Thursday, September 17, 2020

Điển tích - K

K

KẺ CÀY VOI

Chỉ ông Thuấn, là một người con hiếu thảo nổi tiếng, được vua Nghiêu nghe danh mời đến truyền ngôi.

Sách “Nhị Thập Tứ Hiếu” viết: Khi cha Thuấn bắt đi cày ở đất Lịch Sơn là cốt tìm cách trừ đi, vì nơi đây có tiếng là nhiều thú dữ hay ăn thịt người. Nhưng tấm lòng hiếu thảo và hòa mục của Thuấn động đến lòng trời, cả đàn voi ra giúp Thuấn cày đất và muông chim vô số đáp xuống nhặt cỏ hộ.

Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi,

Muối xát lòng ai nấy mặn nòi.

(Thơ Tôn Thọ Tường).



Hiếu con dầu ví kẻ cày voi,

Không đạo hạnh đừng coi là trọng.

(Phương Tu Đại Đạo).



KẺ HÁN NGƯỜI HỒ

Kẻ Hán là người ở Trung nguyên, người Hồ là người ở Hung nô, phía bắc Trung Quốc.

Do tích thời nhà Tống, Hung nô đem quân đánh vào Trung nguyên, buộc vua Hán phải đem nàng Chiêu Quân là ái phi của vua Hán, nạp cho vua Hung nô. Từ ấy vua và nàng Chiêu Quân xa cách nhau kẻ bắc người nam, hay kẻ Hán người Hồ, chỉ sự xa cách nhau.

Chừ sao kẻ Hán người Hồ,

Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KẺ SĨ DU PHƯƠNG

Kẻ sĩ du phương là chỉ người có học thức đi khắp mọi phương.

Chữ dùng cho các tăng ni đi đây đi đó để tham học với những bậc thầy có tài đức hoặc để truyền bá Phật pháp. Ngoài ra còn dùng để chỉ các thầy thuốc đi tầm thầy học hoặc trị bịnh khắp mọi nơi.

Cảm ơn kẻ sĩ du phương,

Dắt ta, điềm chỉ vào đường Y lâm.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



KẺ TẤN NGƯỜI TẦN

Tấn Tần là hai nước đời Xuân Thu thường kết làm thông gia với nhau, nhưng nếu trai gái không duyên nợ thì kẻ Tấn người Tần, tức là nói sự xa cách mỗi người mỗi phương.



Những e kẻ Tấn, người Tần,

Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai.

(Lục Vân Tiên).



Hiểm thay chước kẻ gian thần,

Xui nên kẻ Tấn, người Tần như không.

(Nhị Độ Mai).



KẺ TẦN NGƯỜI VIỆT

Tần Việt là hai nước ở rất xa nhau. Do đó dùng để nói sự xa xôi cách trở và khác biệt nhau.

Kẻ Tần người Việt chỉ sự xa cách nhau.

Rằng: Khi đôi nước tranh hùng,

Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?

(Quốc Sử Diễn Ca).



KẺ VIỆT NGƯỜI HỒ

Kẻ Việt, tên chung gọi các chủng tộc ở phương nam (Bách Việt). Người Hồ tức là dân tộc ở phương bắc, biên giới Trung Hoa thời xưa, tức là Hung Nô.

Kẻ Việt người Hồ chỉ sự xa cách mỗi người mỗi phương. Dùng như chữ “Kẻ Hán người Hồ”.

Xem: Kẻ Hán người Hồ.



Ngỡ là phận ấm duyên ưa,

Ai ngờ kẻ Việt người Hồ bắc nam.

(Truyện Phan Trần).



KẼ TÓC CHÂN TƠ

Kẽ chân là khe nhỏ giữa hai ngón chân, chỉ sự nhỏ nhặt. Tơ tóc là những vật nhỏ nhít mỏng mành, chỉ sự việc chi ly.

Kẽ tóc chân tơ là một thành ngữ dùng để chỉ người có tính cẩn thận từng ly từng tí.

Ân cần kẽ tóc chân tơ,

Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.

(Gia Huấn Ca).



Đinh ninh kẽ tóc chân tơ,

Từ đầu đến cuối kể qua một hồi.

(Nhị Độ Mai).



KÉN CÁ CHỌN CANH

Kén cá chọn canh chỉ tính người hay so đo kén chọn quá mức bình thường, việc nào cũng không vừa ý.



Há còn kén cá chọn canh,

Cơm nem đã trải tay chanh đã từng.

(Truyện Trinh Thử).



KEO LOAN

Keo loan làm bằng máu chim loan có độ dính rất cao, được dùng để nối dây đàn, phím đàn hay dây cung đứt. Chữ này dùng để diễn tả sự bền chặt như keo loan.

Thái Bình Quảng Ký chép: Vương Mẫu phái sứ giả dâng cho vua Hán Võ Đế một gói linh giao và một chiếc áo lông. Sau đó, vua Võ Đế đi săn, dây cung bị đứt, sứ giả tâu xin lấy keo thấm nước nối lại, vua kinh ngạc, bảo võ sĩ nắm hai đầu day kéo, dây không đứt, suốt ngày bắn vẫn không sao. Thứ kéo này có tên là Tập huyền giao.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

(Truyện Kiều).



KEO RÃ SƠN RỜI

Keo sơn, do chữ “Giao tất  ”, chỉ sự giao tình bền chặt, không lìa nhau được. Keo sơn còn dùng để chỉ sự gắn bó giữa vợ chồng. Rã rời: Chia lìa, không kết dính lại với nhau.

Keo rã sơn rời chỉ tình nghĩa vợ chồng không còn gắn bó thương yêu nhau nữa.

Xem: Keo sơn.

Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,

Cơn tàn hoa keo rã sơn rời.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KEO SƠN

Bởi chữ Hán “Tất giao  ”.

Keo và sơn là hai chất kết dính chặt với nhau, trong văn chương dùng để chỉ tình nghĩa vợ chồng, anh em hoà hợp nhau một cách khắng khít, không rời rã.

Sách xưa có câu: Dĩ giao đầu tất trung, Thuỳ năng biệt ly thử?  , , nghĩa là lấy keo mà bỏ vào trong sơn, ai làm cho chia rẽ được nữa.

Xem: Tất giao.

Vân Tiên vội vã tạ ơn,

Trăm năm dốc giữ keo sơn một lời.

(Lục Vân Tiên).



Một lời gắng giúp keo sơn,

Ngư ông từ giã lui chưng xuống thuyền.

(Lục Vân Tiên).



Nàng rằng: Tấc dạ keo sơn,

Thấy con lại nhớ công ơn của chồng.

(Dương Từ Hà Mậu).



Keo sơn chẳng nhớ một lời thề,

Sau trước chẳng dè để đến chê.

(Đạo Sử).



Chồng vợ ví keo sơn gắn chặt,

Càng thương nhau thường nhắc lúc sơ giao.

(Phương Tu Đại Đạo).



KÊ KHANG 

Kê Khang tự là Thúc Dạ, người nước Nguỵ đời Tam Quốc, học thức thông thái, thích đánh đàn. Một hôm đến chơi ở đất Lạc Tây, nửa đêm nằm ngủ, chiêm bao thấy có người đến dạy khúc “Quảng Lăng”, là một bản đàn rất tuyệt. Kê Khang thề không truyền cho ai. Sau Tư Mã Chiêu bắt Khang giết, trước khi chết Khang lấy đàn ra gãy.

Xem: Quảng Lăng.

Kê Khang này khúc Quảng Lăng,

Một rằng Lưu thuỷ hai rằng Hành vân.

(Truyện Kiều).



KÊ MINH 

Kê minh là gà gáy.

Do câu: Kê ký minh hỹ, kiểu kỳ doanh hỹ  , , nghĩa là gà đã gáy rồi, triều đình đã đông người rồi, đó là lời của một bà hiền phi khuyên nhà vua nên ra coi chầu cho sớm để các quan khỏi mong đợi. Về sau, người ta dùng “Kê minh” để nói về người vợ khuyên chồng.

Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã,

Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày.

(Gia Huấn Ca).



KÊ THIỆU 

Kê Thiệu là con của Kê Khang, người đời Tấn, làm quan triều Tấn Huệ Đế. Khi Hà Giang Vương làm phản, Kê Thiệu theo vua đánh giặc. Lần bại trận ở Đăng Âm tướng sĩ tan rã, Kê Thiệu lấy thân che chỡ cho vua, bị thương, máu nhuộm đỏ áo vua.



Chính làm máu nhuộm đế y,

Như người Kê Thiệu cứu nguy chúa mình.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



KÊ THỬ ƯỚC 

Thịt gà cơm nếp ước hẹn.

Trương Nguyên Bá cùng ông Phạm Cự Khanh là hai người bạn rất thân thiết, cùng vào nhà Thái học. Khi từ giã ra về, Cự Khanh hẹn hai năm sẽ sang ra mắt lịnh tôn thân. Đến kỳ, Nguyên Bá thưa mẹ làm thịt gà, cơm nếp để đãi Cự Khanh. Mẹ nói: Cách biệt nhau hai năm, lời hứa ngàn dặm, đâu nhớ kỹ được ngày hẹn? Nguyên Bá nói: Cự Khanh là người chắc chắn, ắt không lỗi hẹn! Quả nhiên, Cự Khanh đến, vào nhà làm lễ thân mẫu, cùng ăn cơm nếp, thịt gà và tự tình một cách vui vẻ.

KÊ VÀNG

Bởi chữ “Hoàng lương mộng  ”, tức là giấc mộng hạt kê vàng.

Do điển Lữ Sinh nằm ngủ gần bên nồi kê, chiêm bao thấy cả cuộc đời danh lợi, vợ con, tiền tài, sự nghiệp đã dứt mà nồi kê vàng vẫn chưa chín.

Xem: Hoàng lương mộng.



Cương thường gốc cũ ngàn xưa,

Kê vàng giấc mộng buồn mơ sá gì!

(Thơ Học Canh).



Nào những ai,

Kê vàng tỉnh mộng,

Tóc bạc thương thân,

Gièo trông lá rụng đầy sân,

Công danh phù thế có ngần ấy thôi.

(Thơ Tản Đà).



KẾ CHÍ 

Kế: Nối theo. Chí: Chí hướng, tức là quyết tâm theo đuổi một điều gì.

Kế chí tức là nối theo chí của bậc tiền nhân. Con mà noi theo chí của cha ông để lại làm rạng danh tổ tông thì được gọi là con hiếu.

Sách Trung Dung chép: Phù hiếu giả thiện kế nhân chi chí  , nghĩa là phàm người có hiếu thì khéo noi được chí của người.

Kìa ai kế chí danh còn để,

Nọ kẻ dâng canh sự hãy còn.

(Hồng Đức Quốc Âm).



KẾ NGHIỆP 

Kế: Nối tiếp. Nghiệp: Sự nghiệp.

Kế nghiệp tức là nối tiếp sự nghiệp của người xưa.



Kẻ nam nhi đã phỉ chí tang bồng,

Ngôi vương bá mong kế nghiệp hưng long,

Cuộc thành bại chẳng quản cùng thương hải.

(Cai Vàng Tân Truyện).



KẾ TẬP 

Kế: Nối theo. Tập: Thừa hưởng.

Kế tập tức là cha ông làm quan to, triều đình cho con cháu được thừa hưởng chức tước.



Hoàng Văn phủ ngữ cũng tài,

Một nhà kế tập ba đời tuần lương.

(Quốc Sử Diễn Ca).



KẾ VÃNG KHAI LAI 

Kế vãng: Nối tiếp cái đã qua. Khai lai: Mở đường cho cái sắp tới.

Kế vãng khai lai tức là nối tiếp những việc tiền nhân để lại, mở mang công việc cho con cháu sắp tới, tức là tiếp nối quá khứ, mở lối tương lai.



Nhờ câu Kế vãng khai lai,

Thật ông Khổng Tử đại tài thánh vương.

(Dương Từ Hà Mậu).



KẾ THỐNG 

Kế: Nối theo. Thống: Mối tơ nối tiếp nhau.

Kế thống tức là thừa tiếp chính quyền của cha ông để lại.



Quyện cần rồi lại xuất gia,

Minh tông kế thống cũng là hiền vương.

(Quốc Sử Diễn Ca).

 

KỆ KINH 

Kệ là những bài thơ ngắn hay dài để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một đoạn kinh, hoặc để ca ngợi công đức Phật, hoặc để cầu nguyện, hoặc là một bài dùng để kệ chuông, kệ trống…



Kinh là nền tảng của một triết thuyết hay một Tôn giáo. Ví dụ như: Ngũ kinh trong Nho giáo, Đạo Đức kinh trong Lão giáo, Tam Tạng kinh trong Phật giáo và Kinh Thánh của Công giáo.

Kệ kinh là chữ dùng chung để chỉ việc khai kệ, tụng kinh trong một thời công phu.



Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,

Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.

(Truyện Kiều).



Bày đường nói kệ, nói kinh,

Mõ chuông cửa Phật rập rình ra vô.

(Dương Từ Hà Mậu).



Đàn thông phách suối vang lừng,

Cá khe lắng kệ chim rừng nghe kinh.

(Truyện Phan Trần).

Thiếu chuông thiếu trống; thiếu kệ thiếu kinh,

Thiếu sứa thiếu sinh; thiếu tiêu thiếu bạt;

(Sãi Vãi).

Để chuông mõ dựa kề son phấn,

Chất nhơn tình chồng cận kệ kinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KẾT CÁNH LIỀN CÀNH

Do câu “Tỷ dực liên chi”, tức là chim kết cánh, cây liền cành, ý muốn nói vợ chồng gắn bó không rời xa nhau được.

Kết cánh do Sách Sơn Hải Kinh của Đông Phương Sóc nói: Có một loài chim chỉ có một bên cánh và một con mắt, nên lúc nào con trống và con mái phải kết cánh lại thì mới bay được, gọi là Tỷ dực điểu (Tỷ dực là kết cánh lại).

Liền cành do điển: Hàn Bằng có vợ là Hà Thị bị Tống Khang Vương ép làm vợ, Hà Thị cự tuyệt rồi tự tử. Hàn Bằng bị bắt cũng tự sát. Lúc Hà Thị chết có để lại một bức xin được chôn cùng mộ với chồng. Khang Vương tức giận, đem hai người chôn riêng ra và cách xa nhau. Sau đó, gần mỗi ngôi mộ có mọc lên một cây từ, cành giao nhau, và rể ăn liền nhau.

Xem: Tỷ dực liên chi.

Chim kết cánh, cây liền cành,

Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KẾT CỎ

Bởi chữ “Kết thảo  ” là kết cỏ.

Do điển: Nguỵ Thù là người nước Tấn đời Đông Châu, có một nàng hầu rất đẹp, còn trẻ tuổi. Khi gần chết ông dặn con là Nguỵ Khoả phải đem nàng hầu ấy chôn theo ông. Nhưng Nguỵ Khoả thương tình không chôn, mà lại cho nàng đi lấy chồng khác.

Sau Nguỵ Khoả làm quan, được triều đình sai đi trừ giặc nhà Tần là Đỗ Hồi rất hung tợn, khó bề đánh thắng đặng. Không dè, trong lúc xáp trận những bụi cỏ kết lại với nhau quấn vào chân ngựa của Đỗ Hồi, làm cho Hồi tới lui không được, bị Nguỵ Khoả đâm chết. Tối lại, Khoả mộng thấy một ông già xưng là cha nàng hầu của Nguỵ Hùng, vì cảm ơn Khoả đã không chôn con gái ông, lại còn gả lấy chồng, nên kết cỏ quấn vào chân ngựa Đỗ Hồi để báo ân đức đó.



Bến Tương việc hãy rành rành,

Nào đà kết cỏ, ngậm vành chi đâu.

(Hoa Tiên Truyện).



KẾT CỎ NGẬM VÀNH

Do điển “Kết thảo hàm hoàn  ”.

“Kết cỏ”, do câu chuyện của cha nàng hầu Nguỵ Thù, kết những bụi cỏ quấn vào chân ngựa Đỗ Hồi để cứu mạng cho Nguỵ Khoả, hầu báo đáp ân nghĩa mà Khoả không chôn sống con gái mình.

Xem: Kết cỏ.

“Ngậm vành” do điển Dương Bảo đời Hán, đi chơi bắt được một con chim sẻ màu vàng bị thương, lượm đem về nuôi dưỡng, đến khi chim khoẻ mạnh thì thả bay. Đêm ấy, Bảo thấy một người con trai mặc áo vàng, miệng ngậm bốn cái vòng (Vành) tới đền ơn và nói: Nhờ ơn cứu mạng, ơn ấy tôi không bao giờ dám quên, xin tặng bốn chiếc vòng, ông hãy giữ, sau nầy ông và ba đời con cháu ông sẽ hưởng được phú quý.

Dám nhờ cốt nhục tử sanh,

Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau.

(Truyện Kiều).



Bến Tương việc hãy rành rành,

Nào đà kết cỏngậm vành chi đâu.

(Hoa Tiên Truyện).



KẾT CHỈ

Kết chỉ tức là kết sợi chỉ hồng, nói việc xe duyên vợ chồng cho đôi lứa.

Do tích Vi Cố đời Đường, thấy Nguyệt lão ngồi dưới trăng xe tơ, tục truyền là vị Thần chuyên kết chỉ vào trai gái có duyên nợ với nhau thành đôi vợ chồng.

Xem: Chỉ hồng.



Ba chàng kinh sử dùi mài,

Mặc ai kết chỉ mặc ai gieo cầu.

(Nữ Tú Tài).



KẾT DẢI ĐỒNG

Bởi chữ “Đồng tâm kết  ” là một dải lụa kết lại dùng để chỉ lòng khắn khít.

Kết dải đồng là nói sự thương yêu gắn bó giữa vợ chồng với nhau.

Xem: Đồng tâm đái.



Thề nhau trọn kết dải đồng,

Cám ơn chàng giúp mặn nồng nghĩa nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KẾT LŨ VẦY ĐOÀN

Kết lũ vầy đoàn là nói đám thanh niên nhiều đứa tụ tập lại đi ăn chơi, hoặc quậy phá làng xóm.



Đừng quen kết lũ vầy đoàn,

Cửa thanh lâu những rộn ràng gió trăng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KẾT PHÁT 

Kết tóc.


Theo tục lệ nhà Hán, trong đêm hợp cẩn, vợ chồng mới cưới thường kết tóc cho nhau. Do vậy, ông Tô Thức (Tô Đông Pha) mới viết hai câu: 
Kết phát vi phu phụ, ân nghĩa lưỡng bất nghi  , , nghĩa là kết tóc làm vợ chồng, ân nghĩa trọn đôi đường.

Vấn vít mấy, bảy năm kết phát,

Đau đớn thay, trăm nối đoạn trường.

(Văn Tế Quang Trung).



Ba năm kết phát cũng sinh,

Cẩm đường rạng vẻ khôi tinh một người.

(Sơ Kính Tân Trang).



KẾT TẬP 

Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, những điều Phật thuyết pháp khi còn tại thế chưa được ghi chép, các đệ tử nhóm họp lại, cử một người chủ toạ, đọc lại những điều ngày xưa đã được nghe Phật thuyết pháp, xong kết hợp lại mà thành ba tạng kinh điển: Kinh tạng, luật tạng và luận tạng.

Có bốn đại hội kết tập kinh điển trong lịch sử phát triển của đạo Phật:

Lần thứ nhứt họp ngay sau khi Phật Thích Ca diệt độ, họp tại thành Vương Xá.

Lần thứ nhì được tổ chức vào khoảng một trăm năm sau lần kết tập thứ nhứt, tại Thành Phố Tỳ Xá Ly.

Lần thứ ba họp khoảng thế kỷ thứ hai sau ngày Phật nhập Niết bàn, tại Thành Hoa Thị.

Lần thứ tư họp vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai Tây Lịch, tại Tịnh xá Hoàn Lâm ở Kashmir.

KẾT TÓC

Do chữ “Kết phát  ”.

Theo tục lệ xưa, trong ngày thành hôn, đêm hiệp cẩn, đôi vợ chồng mới cưới thường kết tóc cho nhau.

Nghĩa bóng: Kết duyên vợ chồng.

Xem: Kết phát.

Vợ chồng kết tóc cùng nhau,

Trăm năm một hội, nghèo giàu cùng theo.

(Dương Từ Hà Mậu).



Cơn nghèo khó chia lao sớt nhọc,

Cuộc tử sanh kết tóc chẳng rời.

(Phương Tu Đại Đạo).



KẾT TÓC XE TƠ

Kết tóc do tục lệ xưa, trong ngày thành hôn, đêm hiệp cẩn, đôi vợ chồng mới cưới thường kết tóc cho nhau.

Xem: Kết phát.

Xe tơ chỉ việc xe duyên cho nên vợ chồng, do tích Vi Cố đi chơi gặp một ông già ngồi xem sách dưới trăng, tay cầm sợi chỉ đỏ. Vi Cố hỏi, ông đáp: Sách để ghi chép tên tuổi vợ chồng, sợi chỉ để buộc duyên phận.

Kết tóc xe tơ là ý muốn nói duyên nợ hay kết duyên vợ chồng.

Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,

Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.

(Truyện Kiều).



Nên kết tóc xe tơ cho phải,

Đáng văn nhân tài tử mới trao.

(Bần Nữ Thán).



KẾT THẢI TRƯƠNG ĐĂNG 

Kết thải: Kết những hàng lụa thành bông hoa. Trương đăng: Giăng đèn.

Kết thải trương đăng tức là lấy hàng lụa kết bông hoa để trang trí khán phòng và giăng đèn sáng rực trong đêm lễ hội.



Phủ đường dọn dẹp tưng bừng,

Rỡ ràng kết thải trương đăng trong ngoài.

(Nhị Độ Mai).



KẾT THÂN 

Kết: Kết chặt với nhau. Thân: Gần gũi.

Kết thân có nghĩa là hai người kết bạn với nhau, hoặc kết duyên vợ chồng cùng nhau.



Lư công dâng chước hòa thân,

Truyền đòi con gái họ Trần kết thân.

(Nhị Độ Mai).



KÊU SƯƠNG

Mùa đông đến thì nhạn vừa bay vừa kêu, nên người ta thường nói tiếng nhạn kêu sương.

Sách Cổ Kim Thi Thoại nói: Nhạn ở phương bắc đến kêu, là báo tin sương sẽ xuống. Đồng nghĩa với “Tin sương”, dùng để chỉ sự báo tin mùa đông đến.

Xem: Tin sương.



Kêu sương tiếng nhạn lay thềm,

Mảnh thư đưa đến cung thiềm được không?

(Hoa Tiên Truyện).



KY LỮ 

Ky: Cư ngụ ở đất khách. Lữ: quán trọ.

Ky lữ là người sống ở quán trọ nơi đất khách, ý nói người xa quê hương, sống nơi quê người đất khách.



Mặt bảo kính soi lòng ky lữ,

Đuốc linh tê thấu chữ kỳ hoan.

(Tự Tình Khúc).



KÝ CHÚ 

: Ghi nhớ. Chú: Ghi.

Ký chú là dặn dò để ghi nhớ.



Mấy lời ký chú đinh ninh,

Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.

(Truyện Kiều).



KÝ SINH 

: Gởi nhờ. Sinh: Sống.

Ký sinh tức là cuộc sống phải nhờ vào kẻ khác.



Hóa công sao khéo trêu ngươi,

Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



KỲ BÁ 

Kỳ Bá là bề tôi của vua Hoàng Đế. Tương truyền, Hoàng Đế và Kỳ Bá hỏi đáp nhau về y học, những lời đối đáp này được ghi lại thành một quyển sách, gọi là nội kinh, gồm hai phần Linh khu và Tố vấn, là bộ sách căn bản của đông y.

Xem: Kỳ Hoàng.

Có vua Hoàng Đế ráp sau,

Cùng ông Kỳ Bá hỏi nhau nạn đời.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



KỲ ĐÀI 

Kỳ: Cây cờ. Đài: Cái nền cao.

Kỳ đài là một cái nền cao nơi đó có cắm cờ để tổ chức buổi lễ.



Một vùng riêng đặt phỵ trời,

Hoàng thành trăm trắm, kỳ đài cao cao.

(Nhị Độ Mai).



KỲ HOÀNG 

Kỳ tức Kỳ Bá là một tôi thần của vua Hoàng Đế. Hoàng là Hoàng Đế, một vị vua thời Thượng cổ. Tương truyền “Nội Kinh” là quyển sách ghi lại lời đối đáp về y học của Kỳ Bá và Hoàng Đế. Người đời sau dùng quyển “Nội Kinh” làm sách căn bản của nền đông y.



Thử coi Tố Vấn thiên đầu,

Kỳ Hoàng tôi chúa gỏi nhau rõ ràng.

(Lục Vân Tiên).



Kỳ Hoàng xưa đã mở đường,

Sách y nay có lời bàn thiên nhân.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



KỲ KHU 

Kỳ khu là tiếng dùng để chỉ đường lộ gập ghềnh rất khó đi.



Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ,

Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Nàng trông thấy xót xa khúc ruột,

Đường kỳ khu một bước một đau.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



KỲ KÝ 

Kỳ: Giống ngựa có lông màu xanh đậm. : Giống ngựa chạy giỏi, một ngày chạy hằng nghìn dặm.

Kỳ ký chỉ loài ngựa hay.

Chiến Quốc Sách chép: Kỳ ký thanh tráng chi thời, nhất nhật nhi trì thiên lý  , , nghĩa là ngựa kỳ ký lúc trẻ mạnh, một ngày chạy được cả nghìn dặm.

Kỳ ký được dùng để chỉ người hiền tài, gánh vác được việc khó khăn của đời.



Tiết lạnh lẽo, Sãi yêu bá tòng sồ sộ;

Dặm xa xôi, Sãi yêu kỳ ký ruỗi giong.

(Sãi Vãi).



Kỳ ký nô thai đà có đấy,

Kẻ nhìn cho biết lại khôn hay.

(Quốc Âm Thi Tập).



Quanh đường chớ cậy chơn Kỳ Ký,

Ngược gió tài chi sức Hộc Hồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



KỲ LÂN 

1.- Kỳ lân là tên loài thú, con đực gọi là kỳ, con cái gọi là lân.

Kỳ lân là một loài thú trong tứ linh: Long, lân, quy, phụng. Bước chân Kỳ lân đi có quy cũ, không đạp côn trùng, không làm nát cỏ cây, nên người ta gọi Kỳ lân là con thú nhân đức (Nhân thú).

2.- Kỳ lân tức kỳ lân các, hay gác lân là một nơi dùng vẽ các vị công thần. Xem: Kỳ lân các.



Kỳ lân tượng vẽ còn lanh lãnh,

Tôi Hán nào ai dám ví cùng.

(Hồng Đức Quốc Âm).



KỲ LÂN CÁC 

Có hai thuyết:

Một cái gác do Tiêu Hà dựng lên để chứa sách quý và để kẻ hiền tài ở.

Một cái gác do Hán Võ Đế xây dựng khi nhà vua bắt được con Kỳ lân và đặt gác ấy là Kỳ lân các.

Vào đời Hán Tuyên Đế, Kỳ lân các được nhà vua cho vẽ mười một vị công thần ở trên gác.

KỲ LIÊN 

Núi Kỳ Liên, nơi mà Hoắc Khứ Bệnh đời nhà Hán đánh tan giặc Hung Nô tại ấy. Sau Hoắc Khứ Bệnh mất, vua Hán bảo đắp mộ cho Hoắc Khứ Bệnh giống hình núi Kỳ Liên.

Xem: Non Kỳ.

KỲ LỘ 


Kỳ: Đường có nhiều ngã rẽ. Lộ: Con đường.

Kỳ lộ là con đường có nhiều lối rẽ.



Xảy vừa tới chốn tang trung,

Thấy tam kỳ lộ trong lòng sanh nghi.

(Dương Từ Hà Mậu).



Hỏi rằng: Kỳ lộ nhiều phương,

Lên chùa Linh diệu biết đường nào đi?

(Dương Từ Hà Mậu).



KỲ NGỘ 

Kỳ: Lạ lùng. Ngộ: Gặp gỡ.

Kỳ ngộ là cuộc gặp gỡ tình cờ, không hẹn nhau mà gặp, tức cuộc hội ngộ bất ngờ.



Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,

Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.

(Truyện Kiều).



Tưởng duyên kỳ ngộ xưa nay,

Trước kia Lưu, Nguyễn; sau này Bùi Trương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng,

Khác gì như thể phụng hoàng gặp nhau.

(Thanh Hoá Quan Phong).



KỲ NGỘ NAN CẦU 

Kỳ ngộ: Không hẹn mà gặp. Nan cầu: Khó tìm.

Kỳ ngộ nan cầu có nghĩa là khó mà tìm được cuộc gặp gỡ không hẹn trước.



Đành rằng kỳ ngộ nan cầu,

Biết đâu non thẳm doành sâu mà tìm.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



KỶ CƯƠNG 

Bởi từ bốn chữ “Pháp kỷ”là phép tắc, và “Chính cương” là điều quan yếu của việc chính trị.

Kỷ cương có nghĩa là phép tắc, lễ nghi, luật lệ trong một nước.

Trước mừng trời đất bốn phương,

Xa thư một mối kỷ cương một nhà.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Vẹn cầm một mối kỷ cương,

Vững đặt ba giềng xã tắc.

(Nhạc Hoa Linh).



KỶ NGUYÊN 

Kỷ: Ghi. Nguyên: Đầu.

Mỗi một ông vua lên ngôi đều lấy năm đầu tiên làm “Kỷ nguyên”, ý nói bắt đầu từ năm đó.

Sau dùng chữ “Kỷ nguyên’ để chỉ thời kỳ đánh dấu một sự kiện quan trọng có ảnh hưởng đến xã hội sau này.

Hiệu xưng Kiến-phúc kỷ nguyên,

Trong ngoài yên định, dưới trên thuận tuỳ.

(Hạnh Thục Ca).



KỶ TÍN

Kỷ Tín là một người bề tôi trung thành, dám hy sinh thân mình để cứu thoát Hán Bái Công.

Khi Hạng Võ cử đại binh đến vây thành Huỳnh Dương, sức quân tiến mạnh mẽ như vũ bão, công phá thành trì rất hung tợn, Hán Vương thấy thế giặc quá mạnh muốn tìm cách tẩu thoát, nhưng lọt được vọng vây. Trong khi nguy cấp, Kỷ Tín phải giả làm Bái Công cho quân giặc bắt, để Bái Công dễ bề trốn thoát.

Quên mình vì trẫm đột liều,

Ngỡ theo Kỷ Tín ngỡ theo Uyên Bình.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



KỴ LẠP 

Kỵ: Tức kỵ nhựt, ngày kiêng cử không uống rượu, không ca hát vì có người thân chết. Kỵ nhựt là ngày người thân chết. Lạp: Tế lễ, lễ tế này thường vào cuối năm nên tháng chạp gọi là lạp.

Kỵ lạp tức là lễ cúng tế giỗ quải.



Lại đến ngày kỵ lạp tiên sinh,

Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc.

(Lục Súc Tranh Công).



KÍCH NGANG 

Kích: Tung lên, bắn lên. Ngang: Cất cao.

Kích ngang có nghĩa là kích thích lòng bùng dậy, khi nghe hoặc thấy điều gì làm cho lòng cảm động.



Nghe vua cầu tướng ra quân,

Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần kích ngang.

(Quốc Sử Diễn Ca).

KÍCH NHƯỠNG 

Kích nhưỡng là một trò chơi thời cổ, chỉ cảnh thái bình thạnh trị.

Vào đời vua Nghiêu, đất nước thanh bình, nhân dân an lạc, thường có những cụ già kích nhưỡng mà ca rằng: Nhật xuất nhi tác, nhật nhập nhi tức, tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực. Đế lực ư ngã hà hữu tai!  , . , . , nghĩa là mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ. Đào giếng mà uống, làm ruộng mà ăn. Công sức của vua nào có đối với ta.

Nhởn nhơ kích nhưỡng khang cù,

Thiều quang chín chục xuân thu tám nghìn.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



Ai ai kích nhưỡng ca cù,

Cương thường nết cũ chẳng thù nào sai.

(Thanh Hoá Quang Phong).



KIÊM HÀ TỰA BÓNG

Kiêm hà  : Cỏ lau sậy. Nguỵ Minh Đế cho em vợ là Mao Tằng và Hạ hầu Thái Sơ cùng ngôi, người đương thời gọi là “Kiêm hà ỷ ngọc thụ  ” nghĩa là lau sậy nương bóng cây ngọc, ý muốn nói kẻ hèn hạ tựa bóng người cao sang.

Phẩm tiên gặp phải chàng Tiêu,

Kiêm hà mong tựa bóng kiều cho yên.

(Ngọc Kiều Lê).



KIÊM TOÀN 

Kiêm: Bao gồm. Toàn: Trọn vẹn.

Kiêm toàn là gồm đủ, trọn vẹn.



Phúc lành nhờ ấm xuân huyên,

So trong tài mạo kiêm toàn kém ai.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



KIẾM CUNG 

Kiếm cung là cây kiếm và cây cung, dùng để chỉ con nhà võ, hay nghề võ.



Khi nối gót kiếm cung, kỵ, ngự,

Khi theo đòi kinh sử, tứ thư.

(Bần Nữ Thán).



Nên thì an phận kiếm cung,

Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KIẾM LẠC PHONG THÀNH 

Kiếm lạc: Gươm bị thất lạc. Phong thành: Tên đất.

Kiếm lạc Phong Thành là thanh kiếm bị lạc vùi dưới đất Phong Thành.

Do điển: Trương Hoa đời Hậu Hán, thấy ở Phong Thành đêm đêm có hào quang bốc lên, bèn sai Lôi Hoán ra làm quan ở đấy để dò xét. Lôi Hoán tới đó, sai đào nền nhà ngục, thấy một cái hộp đựng hai thanh kiếm, một cây là Long tuyền và một cây là Thái a.

Luật xuy Thử Cốc hàn ưng chuyển,

Kiếm lạc Phong Thành dạ hữu quang.

(Thơ Cao Bá Quát).



KIẾM THƯ HÙNG

Tức “Thư Hùng kiếm  ”.

Sách Ngô Địa Chí có chép: Can Tương ngày xưa có đúc hai thanh kiếm cho vua Ngô, một cây kiếm trống, tên là Can tương và một cây kiếm mái, tên Mạc dagọi chung là Thư hùng kiếm. Nhưng Can Tương chỉ dâng thanh hùng kiếm, còn giấu thanh thư kiếm. Thanh thư kiếm còn lại thỉnh thoảng réo lên những tiếng đau thương.

Có bản khác chép gươm trống là Long Tuyền kiếm, gươm mái là Thái A kiếm.

Xem: Can Tương.

Chẳng ai nắm kiếm Thư Hùng,

Thành nghiêng khôn đở, vạt rùng khôn nâng.

(Ngụ Đời).



KIỀM LÂU 

Người nước Tề, tính rất hiếu thảo, được bổ làm Thái thú ở huyện Bình Lăng. Khi đến nhậm chức, chưa được mười hôm, bỗng tự nhiên thấy tâm thần bàng hoàng, mồ hôi ra ướt như tắm. Ông liền cáo quan trở về quê thì thân phụ ông đã bị bịnh hai ngày rồi. Thầy thuốc nói những người bị bịnh mà phân đắng dễ chữa, còn phân ngọt thì khó lành. Ông liền nếm phẩn của cha thấy ngọt, ông lấy làm lo ngại, cứ đêm đêm ba lần đốt hương hướng về sao Bắc Đẩu mà khấn, xin chết thay cho cha.

Được ba hôm, ông thấy một người cầm thẻ vàng có mấy chữ: “Sắc Trời cho bình an”. Ngày hôm sau cha ông được qua khỏi.

Sứu Kiềm Lâu có danh Tề quốc,

Huyện Bình Lăng nhận chức thân dân.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



KIỆM CẦN

Tức “Cần kiệm 



Kiệm: Tằng tiện, không tiêu xài hoang phí. Cần: Siêng năng.

Kiệm cần có nghĩa là tiện tặn, không phung phí và siêng năng cần mẫn.

Xem: Cần kiệm.

Trọng câu phước đức dạ lo nhân,

Phải mặt thanh liêm giữ kiệm cần.

(Đạo Sử).



KIỆM PHONG TUỲ NGHI 

Kiệm: Tiện tặn. Phong: Dồi dào, dư thừa. Tuỳ nghi: Tuỳ theo hoàn cảnh mà làm.

Kiệm phong tuỳ nghi ý nói người lúc thì cần kiệm, lúc thì tiêu pha tuỳ theo hoàn cảnh mà làm.



Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,

Kiệm hay phong cũng liệu tuỳ nghi.

(Gia Huấn Ca).



KIỆM ƯỚC 

Kiệm: Tằng tiện. Ước: Hạn chế, bó buộc.

Kiệm ước tức là giữ nề nếp tiết kiệm.



Giáo phường quản giáp có tư,

Trong làm kiệm ước ngoài trừ những gian.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



KIÊN TÂM NHẪN TÁNH 

Kiên tâm: Lòng bền bỉ, cứng cỏi. Nhẫn tánh: Tánh tình biết nhẫn nhịn.

Kiên tâm nhẫn tánh là tánh nhẫn nhịn và lòng bền bỉ, tức giữ tâm tánh kiên nhẫn.



Dạy cho biết kiên tâm nhẫn tánh,

Đoán hư nên nết hạnh đờn bà.

(Phương Tu Đại Đạo).



KIÊN TRINH 

Kiên: Cứng rắn, cương quyết. Trinh: Tiết trinh, tức là lòng trong sạch của người đàn bà hay người vợ.

Kiên trinh là giữ bền lòng trinh tiết, nghĩa là long trong sạch bền vững của người đàn bà.



Kiên trinh chẳng phải gan vừa,

Liều mình thế ấy phải lừa thế kia.

(Truyện Kiều).



Kíp truyền đao phủ chỉnh hình,

Mới hay tấm dạ kiên trinh khác thường.

(Nhị Độ Mai).



Cát lầm ngọc trắng cũng là,

Càng kiên trinh lắm, càng ma chiết nhiều.

(Thơ Bùi Kỷ).



Nhớ chồng thấy trẻ não nồng,

Đông ơi! Đông biết tấm lòng kiên trinh?

(Nữ Trung Tùng Phận).



KIẾN TRONG MIỆNG CHÉN

Kiến bò miệng chén là một thành ngữ nói con kiến chỉ bò quanh quẩn bên miệng chén, không thể nào thoát ra ngoài chén được.



Lo gì việc ấy mà lo,

Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?

(Truyện Kiều).



KIẾN CÀNH HOÈ

Tổ kiến ở trên cành cây hoè, nói công danh, phú quý như là mộng ảo.

Do tích Thuần Vu Phần nằm mộng thấy mình đến nước Hoè An được vua gả công chúa cho, làm Thái thú quận Nam Kha, có con, rất mực vinh hoa phú quý. Sau vì đánh giặc thua trận, về nhà vợ mất, rồi hết được tin dùng, bị cách chức. Sực tỉnh giấc mộng, thấy mình nằm dưới gốc cây hoè, trên cành cây phía nam có một tổ kiến. Lúc đó Thuần Vu Phần mới tỉnh ngộ, biết rằng công danh, phủ quý chỉ là mộng ảo mà thôi.

Xem: Nam kha mộng.



Phú quý liều, sương ngọn cỏ,

Công danh gửi, kiến cành hoè.

(Thơ Nguyễn Trãi).



KIẾN CƠ 

Kiến: Thấy. : Động tác nhỏ nhặt.

Kiến cơ là thấy được việc trước mắt, để hành động một cách nhanh chóng.

Kinh Dịch có câu: Quân tử kiến cơ nhi tác bất sĩ chung nhật  , nghĩa là người quân tử thấy công việc xảy ra từ khi còn nhỏ nhặt đã hành động ngay, không cần chờ đợi đến trọn ngày.

Kiến cơ thì khá biết dùng cơ,

Tu luyện nay xem đã phải giờ.

(Đạo Sử).



KIẾN ĐẦU CÀNH

Kiến đóng tổ trên cành cây.

Tích Thuần Vu Phần ở Quảng Lăng, phía nam nhà có cây hoè. Một hôm, Thuần nằm ngủ dưới cây hoè chiêm bao thấy đi làm quan ở quân Nam Kha, 20 năm sung sướng, sau bị thải hồi, tỉnh dậy thấy mặt trời chưa lặn, nhìn lên cây hoè thấy phía nam cành cây có một đàn kiến.

Xem: Kiến cành hoè.



Ngựa cửa sổ, kiến đầu cành,

xem ngày tháng dễ qua thoăn thoắt,

Bọt ghềnh sóng, vờ mặt nước,

tựa thân người kiếp biến mờ mờ.

(Thập Giới Cô Hồn).



KIẾN NGÃI BẤT VI

Tức “Kiến nghĩa bất vi  ”.



Kiến nghĩa: Thấy những điều phải làm. Bất vi: Chẳng làm.

Bởi câu trong Luận Ngữ: Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã  , nghĩa là thấy việc nghĩa mà không làm, chẳng phải là kẻ dũng khí.



Nhớ câu kiến ngãi bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

(Lục Vân Tiên).



KIẾN THÂN 

Kiến: Thăm, gặp. Thân: Cha mẹ.

Kiến thân là thăm nom, gặp gỡ chăm sóc cha mẹ.



Kiến thân viếng sớm thăm hôm,

Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KIỂN BỘ 

Kiển: Què chân. Bộ: Bước.

Kiển bộ dùng để chỉ vận hạn xấu, gặp lúc rủi ro, hay gặp thời buổi gian nan vất vả.



Cầm tay Sĩ Nghị than dài,

Vì mình kiển bộ nên người luống công.

(Quốc Sử Diễn Ca).



KIẾP CĂN 

Kiếp: Kiếp sống, nghĩa là đời người. Căn: Gốc rể.

Kiếp căn là cái gốc rể của kiếp sống, tức là những việc làm thiện hay ác của kiếp trước, tạo thành cái gốc rể (Còn gọi là nghiệp) ảnh hưởng đến kiếp này, làm cho kiếp này sung sướng hay khổ sở, giàu sang hay nghèo hèn. Kiếp căn đồng nghĩa với “Căn sanh”.



Gởi hồn phách cho chàng định số,

Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.

(Kinh Thế Đạo).



Lành dữ kiếp căn gần ngàn lượt,

Một phen lau sạch nợ thờ ơ.

(Đạo Sử).



Thấy nhi nữ kiếp căn mỏng mảnh,

Muốn binh lời làm mạnh đỡ nâng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KIẾP DƯƠNG MÔN

Kiếp: Kiếp sống. Dương môn  : Cửa Dương trần, chỉ cõi trần.

Kiếp dương môn là nói kiếp sống nơi cõi trần.



Tỉnh say trong kiếp dương môn,

Nửa thì thấy cảnh hoàng hôn mộng hình.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KIẾP PHÙ DUNG

Phù dung là một loại hoa đẹp, dùng để ví với sắc đẹp của người con gái. Hoa phù dung nở vào sáng sớm màu vàng, buổi trưa biến thành màu hồng, đến chiều thì đổi sang màu đỏ rồi tàn.

Kiếp phù dung tức là kiếp sống của người con gái đẹp đẽ ngắn ngủi.

Hễ xấu dạng thì nhơ mặt thiếp,

Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung.

(Nữ trung Tùng phận).



KIẾP PHÙ SINH

Phù sinh là cuộc sống trôi nổi như cánh bèo bọt nước giữa dòng sông, linh đinh không nhất định và dễ tan biến.

Kiếp phù sinh là cái kiếp sống của con người mỏng manh, trôi nổi, dễ hoại diệt.

Xem: Phù sinh.



Tuồng huyễn hoá đã bày ra đấy,

Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,

Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không.

(Thập Loại Chúng Sinh).



Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,

Kiếp phù sinh đặng thất nơi thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KIỆT TRỤ 

Vua Kiệt nhà Hạ (2205-1782 trước Công nguyên), tên là Lý Quý, say mê Muội Hỷ, cho xây dựng hồ chứa rượu, xung quanh dọn thịt. Hễ vua ra lịnh thì ba ngàn cung phi nhào xuống hồ ấy ăn uống.

Nhà vua hoang dâm vô độ, bỏ nát cang thường, nên bị mất nước về tay Thành Thang và bị đày chết năm 1768 trước Công nguyên.

Vua Trụ là vị vua cuối cùng nhà Thương, con vua Đế Ất, tên Thụ Tân, thiên hạ gọi là Trụ Vương.

Vua Trụ hoang dâm, bạo ngược, sau bị Võ Vương đánh bại, tự thiêu mà chết, chấm dứt nhà Thương.

Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm,

Để dân đến đỗi sa hầm sẫy hang.

(Lục Vân Tiên).



Theo vận vui trời, nhờ cán búa,

Mặc đời Kiệt, Trụ, mặc đời Nghiêu.

(Dương Từ Hà Mậu).



KIỀU MỘC 

Kiều mộc là một loại cây cao to, dùng để ví với bậc tài trì hơn người, có thể là nơi nương tựa hay che chỡ cho kẻ khác.



Bàn tay che trước vừng hồng,

Uốn cây kiều mộc đau lòng trượng phu.

(Lưu Nữ Tướng).



KIỀU TÙNG 

Vương Tử Kiều và Xích Tùng Tử.

Vương Tử Kiều là Thái tử nước Tấn, con vua Linh Vương, thích thổi ống sinh, bắt chước tiếng phượng hoàng hót. Sau Vương Tử Kiều nhân đến chơi ở đất Y Lạc, gặp đạo sĩ Phù Khưu Công dắt lên núi tu luyện hai mươi năm, thành tiên cỡi con bạch hạc đến núi Hầu Thị ở chơi mấy ngày rồi bay đi mất.

Xích Tùng Tử là vị tiên đời vua Thần Nông.



Nàng rằng thiên đạo nhiệm thay,

Kiều Tùng xưa cũng thế này chứ sao?

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



KIỀU TỬ 

Kiều là loại cây cao, cành mọc ngẫng lên. Tử là cây thấp, cành mọc rủ xuống. Nên thường ví cha con là kiều tử.

Bá Cầm và Thương Thúc thường bị cha là Châu Công đánh phạt, nên thường than với Thương Tử. Thương Tử bảo vào rừng mà xem cây kiều và cây tử. Cây kiều cao, cây tử thấp, ánh sáng và sương mốc đến cây kiều trước, còn cành lá cây khô trên cây kiều đổ xuống cây tử, cây tử đành phải chịu hết, nên cha đánh chưởi con cũng là chuyện bình thường.

Tình kiều tử, dạ phần hương,

Dù cay đắng cũng phận thường nghĩ sao.

(Hoa Tiên Truyện).



Cây kiều, cây tử, đời thường ví,

Chẳng trái lòng nhau mới đặng tròn,

(Dương Từ Hà Mậu).



KIỂU CHIẾU ĐÁNH PHIÊN

Kiểu chiếu lag giả mạo chiếu chỉ, không phải ý của nhà vua.

Kiểu chiếu đánh Phiên là do sự tích tên đại gian thần Tần Cối đời nhà Tống, làm giả chiếu vua đòi Nhạc Phi đang đánh giặc Phiên về để bắt tội.

Nào phải người kiểu chiếu đánh Phiên,

mà gây thù biến tái.

(Văn Tế Trương Định).



KIM ÂU 

tức là cái bình hay cái chậu bằng vàng. Người ta thường ví nước nhà bền vững như cái âu vàng.

Tống Thư có câu: Quốc gia toàn thịnh tự kim âu  , nghĩa là nước nhà toàn thịnh giống như kim âu. Xem: Kim âu.

Sáu trăm muôn lửa dõi truyền,

Thánh Thần ngự trị vững bền kim âu.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,

Sơn hà vạn cổ điện kim âu.

(Thơ Trần Nhân Tông).



KIM BẢNG 

Kim: Vàng. Bảng: Tấm bảng.

Kim bảng tức là bảng có thếp vàng, đề tên những vị tân khoa đổ Tiến sĩ trong thời khoa cử ngày xưa của Việt Nam.

Thôi Triệu bị bịnh, hồn xuống Âm phủ, thấy có ba tấm bảng: Bảng vàng, bảng bạc và bảng sắt. Bảng vàng ghi tên các vị Tể tướng, bảng bạc các vị quan lớn, bảng sắt để ghi tên các quan châu huyện và các quan nhỏ.

Sau này chữ Kim bảng dùng để chỉ những người thi đỗ tiến sĩ.



Nhờ hồng phúc, đội âm công,

Gặp khi Kim bảng, động phòng cả hai.

(Truyện Phan Trần).



Sách đối đan trì văn choi chói trên bà ngựa.

Tên bày Kim bảng tiếng ầm ầm dưới đất bằng.

(Thập Giới Cô Hồn).



KIM CẢI

Cây kim và hột cải.

Sách Bách Vật Chí có ghi: Hổ phách thập giới, từ thạch dẫn châm, các dĩ loại cảm  , , , nghĩa là hổ phách hút hột cải, đá nam châm hút kim, đều tuỳ theo loại mà cảm nhau.

Hai vật đồng cảm thì tìm nhau, chỉ duyên vợ chồng khắn khít nhau như nam châm hút cây kim, hổ phách hút hột cải.



Để mà ghi tấm lòng thơ,

Hoạ may kim cải duyên ưa cùng người.

(Nữ Tú Tài).



Kể từ kim cải duyên ưa,

Giây leo cây bách mong nhờ về sau.

(Quan Âm Thị Kính).



Đạo vợ chồng là duyên kim cải,

Vốn trời sinh bể ái nguồn ân.

(Gia Huấn Ca).



Cho hai họ vầy duyên kim cải,

Ngõ một nhà đôi sánh phụng loan.

(Nhạc Hoa Linh).



KIM CỔ 

Kim: Nay, hôm nay. Cổ: Xưa, ngày xưa.

Kim cổ tức là xưa và nay, từ xưa đến nay.



Trông lên một mảnh trăng tà,

Soi chung kim cổ biết là những ai?

(Thơ Tản Đà).



Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

(Thơ Huyện Thanh Quan).



Nào những khách đoạn trường kim cổ,

Bởi trái duyên nên lỡ gót trần.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KIM CỔ KỲ QUAN 

Tên một bộ tiểu thuyết của Trung Quốc, tựa có nghĩa là những câu truyện lạ xưa nay. Bộ sách này gồm có bốn mươi truyện, trong đó có truyện “Nữ Tú Tài”.



Thung dung nhân thuở thanh nhàn,

Thấy trong “Kim Cổ Kỳ Quan” sách ngoài.

(Nữ Tú Tài).



KIM CỐC 

Kim Cốc là tên một con sông nhỏ ở phía bắc huyện Lạc Dương, Hà Nam. Nơi đây, vào đời nhà Tấn, Thạch Sùng đã lập một cái vườn gọi là Kim Cốc viên, trong có lầu Thanh Lương đài.



Lan Đình tiệc họp mây huyễn,

Kim Cốc vườn hoang đế cày.

(Thơ Nguyễn Trãi).



Vườn Kim Cốc cũng có ta,

Gặp xuân đầm ấm rườm rà tử vi.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



KIM ĐAN 

Kim đan hay Kim đơn là loại thuốc tiên, uống vào có thể trường sanh bất tử, được các vị đạo sĩ luyện trong lò kim đan hay lò bát quái.



Tay trao một đạo tiên phù,

Môt phương hỏa tảo, một lò kim đan.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



KIM ĐẰNG 

Kim: Vàng. Đằng: Sợi dây.

Kim đằng là sợi dây vàng dùng buộc vào cái hộp.

Do trong Kinh Thư chép: Vua Võ Vương nhà Châu bệnh nặng, em là Châu Công Đán làm sớ tấu với Tổ tiên ở Thái miếu, nguyện xin chết thay cho Võ Vương. Tờ sớ này được để vào một cái hộp gỗ, buộc dây vàng, để tại Thái miếu.

Trần công hờ hững biết đâu.

Kim đằng giữ dạ ai cầu cho an.

(Hạnh Thục Ca).



Cho hay máy động huyền vi,

Thay mình truyện trước còn ghi kim đằng.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



KIM ĐỒNG 

Theo truyền thuyết về thần tiên, nơi Thượng giới các vị tiên thường được các tiểu đồng hầu hạ, trai thì được gọi là Kim đồng, gái thì được gọi là Ngọc nữ.

Xem: Ngọc nữ.

Xiêm nghê rạng thức tử hà,

Kim đồng Ngọc nữ xướng ca đôi hàng.

(Tư Dung Vãn).



Tiếng vang động đến tiên cung,

Tây vương mẫu phái Kim đồng bước ra.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



KIM GIAI 

Kim: Vàng, sơn màu vàng. Giai: Bậc thềm.

Kim giai là bậc thềm sơn màu vàng, chỉ thềm trong cung điện nhà vua, tức là thềm vua.



Sở vương bước xuống kim giai,

Tay bưng chén rượu thưởng ngài Trạng nguyên.

(Lục Vân Tiên).



Phu quân dầu về yết kim giai,

Ắt Tạ thị nhưỡng thành đại họa.

(Nhạc Hoa Linh).



KIM HÀNH 

Cây bằng vàng.

Hán Thư chép: Bá Lương Đài Thượng chi lộ, nhuận ấp kim hành  , , nghĩa là đám sương mù trên đài Bá Lương, thấm ngấm cây bằng vàng.

Do điển: Vua Vũ Đế tạo đài Bá Lương dựng cây bằng vàng, trên ngọn cây có bàn tay Tiên nâng chén ngọc, hứng mù sương. Nếu dùng mù sương hứng được đem hoà với bột ngọc mà uống thì sẽ được trường sanh bất tử.



KIM HỮU 

Kim: Vàng. Hữu: Bạn bè.

Kim hữu là bạn bè quý nhau như vàng, chỉ tình bạn thắm thiết. Đồng nghĩa với “Kim bằng”.



Đã hay kim hữu tình sâu,

Hiếu trung cũng phải ở đầu dám sai.

(Lưu Nữ Tướng).



KIM KIỀU 

Hai nhân vật trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh  ” bằng văn Nôm của Nguyễn Du, là Kim Trọng và Thuý Kiều. Kiều là một nàng con gái tài sắc, đã từng gắn bó với Kim Trọng, gặp cảnh gia biến, nên đành lỗi ước với người yêu, đem thân làm một gái giang hồ, suốt mười lăm năm luân lạc, đau đớn, tủi nhục. Sau Kiều tái hợp với Kim Trọng, nhưng với tâm hồn cao quý của nàng, hai người trở nên đôi bạn.



Kim, Kiều nọ, ước nguyền mấy độ,

Phan, Trần kia gắn bó bao lâu.

(Bần Nữ Thán).



KIM KHUYẾT 

Kim khuyết là cái cửa sơn màu vàng trong cung vua. Vì vậy, nơi ngự của vua cũng gọi là Kim khuyết.

Kim khuyết còn là cổng nơi Bạch Ngọc kinh, cõi thượng giới.

Công từ vâng thấy chiếu bài,

Khát chừng Kim khuyết cảm lời ngọc âm.

(Lưu Nữ Tướng).



Ra vào Kim khuyết quỳnh lâu,

Treo tranh yên thủy, giắt bầu kiền khôn.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Trường Canh chói rạng lòa Kim Khuyết,

Xin ban ơn giải nghiệt cho đời.

(Giới Tâm Kinh).



KIM LAN 

Tức là hoa lan vàng.

Kinh Dịch có câu: Nhị nhân đồng tâm kỳ lợi đoạn câm (Kim). Đồng tâm chi ngôn kỳ xú như lan  . , , nghĩa là hai người đồng lòng, lợi có thể cắt đứt được vàng. Lời nói đồng tâm thơm như hoa lan.

Kim lan dùng để chỉ tình bằng hữu đẹp đẽ.



Muốn cho vẹn nghĩa kim lan,

Quạt trâm phải dính Trần Phan một lời.

(Sơ Kính Tân Trang).



KIM Mà

Hay “Kim Mã Môn  ”.

Tên một cái cửa ở cung Vị Ương đời nhà Hán, có một con ngựa lớn bằng đồng, nên người ta còn gọi là Kim mã môn. Nơi đó thường có các quan Hàn lâm đứng chờ chực.

Kim mã môn cũng do câu trong Hán Thư chép: Hán Võ Đế sử học sĩ đãi chiếu Kim mã môn  使 , nghĩa là vua Hán Võ Đế cho những người có văn học chực ở cửa Kim mã, để khi có điều gì thì vua han hỏi. Sau người ta lấy chữ “Kim mã” mà nói chỗ để tiếp các bậc văn học.

Nghĩa bóng: Chỉ nơi quan quyền vinh hiển, hay danh giá làm quan.

Ấy ai dặn ngọc thề vàng,

Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?

(Truyện Kiều).



Tiếc thay kim mã ngọc đường,

Đem làm trâu ngựa trong trường bạ thư.

(Ngọc Kiều Lê).



KIM MÔN 

Tức “Kim Mã Môn  ”, tên một cái cửa cung đời Hán, bên cửa có tượng ngựa đồng, nên đặt tên là kim mã môn. Chỉ nơi quan trường vinh hiển.

Xem: Kim mã.

Nàng rằng: trộm liếc dung quang,

Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn.

(Truyện Kiều).



Qui phục kim môn thân ngọc mã,

Chỉ tồn hư thiệt bất quang minh.

(Đạo Sử).



Nhu phong chánh pháp nhủ truyền gia,

Ngọc mã kim môn đắc địa hòa.

(Đạo Sử).



KIM Ô 

Kim: Vàng. Ô: Con quạ.

Kim ô là con quạ vàng, chỉ mặt trời. Hàn Dũ có câu: Kim ô hải để sơ phi lai  , nghĩa là ác vàng đáy bể vừa bay lại.



Mảng xem cây phạm thú mầu,

Vầng kim ô đã gác đầu non tê.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Cây dọc ngang tuyết vừa đông bãi bạc,

địch mục nhi đà thổi sáng bóng kim ô.

(Phản Tây Hồ Tụng).



KIM ỐC 

Kim: Vàng. Ốc: Nhà. Kim ốc là nhà vàng.

Võ Đế Cố Sự chép: Hán Võ Đế khi còn là Thái tử, bà Trưởng công chúa muốn gả con là A Kiều cho Võ Đế, mới hỏi: A Kiều có đẹp không? Con có muốn cưới làm vợ không? Võ Đế đáp: Nhược đắc A Kiều đương dĩ kim ốc trữ chi  , nghĩa là nếu cưới được A Kiều thì sẽ đúc nhà vàng cho ở. Về sau khi lên ngôi vua, Võ Đế lập A Kiều làm Hoàng hậu.

Kim ốc chỉ ngôi nhà sang trọng quý phái.

Ngoài ra dùng chỉ sắc đẹp tuyệt thế, hoặc những bà phi có sắc đẹp.



Tay tạo hóa cớ sao mà độc,

Buộc người vào kim ốc mà chơi.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



KIM PHONG 

Kim là một trong ngũ hành kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Theo ngũ hành, mùa thu thuộc hướng tây, hành kim, nên gió thu được gọi là kim phong.

Kim phong là gió vàng thuộc mùa thu, chỉ gió thu.

Thương xuân hoạ lại một ca,

Kim phong thổi lọt song sa đưa vào.

(Sơ Kính Tân Trang).



Có khi thừa hứng đường cù,

Kim phong hây hẩy lá ngô lạ dường.

(Lưu Nữ Tướng).



KIM SINH 

Kim: Nay. Sinh: Cuộc đời, kiếp sống.

Kim sinh là kiếp hiện tại. Theo Phật giáo, kiếp sống của con người hiện tại gọi là kim sinh, kiếp trước gọi là tiền sinh, kiếp sau gọi là lai sinh.



Mái tóc kim sinh nửa trắng vàng.

(Thơ Tôn Thọ Tường).



Tuyết đã phơi mái tóc kim sinh,

Rum đâu nhuốm múi tơ lai thế.

(Tần Cung Nữ).



KIM THANG 

Bởi chữ “Kim thành thang trì  ” là thành đồng ao nóng.

Kim thang dùng để chỉ thành trì kiên cố và hiểm trở. Xem: Kim thành thang trì.

Một châu hùng cứ xưng vương,

Thành La rộng mở, kim thang vững bền.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Mặt thành xưa đem lại thế kim thang,

đất xây phẳng lặng.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



KIM THÀNH THANG TRÌ 

Kim thành: Thành đúc bằng kim khí. Thang trì: Ao nước nóng vây bọc chung quanh thành.

Kim thành thang trì dùng để nói thành trì kiên cố, vững chắc.



Gặp cơn Lê Thị suy vi,

Kim thành muốn lở, thang trì muốn vơi.

(Thơ Bùi Kỷ).



KIM THẰNG 

Kim thằng là dây bằng vàng.

Ngày xưa trong đạo Phật, khi phong một vật gì, các chùa thường dùng dây vàng buộc lại và ghi lời phong vào một cái thẻ ngọc, rồi bỏ vào tủ.

Do vậy, kim thằng được dùng để chỉ Đạo Phật, hay cõi Phật.



Của từ phương tiện đâu bằng,

Kim thằng xin đổi xích thằng này cho.

(Truyện Phan Trần).



Thượng thừa là Phật là Tăng,

Xích thằng đã ủi, kim thằng hẳn dai.

(Quan Âm Thị Kính).



KIM THÂN 

Kim thân dùng để chỉ tượng Phật bằng vàng, vì ngày xưa các vị vua chúa sùng Đạo Phật, thường dùng vàng, đồng hoặc bạc để đúc tượng Phật thờ.



Phật Trời vốn ở trên cao,

Kim thân hiển hiện lẽ nào chẳng linh.

(Tội Vợ - Vợ Chịu).



KINH BANG TẾ THẾ 

Kinh bang: Sửa sang việc nước, hay trị nước. Tế thế: Giúp đời.

Kinh bang tế thế tức là giúp đời để trị nước.



Muốn kinh bang, chưa gặp vận hanh thông;

muốn tế thế, hãy còn thời truân kiển.

(Sãi Vãi).



KINH BÁT LOẠN

Kinh bát loạn tức Kinh Xuân Thu, do Đức Khổng Tử viết ra là muốn dùng Kinh Xuân Thu răn dạy kẻ tội thần tắc tử hầu xoay chuyển đời loạn thành đời trị. Sách Xuân Thu Công Dương Truyện viết: Bát loạn phản chính, mạc cận ư Xuân Thu  , , nghĩa là xoay chuyển đời loạn lạc trở lại đời thịnh trị, không gì gần hơn sách Xuân Thu.

Xem: Xuân Thu.

Quyển kinh bát loạn tay nào mỏi,

Ngọn đuốc phò nguy gió chẳng xao.

(Dương Từ Hà Mậu).



KINH BỐ 

Do thành ngữ “Kinh thoa bố quần  ”, nghĩa là trâm cài đầu bằng gai, quần bằng vải bô dùng để chỉ người vợ giản dị, hiền đức. Lấy điển tích nàng Mạnh Quang khi về nhà chồng lột bỏ hết đồ gấm lụa, trang sức quý giá để mặc áo vải bô, dùng gai làm thoa giắt tóc (Kinh thoa bố quần), rồi theo chồng làm việc.



Áo Lai chưa múa sân này,

Thì đem kinh bố mà thay gọi là.

(Quan Âm Thị Kính).



Trên đã định duyên kinh bố,

Dưới đâu dám lẽ chối từ.

(Nhạc Hoa Linh).



Cùng nhau giữ trọn hương nguyền,

Cái duyên kinh bố là duyên Châu Trần.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KINH CỤ 

Kinh: Thất kinh, kinh hãi. Cụ: Sợ.

Kinh cụ là thất kinh sợ hãi.



Trắng răng đến thuở bạc đầu,

Tử sinh, kinh cụ làm nau mấy lần.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



KINH CHÂU 

Tên một quan ải do Quan Vũ đời Tam Quốc trấn giữ, sau bị Tôn Quyền dùng mưu đánh thắng và ông bị giết chết ở đây.



Phải thuở Kinh châu ngồi giữ chặt,

Ngụy, Ngô hai nước biết nài sao?

(Dương Từ Hà Mậu).



Kinh Châu thất thủ nơi Thiên định,

Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.

(Đạo Sử).



KINH DI ĐÀ

Tức là “A Di Đà Kinh  ”, một trong ba bộ kinh căn bản của Tịnh Độ Tông. Bản kinh trình bày hình thức tu tập của tông này: Đó là trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà cho đến nhất tâm bất loạn thì đến giờ phút lâm chung sẽ được Ngài xuất hiện tiếp dẫn về cõi Tây phương Cực Lạc.



Tam quy, ngũ giới chứng minh,

Xem câu nhân quả, niệm kinh Di Đà.

(Truyện Phan Trần).



KINH DỊ 

Kinh: Sợ hãi. Dị: Lạ lùng.

Kinh dị tức là sợ sệt và lấy làm kỳ dị.



Thánh từ kinh dị xiết bao,

Phải chăng vậy biết, làm sao bây giờ.

(Hạnh Thục Ca).



KINH DỊCH 

Kinh dịch là một trong Ngũ kinh của Nho gia, do đức Khổng Tử san định lại.

Dịch có tám quẻ chính gọi là bát quái, do vua Phục Hy đặt ra, sau đó Khổng Tử giải thích các quẻ ấy thành kinh dịch.

Xem: Dịch kinh.



Ôn nhuần Kinh Dịch mấy năm,

Sáu mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào.

(Lục Vân Tiên).



KINH DƯƠNG 

Tức là “Kinh Dương Vương  ”.

Tên Lộc Tục, thuộc họ Hồng Bàng. Làm vua từ năm 2879 trước Tây Lịch, đặt tên nước là Xích Quỷ (Nước ta được thành lập kể từ đó).

Sau truyền ngôi lại cho con là Lạc Long Quân.

1.- Kinh Dương:

Phong làm quân trưởng nước ta,

Tên là Lộc tục, hiệu là Kinh Dương.

(Quốc Sử Diễn Ca).

2.- Kinh Dương Vương:

Hiệu xưng là Kinh Dương Vương,

Đất vuông nghìn dặm nước cường lâu xa.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



KINH HOÀNG 

Kinh: Hoảng kinh. Hoàng: Sợ sệt.

Kinh hoàng là sợ sệt quá sức, như người mất hồn, mê sảng.



Mẹ con xiết nỗi kinh hoàng,

Cùng xuôi nỗi thảm, vội vàng trốn đi.

(Nhị Độ Mai).



Uy phong lừng lẫy phương dân,

Phủ quan nghe tiếng mười phân kinh hoàng.

(Cai Vàng Tân Truyện).



KINH HỒN 

Kinh: Sợ hãi. Hồn: Linh hồn, phần tinh thần của con người.

Kinh hồn tức là sợ hãi như mất cả hồn vía, có ý nói sợ dữ dội.



Các trai thấy quở kinh hồn,

Đâm đầu mà chạy như tôm búng lùi.

(Thạch Sanh Lý Thông).



Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,

Hỏi rằng: Biết chỗ nào chôn chỉ chừng?

(Lục Vân Tiên).



KINH HỒN LẠC PHÁCH 

Kinh hồn: Kinh hãi như mất hồn. Lạc phách: Sợ như rơi mất vía.

Kinh hồn lạc phách ý nói kinh sợ đến nỗi hồn vía đều tiêu tan hết.



Trước nghe nói kinh hồn lạc phách,

Sau hản tình khoái lạc vô cùng.

(Nhạc Hoa Linh)



KINH HUẤN 

Kinh: Sách của các Thánh hiền. Huấn: Lời dạy.

Kinh huấn là lời dạy trong sách của các bậc hiền triết ngày xưa.



Lục cực bày hàng sáu,

Rành rành kinh huấn chẳng sai.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



KINH KỆ 

Kinh: Nền tảng của một triết thuyết hay một Tôn giáo. Ví dụ như: Ngũ kinh trong Nho giáo, Đạo Đức kinh trong Lão giáo, Tam Tạng kinh trong Phật giáo và Kinh Thánh của Công giáo. Kệ: Những bài thơ ngắn hay dài để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một đoạn kinh, hoặc để ca ngợi công đức Phật, hoặc để cầu nguyện, hoặc là một bài dùng để kệ chuông, kệ trống…

Kinh kệ là chữ dùng chung trong việc tụng kinh và khai kệ trong thời công phu.

Xem: Kệ kinh.

Câu kinh tiếng kệ gọi hồn,

Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KINH KỲ 

Kinh: Thủ đô một nước. Kỳ: Đất của nhà vua, sau dùng để chỉ chốn Kinh đô, kinh sư.

Kinh kỳ là chỉ đất ở thủ đô một nước. Đời Bắc Tống đóng đô ở Biện Kinh, tức ở huyện Khai Phong thuộc tỉnh Hà Nam Trung Quốc bây giờ.



Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,

Giữa đường lại gặp người ra Kinh kỳ.

(Lục Vân Tiên).



Xa xôi muôn dặm đường trường,

Tuấn Khanh thoắt tới phương Kinh kỳ.

(Nữ Tú Tài).



KINH KHA 

Người nước Vệ đời Chiến Quốc, được người đương thời ca tụng là bậc anh hùng kiếm khách. Sau ông dời sang nước Yên, làm môn khách cho Thái tử Yên Đan, lãnh nhiệm vụ mang đầu của Phàn Ô Kỳ và bản đồ nước Yên dâng lên cho vua Tần Thuỷ Hoàng. Nhân cơ hội đó, Kinh Kha lừa dịp hành thích Thuỷ Hoàng. Khi lại gần vua Tần để đâng bản đồ, Kinh Kha đâm Thuỷ Hoàng một nhát đao nhưng không trúng, bị Tần Thuỷ Hoàng giết chết.



Tám năm trời khói lửa,

Một mũi dao sang Tần.

Ai trách Kinh Kha rằng việc người để lỡ,

Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân.

(Thơ Vũ Hoàng Chương).



KINH LÂN

Hay “Lân kinh  ”, tức kinh Xuân Thu.

Tương truyền Khổng Tử chép kinh Xuân Thu, khi nghe có người bắt được con kỳ lân què thì ngưng, không chép nữa, vì cho rằng đạo của mình đã cùng. Vì thế, người đời sau gọi kinh Xuân Thu là “Kinh lân” hay “Lân kinh”.

Kinh Lân mong dẹp tôi con loạn,

Sử Mã khôn ngăn mọi rợ bầy.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



KINH LUÂN 

Kinh: Chia ra từng mối tơ. Luân: So những mối tơ cho bằng để gộp lại với nhau.

Kinh luân được ví như người thợ dệt phải khéo léo chia các sợi tơ ra gọi là kinh, so các dây tơ lại bằng đầu thì gọi là luân.

Kinh luân theo nghĩa đen sắp xếp dây tơ để khỏi bị rối rắm.

Nghĩa bóng: Sắp đặt sửa sang các việc chính trị trong nước một cách khéo léo, tài giỏi.



Nho môn có kẻ tướng thần,

Họ Vương tên Thức kinh luân gồm tài.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Trực rằng: Chùa rách phật vàng,

Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.

(Lục Vân Tiên).



Kinh luân đứt nối khó truyền,

Gãy câu Khương Tử, đắm thuyền Ngư Công.

(Ngụ Đời).



Dụng văn hoá trau tria nữ phách,

Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KINH NGHĨA 

Kinh: Sách Thánh hiền. Nghĩa: Nghĩa lý.

Kinh nghĩa là một lối văn người xưa thường lấy một câu trong kinh sách Thánh hiền ra để làm đề mà giải thích ý nghĩa của câu đó.

Khoa cử ngày xưa buộc các thí sinh phải biết và làm lối văn kinh nghĩa này.

Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách,

Thành phú thơ mọi vẻ văn chương.

(Gia Huấn Ca).



KINH QUYỀN 

Kinh là đạo dùng khi thường. Quyền là đạo dùng khi biến.

Cổ ngữ có câu: Xử thường chấp kinh, ngộ biến tùng quyền  , , nghĩa là trong cảnh thường giữ đạo thường, gặp khi biến phải theo tình thế mà đối phó (Không câu chấp).

Kinh quyền đôi lẽ là thường,

Được nơi tựa ngọc nương vàng thì thôi.

(Truyện Trinh Thử).



Ruột tằm bối rối nào yên,

Bồi hồi chưa định kinh quyền làm sao.

(Nữ Tú Tài).



Để cho được tỏ căn nguyên,

Dở hay sẽ liệu kinh quyền giúp cho.

(Lục Vân Tiên).



KINH SÁCH

Kinh: Các sách của các Thánh hiền, hoặc lời của chư Tiên Phật. Sách: Nói chung về các loại sách.

Kinh sách là kinh truyện (Sách của Thánh hiền ngày xưa hoặc lời Các Đấng Tiên Phật) và sách vở.



Dẫn rằng: Đây gặp giữa đường,

Nói phô kinh sách, mang trương khó lòng.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Bền công kinh sách xem coi,

Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.

(Kinh Sám Hối).



Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục

Đơn tâm khó định lấy chi mong

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Kinh sách cha ông để lại đâu,

Mà con chữ viết chẳng nên câu.

(Đạo Sử).



KINH SỬ 

Kinh: Các sách của Thánh hiền. Sử: Truyện cũ

Kinh là sách do các bậc thánh hiền viết ra, như Tứ thư, Ngũ kinh…còn sử là sách chép lại các sự kiện xảy ra trong nước theo thời gian.



Khuyên chàng kinh sử đêm ngày.

Thang mây mong nhắc chân giầy cho cao.

(Quan Âm Thị Kính).



Khi nối gót kiếm cung, kỵ, ngự,

Khi theo đòi kinh sử, tứ thư.

(Bần Nữ Thán).



Tuyết, Băng hai gái xinh thay!

Đã thông kinh sử liền ngày ngâm nga.

(Dương Từ Hà Mậu).



Nấu kinh sử ra mùi son phấn,

Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KINH THÁNH TRUYỆN HIỀN

Kinh thánh: Những sách của các vị Thánh. Truyện hiền: Lời giải thích để truyền lại ý nghĩa sách của các bậc Hiền.

Sách Bác Vật Chí: Thánh nhân làm ra thì gọi là “Kinh”, còn hiền nhân trước thuật thì gọi là “Truyện”.

Kinh thánh truyện hiền là tiếng dùng chung để chỉ kinh truyện của Thánh hiền soạn ra.

Gẫm mình võ vẽ bút nghiên,

Biết đâu kinh thánh truyện hiền là đâu.

(Hoa Tiên Truyện).



KINH THOA BỐ QUẦN 

Kinh thoa là cây thoa bằng gai. Bố quần là cái quần bằng vải.

Thói thường đàn bà hay trang điểm, se sua, nhưng những người đàn bà cài thoa gai, mặc quần vải được người ta cho là người vợ giản dị và hiền đức, gọi là “Kinh thoa bố quần”.

Xem: Kinh bố.



KINH VỊ 

Kinh Vị là tên hai con sông bên Trung Hoa, sông Kinh thì nước đục, tượng cho kẻ dữ, sông Vị thì nước trong, ví với người hiền. Trong văn chương người ta thường ví nước hai con sông này như kẻ ác với người thiện khác biệt nhau.



Ngọn nguồn tuôn lai láng mái kia ghềnh,

Đèn chiếu thuỷ chia dòng Kinh, Vị.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



KÍNH ĐỨC 

Tên tự của Uất Trì Cung, một danh tướng rất khoẻ mạnh của đời nhà Đường, người đất Thiện Dương. Ông là người rất bộc trực, nóng nảy, thường một mình một ngựa xông vào trận đánh với quân giặc, lập được nhiều chiến công to lớn.



Xưa nghe Kính Đức giúp Đường,

Trẫm gẫm công chàng Kính Đức chẳng hơn.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



KÍNH THÀNH 

Kính: Tôn kính, kính trọng. Thành: Thành thật.

Tin tưởng Trời Phật, quỷ thần thì phải lấy tấm lòng kính cẩn và thành thực mà thờ phụng các Ngài. Trong thiên Thái giáp hạ của kinh Thư có nói rằng: 
Duy thiên vô thân, khắc kính duy thân...quỉ thần vô thường hưởng, hưởng vu khắc thành  , ..... , , nghĩa là Trời không thân với ai, chỉ thân với người hay kính....quỉ thần không thường chứng giám cho ai, chỉ chứng giám cho kẻ có lòng thành.

Người tin Trời Phật thì phải có lòng Kính và Thành : Có lòng kính thì mới giữ được bản tính của mình cho thuần nhất và có lòng thành thì người và các Đấng mới tương cảm với nhau được.

Mùi hương lư ngọc bay xa

 

Kính thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng


(Kinh Cúng Tứ Thời).

Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,

Mà trong lòng chẳng thật kính thành.

(Kinh Sám Hối).



KÍNH THUẬN 

Kính: Tôn trọng. Thuận: Xuôi theo.

Kính thuận là tôn kính và xuôi thuận theo.



Một niềm kính thuận vô vi,

Trước là khỏi nhục sau thì nên danh.

(Gia Huấn Ca).



KÌNH NGẠC 

Kình ngạc là cá voi và cá sấu, hai loài cá có thân mình to lớn và hung dữ.

Kình ngạc được dùng để chỉ bọn hung tợn, hay giặc cướp.

Ngất trời sát khí mơ màng,

Đầy sông kình ngạc chật đàng giáp binh.

(Truyện Kiều).



KÌNH CHÌM NGẠC LẶN

Kình, cá voi và ngạc, cá sấu, là hai loài thuỷ tộc hung dữ được ví với bọn giặc cướp.

Kình chìm ngạc lặn ý nói loài hung tợn không còn nữa, đời thái bình, giặc giã đã được dẹp yên.

Làn nước phẳng, kình chìm ngạc lặn,

ao Hán còn mấy trẻ reo hò.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



KÌNH NGHÊ 

Cá voi là một loài cá to sống ở biển, con cá đực gọi là kình, con cá mái gọi là nghê.

Kình nghê là loài cá to hung tợn nên người ta thường ví với những kẻ có thế lực hoặc nói những kẻ hung bạo.

Kình nghê Bố hải vẫy vùng,

Trần công tên Lãm xưng hùng một nơi.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Ta rằng cá bể chim ngàn,

Đời nào chẳng có phượng hoàng kình nghê.

(Nhân Nguyệt Vấn Đáp).



Gặp cơn giông tố giữa dòng,

Tấm thân mai một vào lòng kình nghê.

(Thập Loại Chúng Sinh).



Kình nghê vui thú kình nghê,

Tép tôm thì lại vui bề tép tôm.

(Truyện Trinh Thử).



KHA NHƯỢNG 

Tức Kinh Kha và Dự Nhượng.

Kinh Kha là người nước Vệ, đời Chiến Quốc, được người đương thời ca tụng là bậc anh hùng kiếm khách. Ông lãnh nhiệm vụ thích khách vua Tần Thuỷ Hoàng, nhưng không thành công, bị giết chết.

Xem: Kinh Kha.

Dự Nhượng là người nước Tấn, thờ Trí Bá và được Trí Bá rất tin yêu. Khi Triệu Tương Tử hợp cùng hai nước Hàn và Nguỵ diệt Trí Bá, Dự Nhượng tìm cách thích khách Triệu Tương Tử để báo thù cho chúa, nhưng không thành, bị bắt, rồi được Tương Tử tha. Dự Nhượng bôi sơn vào thân thể cho sưng loét như người bị hủi, nuốt than cho mất tiếng để đổi dạng hình và giả ăn mày ở chợ, chờ cơ hội giết Triệu Tương Tử. Sau Dự Nhượng phục dưới cầu chờ Tương Tử tới giết. Lần này, Dự Nhượng cũng bị bắt. Ông năn nỉ Tương Tử cho mượn chiết áo để tỏ bày chí phục thù cho chủ, bằng cách đâm chiếc áo. Tương Tử bằng lòng trao cho chiếc áo, Dự Nhượng đâm nát và la lớn rằng: Ta có thể báo đáp Trí Bá nơi chín suối rồi! Nói xong, kề gươm vào cổ mà tự vận.

Nước nhà khi bể biếc dâu xanh,

Mưu báo phục há kém tay Kha, Nhượng.

(Trương Lưu Hầu Phú).



KHA PHỦ 

Kha: Cây rìu. Phủ: Cây búa.

Kha phủ là cây rìu cây búa, dùng để chỉ việc làm mai mối cho đôi lứa nên duyên vợ chồng.

Do trong Kinh Thi chép: Phạt kha như hà? Phi phủ bất khắc. Thú thê như hà? Phi môi bất đắc, nghĩa là đẽo cán búa như thế nào? Không có rìu chẳng được. Cưới vợ như thế nào? Không có ông mai chẳng được.

Xem: Chấp kha.



Sinh rằng: Cũng chẳng giấu chi,

Rắp tìm kha phủ đính nghì trúc mai.

(Ngọc Kiều Lê).



KHẢ HÀNH KHẢ CHỈ 

Khả hành: Nên làm. Khả chỉ: Nên ngưng.

Khả hành khả chỉ là nói thái độ của những người thức thời, biết khi nào phải ra làm, và lúc nào phải ngừng nghỉ.



Nếu biết chữ khả hành khả chỉ,

Thời Ngũ hồ một lá cho xong.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



KHÁCH ĂN RAU CHÊ BỆ NGỌC

Khách chịu ăn rau, chứ chê ngai vàng bệ ngọc, ý muốn nói thà sống ẩn dật, chứ không màng danh lợi.

Nói anh em Bá Di, Thúc Tề, là hai người con vua Cô Trúc ở cuối đời Thương, đầu đời Chu. Bá Di là anh cả, Thúc Tề là em út. Vua Cô Trúc yêu Thúc Tề, lập di mệnh cho Thúc Tề nối ngôi. Quốc dân theo di mệnh lập Thúc Tề, Thúc Tề không chịu, nhường lại cho Bá Di cho phải lẽ. Bá Di cũng không chịu, nhường lại cho Thúc Tề để tuân lệnh cha. Không ai chịu nhận, quốc dân phải lập người con giữa, rồi cả hai trốn vào núi Thú Dương hái rau vi ăn để mà sống.

Xem: Di Tề.



Nhượng vinh huê trong buổi sang giàu,

Khuyên học khách ăn rau chê bệ ngọc.

(Phương Tu Đại Đạo).



KHÁCH LẦU HỒNG

Lầu hồng, do chữ “Hồng lâu  ” là chỉ lầu các của những người con gái quyền quý. Về sau dùng để chỉ chung nhà ở của phụ nữ.

Khách lầu hồng chỉ giới phụ nữ.

Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng,

Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.

(Quốc Âm Thi Tập).



KHÁCH LY TAO

Ly Tao là tên một thiên trong Sở từ, do Khuất Nguyên sáng tác.

Khách Ly tao là nói Khuất Nguyên làm sách Ly Tao để giải bày nỗi uất hận của mình, hết lòng vì vua vì nước mà vua chỉ nghe lời bọn gian nịnh, khiến nước nhà sắp đi đến nguy vong.

Xem: Khuất Nguyên.



Lánh đời mấy khách ly tao,

Non tiên ngao ngán nguồn đào sóng khơi.

(Tư Dung Vãn).



KHÁCH MÁ HỒNG

Má hồng do chữ “Hồng kiểm  ” tức là gò má đỏ hồng của những người đàn bà, con gái.

Khách má hồng dùng để chỉ những người phụ nữ đẹp đẽ.

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



KHÁCH QUẦN THOA

Quần thoa do chữ “Bố quần kinh thoa  ”, nghĩa là quần bằng vải bô, trâm cài đầu bằng gai, dùng để chỉ người vợ giản dị, hiền đức.

Khách quần thoa là chỉ hạng phụ nữ hiền thục, và cần kiệm. Xem: Cử án ngang mày.

Trên chín bệ có hay chăng nhẽ,

Khách quần thoa mà để lạnh lùng!

(Cung Oán Ngâm Khúc).



KHÁCH TANG HẢI

Hay “Tang hải khách  ”, tức khách thương hải tang điền, nghĩa là người khách ở cuộc đời biển xanh biến thành ruộng dâu, ý nói đời đầy sự biến đổi.

Khách tang hải nghĩa bóng là khách trần tục.

Xem: Thương hải tang điền.



Thoảng bên tai một tiếng chày kình,

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

(Hương Sơn Phong Cảnh).



KHÁCH TỤC

Hay “Tục khách  ”.



Khách: Người khách. Tục: Tầm thường thấp kém, chỉ cõi thế gian.

“Khách tục” hay “Khách trần” là chỉ con người sống nơi cõi thế gian. Gọi là khách, bởi vì người xưa quan niệm cõi thế gian là cõi sống tạm, vì vậy mới có câu “Sanh ký tử quy  ” tức là sống gửi thác về.



Cửa hiềm khách tục nào cho đến,

Song vắng chim phàm chớ tới kêu.

(Quốc Âm Thi Tập).



Câu kinh tiếng kệ gọi hồn,

Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Ham phương cứu thế độ nhân,

Giải mê khách tục, cõi trần lánh xa.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KHÁCH THƯ CẦM

Thư cầm là sách và đàn.

Khách thư cầm là người đọc sách, chơi đàn, chỉ các thư sinh hoặc các văn nhân ngày xưa hay đọc sách và gãy đàn.

Người khuê các khách thư cầm,

Ngoài đành đãi ngọc, trong đành tựa mai.

(Nhị Độ Mai).



KHAI KHIẾU 

Khai: Mở. Khiếu: Cái khả năng thông minh của con người còn tìm ẩn.

Khai khiếu là khai mở năng khiếu.

Con người ai cũng có những năng khiếu đặc biệt thiên phú còn tiềm ẩn, chưa có điều kiện bộc phát ra. Khi được mở khiếu hay gặp cơ duyên, những khả năng tài giỏi mới được bộc lộ ra ngoài.

Đại Từ Phụ xin thương khai khiếu,

Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ.

(Kinh Thế Đạo).



KHAI PHONG 

Khai: Mở ra. Phong: Niêm lại.

Một vật gì đã bị niêm lại rồi, bây giờ mở ra được gọi là khai phong. Ví dụ như mở bức thơ.



Khai phong mới tỏ sự cơ,

Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.

(Lục Vân Tiên).



KHAI PHƯƠNG

Công tử nước Vệ, bỏ ngôi vị, xin qua làm tôi cho Tề Hoàn Công.

Hoàn Công cạn suy, tưởng Khai Phương phục mình, bỏ cha mẹ, bỏ ngôi vị giàu sang phú quý để qua phò mình, nên rất tin dùng. Không ngờ Khai Phương là kẻ mưu sĩ, tính rất tham lam, hợp với Dịch Nha và Thụ Điêu bắt Tề Hoàn Công nhốt đến chết đói, rồi đoạt ngôi Tề Quân.

KHAI QUỐC CÔNG THẦN 


Khai quốc: Mở nước, dựng nước. Công thần: Người bề tôi có công nghiệp.

Khai quốc công thần là người bề tôi công to lớn trong việc dựng nên một triều đại cho đất nước.



Nên danh khai quốc công thần,

Nêu tên hậu thế xa gần tặng phong.

(Nữ Trung Tùng Phận).



KHAI TÁNG 

Khai: Mở ra. Táng: Chôn.

Khi linh cữu đã chôn rồi, vì một lý do nào như muốn chôn nơi đất tốt hơn, nên đào lên chôn lại chỗ đất khác gọi là “Khai táng”.



Mai công khai táng đến tuần,

Hoàng thân tế điện, triều thần trợ nghi.

(Nhị Độ Mai).



KHAI THIÊN LẬP ĐỊA 

Khai Thiên: Mở Trời. Lập Địa: Dựng đất.

Đồng nghĩa với câu thành ngữ “Khai Thiên tịch Địa  ” là khai Trời mở Đất.

Khai Thiên lập Địa là khai Trời, tạo dựng đất, ý nói lúc Thượng Đế tạo dựng Càn khôn Vũ Trụ, sinh thành vạn vật.

Khai Thiên lập Ðịa ai là chủ,

Thánh, Phật là ai dám đón ngăn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



KHAY TRẦU

Khay là một cái hộp vuông, không có nắp đậy, chung quanh có thành thấp, dùng để bày xếp bình hoặc đặt đồ vật nhỏ, như khay trầu, khay trà, khay đèn.

Khay trầu là cái khay trong ấy người ta đặt ly nhạo, trầu rượu. Trước khi hành lễ, người ta thường tiêm trầu rót rượu đặt trong khay, rồi đứng ra trình lễ.

Về nhà chén rượu khay trầu,

Sui gia trai gái cúi đầu thưa qua.

(Quan Âm Thị Kính).



KHẢI CA 

Khải: Chiến thắng. Ca: Hát.

Khải ca là nói quân sĩ ca hát reo mừng khi chiến thắng kéo binh trở về nước.Như chữ khải hoàn.

Xem: Khải hoàn.

Đuổi Dương Mai, giết Phù Long,

Khải ca một khúc, tấu công về trào.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Khải ca lừng lẫy phu công,

Đã ngoài nanh vuốt, lại trong cột rường.

(Truyện Phan Trần).



Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,

Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



KHẢI HOÀN 

Khải: Thắng trận. Hoàn: Trở về.

Như chữ “Khải ca  ”.

Thường khi thắng trận, quân sĩ ca hát, reo mừng kéo binh trở về, gọi là “Khải hoàn” hay “Khải ca”.

Nghĩa bóng: Hát mừng chiến thắng.



Thanh bình một biểu tâu dâng,

Thảnh thơi yên khấu chân nưng khải hoàn.

(Hoa Tiên Truyện).



Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,

Ðể mắt xanh coi nước khải hoàn.

(Đạo Sử).



KHANG CÙ 

Khang: Con đường có năm ngả. : Đường lớn thông bốn phía.

Khang cù là con đường rộng lớn thông được mọi ngả đường.

Liệt Tử: Nghiêu trị thiên hạ ngũ thập niên, vi phục du ư khang cù  , , nghĩa là vua Nghiêu trị thiên hạ năm mươi năm, ăn mặc như người thường đi trên đường lớn.Ý muốn nói đời thái bình thịnh trị.

Đêm đêm cổ phúc nhi du,

Ngày thì kích nhưỡng khang cù vô ngu.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Nhởn nhơ kích nhưỡng khang cù,

Thiều quang chín chục xuân thu tám nghìn.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



Hồi kế thứ sẽ phân thêm lớp,

Bút công dư phải đợi chầy ngày,

Dân khang cù vỗ bụng no say,

Thả thính hạ hồi phân giải.

(Lộ Địch Diễn Ca).



KHANG HY 

Khang Hy là hiệu của vua Thánh Tổ nhà Thanh Trung Quốc, làm vua từ năm 1662 đến năm 1722.

Vua Thánh Tổ lên ngôi lúc 8 tuổi, nhưng lớn lên là vị vua thông minh, siêng năng việc triều chính, ham thích văn học, nên trong lúc cầm quyền nhà vua sai các Nho thần làm ra hoặc tăng bổ các sách cũ thành những quyển sách có giá trị trong thời nhà Thanh, đó là bộ “Khang Hy Tự Điển”, nhất là bộ “Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành” là một sách gồm cả vạn quyển, chứa đủ các khoa học.

KHANG NINH 

Hay “Khương ninh”.



Khang: Vui vẻ. Ninh: Yên ổn.

Khang ninh hay khương ninh là an ổn và vui vẻ.



Mừng thay vua đã khang ninh,

Thiên hạ thái bình cổ vũ âu ca.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



Kẻ ở phương trời người góc biển,

Lòng thành nhắn gởi chữ khương ninh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Khương ninh nhứt kiếp tại Thiền môn,

Khả chí tâm tu ngã độ hồn.

(Đạo Sử).



KHÁNG LỆ 

Hay “Cang lệ”.

Kháng lệ là kết đôi hay sánh đôi với nhau, tức chỉ trai gái kết duyên thành vợ chồng. Thường người ta đọc là cang lệ.

Xem: Duyên cang lệ.

1.- Kháng lệ:

Đinh ninh thầy lại dặn lời,

Nghĩa trong kháng lệ là trời đã xe.

(Ngọc Kiều Lê).

2.- Cang lệ:

Đó muốn vầy duyên cang lệ,

Ta đâu khuất chữ cương thường.

(Nhạc Hoa Linh).



KHANH NHO 

Chôn các Nho sĩ.

Tần Thuỷ Hoàng Đế nghe theo chính sách cai trị của Thừa tướng Lý Tư, thống nhứt các tư tưởng theo nhà Tần, ra lịnh đốt các kinh sách của Nho giáo, gọi là phần thư, khiến các nho sĩ căm phẫn huỷ báng vua Tần. Vì vậy, Tần Thuỷ Hoàng tức giận bèn ra lịnh chôn sống hơn bốn trăm Nho sĩ ở thành Hàm Dương, nên người đời sau gọi là “Khanh Nho”.

KHANH TỂ 


Khanh: Một chức quan lớn trong triều đình. Tể: Sửa sang và cai trị.

Khanh tể là một chức quan lớn trong triều đình, giúp cho vua cai trị và điều hành việc nước.



Khanh Tể sao bằng tên Ðạo Sĩ,

Hết đời ai giữ chức làm ông.

(Đạo Sử).



Khanh tể chưa hay bẳng hiếu thân,

Nhơn luân trọn Ðạo đáng nên Thần.

(Đạo Sử).



KHANH TƯỚNG 

Khanh: Một chức quan. Tướng: Một chức quan lớn nhất trong hàng bá quan, như Tể tướng, giúp vua trông coi việc nước.

Khanh tướng chỉ chung hàng quan lớn nắm quyền hành trong triều đình.



Ai công hầu, ai khanh tướng,

Trong trần ai, ai dễ biết ai?

(Đặng Trần Thường).



Chẳng khanh tướng, chẳng công hầu,

Cũng bao vạn kẻ cúi đầu vào ra.

(Thơ Tản Đà).



KHAO BINH 

Khao: Thết tiệc để đãi rượu thịt. Binh: Quân lính.

Khao binh tức là thưởng công binh lính bằng cách thết tiệc đãi rượu thịt.



Tiệc bày thưởng tướng khao binh,

Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân.

(Truyện Kiều).



KHẢO BÀN 

Do câu "Khảo bàn tại giản  " nghĩa là làm nhà bên khe suối, nói sự yên vui về cuộc đời người ẩn dật, thanh nhàn.

Kinh Thi có câu: Khảo bàn tại giản, Thạc nhân chi khoan. Độc mỵ ngụ ngôn, Vĩnh thỉ phất huyên  , . , , nghĩa là dựng nhà bên khe suối ẩn dật, lòng của người đức hạnh to tát. Một mình ngủ thức hay nói năng, thề mãi mãi không quên cái thú ẩn dật này.

Đường tu sẵn cách khảo bàn,

Rượu sen thắm giọng, trà lan thơm lòng.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



KHÁT KHAO

Khát khao là thèm muốn, chỉ sự rất mong muốn một việc gì.



Dễ chiều hạn hán khát khao,

Sợ hằng gặp mống trông vào thấy mưa.

(Hoài Nam Ca Khúc).



Chữ tình tưởng nhớ biết bao,

Làm cho thiểu não khát khao lòng trần.

(Bướm Hoa Tân Truyện).



KHẮC CỐT GHI XƯƠNG

Khắc ghi vào xương cốt.

Đồng nghĩa với câu thành ngữ Hán “Khắc cốt minh tâm  ”nghĩa là “Ghi lòng tạc dạ”, để chỉ việc nhớ mãi không bao giờ quên.

Niềm ân ái thân hòa làm một,

Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương.

(Kinh Thế Đạo).



KHẮC CHU CẦU KIẾM 

Khắc dấu vào be thuyền để tìm gươm.

Trong sách Lã Thị Xuân Thu có chép: Một người nước Sở mang kiếm qua sông, giữa đàng làm rơi kiếm xuống nước. Khi kiếm rơi, anh ta đánh dấu vào be thuyền, cho đó là nơi thanh kiếm rớt. Sau khi đi một khoảng, thuyền dừng lại, anh ta theo chỗ đánh dấu lặn xuống mò, nhưng chẳng tìm được kiếm, bởi vì thuyền thì đi tới mà kiếm thì rơi trước lúc dừng.

Nghĩa bóng: Chỉ người câu chấp.



KHẮC LẬU 

Chỉ đồng hồ (Thời giờ).

Người xưa, đồng hồ làm bằng cái bình đồng chứa nước, trong có đục một lỗ nhỏ cho nước chảy ra ngoài, rồi căn cứ mực nước trong bình hiện trên thẻ khắc từng độ để tính thời gian. Bình đồng đó gọi là khắc lậu, chỉ đồng hồ. Xem: Đồng hồ.

Đêm thâu khắc lậu canh tàn,

Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.

(Truyện Kiều).



KHĂN BÍCH CÂN

Khăn “Bích cân  ” là một loại khăn màu xanh biếc, dùng để cho người phụ nữ bịt đầu.



Giày hồng hài, Sãi sắm một đôi để đạp gót;

Khăn bích cân, Sãi sắm một cái để bịt đầu.

(Sãi Vãi).



KHĂN ĐỖ PHỦ

Tức là thứ khăn bịt đầu của Đỗ Phủ, như một cái mũ Nho sĩ thường đội, để thể hiện ý chí thanh cao.



Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ,

Tay còn lọ hái cúc Uyên Minh.

(Quốc Âm Thi Tập).



KHĂN KHẮN

Gắn bó, ân cần, hay chắc chắn, giữ nguyên trạng, không thay đổi.



Đệm hoa đầm ấm khi nằm thức,

Khăn khắn nào quên đạo chúa tôi.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Làm người thì giữ đạo Trung dung,

Khăn khắn răn dỗ thửa lòng.

(Quốc Âm Thi Tập).



KHẮN DẠ

Đồng nghĩa với chữ “Khắc cốt ghi xương”.

Do chữ “Minh tâm  ”, tức ghi khắc vào lòng, gắn chắc trong dạ. Xem: Khắc cốt ghi xương.

Nay đà làm lễ hỏi tên,

Keo sơn khắn dạ cho bền ngày sau.

(Dương Từ Hà Mậu).



KHÂM BAN 

Khâm: Kính, lời tôn xưng, dùng nói với bậc trên. Ban: Cho.

Khâm ban tức nói một cách tôn kính là nhà vua ban cho.



Năm mây bỗng thấy chiếu trời,

Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.

(Truyện Kiều).



KHÂM LIỆM 

Khâm: Lấy vải bọc thi hài người chết trước khi tẩn vào quan tài. Liệm: Lấy vải bọc lại thây người chết (Lớp trong gọi là liệm, lớp ngoài gọi là khâm).

Khâm liệm là lấy vải bọc thi hài người chết rồi tẩn vô quan tài.



Di hài nhặt gói về nhà,

Nào là khâm liệm nào là tang trai.

(Truyện Kiều).



KHÂM NHƯỢC 

Khâm Nhược họ Lý, làm Đại tướng quân đời Tống Chân Tông, là người rất hâm mộ đạo Phật. Khi quân Khiết Đơn ở xứ bắc Trung Quốc sang vây thành Thiên Hùng mà Lý Khâm Nhược vẫn còn đóng cửa tu trai, nên đã bị quân giặc bắt.



Khiết Đơn đà vậy phủ trong ngoài,