PH
PHA LÃO
Tức Tô Đông Pha, tên là Tô Thức 蘇 軾, tự là Tử Chiêm, biệt hiệu là Đông Pha, quán Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, người đời Tống. Thân phụ ông là Tô Tuân, em là Tô Triệt, tất cả đều nổi tiếng hay chữ, người đương thời gọi ba người là “Tô gia tam kiệt” hay Tam Tô.
Năm
20 tuổi, Đông Pha đậu Tiến sĩ. Lúc Vương An Thạch lên cầm quyền, thi hành cải
cách chính trị, Tô Thức công kích biến pháp, nên bị đổi ra đất Hàng Châu, tỉnh
Hồ Bắc. Ông làm một cái nhà ở bãi phía đông và lấy biệt hiệu là Đông Pha cư sĩ.
Trường canh hỏi nguyệt tay ngừng chén,
Pha lão chơi thu khách nổi thuyền.
(Quốc Âm Thi Tập).
PHÁ TRÚC 破 竹
Phá: Chẻ. Trúc: tre. Phá trúc là chẻ tre.
Cây tre chẻ được vài lóng thì có thể rọc dài phần còn lại một cách nhẹ nhàng.
Phá
trúc hay chẻ tre dùng để chỉ cái thế dễ dàng. Ví dụ quân ta tiến vào lòng đất
địch, thế như phá trúc.
Tướng công uy nhứt bên trời,
Này cơ phá trúc hẳn mười chẳng xa.
(Quốc Sử Diễn Ca).
PHẢ HỆ 譜 系
Phả: Sổ sách ghi chép. Hệ: Sợi tơ, liên hệ.
Phả hệ tức là quyển sách ghi chép tên tuổi người trong một gia đình, một họ liên hệ nhau từ đời này đến đời khác.
Sẵn nơi trú ngụ đâu tày,
Tiện tra phả hệ bấy
nay cho tường.
(Hoa Tiên Truyên).
PHÁC HOẠ 樸 畫
Phác: Làm sơ qua. Hoạ: Vẽ.
Phác hoạ nghĩa là vẽ sơ qua mà thôi.
Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,
Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.
(Truyện Kiều).
PHÁCH LẠC 魄 落
Phách: Vía, thể thứ hai
của con người, thuộc bán hữu hình, nối liền phần hồn và thể xác. Lạc: Rụng.
Phách lạc có nghĩa là việc xảy ra rất kinh khủng khiến cho hồn vía bay đâu mất.
Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
(Truyện Kiều).
PHÁCH LẠC HỒN
PHI 魄 落 魂 飛
Phách lạc: Mất vía, chỉ việc
quá sức hãi kinh. Hồn phi: Hồn bay, nói sự hết
sức sợ sệt.
Phách lạc hồn phi là hồn phách đều bay mất, ý nói sợ đến nỗi hồn phiêu phách tán.
Tặc binh đà phách lạc hồn phi,
Man tướng lại vọng phong bắc tẩu.
(Nhạc Hoa Linh).
PHÁCH QUẾ HỒN
MAI 魄 桂 魂 梅
Phách quế: Tức là quế phách,
chỉ mặt trăng. Hồn mai: Đồng nghĩa với giấc
mai, ngủ.
Phách quế hồn mai tức là ngủ một cách say sưa, hồn phách như bay bổng lên tận cung trăng.
Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
(Truyện Kiều).
PHÀM GIAN 凡間
Phàm: Trần tục, tầm thường. Gian: Giữa.
Phàm gian là giữa cảnh phàm tục, dùng để chỉ cõi thế gian.
Phàm gian nhục nhãn tín tà,
Vật chi cách vách, coi mà thấy đâu.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Thà cam vui chốn động Đào,
Đừng vì nhớ trẻ trở vào phàm gian.
(Kinh Thế Đạo).
Cao Đài tá thế đến phàm gian,
Bạch Ngọc Huỳnh kim cũng chẳng màng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Tiếng trống khai ngươn quy thánh thể,
Hồi chuông trừ tịch tỉnh phàm gian.
(Thơ Huệ Phong).
PHÀM NHÃN 凡 眼
Phàm nhãn là con mắt của người phàm tục, tức là mắt của thân thể xác thịt, gọi là mắt phàm, hay mắt thịt.
Xem:
Mắt thịt.
Gót chơn đưa rủi như sát mạng,
Vật hữu linh phàm nhãn khôn soi,
(Kinh Thế Đạo).
PHÀM PHU 凡 夫
Phàm: Tầm thường, chỉ
cõi trần. Phu: Người, kẻ.
Phàm phu là người nông cạn, tầm thường. Đối với Tôn giáo, phàm phu là người tầm thường, còn ở trong vòng vật dục, còn tranh đua danh, lợi, quyền.
Rằng tu tuổi quá nửa đời,
Nguyện theo La Hán quyết rời phàm phu.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Ðôi mắt phàm phu đâu biết đặng,
Huyền vi tối trọng Ðấng cao xa.
(Đạo Sử).
PHÀM TÂM 凡心
Phàm tâm là cái tâm phàm tục của con người, tâm ấy thường mang nhiều tham vọng, ích kỷ, thích hưởng thụ về vật chất.
Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHÀM TRẦN 凡 塵
Phàm: Tầm thường, phàm tục. Trần: Bụi bặm.
Phàm trần hay phàm tục dùng để chỉ cõi thế gian có nhiều bụi bặm, ô trược, mà con người đang sanh sống. Phàm trần do chữ phàm gian và trần gian ghép lại. Người ta thường dùng nhiều từ ngữ để chỉ cõi nầy như hồng trần, trần gian, phàm gian, nhơn gian ...
Ngọc Hoàng nghĩ đến gần xa,
Kip sai Lý Nhĩ xuống qua phàm
trần.
(Tây Sương).
Xin Thần, Thánh ruổi dong cỡi hạc,
Xuống phàm trần vội gác xe tiên.
(Kinh Cúng Tứ Thời).
Diêu phong mấy khúc khách phàm trần,
Những mến phụng lầu ngự các lân.
(Đạo Sử).
PHẠM ĐỒ 犯 徒
Phạm: Tội phạm. Đồ: Bọn.
Phạm đồ là những kẻ phạm tội.
Kíp truyền chư tướng hiến phù,
Lại đem các tích phạm đồ hậu
tra.
(Truyện Kiều).
PHẠM LÃI 范 蠡
Phạm Lãi là người nước Sở thời Xuân Thu, tự là Thiếu Bá, theo giúp vua Việt Vương Câu Tiễn trên hai mươi năm, đem hết sức lực phò tá, sau cùng diệt được nước Ngô, vua phong cho làm Thượng tướng quân. Phạm Lãi biết được tánh ý của Việt Vương, khó cùng với nhà vua hưởng an lạc, nên ông nhứt quyết ra đi, đổi họ tên, lưu lạc từ nước Tề đến đất Đào, làm nghề kinh doanh mà trở nên giàu có lớn. Phạm Lãi sau này lấy hiệu Đào Chí Công.
Hồ, thuở thuyền chơi, lòng Phạm Lãi;
Đài, khi câu rủ, thú Nghiêm Lăng.
(Hồng Đức Quốc Âm).
Hạp tảo ngũ hồ song Phạm Lãi,
Khước giao tam kiệt độc Trương Lương.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
Du hồ dễ mấy ai Phạm Lãi,
Phù hải âu chẳng một Tử Do.
(Phản Tây Hồ Tụng).
PHẠM TĂNG 范 增
Phạm Tăng là người sống vào cuối đời Tần, ở Cư Sào, có nhiều mưu chước lạ. Năm 70 tuổi, theo giúp Hạng Võ khởi binh, lập được nghiệp Bá, được tôn là Á phụ. Trong cuộc hội tại Hồng Môn giữa hai nước Hán và Sở, Phạm Tăng khuyên Hạng Võ giết Bái Công (Tức Hán Cao Tổ), mà Sở Bá Vương không nghe. Sau nhà Hán lập kế phản gián khiến Hạng Võ nghi ngờ Phạm Tăng, lấy hết quyền hành. Từ đó Phạm Tăng bỏ ra đi, đến Bành Thành phát ung ở lưng rồi mất.
PHẠM TRỌNG
YÊM 范 仲 俺
Phạm Trọng Yêm, tự là Hy Văn, thuỵ là Văn Chính, người xứ Tô Châu, nhà nghèo nhưng rất ham học, thi đỗ Tiến sĩ làm quan dưới triều Tống Nhân Tông đến chức Lại Bộ Viên Ngoại Lang, từng giữ chức Tri Châu ở Hàng Châu. Ông là người thanh liêm, chính trực, lại trọng nghĩa khinh tài, đối xử với dân chúng rất có hậu, ông đã thường nói: Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc 先 天 下 之 憂 而 憂, 後 天 下 之 樂 而 樂, nghĩa là lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Câu này đã được truyền tụng rộng rãi từ đời Tống cho đến ngày nay.
Phạm Trọng Yêm mấy lần xa vợ,
Nợ quân vương nhiều thuở truân chuyên
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHAN ĐÌNH
PHÙNG 潘 廷 馮
Phan Đình Phùng, người làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tỉnh, đỗ cử nhân khi được 39 tuổi, năm sau đỗ Tiến sĩ và được sơ bổ Tri phủ Yên Khánh ở Ninh Bình, đến năm 1878 đổi về kinh sung chức Ngự sử Đô sát viện.
Phan
Đình Phùng hưởng ứng phong trào cần vương cứu quốc và lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống Pháp suốt mười năm ở Nghệ Tỉnh, nêu cao tấm gương hy sinh và lòng dũng
cảm khác thường.
Có quan Ngự sử tôi ngay,
Phan Đình Phùng đã thấy nay bất bình.
(Hạnh Thục Ca).
PHAN LANG 潘 郎
Phan Lang, tức “Phan Nhạc”, người đời Tấn. Lúc thiếu niên, ông có dung mạo xinh đẹp, lại đàn hay, thường hay ngồi đàn ở Lạc Dương, phụ nữ vòng vây quanh trêu ghẹo hoặc có khi theo ném hoa quả vào xe ông cho đến đầy ắp, ông mới ra về.
Xem:
Phan Nhạc.
Mặt hoa nọ gã Phan Lang,
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
PHAN LONG PHỤ
PHỤNG 攀 龍 附 鳳
Phan long: Vịn vào rồng. Phụ
phụng: Dựa vào chim phượng.
Long phụng được ví với nhà vua hay các bậc Thánh triết. Phan long phụ phụng có nghĩa theo minh chúa để lập sự nghiệp, hoặc theo các vị Thánh triết để trau giồi đạo đức. Ngoài ra, còn có nghĩa là dựa vào công danh thi cử.
Hậu
Hán Thư chép: Các tướng bàn với nhau tôn Quang Võ lên ngôi vua. Vua khiêm
nhường từ chối. Cảnh Thừa liền tâu: Sĩ đại phu ư thỉ thạch chi
gian, cố vọng phan long lân, phụ phụng dực dĩ thành kỷ sở chí nhĩ 士 大 夫 於 矢 石 之 間, 故 望 攀 龍 麟, 附 鳳 翼 以 成 己 所 志 耳,
có nghĩa là kẻ sĩ đại phu trong chốn tên đạn vốn trông mong vịn vảy rồng, dựa cánh
phụng để cho trọn được cái chí của mình vậy.
PHAN NHẠC 潘岳
Phan Nhạc là người đời Tấn, tự là An Nhơn. Lúc tuổi trẻ ông có dung mạo xinh đẹp, có tài học cao siêu, văn chương diễm lệ. Ông thường hay cầm đàn ra đường ở Lạc Dương, phụ nữ vây quanh trêu ghẹo hay theo ném hoa quả vào xe cho đến lúc đầy, mới đẩy xe về.
Ông
đỗ Tú tài, làm quan đến chức Tán Kỵ Thị Lang. Về sau, ông bị Tôn Tú vu phản mà
bắt giết.
Ngỡ chàng Phan Nhạc đấy ru,
Ra đâu cũng ném quả cho tiếc gì.
(Quan Âm Thị Kính).
PHAN TIẾP DẪN 幡 接 引
Phan: Cây phướn. Tiếp
Dẫn: Vị Phật, còn gọi là Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, có nhiệm vụ tiếp dẫn
các chơn hồn đắc đạo đến cõi Cực Lạc Thế Giới.
Phan Tiếp Dẫn tức là cây phướn của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn dùng để dẫn dắt các chơn linh đắc Đạo.
Cảnh Thiên noi bước Hóa Công,
Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như
Lai.
(Kinh Thế Đạo)
Biếng thân hạc nội mây ngàn,
Nắm phan Tiếp Dẫn mở đàng Lôi
Âm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHAN TRẦN 潘 陳
Phan Trần là một quyển truyện lấy sự tích ở bên Tàu, về đời Tĩnh Khang và Thiệu Hưng nhà Tống.
Nội
dung truuyện là hai họ Phan, Trần đính ước cho hai con, Phan Tất Chính và
Trần Kiều Liên từ lúc còn ở bào thai. Hai trẻ chưa kịp thành hôn thì gặp thời
ly loạn phải lưu lạc. Tưởng cuộc tình duyên phải chịu dang dở, nhưng may thay
tình cờ hai trẻ gặp gỡ lại nhau, rồi vu quy và vinh quy cùng một ngày. Truyện
được viết theo thể thơ lục bát, dài 940 câu, người viết không đề danh tánh.
Kim, Kiều nọ, ước nguyền mấy độ,
Phan, Trần kia gắn bó bao lâu.
(Bần Nữ Thán).
Câu văn Hán Tống hay ghê gớm,
Quyển truyện Phan Trần thuộc
cháo chan.
(Thơ Trần Tế xương).
PHÀN ĐẰNG 樊 滕
Tức là Phàn Khoái và Đằng Công Hạ Hầu Đôn.
Phàn Khoái một viên mãnh tướng có nhiều chiến công, là vị tướng cứu nguy cho Hán Bái Công trong buổi tiệc tại Hồng Môn.
Đằng Công Hạ Hầu Anh, là một công thần trong thời nhà Hán, đã từng theo Hán Cao Tổ đi đánh Hung Nô, lập nhiều công lớn.
Xem:
Phàn Tráng Sĩ.
Phấp phới lá cờ trước gió;
huân lao xá kể thứ Phàn Đằng.
(Trương Lưu Hầu Phú).
PHÀN TRÁNG SĨ 樊 壯 士
Tức là Phàn Khoái, người ở đất Bái, chuyên nghề bán thịt chó. Khi Hán Cao Tổ khởi binh, ông tìm đến giúp và lập được nhiều chiến công.
Trong buổi tiệc tại Hồng Môn, Phạm Tăng muốn giết Bái Công nên lập kế sai Hạng Trang múa gươm giúp vui trong bữa tiệc, nhờ có Phàn Khoái mang gươm đi vào, khiến Hạng Trang không dám giết, nhờ vậy Bái Công mới trốn thoát được.
Xem: Hồng Môn tiệc.
Máy hiểm thâm đánh mái sơn dương,
Phàn tráng sĩ lúc nguy nghi phải gượng.
(Trương Lưu Hầu Phú).
PHẢN PHONG
DIỆT HOẢ 反 風 滅 火
Gió dội ngược tắt lửa.
Do
điển trong Hán Thư chép: Ông Lưu Côn làm quan Lịnh huyện Giang Lăng. Một hôm,
trong huyện gặp hoả hoạn, ông đứng hướng trước lửa cúi đầu, gió dội ngược thổi
tắt ngọn lửa. Do vậy, người đời sau có câu: Lưu Côn tể Giang Lăng, tích
nhật phản phong diệt hoả 劉 昆 宰 江 陵, 昔 日 反 風 滅 火,
nghĩa là ông Lưu Côn làm quan tể huyện Giang Lăng. Ngày trước có hoả tai, ông đứng
cuối đầu, dội gió tắt lửa.
PHẠN ĐIẾM 飯 店
Phạn: Cơm. Điếm: Tiệm, quán.
Phạn điếm tức là quán cơm, tiệm ăn.
Tới nơi lên bộ dùng dằng.
Vào nơi phạn điếm hỏi chừng trước
sau.
(Nhị Độ Mai).
PHẠN SÁT 梵剎
Phạn: Phật. Sát: Chùa.
Phạn sát tức là chùa thờ Phật.
Chốn Thiên Đường còn cách trở minh minh;
miền phạn sát, hỡi xa chưng vòi vọi.
(Sãi Vãi).
PHÁP BẢO 法 寶
Theo giáo lý nhà Phật, Phật có tam bảo, đó là Phật, Pháp, và Tăng. Như vậy, Pháp bảo là một trong tam bảo ấy.
Pháp
bảo thường dùng để chỉ giáo pháp của Phật hay chư vị Bồ Tát, hoặc giới luật
trong đời sống tu hành. Ngoài ra, Pháp bảo còn dùng để chỉ những vật dụng của
nhà tu như: Y bát, Ca sa, Tích trượng, chuông, khánh..v.v.
Bản sư rồi cũng đến sau,
Dạy đem pháp bảo sang hầu sư huynh.
(Truyện Kiều).
PHÁP CHUNG 法 鐘
Pháp: Đạo pháp. Chung: Chuông.
Pháp chung là chuông nhà Phật, tức chuông chùa.
Dắng dỏi chào ai tiếng pháp chung.
(Thơ Lê Thánh Tôn).
PHÁP DANH 法 名
Tên của một vị đạo, khác với tên đời, do vị thầy đặt ra cho lúc làm lễ quy y Tam bảo và thọ năm giới trở thành một Phật tử tại gia. Người tu sĩ không sử dụng tên đời nữa để biểu thị từ bỏ những lo âu, phiền não của đời sống thế tục.
Pháp
danh cũng có thể do mỗi đời truyền pháp, tiếp tục thứ tự lấy từ một chữ trong
bài kệ của vị tổ sư lưu truyền lại.
Áo xanh đổi lấy cà sa,
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
(Truyện Kiều).
PHÁP ĐÀN 法 壇
Pháp: Giáo pháp, giáo
lý của Phật. Đàn: Chỗ xây cao lên
hoặc đắp đất để làm nơi cúng tế.
Pháp đàn là nơi các nhà sư hay các thầy pháp bày ra để cúng tế.
Vùi hương chôn ngọc đã an,
Cửa thiền mới đặt pháp đàn làm
chay.
(Quan Âm Thị Kính).
PHÁP HÌNH 法 刑
Pháp: Luật. Hình: Chỉ hình phạt.
Pháp hình tức là hình phạt bị xử theo pháp luật.
Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
(Lục Vân Tiên).
PHÁP KHÍ 法 器
Pháp: Chữ dùng để chỉ
giáo pháp, giới luật hay những gì thuộc về nhà Phật. Khí: Đồ dùng.
Pháp khí gồm các thứ như chuông, mõ, khánh hay thanh la dùng để đánh trong lúc cúng tế.
Nỗi cơn lệ vũ sầu vân,
Vang hồi pháp khí rung cành
linh phan.
(Quan Âm Thị Kính).
PHÁP LUÂN 法 輪
Bánh xe pháp, tượng trưng cho giáo pháp của Phật. Bánh xe là biểu tượng cho chánh pháp được vận hành.
Pháp
luân thường được diễn tả bằng một bánh xe có tám nan (Căm xe), tượng cho Bát
chánh đạo, hoặc mười hai nan, tượng trưng cho Thập nhị nhân duyên.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương.
(Thập Loại Chúng Sinh).
PHÁP LUÂN
THƯỜNG CHUYỂN 法 輪 常 轉
Pháp luân: Bánh xe pháp, tượng
trưng cho giáo pháp của Phật. Thường chuyển: Luôn xoay chuyển.
Pháp luân thường chuyển là nói chánh pháp của Phật được vận hành từ tâm chứng ngộ của đức Phật đến tâm mê muội của chúng sinh, cũng như bánh xe pháp lăn chuyển dẹp tan tà kiến, phiền não vô minh, không bao giờ ngừng nghỉ.
Hộ giá Chí Tôn trước đến giờ,
Pháp luân thường chuyển máy thiên cơ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
PHÁP PHÙ 法 符
Pháp: Pháp thuật, phép
thuật. Phù: Bùa chú.
Pháp phù là bùa phép, tức là những thuật dùng bùa hay chú để chửa bịnh hoặc để trừ tà ma.
Vào nhà thưa với thầy Ngang,
Pháp phù đã đủ thày toan phương nào?
(Lục Vân Tiên).
PHÁT HOÀN 發 還
Phát: Gửi đi. Hoàn: Trở về.
Những gì mình đã gửi đi đều được trả trở lại, gọi là phát hoàn.
Ngỏ lời nói với băng nhân,
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
(Truyện Kiều).
PHÁT PHU 髮 膚
Phát: Tóc. Phu: Da.
Phát phu là tóc da, hai thứ tượng trưng cho thân thể con người.
Khổng
Tử có nói: Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm huỷ thương, hiếu
chi thuỷ dã 身 體 髮 膚, 受 之 父 母, 不 敢 毀 傷, 孝 之 始 也,
nghĩa là da tóc trong cơ thể ta là do cha mẹ sinh ra, nên giữ gìn đừng làm
thương tật, đó là nết hiếu đầu tiên vậy.
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa,
Có khi hình ảnh cũng là phát phu.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Trước sau vẫn chút bấy nhiêu,
Nặng vì cốt nhục phải liều phát phu.
(Tự Tình Khúc).
PHÁT TẤT ỨNG
HUYỀN 發 必 應 弦
Phát: Bắn ra. Tất: Ắt là. Ứng huyền: Trúng theo với sợi
dây cung dương ra.
Phát tất ứng huyền nghĩa là bắn ra thì ắt phải trúng theo với dây cung buông.
Trong
tác phẩm “Nữ Tú Tài”, Tuấn Khanh (Tức Phi Nga) đề vào mũi tên 8 chữ: Thỉ
bất vọng phát, Phát tất ứng huyền 矢 不 妄 發, 發 必 應 弦,
nghĩa là tên chẳng bắn bậy, bắn ra tất phải trúng theo với sợi dây cung.
Đề rằng: Phát tất ứng huyền,
Bắn con chim tước phải tên rõ ràng.
(Nữ Tú Tài).
PHÁT TIẾT 發 泄
Phát: Bắn ra. Tiết: Lộ ra ngoài.
Cái gì từ bên trong con người lộ rõ ra bên ngoài, gọi là “Phát tiết”.
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
(Truyện Kiều).
PHẠT KHA 伐 柯
Búa chặt cây, chỉ việc làm mối cho trai gái nên duyên vợ chồng. Người làm mai mối trong hôn nhân gọi là “Phạt kha nhân 伐 柯 人”.
Trong Kinh Thi có câu: Phạt kha như hà? Phi phủ bất khắc. Thú thê như hà? Phỉ môi bất đắc 伐 柯 如 何? 匪 斧 不 克, 娶 妻 如 何? 匪 媒 不 得, nghĩa là chặt cây như thế nào? Không có rìu chẳng được. Cưới vợ như thế nào? Không có ông mai chẳng được.
Xem: Rìu búa.
Phạt kha thi ấy đinh ninh,
Phỉ môi bất đắc, xin anh liệu lường.
(Thanh Hoá Quan Phong).
PHẨM BÌNH 品 評
Phẩm: Nhận xét. Bình: Khen chê hay dở.
Phẩm bình là nhận xét khen chê.
Chung
Vinh đời Nam Bắc triều bên Tàu, soạn ba quyển thi, liệt các bài thi ngũ ngôn từ
đời Hán đến đời Nguỵ gồm 103 nhà, theo sự nhận xét hơn kém mà chia làm ba phẩm:
Thượng, trung, hạ. Do vậy, sau này người ta mới dùng hai chữ “Phẩm bình” để nói
chuyện thơ.
Ao nghiên giá bút thảnh thơi,
Tây hồ tiên tích mấy nơi phẩm bình.
(Bích Câu Kỳ ngộ).
PHÂN BÀO 分 袍
Phân: Chia. Bào: Cái áo.
Phân bào nghĩa là chia vạt áo, nói về khi giã nhau mỗi người mỗi nơi.
Ngại ngùng thay, lúc phân bào!
Kẻ về tụ lý người vào ngọc kinh.
(Nhị Độ Mai).
PHÂN BĂNG 分 崩
Phân: Chia ra. Băng: Tan rã.
Phân băng là phân chia tan nát.
Ghét đời Thúc Quý phân băng,
Sớm đầu, tối đánh, lằng nhằng rối dân.
(Lục Vân Tiên).
PHÂN CƯƠNG 分 彊
Phân: Chia. Cương: Bờ cõi.
Phân cương tức là phân chia bờ cõi. Hoặc chỉ nơi giữa hai nước phân chia nhau.
Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông gia.
(Quốc Sử Diễn Ca).
PHÂN ĐỒ 分 途
Phân: Chia. Đồ: Đường.
Phân đồ nghĩa là chia tay nhau, mỗi người đi một ngả đường.
Từ khoa tân mão phân đồ,
Kẻ mừng gặp bước, người lo trở nghề.
(Hoa Tiên Truyện).
PHÂN KỲ 分 岐
Phân: Chia. Kỳ: Đường rẽ, ngả ba.
Phân kỳ tức là đi đến ngả ba, cùng chia tay nhau, mỗi người đi mỗi ngả.
Ngại ngùng thay, lúc phân kỳ,
Người về cố quốc, kẻ đi sa trường.
(Nhị Độ Mai).
PHÂN KÍNH RÃ
TRÂM
Phân kính: Chia tấm gương
soi. Rã trâm: Lìa chiếc trâm
cài tóc.
Gương và trâm là hai vật trang sức của người vợ, thế mà phải chia gương lìa trâm, tức là nói vợ chồng chia lìa, xa cách nhau.
Bây giờ phân kính rã trâm,
Tào khang ruồng rẫy sắc cầm lãng ngơ.
(Hứa Sử Tân Truyện).
PHÂN NHƯƠNG 分 攘
Phân: Lộn xộn, rối loạn. Nhương (Hay nhưỡng): Quấy rối.
Phân nhương là tức là gây rối loạn, lộn xộn.
Vốn xưa nhập sĩ nước Lương,
Binh qua gặp lúc phân nhương lại
về.
(Quốc Sử Diễn Ca).
PHÂN PHONG 分 封
Phân: Chia đất đai. Phong: Vua lấy tước phẩm, đất đai mà ban cho.
Phân phong tức là lấy đất đai cấp cho và phong tước phẩm.
Nước ta Nam Việt phân phong,
Hiệu Hồng Bàng Thị vốn dòng Thần Nông.
(Hạnh Thục Ca).
PHÂN VINH 分 榮
Phân: Chia. Vinh: Tươi tốt, vẻ vang.
Phân vinh tức là cùng chia xẻ những điều vẻ vang, vinh hiển.
Ơn trên: Tử ấm thê phong,
Phân vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
PHẤN ĐẠI 粉 黛
Phấn: Một loại bột dùng
thoa mặt. Đại: Chất đen làm bằng
vỏ ốc, đàn bà dùng để kẻ lông mày.
Phấn đại cũng như son phấn, là vật trang điểm của đàn bà con gái, nên được dùng để chỉ phụ nữ.
Ấm lạnh dốc tròn gương phấn đại,
Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.
(Đạo Sử).
PHẤN HỒ
Hồ tức hồ điệp 蝴 蝶 là con bươm bướm.
Phấn hồ là con bươm bướm có phấn. Do tích Trang Châu nằm mơ thấy mình hóa ra con bươm bướm trắng. Nói bóng về giấc mơ.
Xem: Trang Châu.
Nghĩ riêng, riêng những ăn năn,
Phấn hồ, còn đó, tinh thần nào đâu?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
PHẤN HƯƠNG 粉 香
Phấn: Phấn thoa mặt. Hương: Mùi thơm.
1.- Phấn hương, chỉ son phấn là những thứ đồ vật trang điểm của phụ nữ.
2.-
Phấn hương còn có nghĩa “Buôn phấn bán hương”, tức là chỉ gái làng chơi.
Lánh buồn lại lạc lối bi,
Rẻ duyên kim cải, đem bì phấn hương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHẤN LỢT
HƯƠNG TÀN
Phấn hương là vật trang sức, dùng để chỉ sắc đẹp của người phụ nữ. Lợt tàn, cũng như lợt phai hay tàn phai.
Phấn
lợt hương tàn là nói nhan sắc tàn phai.
Chừng cơn phấn lợt hương tàn,
Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHẤN SON
Phấn son là vật trang điểm của phụ nữ: Phấn dùng để dặm mặt, son dùng để thoa môi, chỉ vật trang điểm.
Nghĩa
bóng: Phấn son chỉ người đàn bà con gái.
Chiêu hoàng là phận nữ nhi,
Phấn son gánh việc gian nguy được nào!
(Quốc Sử Diễn Ca).
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.
(Gia Huấn Ca).
Thương gìn lúc ốm khi đau,
Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hễ thấy họ phấn son thơ thới,
Mình lại dâng cho tới dầu thơm.
(Phương Tu Đại Đạo).
PHẦN DU 枌 榆
Tên hai thứ cây: Cây phần và cây du thường trồng ở trong làng, nên người ta thường gọi chỗ quê hương, xứ sở là “Phần du”.
Có
sách lại cho rằng “Phần Du” là tên một làng ở Ấp Phong, quê hương của Hán Cao
Tổ. Phần du cũng chỉ quê hương.
Phần du lẽo đẽo thương quê cũ,
Tùng cúc bù trì nhớ việc hằng.
(Quốc Âm Thi Tập).
Phần du nẻo Bắc ngừng trông,
Nước non cách mấy mươi trùng xa xa.
(Tự Tình Khúc).
PHẬN BẠC
Bởi chữ “Bạc phận 薄 分” là số phận mỏng manh, tức số phận gặp những điều không may mắn.
Bạc
là mỏng, nhưng trong văn chương người ta lại thường nói chữ bạc là màu trắng:
Bạc như vôi.
Phận bạc ngậm ngùi người chín suối,
Duyên may dun dủi khách ba sinh.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
Phận sao phận bạc như vôi,
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
(Truyện Kiều).
Âm Dương cách bóng sớm trưa,
Thon von phận bạc không vừa hiếu
thân.
(Kinh Thế Đạo).
Quí sang mặc kẻ võng dù riêng,
Phận bạc lo cho hết kiếp khiên.
(Đạo Sử).
Phận sao phận bạc như vôi,
Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHẬN BÈO MÂY
Phận bèo mây là nói thân phận của người con gái linh đinh, bấp bênh như mây trôi bèo nổi, không có định hướng, không chỗ nương tựa.
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy thân này nương đâu.
(Ai Tư Vãn).
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
(Truyện Kiều).
PHẬN CẢI
DUYÊN KIM
Phận cải duyên kim tức là nói duyên phận tốt đẹp, khắng khít nhau như nam châm hút kim loại, hổ phách hút hột cải.
Xem:
Kim cải.
Cũng là phận cải duyên kim,
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
(Truyện Kiều).
PHẬN LINH
ĐINH
Phận linh đinh là phận trôi nổi, lênh đênh không cố định. Ý muốn nói phận người con gái như “Hạt mưa”, hoặc “Bèo nước” trôi nổi mênh mông, chẳng có sự lựa chọn nào.
Hạt mưa chút phận linh đinh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
(Gia Huấn Ca).
PHẬN LIỄU 分 柳
Hay “Phận liễu bồ”.
Liễu là loại cây yếu đuối mỏng mành, Bồ là cỏ bồ, một loại cây yếu ớt, nên người ta thường ví với người phụ nữ mềm yếu.
Phận liễu hay phận liễu bồ dùng để chỉ số phận của người đàn ba con gái.
1.-
Phận liễu:
Tủi vì phận liễu một cành,
Liễu đi thì để mối tình cậy ai?
(Quan Âm Thị Kính).
Sông Ngân chưa bắc cầu Ô Thước,
Phận liễu còn e trận gió mưa.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
2.-
Phận liễu bồ:
Hễ người mạnh thì hay cậy sức,
Phận liễu bồ lấy lực mưu mô.
(Phương Tu Đại Đạo).
PHẬN NGA MY
Phận: Phần chịu nhận lấy. Nga
my: Lông mài phụ nữ đẹp giống như con ngài tằm.
Phận nga my là phận sự của người con gái đẹp.
Trau giồi cho xứng phận nga mi,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
PHẬN TIỆN TỲ
Phận: Thân phận. Tiện
tỳ 賤 婢: Người đầy tớ gái hèn kém.
Phận tiện tỳ là thân phận như là một con đầy tớ gái hèn hạ, xấu xa, ý xem thường người vợ.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng bì đồng nhau.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHẤT CHỦ 拂 麈
Phất chủ, Còn gọi phất trần là một thứ vật dụng gồm có cây cán ở đầu có chùm đuôi lông, dùng để phủi bụi hoặc đuổi ruồi muỗi. Cũng là một vật của các Tiên gia.
Theo Tự điển Thiều Chửu, chủ 麈 là một giống thú thuộc loài nai, như con hươu mà to, lúc đi đàn hươu theo sau, đuôi nó phẩy sạch bụi, ngày xưa thường dùng làm cái phất trần; vì thế nên có khi gọi cái phất trần là chủ vĩ 麈 尾.
Cây phất trần là bửu vật, có phép thuật rất huyền diệu của Thái Thượng Lão Quân, nên các Tiên gia thường có cầm cây phất chủ.
Xem:
Phất trần.
Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
Hiệp qui Tam Giáo hữu cầu chí chơn.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Xuân Thu định vững ngôi lương tể,
Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Một kẻ Tiểu đồng phò Phất chủ,
Ðôi nàng Tiên nữ quạt hương trầm.
(Thiên Thai Kiến Diện).
PHẤT TRẦN 拂 塵
Phất trần cũng là cây phất chủ, là một bửu vật, có phép thuật rất huyền diệu của Thái Thượng Lão Quân, nên các Tiên gia thường có cầm cây phất trần.
Xem:
Phất chủ.
Tiên phong phủi ngọn phất trần,
Liên đài đỡ gót đến gần Tây phương.
(Kinh Thế Đạo).
Trừ trần cấu, xủ phất trần,
Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phất trần đưa sẵn bền tay níu,
Cửa tịnh đã đành phận náu nương.
(Đạo Sử).
PHẤT TRI
NHƠN SỰ 弗 知 人 事
Phất tri nhơn sự là chẳng biết việc người, dùng để chiết tự chữ Phật. Một bên chữ “Nhơn 人” là người, một bên chữ “Phất 弗” là chẳng, ghép lại là chữ “Phật 佛”.
Vậy
gọi chữ Phật là phất tri nhơn sự.
Suy chữ nọ cho chơn,
Chữ Phật là "phất tri nhơn sự".
(Sãi Vãi).
PHẬT 佛
Do chữ Phạn là “Buddha”.
Chữ “Buddha”, Hán phiên âm là Phật, Việt phiên âm là Bụt. Theo Phạn ngữ, chữ Budh là một động từ có nghĩa là thức dậy, thức tỉnh, giác ngộ, hiểu biết.
Như vậy, Phật là người giác ngộ, người tỉnh thức, người sáng suốt hoàn toàn, thấy được chân tướng vũ trụ và cuộc đời, vượt thoát hết mọi khổ đau. Tóm lại, Phật là danh từ chung để tôn xưng những bậc giác ngộ có đầy đủ ba đức: Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.
Nhân sinh thành Phật dễ đâu,
Tu hành có khổ rồi sau mới thành,
(Quan Âm Thị Kính).
Ngán thay cái kiếp con người,
Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHẬT ẤY LÀ
LÒNG
Do câu “Phật tức tâm 佛 即 心” Phật là lòng, Phật là chất liệu của từ bi và tuệ giác trong lòng. Như vậy, tìm Phật ở đâu? Tìm Phật ở trong chính tự tâm chúng ta không đâu khác, ngoài tâm không có Phật.
Chúng
sanh điên đảo, vọng động chấp Phật ở bên ngoài mà lìa bỏ cái tâm Phật vốn có
sẵn của mình.
Phải suy Phật ấy là lòng,
Như đường gia thất cũng không cấm nào.
(Quan Âm Thị Kính)
PHẬT BIỂU 佛 表
Phật: Đức Phật. Biểu: Bài văn trình lên vua.
Bởi chữ “Phật cốt biểu 佛 骨 表”, là một biểu văn của Hàn Dũ tâu lên vua Đường.
Nguyên
Đường Hiến Tông say mê đạo Phật, cho rước cốt Phật vào cung gấm. Hàn Dũ dâng
biểu cực lực cản ngăn. Vua không nghe và đày ông ra làm thứ sử đất Triều Châu.
Ta từng coi sách nhà Đường,
Thấy lời "Phật biểu" họ Hàn biết tin.
(Dương Từ Hà Mậu).
PHẬT ĐÀI 佛 臺
Thường muốn thờ đức Phật, người ta phải xây một cái đài cao để dựng tượng Phật trên đó, nếu đài xây trong chùa thì gọi là điện Phật, nếu đài xây ngoài chùa thì gọi là “Phật đài”.
Nén hương đến trước Phật đài,
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
(Truyện Kiều).
PHẬT PHÁP 佛 法
Pháp là một danh từ bao quát có nhiều ý nghĩa: Đạo, Quy luật, giáo lý của Đức Phật, giới luật, chân lý, và mọi hiện tượng…
Như
vậy, Phật pháp bao gồm đạo, giáo lý, giới luật của Đức Phật, tức là nằm trong
Tam Tạng Kinh của Phật giáo. Tam Tạng Kinh do 500 vị A La Hán, tức là những Đệ
tử của Đức Phật kết tập, sau khi Phật nhập Niết Bàn, dưới sự chủ toạ của Nhứt
Tổ Ma Ha Ca Diếp, chia thành ba tạng kinh: 1.- Kinh tạng là những lời Phật
thuyết, 2.- Luật tạng là những giới luật do Đức Phật chế định, 3.- Luận tạng là
tất cả những bài luận trình bày, giải thích giáo lý của Đức Phật.
Trừ yêu có Thánh Tề Thiên,
Qui y Phật pháp ở miền Tây phương.
(Xưng Tụng Công Đức).
PHẬT TÍCH 佛 跡
Phật tích là dấu vết của Phật.
Tục
truyền rằng nơi động Hương Tích có Phật tích, tức là có những dấu vết của đức
Phật Quan Thế Âm hoá kiếp ở đó.
Này suối Giải oan, này chùa Cửa võng,
Này am Phật tích, này động Tuyết quỳnh.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
PHẬT TỔ 佛 祖
Phật: Đức Phật. Tổ: Người mở đầu một tông phái.
1.-Phật tổ chỉ đức Thích Ca Mâu Ni, vì Ngài là vị Phật khai sáng một nền tôn giáo, nên Ngài được coi là vị tổ của Phật Giáo.
Thỉnh ông Phật tổ A Di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp ông.
(Lục Vân Tiên).
Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,
A Di Đà Phật độ chúng dân,
(Kinh Tận Độ).
2.- Phật tổ còn có nghĩa là Phật và tổ sư.
Tổ sư là một người khai sáng ra một tông phái trong Phật Giáo, mỗi tông phái đều có Tổ sư riêng, như Đạt Ma là Tổ sư của Thiền Tông.
Chẳng đặng đừng, gắng công san bổ,
Lo đền ơn Phật, Tổ phải đang
(Hứa Sử Tân Truyện).
PHÉP CÔNG
Luật pháp công cộng, hay nói khác hơn “Phép công”, tức là phép nước áp dụng chung cho tất cả mọi người trong nước.
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Phép công chiếu án luận vào.
Có hai đường ấy muốn sao mặc mình.
(Truyện Kiều).
Ví biết phép công cơ thưởng phạt,
Đường tu sớm bước chí thong-dong.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
PHÉP KHUÔN
Tức khuôn phép, là những phép tắc làm khuôn mẫu trong gia đình.
Dù chàng đổi dạ én anh,
Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHÉP NHÀ
Phép nhà dịch từ chữ “Gia pháp 家 法”, nghĩa là những phép tắc được dùng để cư xử trong nhà.
May quan cả, rủi cho lê thứ,
Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHÉP PHÂN
THÂN
Phép phân thân là một pháp thuật chia thân thể của mình để hiện diện được nhiều nơi trong một lúc.
Các
Đấng Thiêng Liêng vì phải độ chúng sanh ở khắp mười phương thế giới, nên phải
dùng phép phân thân để thị hiện khắp mọi nơi.
Xiên lòng ngoài mặt cũng là ngay,
Biết phép phân thân gẫm quá tài.
(Đạo Sử).
PHẾ HƯNG 廢 興
Phế: Ngưng bỏ. Hưng: Nổi lên.
Phế hưng là nói sự sụp đổ, hay sự hưng thịnh của các triều đại, nghĩa bóng là suy thịnh.
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
(Thơ Huyện Thanh Quan).
Phế hưng đổi mấy cuộc cờ,
Thị phi chép để đến giờ làm gương.
(Quốc Sử Diễn
Ca).
PHẾ THẠCH 肺 石
Phế thạch là một loại đá đỏ, tức là đá phổi. Đời nhà Châu, ở cửa thành có đặt một tảng phế thạch, những người bị oan khuất được đến đó bầy tỏ ý nguyện của mình, một viên quan ghi lấy, rồi tâu lên nhà vua.
Hiểu từ phế thạch khai phong khứ,
Mộ hạng Ô Đài quải nguyệt quy.
(Thơ Cao Bá Quát).
PHỆ TÊ HÀ CẬP 噬 臍 何 及
Phệ tê: Cắn rốn. Hà cập: Không sao kịp.
Phệ tê hà cập là cắn rốn sao kịp, là có ý nói một loại chồn hương ở dưới rốn có một loại xạ rất thơm. Mỗi khi bị săn đuổi và biết không sao thoát được các thợ săn, nó liền cắn lấy cục xạ ấy, nuốt đi vì nó biết do cục xạ ấy mà nó bị hại. Nghĩa bóng là ăn năn, hối hận không kịp.
Quan Vân Trường gặp Lữ Mông,
dễ sa cơ ấy;
mảng thấy chữ “Phệ tê hà cập”,
dạ những ngùi ngùi.
(Văn Tế Nguyễn Biểu).
PHI ĐẠO TẮC
DÂM 非 盜 則 淫
Phi đạo: Không phải là kẻ
trộm. Tắc dâm: Ắt là kẻ gian dâm.
Phi đạo tắc dâm là không phải bọn ăn trộm thì là kẻ tà dâm. Câu chữ trong luật pháp ngày xưa có câu: Dạ gian vô cố nhập nhân gia, phi đạo tắc dâm 夜 間 無 故 入 人 家, 非 盜 則 淫, nghĩa là ban đêm vô cớ vào nhà người ta, nếu không phải là đi ăn trộm thì là tà dâm.
Cóc kia! đâu đó tối tăm?
Dạ gian phi đạo tắc dâm chẳng
lành.
(Truyện Trê Cóc).
PHI ĐIỂU THẤT
QUẦN 飛 鳥 失 群
Phi điểu: Chim bay. Thất
quần: Mất bầy, lạc bầy.
Phi điểu thất quần là chim bay bị lạc đàn, ý nói bị bơ vơ, lạc lỏng không biết nương tựa vào đâu.
Hình như phi điểu thất quần,
Lạ lùng khôn nẻo ẩn thân náu hình.
(Nữ Tú Tài).
PHI HUỲNH 飛 螢
Phi: Bay. Huỳnh: Con đom đóm.
Phi huỳnh là con đom đốm bay ban đêm. Đom đốm là loại côn trùng thân tựa con ruồi, có hai cánh, sau bụng có một chất phát ra ánh sáng vào lúc ban đêm, hay nơi chỗ tối, thường bay trên cây cỏ vào mùa hè và mùa thu.
Vắng tanh nào thấy vân mồng,
Hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
PHI PHÙ TRÍ
QUỶ 非 符 致 鬼
Phi phù: Thổi bùa bay. Trí
quỷ: gọi quỷ đến.
Phi phù trí quỷ có nghĩa là đốt lá bùa thổi bay đi để gọi quỷ đến.
Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
(Truyện Kiều).
PHI TẦN 妃 嬪
Phi Tần là hai trong nhiều chức tước mà vua phong cho các bà vợ. Hoàng hậu là phẩm cao nhất, kế là Phi, tiếp theo là Tần.
Chữ
Phi tần được người ta dùng để gọi chung các bà vợ của vua.
Đòi đẳng thấp cao,
Phận quý tiện tôn ty có khác.
Toan bề ân đãi,
Chức phi tần tường ngự càng nhiều.
(Cung Trung Bảo Huấn).
Thúy hoàn riêng được hẳn hoi,
Đổi hình tỳ thiếp, thay ngôi phi tần.
(Nhị Độ Mai).
PHI TINH ĐÁI
NGUYỆT 披 星 戴 月
Mang sao đội nguyệt, ý muốn nói đêm ngày đi lại cực nhọc, làm lụn vất vả.
Sách Lữ Thị Xuân Thu chép: Ông Mật Tử Tiện, tên hiệu là Bất Tề, làm quan đất Đan Phụ, ông ngồi khảy đờn mà địa phương được trật tự, ông không ra khỏi dinh mà xứ sở được an trị.
Ông Vu Tử Mã Kỳ về sau cũng làm quan tại đất Đan Phụ, mang sao ra (Đi sớm), đội nguyệt về (Về tối), đêm ngày không rảnh công việc, cho nên đất Đan Phụ mới được trị an. Do đấy, ông Tử Kỳ mới hỏi ông Tử Tiện rằng: Ngài khảy đờn mà đất Đan Phụ trị, chẳng thấy ngài nhọc với công việc, sao vậy? Ông Tử Tiện nói: Tôi dùng người, ngài dùng sức! Kẻ dùng người thì rảnh rang, kẻ dùng sức thì nhọc nhằn. Ông Tử Kỳ nói: Thế là tôi thi thố chưa đúng chỗ vậy.
Phi tinh đái nguyệt mang mang khứ.
Vạn lý bôn hành đáo Giới quan.
(Nhạc Hoa Linh).
PHI THỊ 非 是
Do chữ “Thị phi 是 非” là phải quấy.
Phi: Quấy, trái. Thị: Phải.
Phi thị cũng như thị phi chỉ sự đúng sai, phải quấy.
Xem:
Thị phi.
Nên hư trối mặc đời phi thị,
Lam lụ buồn cười bấy lũ trâu.
(Đạo Sử).
Phi thị mặc đời nơi quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách Thiên Thai.
(Đạo Sử).
PHI THƯỜNG 非 常
Chẳng phải là bình thường. Hán Thư có câu: Cái hữu phi thường chi công, tất đãi phi thường chi nhân 蓋 有 非 常 之 功, 必 待 非 常 之 人, tức là bởi có công phi thường, nên phải đợi kẻ phi thường.
Đồng
nghĩa với chữ “Phi phàm 非 凡”,
tức là vượt hẳn sự tầm thường.
E thay những dạ phi thường,
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
(Truyện Kiều).
Từ khi gặp biến phi thường,
Chẳng hay đâu đấy tìm phương lánh mình.
(Nhị Độ Mai).
Ngồi trông con đặng phi thường,
Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh.
(Tán Tụng Công Đức).
Cương trực lòng như người Thánh trước,
Trước làm quân tử tánh phi thường.
(Đạo Sử).
PHÍ PHÒNG 費 房
Tức Phí Trường Phòng 費 長 房 là người Đông Hán, quê ở Nhữ Nam theo vị tiên là Hồ Công vào núi học đạo. Học không thành xin về, Hồ Công cho một cây gậy và nói: Cây gậy thâu ngắn đường đất, đi đâu cũng đến cả. Phí Trường Phòng cỡi lên gậy, chỉ chốc lát là về đến nhà.
Phí
Trường Phòng có dạy một người học trò là Hoàn Cảnh, gần đến ngày trùng cửu (Tức
mồng 9 tháng 9), ông bảo cho Cảnh biết rằng: Vào ngày ấy, cả nhà ngươi sẽ gặp
cảnh tai biến, mỗi người phải lấy nhánh hoa Thù du buộc vào tay, lên núi cao
uống rượu cúc thì sẽ tránh được tai hoạ. Hoàn Cảnh làm theo lời thầy. Chiều hôm
đó, Cảnh trở về nhà thấy gà chó trâu dê đều bị chết sạch.
Việc chi mà gã Phí Phòng,
Hoà hay nhủ khách đều cùng lên cao.
(Tứ Thời Khúc Vịnh).
PHÌ GIA 肥 家
Phì: Mập béo. Gia: Nhà.
Bởi chữ “Vinh thân phì gia 榮 身 肥 家” là làm vẻ vang cho bản thân mình, và béo mập cho gia đình mình.
Phì
gia tức là chỉ biết lo cho gia đình mình to béo.
Làm tôi chẳng giữ sạch trong,
Phì gia ích kỷ thửa lòng làm sao.
(Hạnh Thục Ca).
PHÌ MÃ KHINH
CỪU 肥 馬 輕 裘
Phì mã: Ngựa béo. Khinh
cừu: Áo cừu nhẹ.
Phì mã khinh cừu là ngựa béo áo cừu nhẹ, dùng để tả cảnh giàu sang quyền quý.
Bài
thơ cổ có câu:
Bồng đầu cấu diện chỉ như thế,
Phì mã khinh cừu hỏi ở đâu?
(Cổ Thi).
PHỈ MÔI BẤT
ĐẮC 匪 媒 不 得
Phỉ môi bất đắc là không có ông mai chẳng được, ý nói phải nhờ mai mối.
Do trong Kinh Thi có câu: Phạt kha như hà? Phi phủ bất khắc. Thú thê như hà? Phỉ môi bất đắc, nghĩa là chặt cây như thế nào? Không có rìu chẳng được. Cưới vợ như thế nào? Không có ông mai chẳng được.
Xem: Phạt kha.
Phạt kha thi ấy đinh ninh,
Phỉ môi bất đắc, xin anh liệu lường.
(Thanh Hoá Quan Phong).
PHỈ PHONG 菲 葑
Tên hai thứ rau: Rau phỉ rau phong, dùng để chỉ quê mùa mộc mạc.
Kinh
Thi có câu: Thái phong thái phỉ 采 葑 采 菲,
nghĩa là hái rau phong hái rau phỉ. Hai thứ rau này nhà nghèo thường hái để ăn,
nên người nghèo cũng gọi là phong phỉ.
Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong.
(Truyện Kiều).
PHIÊN LY 藩 籬
Phiên: Dãy hàng rào. Ly: Hàng rào tre.
Phiên ly chỉ hàng rào chung quanh nhà.
Trong thời phong kiến, nhà vua phong đất đai chung quanh cho các hoàng thân để giúp triều đình giữ bờ cõi, tựa như hàng rào che chỡ cho vườn nhà.
Do đó, chữ “Phiên ly” còn có nghĩa là che chỡ cho triều đình.
Thúc phụ là lương đống Hàn gia,
Bài thành thiệt phiên ly ngã quốc.
(Nhạc Hoa Linh).
Mười năm chuyên mặt phiên ly,
Uy gia bốn cõi, ân thùy một châu.
(Quốc Sử Diễn Ca).
PHIÊN QUỐC 藩 國
1.- Phiên Quốc là các nước chư hầu.
Phiên: Che chắn. Quốc: Nước.
Vua phong cho chư hầu đất đai thành một nước nhỏ cai trị để bảo vệ đất đai chung quanh nhà vua, gọi là phiên quốc.
2.-
Phiên Quốc còn dùng để gọi nước Phiên, một nước ở phương bắc Trung Quốc, tức là
Hung Nô hay rợ Hồ.
Nơi Phiên quốc xôn xao lượng thảm,
Hạnh Nguơn xưa đã dám hy sinh.
(Nữ Trung Tùng Phận.
PHIÊN THẦN 藩 臣
Phiên: Đất đai bảo vệ
cho nhà vua. Thần: Bề tôi.
Phiên thần là một viên quan có uy quyền lớn lao, được vua phong đóng giữ để bảo vệ lãnh thổ của nhà vua. Vị phiên thần đó, gọi là quan phiên trấn.
Tướng môn nối chức phiên thần,
Con là Tuệ Độ thêm phần uy danh.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Binh qua trải bấy nhiêu ngày,
Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần.
(Quốc Sử Diễn Ca).
PHIÊN VƯƠNG 藩 王
Hay “Phan vương”.
Phiên: Che chắn. Vương: Một cái tước lớn vua phong cho các hoàng thân hay các quan
đại thần.
Phiên vương là một tước vương phong cho các chư hầu cai trị để bảo vệ nhà vua.
Kìa Văn Đế vua hiền Hán đại,
Vâng ấn phong ngoài cõi Phiên vương.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
Đều thời kính phục uy trời,
Xưng thần chức chịu cõi ngoài Phiên
vương.
(Song Tinh Bất Da).
Trà mi kém sắc hơn hường,
Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHIẾN BỐI DIỆP
Bối diệp 貝 葉 tức là lá cây bối.
Ngày
xưa bên xứ Ấn Độ khi chưa phát minh ra giấy, kinh Phật thường được chép trên lá
bối, nên gọi là phiến lá bối.
Kinh Pháp Hoa giảng đã mưa sùng sục,
đượm áo nạp đùng đùng;
Phiến bối diệp tụng thổi gió hiu hiu,
quạt lòng trần thẩy thẩy.
(Thập Giới Cô Hồn).
PHIỀN LUỴ 煩 累
Phiền: Rắc rối. Luỵ: Ràng buộc.
Phiền luỵ là ràng buộc những việc phiền phức, hay rắc rối.
Chẳng lợi danh gì lại hoá hay,
Chẳng ai phiền luỵ chẳng ai rầy.
(Thơ Nguyễn Công Trứ).
PHIỀN NÃO 煩 惱
Phiền não là buồn bực.
Theo
Phật, phiền não là những tâm hành có tính cách tiêu cực, có tác dụng làm náo
loạn, làm cho mất đi sự an vui. Có ba loại phiền não chính: Tham, sân, si và
sáu thứ phiền não căn bản là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, Đó là sáu phiền
não gốc, có khả năng làm phát sinh ra nhiều thứ phiền não khác.
Song đường thấy sự ngạc nhiên,
Ruột tằm bối rối, thêm phiền não ra.
(Quan Âm Thị Kính).
Biết đâu rằng quỉ rằng tiên,
Một may một rủi thôi phiền não chi.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Sống đã chịu một đời phiền não,
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
(Thập Loại Chúng Sinh).
Nương phướn Tây Thiên về cảnh tịnh,
Bỏ nơi phiền não chịu ai bi.
(Đạo Sử).
PHIỆT DUYỆT
Ngày xưa, triều đình viết công trạng cho các vị công thần vào một cái bảng đem treo bên tả, gọi là “Phiệt”, treo bên hữu gọi là “Duyệt”.
Về
sau, người ta gọi những gia đình quyền quý là “Phiệt duyệt”.
Mở dòng phiệt duyệt, rạng nền tổ tông.
(Thơ Nguyễn Khuyến).
PHIẾU MAI 標 梅
Quả mơ rụng.
Bởi câu: Phiếu mai vị hôn kỳ dĩ quá 標 梅 謂 婚 期 已 過, phiếu mai là nói hôn kỳ đã qua.
Kinh Thi có câu: Phiếu hữu mai, kỳ thật thất hề. Cầu ngã thứ sĩ, đãi kỳ kiết hề 標 有 梅 其 實 七 兮, 求 我 庶 士, 待 其 吉 兮, nghĩa là có bảy ô mai rụng, tìm bạn thứ dân ta, kịp lúc nó tốt lành. Ý muốn nói quả mai đã rụng tức đến thời kỳ con gái nên lấy chồng, nếu không thì hôn kỳ sẽ qua mất.
Phiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh.
(Thơ Hồ Xuân Hương).
PHIẾU MẪU 漂 母
Bà mụ giặt lụa.
Điển tích chép trong Sử Ký: Lúc còn hàn vi, Hàn Tín ngồi câu dưới thành. Gần đó, có nhiều bà làm nghề giặt hàng lụa, trong đó có bà thấy Hàn Tín đói, mới cho cơm ăn, giúp hơn mười ngày như vậy. Bà ấy được gọi là “Phiếu mẫu”.
Tín nói rằng: Tôi nguyện sẽ đền đáp ơn nặng của bà. Nghe vậy, bà giận nói: Làm người trượng phu, không kiếm đủ miếng ăn, tôi thấy thương tình cấp dưỡng, chứ đâu phải mong đền đáp?
Sau
này, Hàn Tín được phong vương, mời bà phiếu mẫu đến tặng nghìn vàng.
Thế này của chửa xứng công,
Nặng ơn Phiếu mẫu, nhẹ lòng Vương tôn.
(Truyện Phan Trần).
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho
cân.
(Truyện Kiều).
Cơm Phiếu Mẫu hẩm xì,
đòi tuế nguyệt phải ngậm ngùi tân khổ.
(Tài Tử Đa Cùng Phú).
PHÍM ĐỒNG
Phím: Phím đàn. Đồng: Gỗ ngô đồng.
Phím đồng là cây đàn làm bằng loại gỗ cây ngô đồng 梧 桐, tức gỗ vong.
Có khi vắng vẻ thư phòng,
Đốt lò hương giở phím đồng ngày
xưa.
(Truyện Kiều).
PHÍM LOAN
Trên cây đàn có Loan phụng trụ là cái trục dây đàn đóng kề nhau. Chim loan là chim mái, chim phụng là chim trống. Loan phụng ví như vợ chồng.
Phím
loan là cái phím đàn cũng có đôi, được gắn chặt keo, chế bằng máu chim loan để
ví vợ chồng.
Buồng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
(Truyện Kiều).
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại
chùng.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.
Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHÍM TƠ ĐỒNG
Phím: Phím đàn. Tơ đồng: Dây tơ và đàn làm bằng gỗ ngô đồng.
Phím tơ đồng là phím đàn làm bằng gỗ ngô đồng và dây đàn bằng dây tơ. Ý nói tình yêu vợ chồng hoà thuận, khắng khít nhau.
Rủi ro khi rã phím tơ đồng,
đình thuyền bá thà cam một lẻ.
(Tử Tế Mẫu Văn).
PHÓ CỬ 赴 舉
Phó: Đi đến. Cử: Cất lên, cử đến.
Phó cử là cử đến.
Nghe lời như dẹp cơn nồng,
Nhân kỳ phó cử quyết lòng tầm
phương.
(Hoa Tiên Truyện).
PHÓ DUYỆT 傅 說
Phó Duyệt là một nhà chính trị có tài ngang với Y Doãn. Ông còn có tên khác nữa là Phó Nham. Sách Thượng Thư chép: Đời Thương, thời vua Cao Tông Võ Định, Phó Duyệt ở ẩn cày ruộng ở đất Bản Trúc. Vua Cao Tông nằm chiêm bao thấy Trời cho một vị tướng hiền giúp nước, mới khiến thợ vẽ hình, rồi theo hình mà dò tìm thì được Phó Duyệt.
PHÓ Y 傅 伊
Phó: Tức là Phó Duyệt,
một vị Tể tướng đời nhà Ân, sinh quán ở đất Bản Trúc. Tương truyền, thời hàn
vi, ông phải đi cuốc đất ở Phó Nham để độ nhựt. Nhờ điềm mộng thấy trời ban cho
vị hiền tài, vua Ân Cao Tông mới rước về đãi như bậc Thượng phụ. Từ đó, Phó Duyệt
đem hết tài đức dốc lòng lo cho đất nước nhà Ân.
Y: Tức là Y Doãn, một
vị hiền tướng đời nhà Thương, tên Chí, cày cấy ở đất Hữu Sằn. Vua Thành Thang
ba lần đem lễ vật đến mời mới theo về giúp, lập nên công lớn cho nhà Thương.
Gió thanh hay hẩy gác vàng,
Thảnh thơi chèo Phó, nhẹ nhàng
gánh Y.
(Truyện Hoa Tiên).
Ông Y ông Phó ôm
tài,
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu?
(Lục Vân Tiên).
PHÓ KINH 赴 京
Phó: Đi đến. Kinh: Chỉ kinh đô.
Phó kinh là đi đến Kinh đô.
Mới vâng ấm bổ phó kinh,
Đến mừng nhân kể ngọn ngành sự em.
(Hoa Tiên Truyện).
PHÓ LỴ 赴 蒞
Phó: Đi đến. Lỵ: Đi đến nơi làm việc quan.
Phó lỵ là đến nơi được bổ nhiệm để nhận công việc, hay nói khác hơn, quan chức đến nhận nhiệm sở.
Xem:
Phó nhậm.
Yên xong trở mũi thuyền đi,
Kẻ thì phó lỵ người thì tiến kinh.
(Nhị Độ Mai).
PHÓ NHẬM 赴 任
Phó: Đi đến. Nhậm (Hay nhiệm): Gánh vác.
Phó nhậm là đi đến chỗ làm việc quan, tức đến nhận nhiệm sở.
Hoạ là dun rủi gặp nhau,
Vội vàng phó nhậm giục mau đăng
trình.
(Ngọc Kiều Lê).
PHÓ QUAN 赴 官
Phó: đi đến. Quan: Viên chức triều đình cai trị ở địa phương.
Phó quan là đi đến nhận chức quan.
Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.
(Truyện Kiều).
PHÓ THANG 赴 湯
Phó: Đi đến. Thang: Nước nóng, nước sôi.
Phó thang là lội trong nước sôi nước nóng, ý chỉ gặp cảnh dầu sôi nước bỏng.
Phép hay đạo hoả phó thang.
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.
(Lục Vân Tiên).
PHÒ LƯU DỰNG
THỤC
Phò Lưu: Theo phò tá Lưu Bị. Dựng
Thục: Xây dựng nên nghiệp nhà Thục.
Phò Lưu dựng Thục là theo phò tá Lưu Bị, giúp đánh dẹp bắc để dựng nên nhà Thục.
Xem
Quan Võ.
Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,
Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.
(Đạo Sử).
PHÒ MÃ 駙 馬
Phò: Hay phụ là ngựa
kéo xe phụ, đi theo hầu chiếc xe của vua. Mã: Ngựa.
Đời nhà Hán có chức Phò mã đô uý là một chức quan võ, hàm tòng tam phẩm, theo trông những chiếc xe đi hầu xe vua. Đến sau này, người nào lấy công chúa thì giữ chức Phò mã đô uý.
Ở
Việt Nam ta, người nào được làm rể vua đều gọi là Phò mã.
Mặc lòng nghĩ ngợi khoan hòa,
Kén ngôi Phò Mã đời mai sau.
(Tây Sương).
Dinh Phò Mã tiềm tàng tới đó,
Thăm Thứ bà tin cũng về đây.
(Nhạc Hoa Linh).
PHONG BA 風 波
Phong: Gió. Ba: Sóng.
Phong ba là sóng gió, dùng để chỉ những sự vất vả, nguy hiểm như chiếc thuyền đi giữa biển gặp sóng gió.
Đã gần chi có điều xa?
Đá vàng đã quyết phong ba cũng
liều.
(Truyện Kiều).
Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi
danh.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Phong ba dầu được dìu qua khỏi,
Nhớ bởi chung nhau kết dải đồng.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
(Đạo Sử).
PHONG BÁC 封 駁
Phong: Đóng kín, niêm
phong. Bác: Gạt bỏ vì không đồng
ý.
Phong bác tức là chiếu chỉ đưa đến có chỗ nào không hợp, niêm phong để trả lại, kèm theo nêu ý kiến cần gạt bỏ.
Đài trang còn những đâu đâu,
Hãy đem phong bác con
hầu thử xem.
(Hoa Tiên Truyện).
PHONG CƯƠNG 封 疆
Phong: Ranh giới. Cương: Biên giới.
Phong cương là bờ cõi, tức là giới hạn biên giới giữa hai Quốc gia.
Đầu sai Thạch Đái trị dân,
Cầm quyền tiết việt giữ phần phong cương.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Mở mang bờ cõi phong cương,
Thay Lê diệt Trịnh sửa sang mối giường.
(Hạnh Thục Ca).
Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng,
Ai giữ phong cương đặng vững bền.
(Đạo Sử).
PHONG ĐÀO 風 濤
Phong: Gió. Đào: Sóng lớn.
Cũng như chữ “Phong ba 風 波”, phong đào cũng chỉ sóng gió, dùng để ví sự thịnh nộ hung hăng, hay cảnh gian nan vất vả của cuộc đời.
Việc chi đang giận đang hờn,
Chớ hề la chửi, lớn cơn phong đào.
(Huấn Nữ Ca).
PHONG ĐÌNH 楓 庭
Phong: Cây phong, tức loại
cây bàng. Đình: Sân.
Ngày xưa, ở triều đình, nơi sân chầu thường có trồng cây phong, tức cây bàng, một loại cây vào mùa thu lá đỏ, có vẻ đẹp và mát mẻ, vì vậy sân chầu của vua được gọi là phong đình.
Thiên ân ban trước phong đình,
Ba tuần ngự tửu hai cành cung thoa.
(Nhị Độ Mai).
PHONG ĐÔ 酆 都
Phong Đô, Địa ngục, A tỳ, tức cõi giam cầm và trừng trị các tội hồn gây nhiều ác nghiệp lúc còn sống nơi thế gian. Theo Phật Giáo, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát làm giáo chủ cõi Phong Đô, nên Ngài được gọi là Phong Đô Đại Đế.
Sư rằng: Nơi chốn Phong đô,
Cầm cân phước tội, trị đồ hung hoang.
(Dương Từ Hà Mậu).
Lão Nhan là vị tiên linh,
Há không rõ đặng sự tình Phong đô?
(Dương Từ Hà Mậu).
Phong trần quen thú cung âm,
Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô.
(Kinh Tận Độ).
Cảm quang diêu động tâm tu,
Khai cơ giải thoát mở tù Phong đô.
(Kinh Thế Đạo)
PHONG GẤM RỦ
LÀ
Phong gấm: Gấm phong thân thể
lại, có nghĩa ăn mặc quần áo bằng gấm vóc. Rủ là: Phủ che màn là hay màn the, tức thứ lụa dệt thưa rất đẹp.
Phong gấm rủ là ăn mặc sang trọng, sung sướng, được gia đình nâng niu chìu chuộng. Ý chỉ giàu sang.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
(Truyện Kiều).
PHONG HẠC 風 鶴
Tức là gió và hạc. Bởi câu “Phong thanh hạc lệ 風 聲 鶴 唳” nghĩa là hạc reo gió động, ý muốn diễn tả làm kinh hồn binh lính thua chạy.
Sách
Đông Tấn chép: Chúa Phù Kiên nước Tần đem binh đi cướp nước Tấn. Triều đình nhà
Tấn bèn sai ông Tạ Huyền và ông Tạ Thạch chống giặc. Hai ông phá tan được giặc
Tần. Những tàn quân của Tần thua chạy, khi nghe tiếng gió reo, hạc kêu đều
hoảng kinh hồn vía, tưởng là binh Tấn.
Tiếng phong hạc phập phòng hơn mười tháng,
trông tin quan như trời hạn mong mưa.
(Nghĩa Sĩ Cần Giuộc).
PHONG HOÁ
CHI NGUYÊN 風 化 之 源
Phong hoá: Phong tục và giáo
hoá. Chi nguyên: Cái nguồn gốc.
Phong hoá chi nguyên tức là cái nguồn gốc của phong tục và giáo hoá.
Phu thê phong hoá chi nguyên,
Sự vong như thể sự tồn kẻo quê.
(Truyện Trinh Thử).
PHONG HOẢ 烽 火
Ngày xưa để truyền tin có giặc cho nhanh chóng, người ta thường đốt lửa trên một cái đài cao, gọi là “Phong hoả đài” để báo tin có giặc.
Phong hoả dùng để chỉ giặc giã.
Đường Thi: Phong hoả liên tam nguyệt, Gia thư để vạn niên 烽 火 連 三, 家 書 抵 萬 年, nghĩa là giặc giã luôn ba tháng, Thư nhà quý nghìn vàng.
PHONG LÔI 風 雷
Phong: Gió thổi. Lôi: Sấm sét.
Phong lôi là trời nổi cơn sấm sét. Phong lôi còn dùng để chỉ người nổi cơn giận dữ như sấm sét.
Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
(Truyện Kiều).
PHONG LƯU 風 流
Phong: Gió. Lưu: Nước chảy.
Phong lưu là gió thoảng nước trôi.
Từ
ngữ này dùng để chỉ những người học thức, có phong độ thanh nhã, cử chỉ đài các
cuộc sống lãng mạn, trái với sự quê mùa ty tiện.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê
(Truyện Kiều).
Khách phong lưu đương chừng
niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Thú phong lưu cũng ít nhiều,
Đèn chong vẻ tố, lò thiêu bụi trần.
(Mai Đình Mộng Ký).
Dầu trẻ đã phong lưu quen tánh,
Mình đừng ngăn trẻ lánh điều vui.
(Phương Tu Đại Đạo).
PHONG MỘC 風 木
Hay “Phong thụ 風 樹”, tức cây và gió.
Bởi
câu: Thụ dục tĩnh nhi phong bất tức, tử dục dưỡng nhi thân bất tồn 樹 欲 靜 而 風 不 息, 子 欲 養 而 親 不 存,
nghĩa là cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, con muốn phụng dưỡng mà cha mẹ không
còn. Ý nói người con than tiếc cha mẹ đã mất, không kịp chăm lo, phụng dưỡng.
Viện mà khóc kể lôi thôi,
Sầu than phong mộc đoạn rồi như không.
(Thanh Hoá Quan Phong).
Thấy chữ "Bình lôi" thơ cũ,
chi xiết não nùng;
Nghe câu "Phong mộc" ngày xưa,
càng thêm bát ngát.
(Dương Từ Hà Mậu).
PHONG NỘN
NHUỴ 封 嫩 蕊
Phong: Đóng kín. Nộn
nhuỵ (Hay nộn nhị): Nhuỵ hoa tươi,
non.
Phong nộn nhuỵ là hoa còn tươi non, nhuỵ hoa còn phong kín, ý muốn ví người thiếu nữ mới lớn, còn ngây thơ, trinh trắng.
Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
PHONG NGUYỆT 風 月
Phong: Gió. Nguyệt: Trăng.
Phong nguyệt là trăng và gió, chỉ những người yêu thích cảnh trăng trong gió mát, vui với quang cảnh thiên nhiên không thiết đến cảnh phồn hoa náo nhiệt của cuộc đời vật chất.
Phong nguyệt là trăng gió, còn có nghĩa trai gái tình tự với nhau.
1.- Chỉ cảnh trăng trong gió mát:
Kho thu phong nguyệt đầy qua
nóc,
Thuyền chở yên hà nặng với then.
(Quốc Âm Thi Tập).
Đồ thư một quyển nhà làm của,
Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền.
(Bạch Vân Quốc Ngữ).
Ba gian phong nguyệt hứng thừa,
Bốn mùa đều có xuân ưa bốn mùa.
(Ngoạ Long Cương Vãn).
2.-
Chỉ sự tình tự của trai gái:
Quở rằng: Ai nhủ người mà?
Đặt bày phong nguyệt, dèm pha cương thường.
(Hoa Tiên Truyện).
PHONG NGHI 風 儀
Phong: Phong lưu. Nghi: Dáng dấp bề ngoài.
Phong nghi là cốt cách uy nghi đỉnh đạc.
Húy Phương Châu, tự Diệc Thương,
Phong nghi khác giá, từ chương tót loài.
(Hoa Tiên Truyện).
PHONG NHÃ 風 雅
Phong: Tức là Quốc phong,
tên một thiên trong Kinh Thi,
nói về thói tục trong nhân gian. Nhã: Tức Đại Nhã và Tiểu
Nhã, tên hai thiên trong Kinh Thi, thường nói về triều đình.
Phong nhã dùng để chỉ những gì có cái vẻ văn chương, thanh nhã.
Phong tư tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào
hoa.
(Truyện Kiều).
PHONG NHUỴ 封 蕊
Phong: Đóng kín. Nhuỵ
(Hay nhị): Nhuỵ hoa, có công dụng truyền giống cho cây.
Phong nhuỵ tức là nhuỵ hay nhị hoa còn nguyên, nói người con gái còn ngây thơ trinh trắng.
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm phong nhị trăng vòng
tròn gương.
(Truyện Kiều).
PHONG QUANG 風 光
Phong quang là gió và ánh sáng.
Cổ thi có câu: Nhật hoa xuyên thượng động, phong quang thao tế phù 日 華 川 上 動, 風 光 草 際 浮, nghĩa là ánh sáng mặt trời rực rỡ, lay động trên mặt nước, ánh sáng của gió nổi trên cỏ. Lời chú thích của Ngũ Thần: Gió không có ánh sáng, ánh sáng nằm trên cỏ. Mỗi khi gió thổi đến lay động ánh sáng ấy, khiến ta cảm tưởng gió có ánh sáng.
1.- Phong quang được dùng để chỉ phong cảnh.
Bầu trời riêng chiếm phong quang,
Cảnh nhường quyến khách, khách nhường quên xa.
(Hoa Tiên Truyện).
Phong quang lạ khác dấu xưa,
Ao tù sen rũ, rào thưa, cúc cằn.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Nay mừng thiên hạ thái bình,
Tiết xuân vui vẻ điện đình phong quang.
(Thanh Hoá Quan Phong).
2.-
Phong quang dùng chỉ phẩm cách đẹp đẽ.
Triều thiên nhứt lộ định phong quang,
Bất nhạ trần ai khả quí nhàn.
(Đạo Sử).
PHONG SẮC 豐 嗇
Phong: Nhiều, hơn. Sắc: Ít, kém.
Phong sắc do câu “Phong vu bỉ, sắc vu thử 豐 于 彼, 嗇 于 此” nghĩa là hơn bên này, kém bên kia.
Xem:
Bỉ sắc tư phong.
Khuôn tạo hoá dẫu rằng phong sắc,
Nợ phù sinh phó mặc bi hoan.
(Tự Tình Khúc).
PHONG SƯƠNG 風 霜
Phong sương là gió và sương.
1.-
Phong sương dùng để chỉ phong cảnh gồm có sương và gió:
Phong sương được vẻ thiên nhiên,
Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi.
(Truyện Kiều).
2.-
Phong sương chỉ sự gian nan cực khổ, đi giữa gió sương:
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
PHONG TAO 風 騷
Phong: Tức là thiên Quốc
Phong trong Kinh Thi. Tao: Tác phẩm Ly Tao của
Khuất Nguyên, là những lời hoa mỹ và trang nhã.
Phong tao là tiếng dùng để chỉ cái gì văn hoa và thanh nhã.
Ngửa nghiêng lưng túi phong tao,
Nước, non, mây, gió, chất vào còn vơi.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Phong tao ra dạng con người,
Dịu dàng nét mặt ra loài văn nhân.
(Tự Tình Khúc).
PHONG TÌNH 風 情
Phong: Gió. Tình: Chỉ sự yêu thương giữa trai gái.
Phong tình là tình trăng gió, tình ân ái giữa đôi trai gái. Phong tình chỉ mối tình không bền chặt, tình như gió thoảng qua. Ý muốn nói người lẵng lơ, chơi bời lãng mạn.
Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã
quen.
(Truyện Kiều).
Dở xem một chuyện phong tình,
Cho loan nhớ phụng, cho mình nhớ ta.
(Thanh Hoá Quan Phong).
Phải rằng: Dì gió hay không?
Phong tình đem thói lạ lùng trêu ai?
(Thơ Tản Đà).
Cao niên biết tuyển hiền đáng mặt,
Khỏi lầm mưu kẻ giặc phong tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Coi chừng lựa sách, thơ, tuồng, truyện,
Những phong tình đừng khiến cho
coi.
(Phương Tu Đại Đạo).
PHONG TOẠI 烽 燧
Hậu Hán Thư chép: Đại tướng quân Đỗ Mậu đồn bắc biên, trúc đình hầu, tu phong toại 大 將 軍 杜 茂 屯 北 邊, 築 亭 侯, 修 烽 燧, nghĩa là đại Tướng quân Đỗ Mậu đến đóng ở biên giới phía bắc, xây đình hầu tức là xây dựng nơi trú quân để dò xét giặc cướp, và sửa sang phong toại.
Phong
toại là một cái đài đất cao, được đắp ở vùng biên giới, trên đài làm gác cao có
lồng chứa củi và cỏ, khi có biến thì đốt lửa để báo tin, gọi là phong. Đốt củi
và cỏ un khói lên cao để xa nhìn thấy khói gọi là toại. Ban ngày thì đốt toại,
ban đêm thì nhen phong.
PHONG TƯ 風 姿
Phong: Dáng dấp. Tư: Xinh đẹp.
Phong tư là dáng dấp xinh đẹp của con người.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
(Truyện Kiều).
Con nhà Trần Lý công ngư.
Lưới chài nhưng cũng phong tư khác
thường.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Xuân hoa bữa ấy đang vừa,
Tuổi vừa đôi tám phong tư lạ
lùng.
(Sơ Kính Tân Trang).
PHONG THANH 風 聲
Phong: Gió. Thanh: Âm, tiếng.
Phong thanh là tiếng gió thổi. Nghĩa rộng phong thanh còn dùng để chỉ tin tức, âm tín.
Đã lâu nghe vắng phong thanh,
Ngậm hơi như thóc đem mình về đây.
(Truyện Trinh Thử).
PHONG THẦN 封 神
Phong: Vua ban tước hiệu. Thần: Thần Thánh, bậc linh thiêng, có thể gây hoạ phúc.
Ngày xưa, vua là vị thiên tử (Con của Trời), nên có quyền phong thần, tức là ban chức và tước hiệu cho các thần linh.
Dù chưa cắt hết tơ trần,
Đành cho lập miếu phong thần về
sau.
(Hoa Tiên Truyện).
PHONG THUỶ 風 水
Phong thuỷ là gió và nước. Ngày xưa người ta quan niệm rằng gió và nước có ảnh hưởng nhà cửa, mồ mả, nên mới có thuật phong thuỷ tức là các thầy địa lý coi cuộc đất có long mạch để cất nhà hoặc để chôn người chết.
Đến sau phong thủy các nơi,
Học đòi coi quẻ, đua bơi tài nghề.
(Dương Từ Hà Mậu).
PHONG TRẦN 風 塵
Gió bụi. Có nhiều nghĩa:
1.- Chỉ
nạn chiến tranh: Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn có câu: Thiên
địa phong trần, Hồng nhan đa truân 天 地 風 塵, 紅 顏 多 迍.
Nghĩa là trời đất gió bụi, má hồng nhiều truân chuyên.
Ngàn tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
(Quốc Sử Diễn Ca).
2.- Chỉ
nỗi khó khăn, gian khổ: Thơ Đỗ Phủ đời nhà Đường có câu: Bạc hoạn
tẩu phong trần 簿 宦 走 風 塵.
Có nghĩa: Chức mỏng chạy trong gió bụi, tức là quan nhỏ chịu nhiều nỗi khổ sở
trên bước đường công danh, quan lại.
Rày con xuống chốn phong trần,
Thầy cho hai đạo phù thần đem theo.
(Lục Vân Tiên).
Xót người tú các hương khuê,
Mối tình ly biệt đường đi phong trần.
(Nhị Độ Mai).
Còn thân sống chịu phong trần,
Dứt hơi dầu muốn trọn gần cũng xa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
3.- Chỉ sự truỵ lạc: Những cô gái kỹ nữ gọi là truỵ lạc
phong trần 墜 落 風 塵. Đời nhà Đường, Phan Tứ Tiện đề vào bức ảnh của một kỹ nữ: Gia
hựu phong trần trung nhân diệc như thử, thịnh tai! 嘉又 風 塵 中 人 亦 如 此. 盛 哉!, nghĩa là trong chốn yên
hoa cũng có người đẹp như thế này, thịnh vậy tai!
Tiếc thay trong giá trắng ngần,
Đến phong trần cũng phong
trần như ai.
(Truyện Kiều).
Tầng nghe giá tuyết trong ngần,
Cớ sao bị nhiễm phong trần bởi
đâu?
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHONG VÂN 風 雲
Phong: Gió. Vân: Mây.
Phong vân là Gió mây, do theo xuất xứ ở Kinh Dịch: Vân tùng long, phong tùng hổ, Thánh nhân tác nhi vạn vật đổ 雲 從 龍, 風 從 虎, 聖 人 作 而 萬 物 睹, nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp, công việc của Thánh nhân làm vạn vật đều thấy rõ. Dùng chữ phong vân để chỉ sự gặp thời đỏ vận, như rồng gặp mây, cọp gặp gió.
Những ngờ oan trái bao giờ.
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân.
(Quốc Sử Diễn
Ca).
Nay đà gặp hội phong vân,
Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
(Lục Vân Tiên).
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
Dạy gắng học sáu thao ba lược,
Hầu có ngày rộng bước phong vân.
(Phương Tu Đại Đạo).
PHONG VẬN 丰 韻
Phong: Dáng dấp. Vận: Phong độ.
Phong vận tức là phong lưu tao nhã, cái biểu hiện bên ngoài tạo nên tính cách riêng.
Phong
vận là dáng dấp phong lưu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.
(Truyện Kiều).
PHONG VỊ 風 味
Phong: Gió. Vị: Mùi vị.
Phong vị chỉ mùi thơm ngào ngạt. Bài văn của Lưu Tuấn có câu: Nam Trung quất cam, thái chi phong vị chiếu toạ 南 中 橘 甘, 採 之 風 味 照 座, nghĩa là Nam Trung quýt ngọt, hái xuống thơm ngào ngạt cả chỗ ngồi.
Phong vị còn có nghĩa người phong lưu, học thức.
Tống Thư có câu: Bá Ngọc ôn nhã hữu phong vị, hoà nhi năng biện, dữ nhân cộng sự giai vi thâm giao 伯 玉 溫 雅 有 風 味, 和 而 能 辯, 與 人 共 事 皆 為 深 交, nghĩa là Bá Ngọc ôn hoà thanh nhã có phong vị, người hoà nhã có tài biện luận, cùng cộng sự với ai, đều trở nên thâm giao cả.
Nói chi phong vị lâu
đài,
Vả trong khách huống lữ hoài biết sao.
(Hoa Tiên Truyện).
Hơi may heo hắt từ đây,
Gian nan phong vị độ rày ra sao.
(Tự Tình Khúc).
PHONG VŨ 風 雨
Phong: Gió. Vũ: Hay võ là mưa.
Phong vũ là mưa và gió, dùng để chỉ mưa thuận gió hoà như phong hoà vũ thuận. Phong vũ còn dùng chỉ tai ương hay vất vả.
Đêm phong vũ lạnh lùng có một,
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Sợ nỗi bày hình lộ tiếng,
E khi phong vũ bất kỳ.
(Nhạc Hoa Linh).
PHÓNG SANH
Hay chữ “Phóng sinh 放 生” tức là vì sự sống mà thả các loại thú cầm.
Khi
bắt được chim cá hay thú vật thả ra cho nó sống, chứ không giết chết, gọi là
phóng sanh.
Tạo chùa chiền, làm cầu, thí giếng.
Cùng đắp đường, tích thiện, phóng sanh.
(Hứa Sử Tân Truyện).
Tu kiều bồi lộ phóng sanh,
Thi ân cầm thú, để dành kiếp sau.
(Tội Vợ Vợ Chịu).
PHÓNG TÚNG 放 縱
Phóng: Buông thả. Túng: Thả ra.
Phóng túng là nói người không bị ràng buộc, sống một cách buông thả.
Tập em dại biết ham làm lụng,
Đừng nêu gương phóng túng chơi
bời.
(Phương Tu Đại Đạo).
PHÒNG ĐÀO
Phòng: Buồng. Đào: Hoa đào.
Do chữ “Đào phòng 桃 房” là buồng đào, buồng của phụ nữ.
Phòng
đào là buồng có treo màn hoa đào, dùng để chỉ nơi người đàn bà, con gái ở.
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
(Truyện Kiều).
Khi để bước phòng đào lạnh ngắt,
Mảnh tàn y dường nhắc nghi dung.
(Kinh Thế Đạo).
Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHÒNG HẠNH
Hạnh là một loại cây giống như cây đào, ta gọi là trái mơ. Phòng hạnh, như chữ “Phòng đào”, chỉ nơi ở của đàn bà con gái, hoặc chỉ người đàn bà.
Chừ sao kẻ Hớn người Hồ,
Để cho phòng hạnh ra mồ quạt
duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHÒNG HƯƠNG
Bởi chữ “Hương khuê 香 閨” nghĩa là buồng xông hương thơm, chỉ phòng của phụ nữ sang quý.
Tưởng người chén nguyệt thề bồi,
Phòng hương trộm tưởng đã người nào thôi!
(Hoa Tiên Truyện).
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
(Truyện Kiều).
Đá hoa bỏ vắng không ngồi,
Phòng hương bỏ vắng cho người vãng lai.
(Thanh Hoá Quan Phong).
PHÒNG KHUÊ
Dịch từ chữ “Khuê phòng 閨 房”.
Phòng khuê là một cái phòng ở sâu trong nhà, dành riêng cho phụ nữ ở.
Người xưa quan niệm con gái không được ra khỏi khuê phòng, nên mới có câu “Khuê môn bất xuất 閨 門 不 出”, tức không ra khỏi cửa phòng khuê.
Khi sao cửa các phòng khuê,
Giờ sao thui thủi một xe đất này.
(Nhị Độ Mai).
Quản bao chút phận má hồng,
Phòng khuê vò võ đợi trông khôn lường.
(Lục Vân Tiên).
PHÒNG TIÊU
Phòng: Buồng. Tiêu: Hạt tiêu.
Phòng tiêu là phòng của các bà hậu phi, hay cung nữ ở. Ngày xưa nơi tường phòng của cung điện có trét hồ tiêu cho thơm và ấm.
Sách Hậu Hán Thư viết: Hậu phi dĩ tiêu hồ bích, thủ kỳ phồn diễn đa tử, cố viết tiêu phòng 后 妃 以 椒 塗 壁, 取 其 繁 衍 多 子, 故 曰 椒 防, nghĩa là các bà hậu phi lấy tiêu trét vào vách, là ý muốn có nhiều con, nên gọi là phòng tiêu.
Xem: Tiêu phòng.
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Khuya sớm đền loan gác phượng,
Trước sau dãy quế phòng tiêu.
(Cung Trung Bảo Huấn).
Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo,
Trước thềm lan, hoa héo ron ron.
(Ai Tư Vãn).
Bởi quen mùi vị phòng tiêu,
Bướm ong kiếm dựa, vườn điều đổi hương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Thu phòng học chước thu không,
Đốt hương cho ấm cho nồng phòng tiêu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Khách phòng tiêu phải đọa phong
trần,
Còn chi nữa phòng cần kiếp sống.
(Phương Tu Đại Đạo).
PHÒNG THE
Phòng the là một cái phòng ở sâu trong nhà, có treo màn the phủ kín, dành riêng cho phụ nữ ở.
Phòng the là chỉ buồng riêng của đàn bà con gái.
Xem: Khuê phòng.
Đừng cho nhiễm lấm thân thục nữ,
Chốn phòng the cứ xủ rèm là.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Cây trăm thước đổi hương tàn,
Treo y bá nạp làm màn phòng the.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHÒNG THU 房 秋
Thu là mùa thu, mùa cây lá đều vàng úa để bước sang đông lá rụng, vì vậy, người ta thường ví mùa thu cho người lớn tuổi.
Phòng
thu dùng để chỉ người đàn bà luống tuổi.
Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
PHÒNG TRAI 房 齋
Phòng: Cái phòng. Trai: Tự răn cấm để được trong sạch như không ăn mặn, không nghĩ
chuyện dâm dục.
Phòng trai là một cái phòng để tĩnh dưỡng và giữ cho tâm hồn được trong sạch, chỉ phòng của nhà sư, hay phòng của người tu hành.
Phòng trai còn có nghĩa là phòng ăn.
Xem: Trai phòng.
Phòng trai thết đãi ăn chay,
Mến sư đạo đức bạch người tính danh.
(Dương Từ Hà Mậu).
PHÒNG XƯA
LÁNH HỚN
Tức là Trương Tử Phòng ngày xưa lánh khỏi hoạ giết công thần của Hớn Cao Tổ.
Do
tích Trương Tử Phòng, tức Trương Lương giúp Hớn Bái Công đánh Tần, diệt Sở Bá
Vương Hạng Võ, dựng nên nhà Hớn. Ông quan niệm theo đạo gia là “Công thành
thân thối 功 成 身 退”,
tức là không ở lại để hưởng vinh hoa phú quý, mà xin lui về quê nhà tu theo đạo
tiên, đó cũng là một cớ để tránh nạn vua Hớn Cao Tổ giết hại công thần.
Phòng xưa lánh Hớn biết hưng suy,
Người có trí ngoan biết thế thì.
(Đạo Sử).
PHỔ CHIẾU 普 照
Phổ: Khắp cả. Chiếu: Rọi sáng.
Phổ chiếu là rọi sáng khắp nơi, ý nói lấy ân điển rọi khắp toàn chúng sanh.
Ân quang phổ chiếu toàn nhơn loại,
Sớm biết hồi tâm ngộ chánh truyền.
(Thơ Huệ Phong).
PHỔ ĐÀ 普 陀
Tức Phổ Đà Sơn 普 陀 山, là núi Phổ Đà, thuộc tỉnh Triết Giang Trung Quốc, là nơi ngụ xứ của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Quan Thế Âm là vị Bồ Tát có lòng đại từ đại bi, ý muốn cứu khổ tất cả chúng sinh, nên mỗi khi có người thành tâm cầu nguyện, Ngài đều có mặt ở khắp mọi nơi. Vì thế, nhiều Kinh đã ký tải về nơi ngụ xứ của Ngài khác nhau:
- Theo Kinh A Di Đà, Ngài ở cõi Tây phương Tịnh độ.
- Theo Kinh Hoa Nghiêm sớ, Ngài ở núi Bồ Đà Lạc, biển Nam Hải.
Theo Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ, Ngài ở núi Phổ Đà, tỉnh Triết Giang Trung Quốc.
Phổ Đà có
Phật Quan Âm,
Ra công cứu thế, ân thâm đức dày.
(Xưng Tụng Công Đức).
PHỔ ĐỘ 普 度
Phổ: Khắp cả. Độ: Cứu giúp.
Phổ độ tức là cứu giúp tất cả chúng sanh. Mục đích của người tu hành là cứu giúp chúng sanh vượt thoát khỏi nơi khổ hải, nên có nhiệm vụ là đi phổ độ chúng sanh.