vần qua,
Coi cây hoa lại thấy ra hoa người.
(Dương Từ Hà Mậu).
MỐI TƠ
Hay mối tơ đỏ, cũng như chỉ hồng, do điển tích Nguyệt lão ngồi dưới trăng se mối tơ hồng, hay chỉ đỏ cho hai người trai gái để kết duyên vợ chồng.
Xem: Chỉ hồng Nguyệt lão.
Võ Công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.
(Lục Vân Tiên).
MÔN MẠCH 門 陌
Môn:
Cửa. Mạch: Con đường nhỏ.
Môn mạch tức là đường lối sự tình.
Mon men thăm hỏi gần xa,
Mới tường môn mạch,
nay đà phó kinh.
(Hoa Tiên Truyện).
MÔN MI 門 楣
Môn:
Cửa. Mi: Tấm biển treo ngang nhà.
Phàm khi bước vào cửa, người ta từ ngoài nhìn vào thấy khuôn biển treo ngang giữa biểu hiện cái gia thế của nhà đó.
Khi Dương Quý Phi được sủng ái, dân gian mới làm bài ca rằng: Sinh nam vật hỷ, sinh nữ vật bi, Quân kim khán nữ tác môn mi 生 男 勿 喜, 生 女 勿 悲, 君 今 看 女 作 門 楣, nghĩa là sinh trai chớ mừng, gái chớ buồn, ngày nay anh thấy gái làm rạng rỡ cửa nhà.
Sách Sơn Đường Tứ Khảo có câu: Nam bất phong hầu nữ tác phi, Quân khán nữ khước thị môn mi 男 不 封 侯 女 作 妃, 君 看 女 卻 是 門 楣, nghĩa là trai chẳng được phong hầu gái làm phi, anh xem người gái rạng môn mi.
Họ Diêu rạng vẻ môn mi,
Điềm lành sớm ứng lân nhi một chàng.
(Hoa Tiên Truyện).
Môn mi mong những nhờ duyên,
Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân.
(Nhị Độ Mai).
Nào hay gái trở khem ra
Môn mi dành để phước nhà từ đâu,
(Huấn Nữ Ca).
MÔN
PHONG 門 風
Môn:
Cửa, gia đình. Phong: Phong tục, thói tục.
Môn phong là nề nếp trong gia đình truyền từ đời này đến đời khác, tức tập quán trong dòng họ.
Trước sau trải mấy mươi lần,
Môn phong vẫn giữ trung cần dám sai.
(Tự Tình Khúc).
MÔN
PHÒNG 門 房
Môn:
Tức là môn hạ, chỉ kẻ tay chân, thuộc hạ. Phòng: Cái buồng.
Môn phòng là buồng của kẻ đầy tớ ở.
Vực nàng tạm xuống môn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
(Truyện Kiều).
MÔN
SINH 門 生
Môn:
Môn phái. Sinh: Học trò.
Môn sinh có nghĩa là học trò.
Ân sư liên hữu có ai,
Môn sinh xin được một người là may!
(Nhị Độ Mai).
MÔNG CỔ 蒙 古
Một phần lãnh thổ ở về phía bắc Trung Quốc, chia ra Nội Mông Cổ và Ngoại Mông Cổ.
Mông Cổ cũng là tên một dân tộc còn dã man, hiếu
chiến, chuyên cưỡi ngựa, bắn tên, làm nghề đánh cá và săn bắn, tự xưng là giống
Đạt Đát, ấy là một giống người rất hung dữ và tàn bạo, trong các cuộc chiến
tranh, đến nơi nào là chỉ biết giết chốc, đốt phá, huỷ diệt hết thảy. Sau dân tộc
Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn lãnh đạo, lấn chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc,
rồi lên ngôi vua đặt quốc hiệu là nhà Nguyên.
MÔNG CHÍNH 蒙 正
Mông Chính họ Lữ, tự là Thánh Công, quê ở Hà Nam, thi đỗ tiến sĩ thời nhà Tống, làm quan đến chức Thái Tử Thái Sư, phong Hứa Quốc Công.
Lúc còn nhỏ, Mông Chính nổi tiếng là người chăm
học. ông có tánh điềm tĩnh, khoan dung, gặp việc dám nói, người đời gọi là
Hiền tướng. Những nhân vật tài giỏi trong nước ông đều ghi chép tên họ vào
trong một quyển sách. Đến khi triều đình muốn dùng người, đều do trong quyển
sách của Mông Chính cả.
Đèn Mông Chính canh khuya một ngọn.
Màn Trọng Thư năm trọn nửa vây.
(Tự Tình Khúc).
MÔNG ĐIỀM 蒙 恬
Mông Điền là một vị tướng tài ba, có công giữ bờ cõi biên cương cho vua Tần Thuỷ Hoàng. Ông đã từng được vua Tần sai đem ba mươi vạn quân đi đánh Hung Nô và đắp Vạn Lý Trường Thành. Oai danh ông thật lừng lẫy. Khi Tần Thuỷ Hoàng mất, Triệu Cao lập Tần Nhị Thế, Mông Điềm phản đối phải tự sát.
MÔNG TRẦN 蒙 塵
Mông:
Nhận lấy. Trần: Bụi bặm.
Mông trần tức là chịu sự bụi bặm, nhớp nhúa. Dùng để chỉ vua ra khỏi cung điện, dấn thân vào nơi cát bụi vất vả, tức chỉ vua bị mất ngôi, phải chịu bôn tẩu, lưu vong.
Sách Tả Truyện có chép: Thiên tử mông trần
vu ngoại 天 子 蒙 塵 于 外,
nghĩa là thiên tử phải chịu nỗi trần ai vì lưu vong ra cõi ngoài.
Đem binh vào cửa Bắc thần,
Bích câu một phút mông trần bởi ai.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Mông trần lao khổ tiệm thư,
Lần nghe tin tức kinh sư dường nào.
(Hạnh Thục Ca).
MỐNG
LÒNG NGUYỆT HOA
Mống lòng là một từ cổ, chỉ sự lo toan, chăm chăm tưởng tới một hành động gì. Nguyệt hoa tức là trăng hoa, chỉ sự quan hệ giữa trai gái.
Mống lòng nguyệt hoa ý nói luôn nghĩ tới chuyện
trai gái, trăng hoa.
Này là trau sửa má hồng,
Chồng đi ra khỏi, mống lòng nguyệt hoa.
(Huấn Nữ Ca).
MỘNG ẢO 夢 幻
Mộng:
Giấc chiêm bao. Ảo: Không thực, chỉ như giấc mộng.
Mộng ảo là những cái giả, không thực, như cái bóng theo hình, có mà không thực.
Theo Phật, mộng ảo bào ảnh chỉ những cái giả tạm không thực, thoáng qua mà thôi, đó là cuộc đời, và các pháp ở cõi thế gian.
Kinh Kim Cang có câu: Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng ảo bào ảnh 一 切 有 為 法 如 夢 幻 泡 影, nghĩa là tất cả các pháp có mặt ở thế gian đều là mộng ảo bào ảnh, tức là ngắn ngủi, không có thực.
Dạy rằng mộng ảo cứ đâu,
Bỗng không mua não chuốc sầu, nghĩ nao!
(Truyện Kiều).
Lấy điều mộng ảo mà suy,
Một thì là giác, hai thì là mê.
(Mai Đình Mộng Ký).
Mộng ảo trò đời đâu mấy chốc,
Ngựa qua cửa sổ cuộc tan tành.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
MỘNG
BÚT 夢 筆
Chiêm bao thấy được cây viết.
Theo điển Nam Sử: Giang Yêm nằm chiêm bao thấy có
người trao cho một cây viết ngũ sắc. Kể từ đó, văn chương Giang Yêm trở nên đặc
sắc. Sau đó, ông lại nằm mộng, thấy Quách Phác đến đòi lại cây viết, ông lấy
hoàn lại. Kể từ hôm ấy, văn chương sa sút, không có câu nào có giá trị nữa.
MỘNG ĐAO 夢 刀
Nằm mộng thấy đao kiếm.
Vương Tuấn nhà Tấn, đêm nằm mộng thấy treo ba cây đao trên rường nhà, ngay chỗ nằm. Hồi lâu, lại thấy một cây nữa. Tuấn sợ, giựt mình tỉnh dậy, lòng rất lo lắng. Quan Chủ bộ là ông Lý Nghị nghe kể điềm mộng, bèn chúc mừng rằng: Ba cây đao là chữ “Châu” (州), lại thêm một cây đao nữa, tức là sẽ đến Ích Châu.
Về sau, khi giặc giết quan Thứ sử Ích Châu, quả nhiên ông Vương Tuấn được bổ đến làm quan Thứ sử Ích Châu.
MỘNG ĐIỆP 夢 蝶
Hay “Điệp mộng”, mộng thấy bươm bướm, dùng để chỉ giấc chiêm bao, hay giấc ngủ.
Do tích Trang Chu nằm mộng thấy mình hoá ra con
bươm bướm. Nên ngày nay, nằm ngủ mà chiêm bao được gọi là mộng điệp.
Canh năm vừa tới thiền quan,
Kẻ thôi mộng điệp, người choàng giấc hoa
(Hứa Sử Tân Truyện).
Trăm tuổi chưa vui cơn mộng điệp,
Ðã tiêu hết nghiệp khác xưa nào.
(Đạo Sử).
Mộng điệp còn ngày công quả rỗi,
Hồn linh dường tưởng tượng Huỳnh Tuyền.
(Đạo Sử).
MỘNG
HÙNG 夢 熊
Mộng:
Giấc chiêm bao. Hùng: Con gấu.
Mộng hùng là nằm chiêm bao thấy gấu. Người xưa cho rằng nằm chiêm bao mà thấy gấu đó là điềm sinh con trai.
Kinh Thi có câu: Cát mộng duy hà, duy hùng duy bi, duy huỷ duy xà đại nhân chiêm chi, duy hùng bi, nam tử chi dạng, duy huỷ duy xà, nữ tử chi tường 吉 夢 維 何, 維 熊 維 罷. 維 虺 維 蛇, 大 人 占 之. 維 熊 維 罷, 男 子 之 樣, 維 虺 維 蛇, 女 子 之 詳, nghĩa là điềm tốt như thế nào? Chiêm bao thấy gầu và rắn. Đại nhân bói thử: Chiêm bao thấy gấu là điềm sinh trai, chiêm bao thấy rắn là điềm sinh gái.
Xem: Hùng bi.
Rằng: Ta gái độ mộng hùng,
Cũng trông khôn lớn tơ hồng xe duyên.
(Truyện Phan Trần).
Gối điệp dẫu chưa đành phận thiếp,
Mộng hùng nay đã đẹp lòng ai.
(Thơ Trần Tế Xương).
MỘNG HUỶ
XÀ 夢 虺 蛇
Mộng:
Giấc chiêm bao. Huỷ xà: Chỉ loài rắn.
Mộng huỷ xà là nằm chiêm bao thấy loài rắn. Người xưa cho rằng nằm chiêm bao mà thấy rắn đó là điềm sinh con gái.
Mộng xà.
Phạm đường cĩng mộng huỷ xà,
Năm ba thơ ngợi Đào hoa nghi kỳ.
(Sơ Kính Tân Trang).
MỘNG YẾN 夢 燕
Mộng yến tức là chiêm bao thấy chim yến, sa vào bụng, chỉ điềm sinh con tài ba.
Do tích mẹ Trương Duyệt đời Đường, nằm chiêm bao
thấy chim yến bay sa vào bụng, sau đó sinh ra Trương Duyệt ở Lạc Dương, là
người học rộng tài cao, làm quan đến chức Yến Quốc Công trong triều đình.
Một phen mộng thấy điềm bay yến,
Chín tháng ca dăng khúc lộng chương.
(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).
MỘNG
LAN 夢 蘭
Mộng lan, tức là nằm mơ thấy hoa lan.
Theo Tả Truyện, người thiếp của Trịnh Văn Công là
Yến Cật, chiêm bao thấy sứ trời ban cho một cành hoa lan, giật mình tỉnh giấc,
sau đó thụ thai, sinh ra Mục Công. Do đó người ta mượn chữ “Mộng lan” chỉ việc
hoài thai.
Kìa như đông bích lân gia,
Kẻ đà bốc phượng, người đà mộng lan.
(Bần Nữ Thán).
MỘNG NAM KHA
Hay “Nam kha mộng 南 柯 夢”: tức là giấc mộng ở cành cây hướng nam. Tên một bài ký của Lý Công
Tá đời Đường chép rằng:
Thuần Vu Phần chiêm bao thấy mình đi tới nước Hoè An được vị quốc vương nước này cho làm Thái thú và lại gã Công chúa cho, nên được hưởng mọi sự vinh hiển. Sau đó, Thuần Vu Phần được lệnh nhà vua đi dẹp giặc, bị thua trận, ở cung Công chúa cũng bị bệnh chết, khiến nhà vua nghi kỵ, đuổi đi. Chàng chán nãn, buồn rầu, bèn giựt mình tỉnh giấc, thấy mình ngủ dưới gốc cây hoè, lại dưới cành cây phía nam có một tổ kiến, mới chợt tỉnh ngộ là mình chiêm bao.
Về sau, người ta dùng điển “Mộng Nam kha” để chỉ cuộc đời như giấc mộng, công danh phú quí tỷ như giấc chiêm bao.
Xem: Giấc Nam kha.
Đã tầng chịu khó khăn kiếp sống,
Định tâm thần giải mộng Nam kha.
(Kinh Thế Đạo).
MỘNG
NGUYỆT 夢 月
Chiêm bao thấy mặt trăng là ứng điềm sinh con gái quý hiền.
Do tích đời Tề, bà Võ Minh Hoàng Hậu có thai, nằm
mộng thấy trăng soi vào bụng, sau sinh ra bà Nguỵ hậu. Nghĩa bóng sinh con gái
quý hiền.
Vết Kim Tiến kể thiêng thay,
Báo điềm mộng nguyệt, mãn ngày treo khăn.
(Quan Âm Thị Kính).
MỘNG
TRIỆU 夢 兆
Mộng:
Chiêm bao. Triệu: Điềm.
Mộng triệu là cái điềm do nằm mơ báo trước.
Cứ trong mộng triệu mà
suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau!
(Truyện Kiều).
MỘNG XÀ 夢 蛇
Mộng:
Chiêm bao. Xà: Rắn.
Mộng xà là chiêm bao thấy rắn.
Theo Kinh Thi, chiêm bao thấy rắn là điềm
sinh con gái. Do câu: Duy huỷ duy xà, nữ tử chi tường 維 虺 維 蛇, 女 子 之 詳,
nghĩa là nằm chiêm bao thấy rắn là điềm sinh gái.
Hiếm hoi mới được mộng xà,
Vân Tiên một gái mặt hoa khuynh thành.
(Nhị Độ Mai).
MỘNG
XUÂN 夢 春
Mộng:
Giấc chiêm bao. Xuân: Mùa xuân.
Mộng xuân là giấc mộng đêm xuân, chỉ giấc mộng êm đềm nhưng ngắn ngủi.
Do điển trong sách Hầu Thanh Lục chép: Tô Đông Pha
khi về hưu, thường đi chơi đồng ruộng, gặp một bà lão hỏi ông: Bao nhiêu sự
vinh hoa phú quý như giấc mộng đêm xuân, Ngài còn nhớ không? Tô Đông Pha đáp
rằng: Tôi vẫn nhớ mà nhớ trong giấc mộng. Ông gọi bà lão ấy là “Xuân mộng bà”
và có câu thơ: Sự như xuân mộng khứ vô ngân 事 如 春 夢 去 無 痕,
nghĩa là việc như giấc mộng xuân, nó đi mất không còn ngấn tích.
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Dẫu mà tay có nghìn vàng,
Đố ai mua được một tràng mộng xuân.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
MỘT CÂY
CHẲNG NÊN NON
Bởi chữ “Độc mộc bất thành lâm 獨 木 不 成 林” nghĩa là một cây không thành rừng, ý muốn nói một mình không thể làm được việc, mà phải nhờ nhiều người phối hợp lại mới nên việc.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây dụm lại nên hòn núi cao.
(Ca Dao).
MỘT
DÒNG MỘT GIỐNG
Do tích trong lịch sử cho rằng dân tộc Việt Nam là dòng giống Rồng Tiên, nên người chung một nước là một dòng một giống, đều là anh em. Vì vậy, mọi người phải thương yêu, giúp đỡ những việc cần thiết và lợi ích cho nhau.
Ngọn rau tấc đất là ân,
Một dòng một giống lo cần ích chung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MỘT ĐƯỜNG
SAO PHÚC
Dịch từ câu “Nhất lộ phúc tinh 一 路 福 星” có nghĩa là bình an mọi nẻo.
Do điển trong Tống Thư: Ông Tử Tuấn, tên hiệu là Thân, làm quan Chuyển Vận Sứ tại Kinh. Ông Tư Mã Quang nói chuyện với người rằng: Đem cái hiền của ông Thân, không thể để ở ngoài. Kìa những vùng Tề, Lỗ điêu tàn đã lâu, phải cần ông Thân đến cứu, đấy là vị: “Nhất lộ phúc tinh” (Phúc tinh của mọi nơi) vậy.
Xem: Nhất lộ phúc tinh.
Từ ngày trọng lỵ đến giờ,
Một đường sao phúc, muôn nhà phật sinh.
(Nhị Độ Mai).
MỘT GỐC
SANH RA
Ý muốn nói từ một nguồn gốc mà sinh ra. Anh em ruột thịt gốc từ bà mẹ sinh ra,
như cành nhánh của một cây do từ cội hay gốc của cây đó mà nẩy chồi ra.
Cũng là một gốc sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ ruột rà thương nhau.
(Kinh Sám Hối).
MỘT MẤT MƯỜI NGỜ
Một người bị mất đồ thường hay ngờ nhiều người khác lấy cắp, nên câu “Một mất mười ngờ” dùng để chỉ việc bị ngờ oan ức.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ.
(Gia Huấn Ca).
MỘT NGỰA
MỘT MÌNH
Bởi câu thành ngữ “Đơn thân độc mã 單 身 獨 馬”, là một mình một ngựa, ý muốn nói chiến đấu lẻ loi một mình, không người trợ giúp.
Đời như trận giặc đua tranh,
Dầu tài một ngựa một mình khó
nên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MŨ TỲ
LƯ
Mũ tỳ lư là mũ của các nhà sư. Mũ có hình tròn như quả dừa, trên có tượng Phật Tỳ Lư.
Mũ tỳ lư thường dành cho các sư trưởng đội.
Mũ tì lư rập tăm tắp vỏ dừa,
đội khi hầu nắng,
Gậy tích trượng chỉn lô nhô đốt trúc,
chống thuở còn sương.
(Thập Giới Cô Hồn).
MÚA RÌU
QUA MẮT THỢ
Đồng nghĩa với câu “Ban môn lộng phủ 班 門 弄 斧”, tức là múa búa trước cửa Lỗ Ban.
Thợ là người đã lành nghề, thế mà người dở lại đem búa rìu biểu diễn trước mặt thợ thì thật là người không thức thời.
Xem: Ban môn lộng phủ.
MỤC DÂN 牧 民
Mục:
Chăn dắt. Dân: Người dân.
Người xưa thường quan niệm rằng quan cai trị dân cũng như kẻ chăn dắt mục súc.
Dấu trung ấn in miền mây trắng,
Chữ mục dân bóng rạng non
vàng.
(Tự Tình Khúc).
MỤC HẠ
VÔ NHÂN 目 下 無 人
Mục hạ:
Ở dưới mắt. Vô nhân: Không có người.
Mục hạ vô nhân nghĩa là dưới mắt không người, ý nói người cao ngạo coi người không ra gì.
Bấy lâu mục hạ vô nhân,
Ai hay rằng mới bước chân cõi ngoài.
(Ngọc Kiều Lê).
MỤC LÂN 睦 鄰
Mục:
Sống hoà hợp. Lân: Xóm giềng.
Mục lân có nghĩa là sống hoà hợp với xóm giềng.
Hán Văn lấy đức mục lân,
Sắc sai Lục giả cựu thần lại sang.
(Quốc Sử Diễn Ca).
MỤC
LIÊN 目 連
Hay Mục Kiền Liên là một trong mười đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mục Liên là vị đệ tử thần thông nhứt của Đức Phật, vốn là người con có hiếu, thấy mẹ bị địa ngạ quỷ đạo chịu đói khát, Mục Liên phải tự thân xuống ngục A Tỳ dùng thần thông cứu mẹ (Kinh Vu Lan).
Do tích đó, ngày nay trong dân gian mới có tục lệ
vào rằm tháng bảy hằng năm đề có lễ báo hiếu.
Kìa Địa Tạng, nọ Mục Liên,
Độ thân dẫn xuống cửu tuyền cũng an.
(Truyện Phan Trần).
Mục Liên tu đã thành rồi,
Sao không rước mẹ lên ngồi toà sen.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Mục Liên mới đặng lục thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Phật Nói Vu Lan).
MỤC TỬ 牧 子
Mục:
Súc vật. Tử: Người.
Mục tử là người chăn nuôi súc vật, hay chỉ đứa chăn trâu.
Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô
thôn.
(Thơ Huyện Thanh Quan).
MỤC THỤ 牧 豎
Mục:
Chăn nuôi. Thụ: Đứa con nít.
Mục thụ chỉ đứa trẻ chăn trâu.
Lũ cày mây lầm tưởng bóng nghê,
Thơ thất nguyệt thở than cùng mục
thụ.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
MÙI THIỀN
Bởi chữ “Thiền vị 禪 味” là mùi thiền, có nhiều nghĩa khác nhau:
1.- Chỉ phong vị nhà chùa hay nhà Phật.
Ta đà lánh cõi mây mưa,
Cớ trêu tấc dạ, lại ưa mùi thiền.
(Dương Từ Hà Mậu).
2.- Chỉ thức ăn chay của nhà chùa.
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
(Truyện Kiều).
MŨI KIM
CHẲNG LỌT
Lấy ý từ câu: Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu 天 網 恢 恢, 疏 而 不 漏, nghĩa lag lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.
Mũi kim chẳng lọt ý muốn nói luật trời báo ứng rất
công bằng, tuy lưới trời lồng lộng mũi kim dù nhỏ cũng chẳng bao giờ lọt.
Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn
Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
MUỐI
DƯA
Muối dưa là hai loại thực phẩm chay thông dụng, đạm bạc, thích hợp cho người tu hành. Vì vậy, chữ “Muối dưa” cũng như chữ “Tương dưa”, chỉ sự cần kiệm, sự đơn giản, hay sự khổ hạnh của người tu học.
Muối dưa đắp đổi ít nhiều,
Sớm khua mõ cá, tối khêu chuông kình.
(Truyện Phan Trần).
Một kiếp muối dưa xong kiếp
nợ,
Cuộc đời oan nghiệt thấy rồi chưa?
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
MUỘI HỶ 妹 喜
Một người đàn bà đẹp ở cuối nhà Hạ, Trung Quốc. Nàng Muội Hỷ có một nhan sắc tuyệt trần, không ai bì kịp.Vì vậy, vua Kiệt, một người hung dữ, sát hại sanh linh, hoang dâm vô độ, mới mê say nàng Muội Hỷ, phế bỏ triều chính, nên sau bị mất nước về nhà Thương.
MUÔN
CHUNG NGHÌN TỨ
Muôn chung: Được ăn muôn chung thóc. Nghìn tứ: Có nghìn cỗ
xe bốn ngựa.
Muôn chung nghìn tứ chỉ người được hưởng muôn hộc thóc, nghìn cỗ xe, ý nói người giàu có cao sang.
Một lời đã biết tên ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!
(Truyện Kiều).
Cơm rau nước lã an thân,
Muôn chung nghìn tứ có cần quyền chi.
(Thơ Đồ Nam Tử).
MUÔN HỒNG
NGHÌN TÍA
Muôn hồng nghìn tía chỉ các loại hoa có nhiều màu sắc rực rỡ, ý nói là mùa xuân.
Đường Thi có câu: Vạn tử thiên hồng tổng
thị xuân 萬 紫 千 紅 總 是 春,
nghĩa là muôn hồng nghìn tía thảy là xuân.
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Muôn hồng nghìn tía tưng bừng,
Suối khe thét nhạc thông rừng dạo sênh.
(Hương Sơn Hành Trình).
Bảng xuân nay đã dự mừng,
Muôn hồng nghìn tía tưng bừng đón ai.
(Truyện Phan Trần).
MUÔN
NHÀ PHẬT SINH
Bởi câu “Vạn gia sinh Phật 萬 家 生 佛” tức Phật sống của muôn nhà.
Do tích sau: Ông Tư Mã Quang đời Tống, công kích tân pháp của Vương An Thạch, nên khi Triết Tông lên ngôi, bà Thái Hậu Tuyên Nhơn nhiếp chính, dùng ông làm Tể Tướng được tám tháng thì ông mất. Trong tám tháng ấy, ông bãi bỏ tân pháp của Vương An Thạch, cải đổi triều chính, trong nước được thái bình. Ông lại là người nhân đức, rất thương dân, làm quan thi ân khắp mọi nhà, cho nên mọi người đều cho rằng: Tư Mã Ôn Công, chân thị vạn gia sinh Phật 司 馬 溫 公 真 是 萬 家 生 佛, nghĩa là ông Tư Mã Quang mới thật là “Vạn gia sinh Phật” (Muôn nhà Phật sinh).
Xem: Vạn gia sinh Phật.
Từ ngày trọng lỵ đến giờ,
Một đường sao phúc, muôn nhà phật
sinh.
(Nhị Độ Mai).
MUÔN VẬT
Bởi chữ “Vạn vật 萬 物”.
Muôn vật là muôn loài sinh vật, tức nói chung tất
cả các loài vật có sự sống ở cõi thế gian.
Pháp hay miệng niệm một câu,
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.
(Lục Vân Tiên).
Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.
(Kinh Sám Hối).
Hóa sanh muôn vật cảnh
thiên nhiên,
Ước đặng giành nuôi lấy kẻ hiền.
(Đạo Sử).
Muôn vật cho biết tánh biết danh,
Giá mua bán cho rành cho rõ.
(Phương Tu Đại Đạo).
MUÔNG
THỎ CUNG CHIM
Lấy ý từ câu trong Sử Ký: Thố giảo tử, tẩu cẩu phanh, phi điểu tận, lương cung tàng 兔 狡 死, 走 狗 烹. 飛 鳥 盡, 良 弓 藏, nghĩa là thỏ khôn chết thì chó săn (muông) bị nấu, chim bay hết thì cung tên bị bỏ. Ý muốn nói vắt chanh bỏ vỏ, hay hãm hại kẻ công thần.
Muông thỏ, cung chim tiếng trước dè,
Tôi người họ Lục chở đầy xe,
Kén tơ kéo hết ra thân nhộng,
Hơi tiếng kêu còn nhọc sức ve.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
MÙI XẠ
Bởi chữ “Xạ hương 麝 香” là một chất thơm lấy trong loài xạ (Như hươu nai). Ngày xưa người ta dùng xạ hương để ướp áo, nệm, mền và dùng làm thuốc trị bịnh. Mùi xạ dùng để chỉ mùi thơm.
Xem: Hương xạ.
Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ,
Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
MƯA HOA
Bông hoa trút xuống như mưa rơi.
Do điển Sư Nghiêm đời nhà Đường ngồi tụng kinh ở
chùa Vân Hoa, trời bỗng mưa hoa xuống rất nhiều.
Mưa hoa rảy khắp bên mình,
Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.
(Truyện Phan Trần).
MƯA MÂY
Bởi chữ “Vân vũ 雲 雨” là mưa mây, dùng để chỉ việc ái ân giữa trai gái.
Do điển Sở Tương Vương chiêm bao thấy cùng một nàng con gái đẹp giao hoan. Vua hỏi lai lịch, nàng cho biết là Thần nữ núi Vu Giáp có nhiệm vụ sáng làm mây, tối làm mưa.
Xem: Mây mưa.
Dương Đài đầy sẵn mưa mây,
Mà xem chúa Sở vui vầy giấc tiên.
(Hoa Tiên Truyện).
Thương thay cười nói đến thầy,
Dễ khinh rằng sãi mưa mây thói
tà.
(Hứa Sử Tân Truyện).
MƯA MỐC
Do chữ “Vũ lộ 雨 露”, tức là hạt mưa hạt mốc, chỉ ơn nghĩa trên ban xuống.
Mưa mốc dùng để chỉ ân trạch của nhà vua hay trời đất ban xuống cho con người hưởng.
Thơ Bạch Cư Dị có câu: Vũ lộ thi ân vô hậu bạc, bồng cao tuỳ phận hữu vinh khô 雨 露 施 恩 無 厚 薄, 蓬 蒿 隨 分 有 榮 枯, tức là ơn mưa mốc không nhiều không ít, cỏ bồng cao tuỳ phận vinh khô.
Ơn trời mưa mốc phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
(Thanh Hoá Quan Phong).
Công danh nước Việt tay đành nắm,
Mưa mốc dân sanh gắng gội nhuần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
MƯA
NGÂU
Mưa ngâu là một cơn mưa nhỏ vào đêm thất tịch, mồng bảy tháng bảy khi hai sao Ngưu Nữ gặp nhau.
Xem: Ngưu lang chức nữ.
Tiết vừa sen cúc nhuỵ chìm,
Mưa ngâu rả rích gió kim lạnh lùng.
(Lưu Nữ Tướng).
MƯA NGỰ
SỬ
Do chữ “Ngự sử vũ 御 史 雨”, tức là Mưa ngự sử. Bởi tích ông Nhan Châu Khanh người đời nhà Đường, làm quan ngự sử , được bổ nhậm đến đất Bình Nguyên. Nhận nhiệm sở xong, ông bèn xử án cho một người bị tội hàm oan, giam tại ngục thất đã lâu lắm rồi. Khi vụ án được quan Ngự sử minh oan, phán quyết tha tội, thì trời đang bị khô hạn đã lâu, bỗng đổ mưa xuống, người đời gọi đó là “Mưa Ngự sử” (Ngự sử vũ).
MƯA SỞ
MÂY TẦN
Chỉ sự ân ái của đôi trai gái.
Do điển tích: Vua Sở Tương Vương dạo chơi ở Cao
Đường, nằm mộng thấy cùng thần nữ núi Vu Giáp chăn gối. Vua hỏi thì thần nữ nói
có nhiệm vụ sáng làm mây, tối làm mưa. Do vậy, trong văn chương người ta thường
dùng “Mây mưa”, “Mưa Sở mây Tần” để chỉ việc ái ân.
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Nhưng mình nào biết có xuân là gì.
(Truyện Kiều).
MƯA
VÀNG
Do chữ “Vũ kim 雨 金” trong câu: Hạ thời Đại Võ tại vị, thượng thiên vũ kim 夏 時 大 禹 在 位, 上 天 雨 金, nghĩa là vua Đại Võ nhà Hạ ở ngôi, Trời mưa vàng xuống thế.
Sử Ký chép: Vua Đại Võ bình trị thuỷ thổ, công
sánh bằng trời đất, bây giờ trời mưa vàng ba ngày ba đêm xuống mặt đất.
MƯỜI HAI BẾN ĐẬU
Đồng nghĩa với câu “Mười hai bến nước”, chỉ thân phận người con gái linh đinh, không biết đậu bến nào, ý nói không biết số phận may rủi ra sao.
Xem: Mười hai bến nước.
Mười hai bến đậu đã nên duyên,
Phải gió êm đưa vững chiếc thuyền.
(Đạo Sử).
MƯỜI
HAI BẾN NƯỚC
Tục ngữ có câu: “Gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” để ví thân phận người con gái như con thuyền, nổi lênh đênh giữa biển xã hội mênh mông, đang tìm những bến nước ghé đậu. Nếu may thì sẽ gặp bến nước trong thì hưởng sự tốt đẹp, nếu rủi gặp bến nước đục thì phải chịu lắm nhọc nhằn khổ cực.
Mười hai bến nước được người ta ví với mười hai
hạng người trong xã hội: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, Công,
Hầu, Bá, Tử.
Lênh đênh một chiếc thuyền tình,
Mười hai bến nước biết mình về đâu?
(Lục Vân Tiên).
MƯỜI
PHƯƠNG PHẬT
Theo Kinh sách nhà Phật, mười phương Phật gồm tám phương là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông nam, Đông bắc, Tây nam, Tây bắc và hai phương trên dưới nữa là mười phương.
Mười phương Phật chín phương Trời,
Chưa hay đến sự dưới trời oan ru?
(Quan Âm Thị Kính).
MƯỢN
HÙM NHÁT KHỈ
Mượn hùm nhát khỉ tức là mượn oai cọp để rung nhát loài khỉ, ý muốn nói kẻ chuyên cậy quyền thế để đe doạ áp bức người.
Đừng mượn hơi hùm rung nhát
khỉ,
Lòng ta sắt đá, há lung lay.
(Thơ Phan Văn Trị)
MƯỢN
OAI HÙM
Bởi câu “Hồ giả hổ uy 狐 假 虎 威”, tức là cáo mượn oai hùm. Ý muốn nói Mượn thế lực để đe doạ, áp bức người. Đồng nghĩa với cáo đội oai hùm.
Xem: Cáo đội oai hùm.
Rộng đức tánh quyền hành ắt rộng,
Ðừng quen thói tục mượn oai hùm.
(Đạo Sử).
MƯU BÁC
LÃNG
Nhà Tần cướp nước Hàn, nên Trương Lương căm giận thuê lực sĩ Mạnh Hải Công mang chuỳ sắt, núp thích khách Tần Thuỷ Hoàng ở Bác Lãng, nhưng việc không thành vì không đánh trúng xe Tần Thuỷ Hoàng.
Xem: Trương Lương.
Vì giận không thành mưu Bác Lãng,
Nên đành phải bội ước Hồng Câu.
(Thơ Lê Quý Đôn).
MƯU CHƯỚC
CẦU VINH
Mưu chước: Bày mưu lập chước. Cầu vinh: Mưu cầu vinh hiển.
Mưu chước cầu vinh là bày mưu tính kế để được sự vinh hiển.
Trừ đảng dữ tham gian bạo ngược,
Diệt những phường mưu chước cầu
vinh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
MƯU SỰ
TẠI NHÂN THÀNH SỰ TẠI THIÊN
謀 事 在 人 成 事 在 天
Mưu tính sắp đặt công việc là ở nơi con người, thành công, kết quả hay không là ở nơi trời.
Gia Cát Khổng Minh đời Tam Quốc có câu: Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, nhân nguyện như thử như thử, thiên lý vị nhiên vị nhiên 謀 事 在 人 成 事 在 天, 人 願 如 此 如 此… 天 理 未 然 未 然, nghĩa là mưu việc ở người, nên việc ở trời. Ý người định như thế, như thế... Lẽ trời chưa vậy, chưa vậy.
Câu nói trên của Khổng Minh là lời than trong
truyện sau đây: Khổng Minh biết Tư Mã Ý sau này sẽ lập nên đại nghiệp, mới bày
mưu dụ Tư Mã Ý vào hang Hồ Lô cốc để dùng kế hoả thiêu. Tư Mã Ý là tướng đa
nghi, nhưng bị kế Khổng Minh dụ nên lọt vào vòng vây. Khổng Minh ra lịnh phóng
hoả đốt, ngọn lửa cháy phừng, bỗng nhiên trời đổ mưa lớn, khiến cho lửa tắt hết.
Than ôi! Mưu ở người, thành bại ở trời, đúng như lời than của Gia Cát Khổng
Minh.
MƯU THẦN NHÀ HÁN CHẾT OAN
Tức nói các vị Khai quốc công thần, mưu giúp dựng nên nghiệp nhà Hán như Hàn Tín, Bành Việt… bị vua Cao Tổ (Lưu Bang) nghi ngờ làm phản, đem giết đi một cách oan ức.
Thương mấy kẻ mưu thần nhà Hán,
không tội mà chết oan;
Thương những người văn học đời Tần,
vô can mà chôn sống.
(Sãi Vãi).
No comments:
Post a Comment