Thursday, September 17, 2020

Điển tích - H

 

H

HÀ BÁ 

Tên một vị thần coi về sông biển.

Xưa kia có người tên là Phùng Di chuyên việc trị thuỷ. Một hôm vào tháng tám, ông có việc phải sang sông, rồi đi đến giữa sông bị chết chìm. Trời thương tình phong ông làm Hà Bá, coi về miền sông biển.

Người xưa thường nói: Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá.



Dòng sông có phải nước ao,

Thuỷ cung Hà Bá biết bao quỉ thần.

(Huấn Nữ Ca).



Biết chăng chỉ có ông Hà Bá,

Mỉm mép cười thầm với nước non.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



Trời in nước thấy đâu đầu cuối,

Hà Bá ta hết nỗi tự hùng.

(Thơ Tản Đà).



HÀ BÁ THÚ THÊ 

Hà Bá cưới vợ.

Truyện Sử Ký Tư Mã Thiên viết: Thời Nguỵ Văn Hầu, Tây Môn Báo làm huyện lệnh ở đất Nghiệp. Ngày nhậm chức, Báo họp các bô lão hỏi xem dân có nỗi bức xúc gì không. Các bô lão nói dân tình ở đây khổ vì chuyện Hà Bá cưới vợ.

Báo hỏi lý do thì họ cho biết, các vị chức sắc trong làng quyên góp bá tánh mỗi năm cả mấy trăm vạn bạc, rồi bỏ ra hai, ba mươi vạn cưới vợ cho Hà Bá, còn bao nhiêu chia cho các thầy cúng, cô đồng và bỏ túi riêng.

Tây Môn Báo dặn các bô lão khi nào tới ngày Hà Bá cưới vợ thì báo cho ông hay biết. Đến hôm đưa dâu, Tây Môn Báo bảo với cô đồng cả: Cô dâu này không được đẹp, xin phiền thầy cúng và cô đồng cả lặn xuống báo cho Hà Bá biết, đợi chọn được cô dâu nào đẹp hơn sẽ đưa xuống thuỷ phủ sau. Nói rồi ông sai người xô thầy cúng và cô đồng cả xuống sông. Một lát sau, ông lại nói: Sao thầy cúng và cô đồng cả lại đi lâu vậy, phiền các đệ tử lặn xuống đi tìm giúp. Nói rồi, Báo sai lính tốt xô một vài đệ tử của cô đồng xuống sông.

Kế tiếp, ông đẩy vị chức sắc trong làng xuống sông, nhờ trình bày với Hà Bá giúp dùm các cô đồng. Những người hương chức còn lại hoảng hồn khiếp vía, lạy dập đầu sói tráng, xin tha cho khỏi đi chầu Hà Bá.

Từ đó, trong làng không ai dám đứng ra tổ chức lễ cưới vợ cho Hà Bá nữa.

HÀ DƯƠNG VỊNH ĐÀO

Tức là trồng cây đào ở đất Hà Dương.

Do tích Phan Nhạc tự là An Nhân, người có dung mạo xinh đẹp, tài học cao siêu, văn chương diễm lệ. Khi làm quan lệnh đất Hà Dương thường khuyên dân lo trồng cây ăn trái, cả huyện đâu đâu cũng đều trông cây đào mận. Dân chúng đều làm thơ tán tụng ông.

Bức tranh treo chữ tuần lương,

Ngư Dương hát lúa, Hà Dương vịnh đào.

(Tự Tình Khúc).



HÀ ĐỒ 

Do câu “Long mã phụ Hà đồ  ”, nghĩa là con long mã mang bức Hà đồ.

Tương truyền đời vua Phục Hy thời Thượng cổ, tại sông Hoàng Hà có xuất hiện một con long mã, trên lưng có mang bức Hà đồ, có số từ một đến mười. Nhân đó vua Phục Hy mới vạch ra âm dương và tạo thành quẻ bát quái.

Con người là tiểu quy mô,

Cũng đều có bản Hà Đồ, Lạc Thơ:

(Thánh Giáo Dạy Đạo).



HÀ Y 

: Do mây phản chiếu ánh mặt trời, nhuộm sắc đỏ, gọi là ráng. Y: Áo.

Hà y là áo có sắc rực rỡ như màu ráng trời.



Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,

Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng.

(Truyện Kiều).



HÀ LẠC 

Viết tóm của “Hà đồ  ”, “Lạc thư  ”.

Hà Lạc là tên một cuốn sách của Trần Đoàn, căn cứ theo Hà đồ và Lạc thư mà soạn thành một quyển lý số, nhằm mục đích để người đời bói quẻ vận mệnh.

Muốn coi phép ấy cho tinh,

Đồ thư Hà lạc, Dịch kinh rõ bàn.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HÀ LƯƠNG 

Cây cầu, chỉ nơi tống biệt.



: Sông. Lương: Cầu bắc trên sông.

Ngày xưa, người ta tiễn nhau thường đến chốn cầu sông. Sách Văn Tuyển chép bài thơ của Lý Lăng gửi cho Tô Võ đời Hán như sau: Huề thủ thượng Hà Lương, du tử mộ hà chi  , , nghĩa là dắt tay nhau lên cầu sông, kẻ du tử chiều nay đi đâu?

Do câu thơ này người đời sau dùng chữ “Hà lương” để chỉ nơi tống biệt.

Hà Lương chia rẽ đường này,

Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HÀ MÔ 

Con ểnh ương.

Ngày xưa, nghe tiếng kêu của con ểnh ương, vua Tấn Huệ Đế thắt mắc không biết tiếng kêu đó vì việc công hay việc tư, bèn đem việc đó hỏi các quan.

Kêu trị loạn đau lòng con đỗ vũ,

Gọi công tư mỏi miệng cái hà mô.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



Hà mô rỉ rả ngày đêm,

Công tư nó gọi hay điềm báo chi.

(Truyện Trinh Thử).



HÀ TẤN 

Nhờ oai thế của chị làm hoàng hậu, Hà Tấn được phong chức làm đô đốc. Khi vua Hán Linh Đế thăng hà, trong nước bọn hoạn quan lộng quyền, ông bèn mưu triệu Đổng Trác về để dẹp loạn. Không ngờ, sau này Đổng Trác mưu mô tiếm vị ngôi vua và ông cũng bị bọn hoạn quan là Trương Nhương dụ vào cung ám sát.



Khi Đổng Trác lung lăng nhà Hán,

Sãi giận chàng Hà Tấn vô mưu.

(Sãi Vãi).



HÀ THANH 

Sông Hoàng Hà trong.

Con sông Hoàng Hà của Trung Quốc nhiều bùn lầy nên thường đục. Tương truyền, khi nào nước sông trở nên trong thì người ta cho là điềm lành, có thánh nhân xuất hiện, hoặc thiên hạ thái bình.

Điềm trình hải yến hà thanh,

Khánh vân quanh nhiễu, cánh tinh sáng loà.

(Tư Dung Vãn).



HẠ CỐ 

Hạ: Từ trên xuống. Cố: Đoái tưởng đến.

Hạ cố là nói người trên đoái tưởng đến người dưới. Hoặc chữ dùng một cách khiêm nhường.



Mấy lòng hạ cố đến nhau,

Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.

(Truyện Kiều).



HẠ CÔNG 

Hạ: Chúc mừng. Công: Công nghiệp.

Hạ công là mừng công nghiệp đã hoàn thành. Còn có nghĩa là mừng thắng trận.



Trong quân mở tiệc hạ công,

Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.

(Truyện Kiều).



HẠ CƠ 

Hạ Cơ là người con gái rất đẹp, người nước Trịnh, đời Chiến Quốc, có tính đa dâm. Sau khi goá chồng, bà lấy rất nhiều người, trong đó có vua nước Trần là Linh Công. Sau khi vua Trần chết, Hạ Cơ còn gá nghĩa với nhiều người khác nữa, cuối cùng bà phải trốn sang qua nước Tấn.



Hạ Cơ lớn nhỏ cũng ưa,

Sớm đưa Doãn phủ, tối ngừa Trần Quân.

(Lục Vân Tiên).



Vốn sinh di địch bấy lâu,

Hạ Cơ nết ấy dám đâu mà bì.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



HẠ ĐƯỜNG 

Nhà sau, nơi ở của bọn tôi đòi.

Chữ nầy do câu nói của Tống Hoằng trả lời với vua Hán Quang Võ: “Bần tiện chi giao bất khả vong, Tào khang chi thê bất khả hạ đường  , , , nghĩa là bạn bè chơi nhau từ lúc nghèo hèn thì không nên quên nhau, người vợ lúc còn tấm mẳn (Thuở nghèo hèn) không nên cho xuống nhà dưới. Từ đó, hạ đường được dùng để chỉ nhà dưới, nơi ở của tôi tớ, hay bỏ vợ.

Xem: Tống Hoằng.



Làm chi bể ái vơi đầy,

Hạ đường dám lụy tiếng nầy đến ai.

(Nhị Độ Mai).



HẠ LIÊU 

Hạ: Dưới. Liêu: Quan nhỏ.

Hạ liêu là nói quan cấp dưới, tức là quan chức nhỏ.



Quan quân tiễn kiệu kéo hàng,

Hạ liêu mấy lũ, bộ đường mấy ban.

(Nhị Độ Mai).



HẠ Mà

Hạ: Xuống. : Ngựa. Hạ mã là xuống ngựa.

Nơi đình miếu hay dinh thự nào tôn nghiêm, thường có bia đá khắc chữ "Hạ mã" dựng ở ngoài, để cho khách đi ngựa hay xe biết mà xuống, cho được tỏ lòng cung kính.



Nghiêm trang dựa thế sân quyền,

Trước bia hạ mã chật lèn ngựa xe.

(Nhị Độ Mai).



HẠ NGUƠN

Hay “Hạ nguyên  ”.

1.- Một năm chia làm ba nguơn, tức là có ba cái rằm lớn nhất: Thượng nguơn là rằm tháng giêng, Trung nguơn là rằm tháng bảy, Hạ nguơn là rằm tháng mười.

2.- Hạ nguơn còn là nguơn cuối của một chuyển.

Một chuyển có ba nguơn: Thượng nguơn, Trung nguơn và Hạ nguơn. Hiện nay, địa cầu 68 của nhân loại đang ở vào cuối Hạ nguơn của chuyển thứ ba, gọi là Hạ nguơn tam chuyển, sắp bước qua Thượng nguơn tứ chuyển.

Thuở ấy số người trăm năm,

Đến nay lần giảm sau nhằm Hạ Nguơn.

(Hứa Sử Tân Truyện).



HẠ TỨ 

Hạ: Dưới. Tứ: Người trên cho kẻ dưới.

Hạ tứ là tiếng dùng để nói khiêm nhường, có nghĩa cho kẻ dưới.



Mấy lòng hạ cố đến nhau,

Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.

(Truyện Kiều).



HẠ TỪ 

Hạ: Dưới. Từ: Lời.

Hạ từ tức là xuống giọng để nói. Nói một cách khác, là dùng lời nói nhỏ nhẹ để yêu cầu.



Hạ từ van lạy suốt ngày,

Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.

(Truyện Kiều).



HẠ THÁP 

Hạ cái giường nằm xuống.

Đời nhà Hán có một người tên là Trần Phồn, trong nhà chỉ có một chiếc giường thường được treo lên, không để cho ai nằm. Tuy nhiên Từ Trĩ là một người bạn chí thân của Phồn, mỗi lần ông ấy đến nhà chơi, Phồn đều hạ chiếc giường xuống để bạn nằm.

Xem: Từ Trĩ.



HẠ VÕ 

Vị vua nhà Hạ đời Thượng cổ của Trung Quốc, lên ngôi 2205 trước kỷ nguyên, làm vua được tám năm.

Trước là vị quan đại thần của vua Thuấn, trị được nạn lụt của sông Hoàng Hà, sau được vua Thuấn truyền ngôi cho. Ngài là vị vua hiền minh, rất chuộng hiền tài, nên thường treo tại trước sân chầu năm thứ nhạc khí: Chuông, cổ (Trống lớn), khánh, đạc (Mõ dài), đào (Trống nhỏ) và kèm theo lời bố cáo: Ai dẫn mở điều đạo đức xin đánh trống lớn, luận điều nghĩa xin đánh chuông, cho biết sự chi xin đánh mõ, có chuyện ưu buồn xin đánh khánh, có việc kiện thưa xin đánh đào (Trống nhỏ).

Ngỡ là chuông vua Hạ Võ chiêu hiền;

Ngỡ là đạc đức Trọng Ni thiết giáo.

(Sãi Vãi).

 

HẠC CẦM 

Hạc: Chim hạc. Cầm: Cây đờn.

Hạc cầm nghĩa là con chim hạc và cây đàn.

Bởi tích Triệu Thanh Hiến đời nhà tống được triều đình cho trấn giữ đất Thục. Khi đi phó nhậm, ông không đem theo vợ con hay đầy tớ chi cả, mà chỉ đi một mình cùng với một cây đàn và một con chim hạc.

Nghĩa bóng: Chỉ làm quan phong lưu nhàn hạ.



Túi gió trăng thinh thinh rộng mở,

Vui hạc cầm hay dở thú riêng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HẠC LẬP KÊ QUẦN 

Con hạc đứng giữa bầy gà.

Hạc được ví với người tài đức, còn gà được coi như kẻ tầm thường.

Thành ngữ “Hạc lập kê quần” dùng để chỉ người tài đức hay hào kiệt đứng giữa đám tầm thường.



HẠC NỘI MÂY NGÀN

Hạc nội: Hạc trong đồng nội. Mây ngàn: Mây bay trên rừng núi xa xôi.

Hạc nội mây ngàn là hạc tung bay trong đồng nội, mây phiêu bạc trên núi xa, có ý chỉ sự phiêu bạc, rày đây mai đó, thung dung tự tại.



Biếng thân hạc nội mây ngàn,

Nắm phan Tiếp Dẫn mở đàng Lôi Âm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HAI BIỂU RA QUÂN

Hai biểu ra quân tức là hai bài biểu chương của Gia Cát Khổng Minh.

Trước khi đem binh đi đánh Nguỵ, Khổng Minh có viết hai bài biểu là tiền xuất sư biểu và Hậu xuất sư biểu dâng lên cho vua Hậu Chủ là Lưu Thiện.

Hai biểu ra quân lòng đã rõ,

Tám đồ bày trận giá càng cao.

(Thơ Lê Quý Đôn).



HAI CHỤC TÁM SAO

Dịch từ chữ “Nhị thập bát tú  宿” là hai mươi tám vì sao.

Theo thiên văn cổ Trung Hoa, có bốn chòm sao cố định ở bốn hướng đông tây nam bắc, mỗi chòm gồm bảy sao, tổng cộng là hai mươi tám sao.

Đoanh xây hai chục tám sao,

Trải ba mươi sáu cung nào chẳng xuân.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Hai chục tám sao đều chạy mặt,

Theo thời biết mấy lúc hư dinh.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HAI MƯƠI BỐN HIẾU

Tức Nhị Thập Tứ Hiếu là tên một quyển sách của Quách Cự đời nhà Nguyên, trong đó nói về sự tích của hai mươi bốn người con hiếu thảo ở Trung Quốc.

Hai mươi bốn người con hiếu đó là: Ngu Thuấn, Hán Văn Đế, Tăng Sâm, Mẫn Tử Khiên, Tử Lộ, Diễm Tử, Lão Lai Tử, Đổng Vĩnh, Quách Cự, Khương Thi, Thái Thuận, Đinh Lan, Lục Tích, Giang Cách, Hoàng Hương, Vương Thôi, Ngô Mãnh, Vương Tường, Dương Hương, Mạnh Tông, Sưu Kiềm Lâu, Đường Thị, Chu Thọ Xương, Hoàng Đình Kiên

Vậy có người hiền lo báo bổ,

Hai mươi bốn hiếu dấu còn nay.

(Dương Từ Hà Mậu).

HAI MƯƠI BỐN THẢO

Tức là hai mươi bốn người con hiếu thảo. Đây là một tác phẩm nói về sự tích những người con hiếu của Quách Cự đời nhà Nguyên, có tựa đề là “Nhị Thập Tứ Hiếu”. Xem: Hai Mươi Bốn Hiếu.



Suy trang nằm giá khóc măng,

Hai mươi bốn thảo chẳng bằng thời xưa.

(Lục Vân Tiên).



HÀI CỐT 

Hài: Nói chung về hình thể. Cốt: Xương.

Hài cốt là bộ xương con người. Hài cốt còn dùng để chỉ bộ xương khô của người chết.



Của đi khuyên giáo mấy năm,

Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.

(Lục Vân Tiên).



Đôi mặt cách mà lòng vẫn một,

Khác tông môn hài cốt hòa chung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Cữ hoa nguyệt bớt đi thì tốt,

Tinh khí đầy hài cốt trẻ tráng cường.

(Phương Tu Đại Đạo).



HÀI NHI 

Hài: Con nít. Nhi: Con.

Hài nhi là đứa con nít còn trẻ thơ.



Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,

Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HÀI TRỞ GÓT

Bởi chữ “Đảo lý xuất nghinh  ” tức đi ngược giầy ra đón.

Do tích: Thái Ung đời Đông Hán là người có danh vọng trong triều đình, nhà lúc nào cũng đông tân khách. Một hôm có người bạn là Vương Xán đến chơi, Thái Ung vội vàng mang ngược giầy ra tiếp đón. Ý nói cử chỉ ân cần, niềm nở đón khách quý.

Xem: Trở gót giầy.



Tử Trung thoắt thấy ngọc nhan,

Chân hài trở gót, miệng khoan khoan chào.

(Nữ Tú Tài).



HÀI VĂN 

Hài: Giày. Văn: Hoa văn, tức đường vằn, vân.

Hài văn tức là loại giầy được thêu hoa văn.



Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

(Truyện Kiều).



HẢI ÂU 

Hải âu là một loài chim nước ở biển, có đầu to, mỏ cứng, thường hay ở vùng hoang vắng.



Bạch hạc có chí cao xa,

Hải âu tình tính thực là tự do.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



HẢI ĐẢO 

Hải: Biển. Đảo: Hòn đảo.

Hải đảo tức là hòn cù lao nổi lên ở biển.



Vậy nên cứ pháp nghiêm răn,

Đày ra hải đảo tội chăng dung rày.

(Hạnh Thục Ca).



Khi động Thánh, lúc non Tiên,

Sớm thì hải đảo, tối miền Thiên Thai.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HẢI ĐẠO 

Hải: Biển. Đạo: Con đường.

Hải đạo là con đường biển.



Lâm Tri đường bộ tháng chầy,

Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.

(Truyện Kiều).



HẢI ĐƯỜNG 

Tên một loài hoa đẹp, có thân cây to, lá hình trứng, đến đêm thì lả ngọn xuống. Hoa Hải đường có nhiều tên: Tây phủ, thuỳ ty, Niêm ngạnh…có hoa màu cung phấn đỏ nhạt, không hương, hoa nở rất đẹp thường ví với người con gái đẹp.



Hải đường mơn mởn cành tơ,

Ngày xuân càng gió, càng mưa, càng nồng.

(Truyện Kiều).



Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ,

Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,

Cánh hải đường đã quyện giọt sương.

(Ai Tư Vãn).



Vườn thu giấu dạng Hằng Nga,

Hải đường nở muộn mặn mà ái phong.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Bóng hải đường ta ngồi buổi nọ,

Bồng con thơ tìm ngõ nhà thầy.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HẢI HÀ 

Hải: Biển. : Sông.

Hải hà là biển và sông, dùng để chỉ tấm lòng rộng rãi, bao la như sông dài biển rộng.

Thường nói về lòng độ lượng.

Lời ngu thần cạn tỏ niềm ngay,

Xin vương phụ hải hà rộng lượng.

(Nhạc Hoa Linh).



Tây phương cõi Phật chói lòa,

Từ bi Phật Tổ hải hà độ dân.

(Xưng Tụng Công Đức).



HẢI HỒ 

Như chữ “Hồ hải”.

Hải hồ là biển và hồ, nói đi lang bạt khắp nơi. Nghĩa bóng: Chỉ người có chí khí anh hào.

Xem: Hồ hải.



Hải hồ đưa bước đã cùng nơi,

Ngặt nỗi chưa hay biết mặt Trời

(Đạo Sử).



HẢI YẾN HÀ THANH 

Hải yến hà thanh tức là biển lặng, sông Hoàng Hà trong.

Xét trong lịch sử vào năm thứ ba đời vua Trang Tương Vương, sông Hoàng Hà tự nhiên trong, năm ấy có thánh nhân xuất hiện, tức là vua Hán Cao Tổ được sinh vào năm ấy ở đất Bái.

Nghĩa bóng: Điềm thánh nhân ra đời hoặc đời thái bình thịnh trị.



Điềm trình hải yến hà thanh,

Khánh vân quanh nhiễu, cánh tinh sáng loà.

(Tư Dung Vãn).



Nay mừng hải yến hà thanh,

Muôn dân trăm họ thái bình âu ca.

(Thanh Hoá Quan Phong).



HẢI TẦN 

Hải: Biển. Tần (Hay tân): Bến, bờ.

Hải tần tức là bờ biển.



Trước cờ ai dám tranh cường,

Năm năm hùng cứ một phương hải tần.

(Truyện Kiều).



HẢI THỆ SƠN MINH 

Hải thệ: Thề với biển. Sơn minh: Nguyền với núi.

Hải thệ sơn minh tức là biển thệ non nguyền.

Ngày xưa, mỗi khi trai gái thề nguyền về nhân duyên, thường bày bàn hương án giữa trời, chỉ sông núi mà thề hẹn với nhau. Ngụ ý lời thề bền chặt như có biển và núi ghi tạc.

Xem: Thệ hải minh sơn.



Mừng đà vẹn chữ công danh,

Tưởng lời hải thệ sơn minh chạnh lòng.

(Lưu Nữ Tướng).



Vì chàng thiếp kết bố kinh,

Giữ câu hải thệ sơn minh với nàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG 

Hiệu của vị danh y nước ta đời nhà Lê, tên thật là Lê Hữu Trác.

Ông là người ở Liêu Xá, huyện Đường Hào (Nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên), đỗ Hương cống, nhưng không thích công danh, vào ở ẩn trong núi thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tỉnh.

Ông là tác giả pho sách giá trị khảo cứu về y học và thảo dược học, gồm 63 quyển, soạn năm 1772 gọi là “Hải Thượng Y Tông Tâm Tĩnh” (Gọi tắt là Lãn Ông Y Tập).



HAM ĐÓ BỎ ĐĂNG

Đó đăng là hai thứ dụng cụ dùng để bắt cá. Đó là một vật được đan bằng tre có hình ống, hay hình nón trong có hom để cá chun vào được nhưng không ra được. Đăng là bện tre thành hàng cắm dưới sông theo hình phểu để chận cá vào cái đó mà bắt.

Ham đó bỏ đăng ý nói ham mê cái mới, bỏ bê cái cũ, tức là có mới nới cũ.

Nghĩa bóng: Chỉ người thay lòng đổi dạ, vợ chồng không chung thuỷ nhau.

Xem: Tham đó bỏ đăng.

Đừng để dạ tham giàu phụ khó,

Mà ra lòng ham đó bỏ đăng.

(Phương Tu Đại Đạo).



HÀM CỐC 

Hàm Cốc là tên một cửa ải hiểm yếu của nhà Tần.Các nước phía đông muốn vào đất Tần tất phảiqua ải địa đầu này.Nay ở phía nam huyện Linh Bảo, tỉnh Hà Nam.

Sau khi thấy nhà Tần bạo ngược, sáu nước chư hầu nổi dậy phá cửa ải Hàm Cốc, và tiêu diệt nhà Tần.

Đất Luân Đài phải Hớn chẳng hối ngộ trách cung;

Ải Hàm Cốc thì Tần cũng rắp ranh làm phản.

(Sãi Vãi).



HÀM DƯƠNG 

Tên đất:


- Kinh đô của nhà Tần, vua Tần Hiến Công ngày xưa đóng đô ở đất Hàm Dương, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.

- Huyện Hàm Dương ở Tây An Thị.



Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại,

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HÀM HUYẾT PHÚN NHÂN 

Ngậm máu phun người.

Tục ngữ Trung Quốc có câu: Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu  , , tức là ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình.

Nghĩa bóng: Muốn hại người, mình bị hại trước.



HÀM MAI 

Hàm: Ngậm. Mai: Cái thẻ.

Hàm mai là ngậm thẻ, một chiến thuật trong quân đội, khi muốn kéo quân đánh úp một nơi nào, để giữ sự lặng lẽ thì ngựa cởi lạc, người ngậm thẻ âm thầm kéo quân đi.



Tặc binh đoạt lộ thượng trình,

Hàm mai chút chẳng dám tình kiêu lung.

(Lưu Nữ Tướng).



HÀM MAI TIỀM HÀNH 

Hàm mai: Ngậm thẻ. Tiềm hành: Lặng lẽ đi.

Hàm mai tiềm hành là một chiến thuật trong quân đội, khi muốn mai phục hay rút quân, người ngậm thẻ, ngựa cởi lạc, âm thầm lặng lẽ kéo quân đi.



Lĩnh quân Diêu mới quyết bài,

Đặc truyền tức khắc hàm mai tiềm hành.

(Hoa Tiên Truyện).



HÀM NGHI 

Huý là Ưng Lịch, vua thứ bảy nhà Nguyễn, lên ngôi 1884, con thứ 26 của vua Thiệu Trị.

Hàm Nghi phản đối chính sách bảo hộ của chính phủ Pháp, lập căn cứ tại Ấu Sơn, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tỉnh, rồi ban hịch Cần Vương được quần thần và dân chúng khắp mọi nơi hưởng ứng. Cuối cùng, nhà vua bị Pháp bắt đày sang Algérie (Thuộc Châu Phi). Tại đó, nhà vua mất năm 1947.

Tôn vương bèn mới chọn ngày,

Hàm nghi niên hiệu ban ngay trong ngoài.

(Hạnh Thục Ca).



Hàm nghi xa lánh nơi mô,

Dẫu về thời cũng phong cho công hầu.

(Hạnh Thục Ca).



HÀM OÁN 

Hàm: Ngậm. Oán: Mối căm giận.

Hàm oán là mối hờn oán nung nấu mạnh mẽ và nuôi nấng trong lòng.



Quan Đường lắm kẻ tham tài,

Binh dân hàm oán, trong ngoài hợp mưu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HÀM SƯ TỬ

Bởi chữ “Sư Tử Hà Đông  ” dùng để chỉ người đàn bà tính hung dữ và hay ghen.

Sách Ấu Học Quỳnh Lâm có câu: “Hà Đông sư tử hống, cơ nam tử cho uý thê  , , tức là sư tử Hà Đông rống, chê cười người đàn ông sợ vợ.

Do tích bạn Tô Đông Pha là Trần Quý Thường có người vợ họ Liễu tính ghen, thường hay quát tháo ầm ĩ. Tô Đông Pha mới làm bài thơ đùa bỡn Quý Thường như sau: Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống, trong tay gậy rớt lòng hoảng kinh.

Hàm sư tử chỉ đàn bà hung dữ, tính hay ghen.

Xem: Hà Đông.



Thế trong dầu lớn hơn ngoài,

Trước hàm sư tử gửi người đằng la.

(Truyện Kiều).



HÀM TỬ 

Tức là “Hàm Tử Quan  ”, là một ải quan nay thuộc huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên, nơi mà tướng Trần Nhật Duật đánh phá quân Toa Đô của nhà Nguyên vào tháng tư năm Ất Dậu 1285 và cũng là nơi Trần Quang Khải bắt rợ Hồ: “Cầm Hồ Hàm Tử Quan  ”.



Toa Đô bị bắt ở cửa Hàm Tử,

Ô Mã phải chết ở sông Bạch Đằng.

(Bình Ngô Đại Cáo).



HÃM HẠI 

Hãm: Làm hại. Hại: Làm thiệt hại cho người khác.

Hãm hại là làm cho bị hại, bị giết bằng những thủ đoạn ám muội.



Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại,

Đừng gian mưu hãm hại người hiền.

(Kinh Sám Hối).



HÃM LƯƠNG 

Hãm: Hãm trận, hãm thành, tức là đánh phá. Lương: Lương thực của quân đội.

Hãm lương tức đem binh đánh và vây quân giặc cho đến khi hết lương thực.



Hãm lương, Hồ những để rông,

Chắc rằng cá chậu chim lồng vội đâu.

(Hoa Tiên Truyện).



HÁN BÁI CÔNG 

Tên là Lưu Bang, người ở đất Bái, làm Đình trưởng ở Tứ Thượng, chém rắn khởi nghĩa tại đất Bái, cùng Hạng Võ diệt Tần và giành thiên hạ.

Hán Bái Công tụ hợp hơn ba ngàn binh, khởi nghĩa ở Bành Thành, đánh vào Hàm Dương trước Hạng Võ. Nhưng vì Hạng Võ binh mạnh, nên Bái Công tạm lui về Bái Thượng. Sau nhờ Trương Lương bày mưu phá sạn đạo và Hàn Tín đưa kế đánh thắng quân Hạng Võ ở Cai Hạ, mới dựng được đế nghiệp.

HÁN DƯƠNG 

Hán Dương là tên một quận ở Cam Túc, thuộcTrung Quốc.



Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,

Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HÁN ĐẠI 

Hay “Hớn đại”.



Hán: Nhà Hán. Đại: Đời.

Hán đại là đời nhà Hán. Đời nhà Hán trị nước hơn bốn trăm năm, kể từ Hán Cao Tổ đời Tây Hán đến Hiến Đế đời Đông Hán.

Xem: Hán triều.

Kìa Văn Đế vua hiền Hán Đại,

Vâng ấn phong ngoài cõi phiên Vương.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



HÁN ĐỀ OANH 

Hay “Hớn Đề Oanh”.

Đề Oanh là con gái Thuần Vu Ý, đời Hán Văn Đế. Cha bị tội nhục hình, gia đình lại không có anh em trai để cùng lo lắng, Đề Oanh là con gái thứ năm đành phải dâng thơ xin bán mình vào cung để chuộc tội cho cha.

Vua thương tình bèn tha cha nàng khỏi tội.

Xem: Đề Oanh.

Thơ cứu cha khỏi chốn tai nguy,

Nọ như Hớn Đề Oanh thiếu nữ.

(Sãi Vãi).



HÁN ĐÌNH HẦU 

Hay Hán Thọ Đình Hầu , là tước phong của Quan Võ, tự Vân Trường. Khi thua trận Hạ Bì, Quan Võ tạm về với Tào Tháo, tháo lấy lễ đặc biệt tiếp đãi, phong làm Tướng quân. Viên Thiệu đem quân đánh Tào tháo, Quan Võ chém dũng tướng của Thiệu là Nhan Lương, Tháo bèn dâng biểu phong cho Quan Võ làm Hán Thọ Đình Hầu và ban thưởng rất hậu.



Tiếc thay công trình Gia Cát Lượng,

Uổng thay mỏi mệt Hán Đình Hầu.

(Thơ Nguyễn Đình Chiểu).



HÁN GIA 

Hán: Nhà Hán. Gia: Nhà.

Hán gia tức là nhà Hán.



Xuất thân từ thủa Hán gia,

Quyết liều đến Hắc thủy hà trầm châu.

(Nhị Độ Mai).



HÁN GIANG 

Tức là sông Ngân hán, còn gọi là sông Ngân hà, một giải trắng bạc trên bầu trời do ánh sáng của muôn vạn vì sao chiếu thành.

Xem: Ngân hà.

Riêng than chút phận tơ điều,

Hán Giang chưa gặp, Ô kiều lại rơi!

(Lục Vân Tiên).



HÁN QUANG 

Tức là Hán Quang Võ là vị vua trung hưng nhà Hán, gọi là Đông Hán.

Quang Võ dấy binh ở Bạch Thuỷ, đánh bại Vương Mãng ở Côn Dương, tiến quân đánh Trường An, Vương Mãng bị thiêu chết. Quang Võ lên ngôi hoàng đế, gọi là Đông Hán, đóng đô ở Lạc Dương.

Bởi khách cố cựu thương tình,

Nghiêm Quang được gối lên mình Hán Quang.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



HÁN RƯỚC DAO TRÌ

Hay “Hớn rước Diêu Trì”.

Tức Vua Hớn Võ Đế tiếp rước Diêu Trì Kim Mẫu.

Do Điển: Trong ngày lễ khánh thọ, vua Võ Đế nhà Hớn có sở nguyện muốn cầu Đức Diêu Trì Kim Mẫu đến chứng lễ. Có một vị Tiên là Đông Phương Sóc biết được ý nhà vua, nên Ông tình nguyện đến triều bái Tây Vương Mẫu hay đức Diêu Trì Phật Mẫu để tỏ mọi điều. Phật Mẫu hẹn đêm Trung thu sẽ giáng lâm xuống Hoa Điện, là ngôi đền do vua Võ Đế lập ra.

Vào nửa đêm Trung thu, bỗng có chim thanh loan (chim xanh) bay đậu trước sân, ông Đông Phương Sóc cho biết đó là tin của Đức Phật Mẫu sắp đến, rồi sau đó Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng lâm xuống Hoa Điện và ban cho vua Võ Đế bốn quả Đào Tiên.

Nhẫng nhớ bước động Đào buổi trước,

Nhẫng nhớ khi Hớn rước Diêu Trì.

(Kinh Thế Đạo).



HÁN TRIỀU 

Hay “Hớn trào”.

Tức triều đại nhà Hớn. Đây nói triều Hớn trong thời Tam Quốc.

Triều Hớn Trung quốc kể từ Cao Tổ đời Tây Hớn đến Hiến Đế đời Đông Hớn, nhà Hớn trị nước hơn 400 năm.

Hớn Bái Công, tức Lưu Bang chém rắn khởi nghĩa tại đất Bái, cùng Sở Bá Vương Hạng Võ diệt Tần và giành thiên hạ.

Rồi sau, Lưu Bang diệt Sở dựng nên nhà Tây Hớn, đóng đô tại Trường an. Kế truyền được 11 đời (206 trước D.T. – 5 sau D.T.), đến đời Bình Đế bị quyền thần Vương Mãng giết và soán ngôi. Năm 22 sau D.T. vua Quang Võ phục nghiệp Hớn, dời đô qua Lạc Dương, gọi là Đông Hớn, truyền 12 đời. Đến Hiến Đế thì bị quyền thần Tào Phi, con của Tào Tháo, cướp ngôi (219 sau DT).



Trải xem sử cũ Hớn trào,

Cao Hoàng noi dấu Đường Nghiêu dựng nền.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



Hớn trào Quan Thánh bia danh,

Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.

(Xưng Tụng Công Đức).



HÁN VÕ ĐẾ 

Trị vì từ năm 140 đến năm 87 trước Công nguyên, là một vị vua hùng tài, nhiều mưu lược, sùng Nho học. Vua sai tu chỉnh tất cả các sách Khổng giáo, nhứt là những sách mới tìm lại được.

Sau vua say mê việc tu tiên, cất lâu đài cung điện cho các đạo sĩ ở, nên kho tàng hao hụt, dân tình khốn đốn, loạn lạc khắp nơi.

Cuối cùng vua hối hận, suy xét lại việc đã qua, lo chỉnh đốn lại chính sự, trong nước mới được yên ổn.



Kìa như Hán Võ Đế;

đã nên đứng minh vương;

Nọ như Tần Thỉ Hoàng;

rất nên trang hung bạo.

(Sãi Vãi).



HÀN BẰNG 

Cũng đọc là Hàn Phùng.

Người đời Chiến Quốc. Hàn Bằng có người vợ tên là Hà Thị rất đẹp, tính lại hiền thục. Tống Khang Vương muốn cướp Hà Thị, nên ra lịnh giết Bằng. Để giữ tròn trinh tiết, Hà thị bèn nhảy từ trên lầu xuống đất tự tử, để lại bức thư xin được cùng chồng chôn chung một ngôi mộ. Khang Vương tức giận, truyền chôn hai người hai mộ và cách xa nhau. Sau đó, trên mỗi mộ đều có mọc lên một cây to, trên thì cành giao nhau, dưới rễ ăn liền nhau.

Xem: Giao cành.



Hoạ chăng gặp kiếp sau này,

Chẳng thì xin hóa làm cây Hàn Bằng.

(Quan Âm Thị Kính).



HÀN CỐC 

Hàn cốc là hang lạnh.

Trên núi, đá chất chồng tạo thành cái hang sâu lạnh, nơi đó mặt trời không chiếu rọi đến được, gọi là hàn cốc.

Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,

Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



HÀN CUNG 

Tức Quảng hàn cung, là tên một cái điện ở trên mặt trăng, chỉ cung trăng.

Do tích đêm rằm tháng tám, vua Đường Minh Hoàng lên chơi nguyệt điện, thấy ở cung trăng có bảng đề mấy chữ: “Quảng Hàn Thanh Hư Chi Phủ . Do vậy trong văn chương, người ta thường hay dùng chữ “Quảng Hàn” hoặc “Cung Quảng” để chỉ mặt trăng.

Rằng: Hàn cung mấy từng cao,

Nghĩ công luống những ước ao nực cười.

(Lưu Nữ Tướng).



HÀN CHÂM 

Hàn: Lạnh. Châm: Cây chày dùng để đập vải hay quần áo khi giặt đồ.

Hàn châm là tiếng chày đạp quần áo trong đêm vắng, lạnh.



Bóng ác rạng đông trời đã sáng,

Tiếng gà sôi nổi tiếng hàn châm.

(Hồng Đức Quốc Âm).



HÀN DŨ 

Hàn Dũ sinh năm 768 tại Nam Dương, cha là Trọng Khanh làm quan Huyện lệnh có tiếng về văn chương. Ông mồ côi cha hồi ba tuổi, ở với anh là Hàn Hội, cũng mất sớm. Sau ông ở với chị dâu, tự học. Năm 19 tuổi lên Kinh thi, bị rớt, mặc dầu ông đã nổi danh về cổ văn. Năm 24 tuổi mới đậu tiến sĩ, rồi 29 tuổi mới ra làm quan.

Hàn Dũ là một người thanh liêm và cương trực. Một lần can vua Đức Tôn về việc xa hoa trong cung mà bị biếm làm Lệnh doãn Dương Sơn; lần khác, can vua Hiến Tôn đừng rước cốt Phật vào cung, suýt bị tử tội, nhờ đình thần xin cho mới được giáng làm Thứ sử Triều Châu. Sáng ông dâng biểu can vua thì chiều có chiếu vua bắt đi đày, nên mới có câu: Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên, Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên  , .

Sau vua nguôi giận mới bổ ông làm Viên Châu Thứ sử, rồi dần dần đến chức Binh bộ Thị lang, đến năm 824, Hàn Dũ mất.



Thương ông Hàn Dũ chẳng may,

Sớm dâng lời biểu tối đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngày đi xa.

(Lục Vân Tiên).



HÀN ĐỒNG ĐẬU QUẾ 

Tám cây ngô đồng nhà họ Hàn và năm cây quế nhà họ Đậu, chỉ nhà hiển đạt.

Do điển: Nhà họ Hàn có tám người con trai đều học hành thành tài, thi đỗ ra làm quan. Người đương thời ca tụng là “Hàn thị bát đồng  ”, nghĩa là nhà họ Hàn có tám cây ngô đồng.

Đậu Võ Quân, người đời Ngũ đại, nhà ở tại Yên Sơn, nên người ta còn gọi là “Đậu Yên Sơn”. Đậu Yên Sơn có năm người con kế tiếp nhau đỗ đạt hiển hách, nên người đương thời gọi là “Yên Sơn ngũ quế”



Nguyện xin phúc thạnh sang giàu,

Hàn đồng Đậu quế công hầu tập phong.

(Thanh Hoá Quan Phong).



HÀN GIA 

Hàn gia tức là nhà lạnh lẽo, cực khổ. Tiếng dùng để nói có ý khiêm nhường.

Hàn gia dùng nghĩa như chữ tệ xá.

Hàn gia ở mé tây thiên,

Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.

(Truyện Kiều).

 

HÀN HẢI 

Bãi sa mạc lớn ở Mông Cổ. Ở đây, những cồn cát bị gió thổi bay như sóng dậy, người ngựa đi vào nơi đó chẳng khác gì bị chìm ngập trong biển cả mênh mông.



Tưởng chàng giong ruổi mấy niên,

Chẳng nơi Hàn Hải thì miền Tiêu Quan.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HÀN HUYÊN 

Hàn: Lạnh. Huyên: Ấm.

Hàn huyên là lạnh và ấm.

Người xưa do khí hậu của trời đất khi ấm khi lạnh làm cho con người hay mắc phải bịnh tật, cho nên khi gặp gỡ người ta thường hỏi thăm nhau về sức khoẻ, gọi là “Hàn huyên”.

Những từ như: Hàn huyên, hàn ôn đều có nghĩa tương tự chỉ sự thăm hỏi, chuyện trò…



Hàn huyên cùng giải tưng bừng,

Mới hay Diêu Cữu chuyển thăng Đô đường.

(Hoa Tiên Truyện).



Tiểu thư đón cửa dã dề,

Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.

(Truyện Kiều).



Ấm lạnh dốc tròn gương phấn đại,

Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.

(Đạo Sử).



HÀN LÂM 

Hàn: Lông cánh chim dùng làm cây bút. Lâm: Rừng cây.

Hàn lâm là rừng bút, chỉ nơi hội tụ các nhà văn chương, văn học.

Đời Đường, đời Tấn, các quan trong nội đình đều nằm trong Hàn lâm. Đến đời Minh, Hàn lâm mới được tuyển bổ những người có tài và tiếng tăm về văn học.

Nghĩa bóng: Chỗ văn học.



Hàn Lâm sẵn có Tiền nha,

Với phu nhân vả cũng là đồng thân.

(Hoa Tiên Truyện).



Kìa Đảng Tiến, nọ Đông Sơ,

Kẻ toà Đô sát, người toà Hàn lâm.

(Nhị Độ Mai).



HÀN MẶC 

Hàn: Bút lông. Mặc: Mực.

Hàn mặc là ngọn bút lông và thoi mực, chỉ những dụng cụ của nhà thơ và nhà văn.

Nghĩa bóng: Chỉ văn chương.

Sông Thù luống những khát khao,

Rắp đem Hàn mặc buộc vào biền mâu.

(Hoa Tiên Truyện).



HÀN ÔN 

Hàn: Lạnh. Ôn: Ấm.

Hàn ôn là lạnh và ấm, cũng như chữ hàn huyên,

dùng để hỏi thăm nhau.

Xem: Hàn huyên.



Kẻ chốn chương đài người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

(Thơ Huyện Thanh Quan).



HÀN QUANG 

Hàn: Lạnh. Quang: Ánh sáng.

Hàn quang là ánh sáng lạnh lẽo.



Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị,

Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



HÀN SAN 

Hay “Hàn Sơn”.

Ngoài thành Cô Tô có một ngôi chùa cổ gọi là Hàn San Tự .

Trương Kế, nhà thơ đời Đường có câu: Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền  , , nghĩa là ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn San, nữa đêm tiếng chuông vọng đến thuyền khách.

1.- Hàn san:

Nực cười thay! thú ngư gia,

Sớm qua Tầm Thuỷ, tối về Hàn San.

(Nhị Độ Mai).

2.- Hàn sơn:

Lão rằng: Chùa chẳng thiếu chi,

Hàn sơn, Lam thủy ít bì Thiên thai.

(Dương Từ Hà Mậu).



HÀN TÍN 

Người Hoài Âm, hồi còn hàn vi phải đi câu cá để đổi gạo, lắm khi thiếu ăn phải nhờ nơi bà Phiếu Mẫu. Hàn Tín ra khỏi nhà đều thường mang gươm, do vậy mới có một tên côn đồ bán thịt, muốn làm nhục Hàn Tín, bắt phải lòn trôn nó ở giữa chợ.

Vì mang chí cả, Hàn Tín đành nhẫn nhịn mà chung qua háng tên bán thịt. Sau Hàn Tín phò Hán Bái Công, thống nhứt thiên hạ, lập nên công nghiệp to lớn, được phong làm Hoài Âm Hầu. Hàn Tín chẳng những không trả thù tên bán thịt, trái lại còn đem nó về làm quan nữa.

So tam kiệt ai bằng Hàn Tín,

Một tay thu muôn dặm nước non.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Người Hàn Tín ấy cố nhân,

Trần Bình gã ấy đồng quần bạn chơi.

(Tống Thần Cùng).



Tín có thuở lượm tay Phiếu mẫu,

Bá từng phen hổ mặt Đồ lê.

(Thập Giới Cô Hồn).



HÀN TỬ 

Tức là Hàn Dũ, người ở Nam Dương, đậu tiến sĩ, tính thanh liêm và cương trực. Một lần can vua Đức Tôn về việc xa hoa trong cung mà bị biếm làm Lệnh doãn Dương Sơn; lần khác, can vua Hiến Tôn đừng rước cốt Phật vào cung, bị giáng làm Thứ sử Triều Châu. Xem: Hàn Dũ.



Đèn Hàn Tử, gối Ôn công,

Thức nhắp chẳng lìa nhật dạ.

(Thập Giới Cô Hồn).



HÀN THUYÊN 

Tên thật là Nguyễn Thuyên, một người giỏi văn học và người đầu tiên gây nên phong trào thơ nôm, trong lúc Hán học còn thịnh hành.

Ông là người Thanh Khê, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Đỗ Thái Học Sinh dưới thời vua Trần Thái Tôn, làm quan đến chức Hình Bộ Thượng Thơ.

Theo truyền thuyết kể lại: Lúc ấy trên sông Phú Lương có con cá sấu phá hoại nhân gian, vua Nhân Tôn nhân chuyện Hàn Dũ đời Đường tế cá sấu, mới sai Nguyễn Thuyên làm bài văn tế đuổi cá. Sau khi bài văn tế thả xuống sông, cá sấu bèn đi mất. Do vậy, ông được nhà vua ban cho họ Hàn.

VĂN TẾ CÁ SẤU

Ngạc ngư kia hỡi! Mầy có hay,

Biển Đông rộng rãi là nơi mầy,

Phú Lương đây thuộc về Thánh vực,

Lạc lối đâu mà lại đến đây?

Há chẳng nhớ rằng nước Việt xưa:

Dân quen chài lưới chẳng tay vừa,

Đời Hùng vẽ mình, vua từng dạy,

Xuống nước giao long cũng phải chừa.

Thánh thần nối dõi bản triều nay,

Dấy từ Hải ấp, ngôi trời thay,

Võ công lừng lẫy bốn phương tịnh.

Biển lặng sông trong mới có rày.

Hùng thiêng xa dấu dân cày cấy,

Nhân vật đều yên đậu ở đây,

Ta vâng Đế mạng bảo ncho mầy:

Hãy vào biển Đông mà vùng vẫy.

HÀN THỰC 

Hàn thực, cũng gọi là tiết "cấm yên " (cấm khói), là một cái lễ tiết chỉ ăn đồ nguội lạnh.

Ngày xưa, người Trung Hoa, trong tiết Hàn thực từ ngày 3 tháng 3 đến ngày 5 tháng 3 người ta không dùng lửa, chỉ ăn đồ nguội lạnh nhằm kỹ niệm ngày Giới Chi Thôi bị chết cháy trong rừng. vì không chịu ra hưởng lộc vua để đền cho cái công phò vua lúc nguy nan, khổ cực. Lâu đời, tiết nầy trở thành ngày lễ hội vui chơi ăn uống.

Xem: Giới Chi Thôi.



Cửa hàng buôn bán cho may,

Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu.

(Truyện Kiều).



Dù thương đến chị sau này,

Hoặc tuần Hàn thực, hoặc ngày thanh minh.

(Nhị Độ Mai).



HÀN VI 

Hàn: Lạnh. Vi: Nhỏ.

Hàn vi là nói người còn trong cảnh nghèo hèn vất vả, không có thế lực gì.



Trong quân có lúc vui vầy,

Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:

(Truyện Kiều).



Này là chồng lúc hàn vi,

Cậy mình phú quí, chẳng vì chẳng kiêng.

(Huấn Nữ Ca).



Ba mươi tuổi trước hàn vi,

Đoạn xong vận kiển tới kỳ hanh thông.

(Tây Sương).



HÀN UYỂN 

Hàn: Cây bút. Uyển: Vườn.

Hàn uyển là vườn bút lông, cũng như rừng bút (Hàn lâm). Ý chỉ toà Hàn lâm, nơi tụ hội các nhà văn học có tiếng tăm.

Xem: Hàn lâm.

Diêu ra quan chính cõi ngoài,

Lương vào Hàn uyển thảnh thơi ngọc đường.

(Hoa Tiên Truyện).



HÃN Mà

Hãn mã là mồ hôi ngựa, đây nói về chiến công, bởi người chiến sĩ và ngựa đều phải chiến đấu đến nỗi đẫm ướt cả mồ hôi.



Hãn mã gian quan vị quốc cừu,

Chỉ nhân binh bại trí thân hưu.

(Thơ Nguyễn Hữu Huân).



HÃN NGƯU SUNG ĐỐNG 

Hãn ngưu: Mồ hôi trâu đổ vì phải kéo xe sách nặng nề. Sung đống: Sách vỡ nhiều, chất chồng cả nhà.

Hãn ngưư sung đống ý nói nhiều sách vở, nếu chở đi thì trâu bò kéo xe phải toát mồ hôi, nếu chất trong nhà thì lấp cả cột nhà.

Nghĩa bóng: Nhiều sách vỡ.

Dẫn rằng: Sách thuốc thiếu chi,

Hãn ngưu sung đống, câu ghi trước tường.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HẠN BẠT 

Hạn: Khô hạn. Bạt: Tên một vị Thần.

Sách Thần Dị Kinh chép: Phương Nam có một vị Thần, cao hai ba thước, con mắt ở trên đỉnh đầu, chạy nhanh như gió, gọi là Thần Bạt. Dân chúng vùng nào thấy Thần Bạt thì vùng đó sẽ bị đại hạn, nên gọi là Hạn bạt. Kinh Thư có câu: Hạn Bạt vi ngược  , nghĩa là thần Hạn bạt làm dữ.



Thần hạn bạt nát ai ra đấy tá,

Kẻ tam nông mong chẳng được tô nhu.

(Phản Tây Hồ Tụng).



HANG BEO

Hoặc “Hang cọp”, chỉ những vùng nguy hiểm.

Do điển: Ban Siêu khi đi xứ sang Tây Vực, vào những miền nguy hiểm, ông thường nói với thuộc hạ rằng: Không vào hang cọp sao bắt được cọp con “Bất nhập hổ huyệt an đắc hổ tử  , ?”.

Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,

Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HANG SÂU NÚI CẢ

Bởi chữ “Cốc lăng  ” là hang sâu và cái gò lớn. Thành ngữ này có ý nói hang sâu biến nên gò núi lớn, chỉ sự biến thiên, thay đổi của trời đất, hay nói về thịnh suy của triều đại.

Xem: Cốc lăng.

Mới hay có thịnh, có suy,

Hang sâu, núi cả có khi đổi dời.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HANG TRỐNG TIẾNG RÂN

Dịch từ câu trong Kinh Thi, phần Tiểu nhã, thiên Bạch câu: Kiểu kiểu bạch câu, tại bỉ không cốc  , , nghĩa là ngựa tơ lông trắng đẹp đẽ, ở nơi hang vắng kia.

Nghĩa bóng: Chỉ người tài giỏi ở ẩn.

Bấy lâu những tưởng không người,

Nào hay hang trống còn dời tiếng rân.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HÀNG NHẠN

Bởi chữ “Nhạn hàng  ” là đàn nhạn bay từng hàng. Người ta cho rằng nhạn là loài chim có trật tự lớn nhỏ, lại có tính thuỷ chung, vì vậy trong hôn lễ thường dùng tới chim nhạn.

Hàng nhạn dùng để chỉ về thứ bậc quan lại hay anh em.

Thấp cao vòi vọi chen hàng nhạn,

Trên dưới làu làu hiện vẻ beo.

(Hồng Đức Quốc Âm).



HÀNG THẦN 

Hàng: Chịu phục tùng. Thần: Bề tôi.

Hàng thần tức là người bề tôi của một nước khác về đầu hàng.



Bó thân về với triều đình,

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?

(Truyện Kiều).



HẠNG THÁC 

Hạng Thác là một thần đồng trong thời Xuân Thu.

Quốc Sách chép: Cam La nói rằng: “Ôi! Hạng Thác sinh ra bảy tuổi đã làm thầy Khổng Tử”.

Sách xưa có chép: Hạng Thác đang ngồi đắp một cái thành bằng đất ở giữa đường, Khổng Tử đi nước Trần ngang qua đó, thấy xe Khổng Tử vẫn không tránh, Khổng Tử bảo: Sao cậu không tránh xe? Cậu bé thản nhiên đáp: Xưa nay xe tránh thành chứ thành nào có tránh xe.

Nghe xong Khổng Tử phục đứa bé, bèn xuống xe, cùng cậu bé đàm luận. Hạng Thác đặt nhiều điều hỏi Khổng Tử, khiến ông chịu thua, phải nhận Hạng thác làm thầy.

Trọng Ni nhận vi sư Hạng Thác,

Học tinh thần khai phát Nho tông.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HẠNG VÕ 

Hay “Hạng Vũ”.

Tên là Hạng Tịch, người đất Cối Kê, tương truyền, hai mắt có bốn con ngươi. Hạng Tịch có sức mạnh đánh muôn người, cử đảnh nặng năm ngàn cân trước miếu Võ Vương, chiêu mộ binh lính, khởi binh ở Bành Thành cùng Hán Bái Công đánh Tần.

Hạng Võ cùng Bái Công ước hẹn nhau ai lấy được đất Hàm Dương trước thì người ấy được xưng vương. Bái Công vào trước, nhưng sợ oai Hạng Võ phải rút quân đóng ở Bái Thượng.

Hạng Võ đốt A Phòng cung, lửa cháy ba tháng mới tắt. Ông xưng là Sở Bá Vương. Về sau Hạng Võ và Lưu Bang tranh nhau ngôi vua, cuộc chiến kéo dài năm năm, Hạng Võ mới bị bại trận, từ biệt vợ là Ngu Cơ, chạy đến bến Ô Giang cắt đầu tự tử.

Có người họ Hớn tên Minh,

Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.

(Lục Vân Tiên).



Lại nghe đình trưởng dừng thuyền,

Chở ông Hạng Võ qua miền Ô giang.

(Dương Từ Hà Mậu).



Một mồi lửa của người Hạng Vũ,

Cung A Phòng một thuở thành tro.

(Hà Thượng Nhân).



Thà núp thú quê nghề phó nghị,

Thà theo Hạng Võ đỡ nâng ngôi.

(Đạo Sử).



Buông cương đẩy núi xưa Hạng Võ,

Một kiếp chưa rồi hết lối tranh.

(Đạo Sử).



HẠNG VƯƠNG 

Tức Hạng Võ, tên là Tịch, người đất Cối Kê, chiêu mộ binh lính, khởi nghĩa ở Bành Thành, cùng với Hán Bái Công đánh Tần. Sau khi diệt được Tần Thuỷ Hoàng, Hạng Võ lên ngôi xưng là Sở Bá Vương, vì vậy người đời gọi là Hạng Vương.

Xem: Hạng Võ.

Thuyền ai đỗ bên Ô Giang,

Hay thuyền Đình Trưởng đi rước Hạng Vương sang cùng.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Oai hùm ai ví Hạng Vương xưa,

Hớn đảnh gầy nên thế đón ngừa.

(Đạo Sử).



Thiền cao chưa đủ đỡ muôn linh,

Như thuở Hạng Vương ở Bành Thành.

(Đạo Sử).



HÀNH CUNG 

Khi vua ngự giá ra khỏi Kinh đô, đến khi nghỉ ngơi tại cung nào ở ngoại thành, nơi ấy được gọi là “Hành cung”.

Nguyên Chẩn đời Đường có câu: Liêu lạc cố hành cung, cung hoa tịch mịch hồng. Bạch đầu cung nữ tại, Nhàn tọa thuyết Huyền Tông  , . , , nghĩa là hành cung xưa hiu quạnh, Bông hoa ủ rủ hồng. Cung nữ đầu nay bạc, ngồi kể chuyện Huyền Tông.

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,

Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau.

(Thơ Huyện Thanh Quan).



HÀNH CƯỚC 

Hành cước là đi bộ.

Người tu hành đi bộ, hoặc các tăng ni du hành thập phương khất thực hay cầu pháp, hoặc đi sang chùa khác để tụng niệm đều được gọi là “Hành cước”.

Nhớ ngày hành cước phương xa,

Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.

(Truyện Kiều).



HÀNH DỊCH 

Hành: Đi làm. Dịch: Công việc.

Hành dịch là làm công việc khó khăn, cực nhọc. Còn có nghĩa là thi hành công việc ở nơi xa.



Xót người hành dịch bấy nay,

Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HÀNH KHẤT 

Hành: Đi. Khất: Xin.

Hành khất là đi xin ăn, hoặc chỉ người ăn xin.



Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi.

(Thập Loại Chúng Sinh).



Bát vu hành khất bữa mơi chiều,

Nương nưởng mình to giống kẻ thiêu.

(Đạo Sử).



HÀNH LANG 

Hành lang là một dãy nhà ngang chạy dài ở các nơi cung điện, đền miếu.



Thẩn thờ trước dãy hành lang,

Vịn cành biếc, hái hoa vàng làm thinh.

(Truyện Phan Trần).



HÀNH SƠN 

Núi Hành Sơn tại huyện Hoành Sơn, châu Hoành Châu, tỉnh Hồ Quảng, châu vi tám trăm dặm, tên là núi Câu Lâu. Hiên ngang cao mút đến hơn chín ngàn trượng (Trượng có 10 thước mộc. Thước mộc bằng hai gang tay người lớn). Hòn cao nhứt trên núi là hòn Chúc Dung, do chôn ông Chúc Dung nơi đó nên đặt tên.



Ve gầy giắng tiếng cầm xoang,

Hành sơn nhạn liệng Tương giang cá chìm.

(Lưu Nữ Tướng).



HÀNH TÀNG 

1.- Những hành vi hiển hiện hay ẩn kín được gọi là hành tàng. Như câu sau đây: Hành tàng hư thực tự gia tri, họa phúc nhân do cánh vấn thùy? Thiện ác đáo đầu chung hữu báo chỉ tranh lai tảo dữ lai trì  , ? , nghĩa là hành tàng của mình (tất cả những việc làm thấy rõ, hoặc giấu kín), dù hư dù thực tự nơi nhà mình biết, cái họa phước bởi đâu mà ra, thì phải hỏi làm chi? Hễ lành dữ rốt lại cũng có trả, chỉ trả kíp hay chầy mà thôi.



Muốn cho rõ máy hành tàng,

Phải tìm dấu trước, hỏi han sự tình.

(Dương Từ Hà Mậu).



Khi dương thế không phân phải quấy,

Nay Hư linh đã thấy hành tàng.

(Kinh Thế Đạo).

2.- Hành: Làm. Tàng: Cất giấu. Không ra làm quan. Hành tàng nghĩa như chữ “Xuất xử”, ra làm quan hoặc ở nhà.

Thiên Thuật Nhi trong sách Luận ngữ có câu: Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng  , , nghĩa là dùng thì đem ra làm việc, không được dùng, thì lui về.

Hành tàng hay xuất xử thường chỉ hai thái độ, hai hành động của kẻ sĩ ngày xưa: Làm quan và không làm quan tức là tiến hay thoái.

Sách nêu xử sĩ nhiều phe,

Hành tàng hai chữ ít nghe phụ lòng.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Sách kinh là đuốc rọi đàng,

Dạy đời học đạo hành tàng thế nao.

(Thánh Giáo Dạy Đạo).



HÀNH VIỆN 

Hành viện là nhà buôn hương bán phấn, tức nơi chứa gái, chỉ chốn lầu xanh.

Mã Trang Phủ: Mạch thượng khiếu thanh, hảo thị mại hoa hành viện  , , nghĩa là trên bờ lộ nghe tiếng gọi, ấy là nơi nhà bán hương hoa.

Cũng nhà hành viện xưa nay,

Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.

(Truyện Kiều).



HẠNH ĐÀN 

Hạnh: Cây hạnh, một loại cây cao lá to đầu nhọn, hoa nở vào mùa xuân, màu trắng hồng, giống như hoa mai. Đàn: Cái nền đắp cao.

Hạnh đàn là cái nền cao có trồng nhiều cây hạnh, nơi Đức Khổng Tử giảng dạy học trò tại huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông bây giờ.



Như nhẽ hạnh đàn thời bẩm chí,

Thiếu niên dễ mấy thuở xuân xanh.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



HẠNH ĐỨC 

Hạnh: Nết na. Đức: Có lòng nhân, ăn ở hợp với đạo lý.

Hạnh đức là người có nết na, có lòng thương người và ăn ở hợp với đạo lý.



Hạnh đức điểm tô non nước Việt

Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Biết Đạo khá lo trau hạnh đức,

Dữ lành đợi buổi cũng cân phân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Hạnh đức làm gương dắt lũ sau,

Một nhà đạo đức khá thương nhau.

(Đạo Sử).



HẠNH HƯỞNG PHƯỚC DUYÊN 

Hạnh hưởng: May mắn được thọ hưởng. Phước duyên: Cái duyên phước đức.

Hạnh hưởng phước duyên là may mà được hưởng cái duyên phước đức, nghĩa là điều may mắn tốt lành do cái duyên trong kiếp sống trước tạo ra.



Đương sanh hạnh hưởng phước duyên,

Trong nhà già trẻ miên miên thái bình.

(Kinh Sám Hối).



HẠNH LÂM 

Rừng cây hạnh.

Đời Tam Quốc có một người thầy thuốc trị bịnh người không lấy tiền, chuyên làm phước giúp đời, tên là Đổng Phụng. Mỗi khi ông chữa lành bịnh cho một người nào thì người đó trồng một cây hạnh trước nhà để đền ơn. Chẳng bao lâu, chung quanh nhà Đổng Phụng thành một rừng cây hạnh, người đương thời gọi “Đổng tiên hạnh lâm” (Rừng hạnh của vị tiên họ Đổng).

Do vậy, người ta dùng chữ “Hạnh lâm” để xưng tụng nhà của ông thầy thuốc giỏi.



HẠNH NGỘ 

Hạnh: May mắn Ngộ: gặp gỡ

Hạnh ngộ là sự gặp gỡ nhau một cách may mắn.



Đến chào chàng tiểu tướng công,

Mừng rằng hạnh ngộ tương phùng đến đây.

(Nữ Tú Tài).



Hạnh ngộ Cao Ðài truyền Ðại Ðạo,

Hảo phùng Ngọc Ðế ngự trần gian.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Tu thân bất viễn sanh môn nhập,

Thạnh khí cường chơn hạnh ngộ thần.

(Đạo Sử).



HẠNH NGUYÊN 

Hay “Hạnh Ngươn”.

Tên một người con gái đẹp đời nhà Đường, hứa hôn với chàng Mai Lương Ngọc. Thái Sư Lư Khỉ trong triều có hiềm khích với cha Hạnh Nguyên, nên nhân dịp quân Phiên sang đánh, ông tâu với vua bắt nàng Hạnh Nguyên cống hồ để cầu hoà với Phiên quốc.

Hạnh Nguyên lên thuyền cống hồ, khi đi đến Lạc Nhạn Nhai, nàng bèn nhào đầu xuống đầm Lâm Tri tự tử. May nhờ thần linh cứu khỏi chết, sau được trở về quê kết hôn cùng Mai Lương Ngọc. Còn Thái Sư bại lộ cơ mưu bị xử trảm chết.



Hạnh Nguơn sau cũng khỏi miền,

Bởi chưng Lư Kỷ cựu hiềm còn ghi.

(Lục Vân Tiên).



Nơi Phiên quốc xôn xao lượng thảm,

Hạnh Nguơn xưa đã dám hy sinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HÀO HIỆP 

Hào: Tài giỏi hơn người. Hiệp: Người hay lấy tài sức để giúp đỡ.

Hào hiệp dùng để chỉ người có khí phách, độ lượng, hay giúp đỡ kẻ khác.



Hào hiệp lòng quen kết nghĩa cùng,

Anh hùng tứ hải bước thung dung.

(Đạo Sử).



HÀO HOA 

Hào: Phong lưu, phóng túng. Hoa: Rực rỡ, xa xỉ.

Hào hoa là hào phóng xa xỉ.



Phong tư tài mạo tuyệt vời,

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.

(Truyện Kiều).



HÀO HỮU 

Hào: Tài trí hơn người. Hữu: Bên phải, người xưa thường quan niệm rằng bên mặt lúc nào cũng hơn bên trái. Vì vậy, “Hào hữu” là chỉ những hạng người có thế lực ở một địa phương nào đó.

Dương công xưa có rể hiền,

Đường lâm hào hữu tên Quyền họ Ngô.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HÀO KIỆT 

Người có tài năng xuất chúng.

Theo sách Hoài Nam Tử: Trí hơn vạn người thì gọi là Anh, hơn nghìn người gọi là Tuấn, hơn trăm người gọi là Hào, hơn mười người gọi là Kiệt.

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,

Xếp bút nghiên theo việc đao cung.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Tám nguyền rộng bủa lưới nhân,

Khắp thâu hào kiệt giữa trần chớ rơi.

(Hoài Nam Ca Khúc).



HÀO QUANG 

Hào quang là ánh sáng rực rỡ tỏa ra từ các vật Thiêng liêng hay nhân thân của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.



Hào quang chiếu chín từng mây bạc,

Thần, Thánh, Tiên thừa hạc cỡi rồng.

(Xưng Tụng Công Đức).



Hào quang chiếu diệu CAO ĐÀI,

May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.

(Kinh Thế Đạo).



HẢO CỪU 

Hay “Hảo cầu”.

Hảo cừu là vợ chồng đẹp đôi.

Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu  , . Nghĩa là người con gái tươi tắn, dịu dàng đẹp đôi với người quân tử.



Dạy tôi đem đến thưa hầu,

Nguyện xin quân tử hảo cầu kết duyên.

(Nữ Tú Tài).



Nung trang trí thức nữ lưu,

Biết thân giữ mặt hảo cừu giai nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Thân yểu điệu chịu danh thục nữ,

Để cho ai rộng chữ hảo cừu.

(Phương Tu Đại Đạo).

 

HẢO HỢP 

Hảo: Tốt. Hợp: Hoà thuận với nhau.

Hảo hợp tức là vợ chồng sum hợp, hoà thuân với nhau. Sách có câu: Thê tử hoà hợp như cổ sắt cầm  , nghĩa là vợ con hoà hợp như gảy đàn sắt, đàn cầm.



Xướng tuỳ đều giữ đạo hằng,

Một nhà hảo hợp dễ chăng mấy người.

(Nhị Độ Mai).



HẠO NHIÊN 

Bởi câu “Hạo nhiên chi khí  ”, chữ dùng trong sách Mạnh Tử, dùng để chỉ cái chính khí.

Mạnh Tử có câu: Ngã thiện dưỡng ngô hạo nhiên chi khí  , nghĩa là ta khéo nuôi cái khí chính đại, cương trực.

Khí hạo nhiên chí đại chí cương,

So chính khí đã đầy trong trời đất.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



HẠT CHÂU

Bởi chữ “Châu lệ  ” chỉ nước mắt long lanh như hạt trai ngọc rơi.

Trong văn chương, người ta thường ví nước mắt như hạt châu do điển: Giao nhân đến cuối năm về thủy phủ để chầu vua. Lúc từ biệt gia đình, họ khóc rất thảm thiết, mà khóc bao nhiêu thì nước mắt hóa thành những hạt châu bấy nhiêu.

Xem: Châu lệ.



Sư nghe lặng ngắm giờ lâu,

Quyển vàng sẽ gác, hạt châu sụt sùi.

(Truyện Phan Trần).



Lòng chàng chín khúc tiêu hao,

Hạt châu lai láng, thấm bào như dong.

(Quan Âm Thị Kính)



HẠT MƯA

Thân phận đàn bà không thể định trước được, nên người xưa cho rằng “Phận gái mười hai bến nước”, nếu may duyên được chồng tốt thì có phước như vào đài các, rủi gặp chồng hư thì vô phần như xuống bùn lầy.

Do vậy, trong ca dao Việt Nam đã ví phận đàn bà như hạt mưa: Đàn bà như hạt mưa sa, Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ruộng cày.

Trương rằng: Thân gái hạt mưa,

Biết đem mình ấy bây giờ cậy đâu?

(Truyện Phan Trần).



Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

(Truyện Kiều).



Hạt mưa đã lọt miền đài các,

Những mừng thầm cá nước duyên may.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Hạt mưa chút phận lênh đênh,

Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.

(Gia Huấn Ca).



HẮC ĐẾ 

Năm Khai nguyên thứ mười về đời vua Huyền Tông nhà Đường, ở Hoan Châu có Mai Thúc Loan thấy quan nhà Đường làm nhiều điều tàn bạo bèn chiêu mộ người nghĩa dũng, chiếm giữ lấy một chỗ đất Hoan Châu, rồi xây thành đắp luỹ, xưng hoàng đế, tục gọi là Hắc Đế .



Hiệu cờ Hắc Đế mở ra,

Cũng toan quét sạch sơn hà một phương.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HẮC THUỶ 

Hắc thuỷ là tên một con sông ở bên Trung Quốc, nơi mà nàng Chiêu Quân, ái phi của Hán Đế khi bị cống Hồ đã nhảy xuống con sông này để giữ tròn tiết nghĩa với vua nhà Hán.



Hỏi ra mới biết rằng là,

Ấy sông Hắc thủy mộ bà Chiêu Quân.

(Nhị Độ Mai).



HẰNG HÀ 

Hằng hà là con sông Hằng, tức là sông Gange ở bên Ấn Độ.

Hằng hà do câu “Hằng hà sa số  ” dùng để chỉ số nhiều không thể đếm được như số cát ở dưới đáy sông Hằng.

Nghĩa bóng: Số nhiều, không đếm xiết.



Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,

Thường dạn làm tội lại hằng hà.

(Kinh Sám Hối).



HẰNG NGA 

Tục truyền Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ. Khi Hậu Nghệ xin được thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga trộm uống, bay lên cung trăng, biến thành vị tiên nữ rất đẹp và trẻ mãi không già.

Nghĩa bóng: Chỉ người con gái đẹp, chỉ mặt trăng.

Xem: Hậu Nghệ.



Hương trời đắm nguyệt say hoa,

Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,

Những cậy mình cung quế Hằng Nga.

(Thập Loại Chúng Sinh).



Vườn thu giấu dạng Hằng Nga,

Hải đường nở muộn mặn mà ái phong.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Xuống khe rồng, lên đảnh hạc,

Mơ màng cung Nguyệt bóng Hằng Nga.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



HẰNG TÂM 

Hằng tâm là lòng chẳng bị dao động vì lý do bên ngoài, lòng luôn luôn nghĩ đến điều thiện.

Mạnh Tử nói: Vô hằng sản nhi hữu hằng tâm giả, vi sĩ vi năng  , , nghĩa là không có hằng sản mà có hằng tâm, chỉ riêng kẻ sĩ mới được như vậy mà thôi.

Cho nên hỏi lối tìm đường,

Lấy hằng tâm để cúng đàng làm duyên.

(Sơ Kính Tân Trang).



HẦM NHU

Hay “Hầm Nho” tức là hầm chôn các Nho sĩ trong đời nhà Tần.

Vua Tần Thuỷ Hoàng Đế muốn thống nhất tư tưởng, nghe lời Lý Tư, lấy quan nhà Tần làm thầy, cho diệt các hệ phái khác, nhất là Nho giáo. Ông ra lịnh thu các sách Nho trong thiên hạ đốt đi, sử gọi là “Phần thư”, và sai bắt gần năm trăm Nho sĩ ở Hàm Dương muốn nổi loạn, ra lịnh chôn sống, sử gọi là “Khanh Nho”.

Lửa đốt A Phòng đền nợ sách,

Hầm chôn hàng tốt trở hầm nhu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HẤN HÀNH 

Hấn: Gây hiềm khích. Hành: Hành động, làm một việc gì.

Hấn hành là kiếm chuyện tạo sự hiềm khích, để có lý do gây sự.



Vừa rồi việc lớn lễ thành,

Pháp lan lại tới hấn hành sách yêu.

(Hạnh Thục Ca).



HẦU ĐÔN 

Tức Hạ Hầu Đôn tự là Nguyên Nhượng ( ) là khai quốc công thần nhà Nguỵ của Tào Tháo, thời Tam Quốc. Hạ Hầu Đôn và Tào Tháo có quan hệ họ hàng với nhau. Ông là một trong những tướng trung thành với Tào Tháo, góp công trong những trận đánh với Lưu Bị, Tôn Quyền, Lã Bố.

Hạ Hầu Đôn là một mãnh tướng anh dũng. Trong một trận chiến vào năm 198, Hạ Hầu Đôn bị mất mắt trái và từ đó có biệt danh Manh Hạ Hầu (Hạ Hầu mù).

Trận bày bát vọng thiêu đồn,

Bạch Hà dụng thuỷ Hầu Đôn chạy dài.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



HẦU MÔN 

Hầu: Một trong năm tước “Công, Hầu, Bá, Tử và Nam”, dùng để chỉ kẻ có uy quyền. Môn: Cửa.

Cửa Hầu là cửa của các bậc vương hầu.

Do điển Thôi Giao đời Đường, bán một người tỳ thiếp vào nhà một vị vương hầu. Sau đó ông hết sức thương nhớ, không làm sao thăm nên mới làm hai câu thơ: Hầu môn nhất nhập thâm như hải, Tùng thử tiêu lang thị lộ nhân  , , nghĩa là một khi vào cửa hầu thì sâu như bể, mà từ nay chàng ta như khách qua đường.

Ngán nhẽ kẻ tham bề khoá lợi,

mũ cánh chuồn đội trên mái tóc,

nghiêng mình đứng chực cửa hầu môn.

(Tài Tử Đa Cùng Phú).



HẬU ĐÌNH HOA 

Tức khúc ca “Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa  ” do Trần Hậu Chủ đặt ra.

Xưa Trần Hậu Chủ vì say mê ca nhạc, thi phú mà mất nước. Khi giặc tới ngoài thành mà vua vẫn còn đờn ca với cung nữ. “Hậu Đình Hoa” là một khúc hát của bọn cung nữ ấy.

Đỗ Mục, một thi gia đời Đường có câu: Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa  , , nghĩa là cô gái buôn quên sầu mất nước, cách sông còn hát Hậu Đình Hoa.



HẬU LANG 

Hậu lang tức là Hậu Nghệ.

Tục truyền ngày xưa vợ của Hậu Nghệ là Hằng Nga trộm thuốc trường sinh uống, nên thành tiên bay lên Cung trăng.

Xem: Hậu Nghệ.



Áo tiên tuy nhuộm mùi Vương Mẫu,

Hương tục còn nồng lửa Hậu Lang.

(Hằng Nga, Khuyết Danh).



HẬU NGHỆ  羿

Hậu Nghệ, người đời Hạ, có vợ là Hằng Nga, xin được thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫu, để Hằng Nga trộm uống, bay lên cung trăng.

Hậu Nghệ là người bắn rất giỏi, tương truyền lúc bấy giờ có mười mặt trời, nên nóng bức khó chịu, Hậu Nghệ bắn rớt chín mặt trời, chỉ để lại một mặt mà thôi.

Sau Hậu Nghệ cũng lên cung trăng sống với Hằng Nga. Xem: Hằng Nga.



Hậu Nghệ thấy mặt Hằng Nga,

Trương cung muốn bắn le đà chẳng đang.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



HẬU SINH 

Hậu sinh là kẻ sinh sau, chỉ hàng con cháu, sau dùng để nói giới trẻ.

Luận Ngữ có câu: Hậu sinh khả uý  , nghĩa là kẻ sinh sau đáng sợ.

Trong nhà không gái hậu sinh,

Ngày nay lại gặp minh linh phước trời.

(Lục Vân Tiên).



HẬU TẮC 

Một chức quan coi về việc nông đời vua Thuấn.

Xưa có bà Khương Nguyên đi đường đạp nhằm một dấu chân lớn, về nhà thụ thai sinh ra một đứa con. Bà cho là điềm không tốt, định bỏ đi, nhưng sau lại thôi, nên khi sanh ra đặt tên là Khí (Khí có nghĩa là bỏ đi). Ông Khí lớn lên, dưới đời vua Nghiêu được phong là Nông Sư, qua đến đời vua Thuấn ông được phong chức là Hậu Tắc.

Theo nghề Hậu Tắc nhà không đói,

Chuyên việc Mân phong nước chẳng sầu.

(Dương Từ Hà Mậu).

HẬU TẬP 


Hậu: Sau. Tập: Đánh bất thình lình.

Đem quân đánh thọc vào phía sau trại quân giặc một cách bất ngờ, gọi là “Hậu tập”.



Nhất thinh phấn phát oai lôi,

Tiên phuông hậu tập trống hồi tấn binh.

(Lục Vân Tiên).



HẬU TÌNH 

Hậu: Đối xử đậm đà, nồng hậu. Tình: Lòng yêu thương, ở tốt với nhau.

Hậu tình lấy cái tình cảm tốt đẹp mà đối xử một cách nồng hậu.



Xem qua sư mới dạy qua,

Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình.

(Truyện Kiều).



HẬU THỔ 

Hậu: Vua. Thổ: Đất.

Hậu Thổ là chỉ đất, cũng như Hoàng Thiên là chỉ về Trời.

Theo tín ngưỡng dân gian, Hậu thổ là vị Thần cai quản đất đai một vùng lớn. Thổ địa là vị Thần cai quản một khu vực nhỏ.

Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ,

Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên,

(Kinh Tận Độ).



HẬU TRA 

Hậu: Chờ đợi. Tra: Điều tra, cứu xét.

Hậu tra chờ đợi sự tra xét.



Quan truyền: Cho Cóc lui ra,

Đem trê giam đó hậu tra vội gì.

(Truyện Trê Cóc).



HẬU VẬN 

Hậu: Sau. Vận: Xoay vần, chỉ những sự biến chuyển xoay vần trong đời con người.

Hậu vận là vận mệnh sau này con người. Số mạng của con người thường chia ra làm tiền vận, trung vận và hậu vận. Hậu vận là vận mạng của con người vào lúc tuổi già.



Tiền duyên hậu vận rất vừa nhau,

Chẳng có một ai gọi khởi đào.

(Đạo Sử).



HẸN BIỂN THỀ NON

Do thành ngữ Hán “Thệ hải minh sơn  ” tức là chỉ biển mà thề, chỉ núi mà nguyền.

“Hẹn biển thề non” hay “Thề non hẹn biển” đều có ý muốn nói dầu cho biển cạn non mòn, tình yêu đôi lứa vẫn không phai lợt.

Xem: Thệ hải minh sơn.



Là nơi lúc đứng khi ngồi,

Trông trăng hẹn biển, ngó trời thề non.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HỀ ĐỒNG 

Hề: Đầy tớ. Đồng: Con trẻ.

Hề đồng là đầy tớ nhỏ, tức những đứa trẻ nít đi theo để sai vặt.



Hề đồng theo bốn năm thằng,

Thơ ninh ních túi, rượu lưng lửng bầu.

(Nhị Độ Mai).



HỀ THÍCH 

Tức là Bá Lý Hề và Ninh Thích.

Bá Lý Hề là người đời Xuân Thu, tự là Tỉnh Bá, lúc nhỏ nghèo khó trôi nổi, ba mươi ngoài tuổi mới cưới Đỗ Thị làm vợ, sinh được một người con trai. Bá Lý Hề có tài an bang tế thế, nhưng chưa gặp thời phải chăn trâu mướn. Sau Bá Lý Hề được vua Tần Mục Công trọng dụng, phong làm Thừa tướng.

Xem: Bá Lý Hề.

Ninh thích (có người đọc là Nịnh Thích), người nước Vệ, vốn là bậc hiền tài đời Chiến Quốc, theo giúp cho Tề Hoàn Công lập được nhiều công lớn.

Xem: Ninh Thích.



Sách xưa Hề Thích thấy còn truyền,

Đời thịnh Thuấn Nghiêu mừng ấy phúc.

(Hồng Đức Quốc Âm).



HI DI

Hi Di là biệt hiệu của Trần Đoàn, người đời Tống, tu thành một vị Đại Tiên, có nhiều thần thông biến hoá, ở ẩn trong Hoa Sơn. Tương truyền rằng ông ngủ luôn một giấc đến một trăm ngày mới dậy.

Xem: Trần Đoàn.

Khỏe mắt Hi Di trời ngũ quý.

Mỏi lòng Gia Cát đất tam phân.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Khỏe thân chẳng kẻ học Hi Di,

Biết luận theo khi biết tính thì.

(Đạo Sử).



HY HOÀNG 

Tức là Phục Hy và Hoàng Đế, hai vị vua đời Thượng Cổ trung Hoa.

Đời nhà Tấn, Đào Tiềm xin nghỉ chức quan về sống ẩn dật ở Sài Tang, thường nằm bên cửa sổ phía bắc, tự xưng mình là người đời Hy Hoàng.

Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát,

Người Hy Hoàng cửa bắc ngáy kho kho.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



HY SINH 

Nghĩa đen chữ “Hy sinh” là dùng con vật để tế trời đất hay thần linh.

Từ đó sinh ra nghĩa thường dùng là làm một việc gì mà bỏ cả tự do, quyền lợi và sanh mạng của mình, gọi là hy sinh.

Nhục con, con chịu chớ nài,

Nhục cho quốc thể ra tài hy sinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Nơi Phiên quốc xôn xao lượng thảm,

Hạnh Nguơn xưa đã dám hy sinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HÝ VŨ HỌC KIỀU SI 

Chơi nhảy múa như thể trẻ con.

Truyện Cao Sĩ chép: Ông Lão Lai Tử người nước Sở, đã 73 tuổi rồi, cha mẹ vẫn còn. Ông là người chí hiếu, lúc nào cũng muốn làm vui lòng cha mẹ, nên khi nói chuyện, không bao giờ tỏ lộ mình già. Ông thường mặc áo ngũ sắc, rằng ri, giỡn chơi như con nít, đi lấy đồ ăn cho cha mẹ, giả bước lên thềm trợt té, làm con nít khóc. Thường bắt gà con đùa chơi bên cha mẹ, cố ý làm cho cha mẹ vui.

Hý vũ học kiều si,

Xuân phong động thái y.

Song thân khai khẩu tiếu,

Hỷ sắc mãn đình vi.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



HÝ TRƯỜNG 

Hay “Hý tràng”.

Hý trường là rạp hát. Người ta thường ví cuộc đời thay đổi như một tuồng hát, vì vậy sinh hoạt của con người trong đời sống như là một hý trường.

1.- Hý trường:



Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,

Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.

(Thơ Bà Huyện Thanh Quan).

2.- Hý tràng:

Xem qua như chốn hý tràng,

Lẻ loi mặt nịnh lỡ làng phận trung.

(Ngụ Đời).



Kìa là vua, nọ là quan,

Cũng như bọn hát hý tràng bán vui.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HỶ XẢ 

Hỷ xã là hai đức tánh trong Tứ vô lượng tâm.



Hỷ: Vui nhưng ở đây không phải là vui riêng cho cá nhân mình, cho gia đình mình. Tâm hỷ ở đây là lòng vui thích khi thấy người khác giàu sang, người khác hạnh phúc, người khác thành công hay hoan lạc. .

Xả: Buông bỏ. Ở đây không có nghĩa là lạnh lùng lãnh đạm, Xả ở đây là giữ cái tâm bình thản, an tịnh, không xúc động khi hạnh phúc cũng như khi đau khổ, không bị vướng mắc vào phiền não.

Phật là hỉ xả, từ bi,

Dụng lòng làm trọng, trọng gì của trao.

(Hứa Sử Tân Truyện).



HIỂM ĐỘC 

Hiểm: Tà ác. Độc: Hung dữ.

Hiểm độc là chỉ người có lòng nham hiểm và tánh độc ác.



Lại còn có tánh tình hiểm độc,

Xúi phân chia thân tộc ruột rà.

(Kinh Sám Hối).



HIỂM YẾU 

Hiểm: Khó khăn trở ngại. Yếu: Quan trọng.

Hiểm yếu là chỗ đất hiểm trở quan yếu.



Mấy nơi hiểm yếu đất nhiều,

Khiến nhường ở đó chẳng theo ắt rày.

(Hạnh Thục Ca).



HIÊN KỲ 

Hiên: Hiên Viên, tên một vị vua thời thượng cổ, tức vua Hoàng Đế. Kỳ: Một cái gò hay Kỳ Bá.

1.- Hiên Kỳ là một cái gò tên là Hiên Viên nay thuộc tỉnh Hà Nam, nơi mà vua Hoàng Đế được sinh ra.

2.- Ngoài ra Hiên Kỳ còn có thể hiểu là Hiên Viên , hiệu của vua Hoàng Đế và Kỳ Bá , bề tôi của vua Hoàng Đế. Tương truyền, Hoàng Đế và Kỳ Bá hỏi đáp nhau về y học, những lời đối đáp này được ghi lại thành nội kinh gồm hai phần Linh khu và Tố vấn, là bộ sách căn bản của đông y.

Rằng xưa Hoàng Đế Hiên Kỳ,

Nào phương thoát hoá, tu trì sao đây.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



Tiều rằng: Mấy cụm rừng y,

Đều noi đường cái Hiên Kỳ trổ ra.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HIÊN NGANG 

Hiên: Chỗ cao ở đàng trước một cái xe. Ngang: Ngẫng cao lên.

Hiên ngang có ý nói cao kỳ, khác người thường.



Vân Tiên chí khí hiên ngang,

Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.

(Lục Vân Tiên).



HIÊN NGOẠN NGUYỆT 

Hiên: Hành lang, mái hiên. Ngoạn nguyệt: Xem trăng,thưởng nguyệt.

Hiên ngoạn nguyệt tức là mái hiên để hóng gió, thưởng ngoạn cảnh trăng thanh.



Giá bày túi sách cặp đàn,

Sẵn hiên ngoạn nguyệt, sẵn vườn thưởng hoa.

(Nhị Độ Mai).



HIÊN NGUYỆT 

Hiên: Hành lang, mái hiên. Nguyệt: Mặt trăng.

Hiên nguyệt là mái hiên nhà, dùng để ngồi hóng gió thưởng trăng.

Xem: Hiên ngoạn nguyệt.

Khát uống trà mai hơi ngút ngút,

Sốt kề hiên nguyệt gió hiu hiu.

(Bạch Vân Quốc Ngữ)



HIÊN VIÊN 

Tức là vua Hoàng Đế, vị vua đời thượng cổ nước Trung Quốc. Vua Hoàng Đế họ Công Tôn, tên là Hiên Viên, vì Ngài được sinh ở gò Hiên Viên, nay thuộc tỉnh Hà Nam.

Hoàng Đế là người đầu tiên chế ra la bàn, bày ra nghề làm thuốc.

Xem: Hoàng Đế.



Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc thiên,

Thiên thiên cửu phẩm đắc cao huyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



HIỀN BẢY LÃO

Tức là bảy vị hiền nhân đời nhà Tấn, sống ẩn dật ở rừng trước mà người đời gọi là “Trúc lâm thất hiền”. Đó là Sơn Đào, Nguyễn Tịch, Kê Khang, Hướng Tú, Lưu Linh, Nguyễn Hàm, Vương Nhung.

Xem: Trúc lâm.

Thà đọc sách xưa hiền bảy Lão,

Tại nơi rừng trước hưởng khương bình.

(Đạo Sử).



HIỀN LƯƠNG 

Hiền lương là hiền lành và lương thiện, tức là người tỏ ra rất hiền trong quan hệ đối xử với người khác, không có hành động gây hại cho bất kỳ ai.



Nghé nghe thì lóng tiếng hiền lương,

Ðạo đức con tua giữ một đường.

(Đạo Sử).



HIỀN NHÂN 

Hiền: Người tài giỏi đức độ. Nhân: Người.

Hiền nhân là người có tài năng, có đức hạnh.



Hiền nhân quân tử ai mà chẳng?

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.

(Thơ Hồ Xuân Hương).



HIỀN TÀI 

Hiền: Đức độ. Tài: Tài năng, tài giỏi.

Hiền tài là người có đức hạnh và tài năng trong xã hội.

Thói thường, người ta lấy kẻ dưới kính trọng người trên, chứ ít khi lấy trên kính dưới, nên Mạnh Tử mới nói: Dụng thượng kính hạ, vị chi tôn hiền  , ”, nghĩa là lấy người trên kính kẻ dưới gọi là tôn kính bậc hiền tài.

Trách vua Đường, ở bất minh,

Dung bên gian đảng mà khinh hiền tài.

(Nhị Độ Mai).



Ngư rằng: Xưa đấng hiền tài,

Lập thân há chẳng biết tài bảo thân.

(Dương Từ Hà Mậu).



HIỀN TRUYỆN THÁNH KINH 

Hiền truyện: Truyện của các bậc Hiền. Thánh kinh: Kinh của chư vị Thánh.

Hiền truyện Thánh kinh tức là kinh truyện của các bậc Thánh Hiền.



Mắt tai Hiền truyện Thánh kinh,

Lẽ đâu cầm độc ô danh quan trường.

(Tự Tình Khúc).



HIỂN DƯƠNG THANH GIÁ 

Hiển dương: Làm rõ rệt cho người thấy. Thanh giá: Tiếng tăm và giá trị.

Hiển dương thanh giá là làm cho danh giá và tiếng tăm được vẻ vang, rực rỡ với đời.



Thời chưa nên, còn chờ đợi công danh;

Vận dầu gặp chắc hiển dương thanh giá.

(Sãi Vãi).



HIỂN LINH 

Hiển: Hiện rõ ra. Linh: Linh thiêng.

Hiển linh là hiện rõ sự thiêng liêng, mầu nhiệm.



Dễ hay tình lại gặp tình,

Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.

(Truyện Kiều).



Đã đành bẻ gãy chữ đồng,

Hiển linh chứng chiếu tấm lòng tiết trinh.

(Kinh Thế Đạo).



Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,

Xin hiển linh giúp kẻ góa thân.

(Kinh Thế Đạo).



Đờn bà thường có phép hiển linh,

Người vâng phục vì tình dạy dỗ.

(Phương Tu Đại Đạo).



HIỂN TỔ VINH TÔNG 

Hiển tổ: Làm rạng rỡ tổ tiên. Vinh tông: Làm vinh hiển dòng họ.

Hiển tổ vinh tông là làm hiển vinh tổ tông, tức làm vinh hiển tổ tiên của dòng họ.



Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu,

Học cho hay trọng yếu miếu đường.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HIỂN TÔNG MÔN 

Hiển: Làm vẻ vang. Tông môn: Chỉ dòng họ.

Hiển tông môn tức là làm cho rạng rỡ, vẻ vang cả dòng họ.



Con ví biết trọng nghì phụ tử,

Hiển tông môn khá giữ nơi lòng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Phải hiểu rõ hai điều vinh xú,

Hiển tông môn qui củ nghiệp nhà.

(Phương Tu Đại Đạo).



HIỂN VINH 

Hiển: Có danh vọng, địa vị. Vinh: Vẻ vang.

Hiển vinh là nói người có danh vọng, địa vị một cách vẻ vang.



Ơn trên mưa tới móc sa,

Cùng làm phủ doãn một toà hiển vinh.

(Truyện Phan Trần).



Phồn hoa bõ lúc truân chuyên,

Đã đầy phúc hậu, lại bề hiển vinh.

(Hoa Tiên Truyện).



HIẾP CHẾ 

Hiếp: Đe doạ. Chế: Đè nén.

Hiếp chế là dùng uy quyền và sức mạnh để đe doạ, áp chế người khác, nước khác.



Làm cho rõ mặt uy quyền,

Hẳn tình hiếp chế không kiêng đã rồi.

(Hạnh Thục Ca).



HIỆP CÁT 

Hiệp: Hoà hợp. Cát: Tốt.

Hiệp cát tức là chọn lựa được ngày tốt.



Tháng mười năm ấy Quý mùi,

Mồng ba hiệp cát lên ngôi cầm quyền.

(Hạnh Thục Ca).



HIỆP PHỐ CHÂU VỀ

Hay “Hợp phổ”.



Hiệp Phố  : Hay Hợp Phố là tên một xứ ngày xưa thuộc về Giao Châu, nay thuộc Châu Khâm, Châu Liêm, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Châu hoàn: Hạt ngọc trai trở lại.

Do tích: Đời Hậu Hán, đất Hiệp Phố gần miền biển có nhiều hạt trai. Quan cai trị lúc bấy giờ quá hà khắc, bắt dân phải đi lặn mò ngọc trai, trai đi xứ khác hết, không có ngọc. Về sau, Mạnh Thường là người nhơn đức, được về làm Thái thú, trai mới bắt đầu trở về, nên gọi là “Hiệp Phố châu hoàn” (Trai về đất Hiệp Phố).

Nghĩa bóng: Chỉ những vật đã mất đi tìm lại được.

Thoa này bắt đựợc hư không,

Biết đâu Hiệp Phố mà mong châu về.

(Truyện Kiều).



Tiết-thanh cảm vật mới kỳ,

Dưới dòng Hợp phố châu đi cũng về.

(Quốc Sử Diễn Ca).

 

HIẾU DƯỠNG 

Hiếu: Thảo với cha mẹ. Dưỡng: Nuôi nấng.

Hiếu dưỡng tức là hết lòng hiếu thảo để thờ phụng và nuôi dưỡng cha mẹ.



Lòng hiếu dưỡng trăm năm đã lỡ,

Lời di danh hai chữ còn mang.

(Tự Tình Khúc).



HIẾU ĐIỂU 

Hiếu: Hết lòng thờ phụng cha mẹ. Điểu: Chim.

Hiếu điểu là chữ dùng để gọi con chim Từ Ô. Từ có nghĩa là lành, ô là quạ, Từ ô là loài có mình nhỏ hơn quạ, hay kêu buổi sáng. Tương truyền khi lớn lên, nó đi kiếm thức ăn đem về cho mẹ. Vì thế, nên gọi là “Hiếu điểu” (Chim hiếu).



Nghìn thu nức tiếng khen hay,

Quạ là hiếu điểu ngày ngày phụng thân.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



HIẾU ĐÚC MỒI LOÀI Ô THƯỚC

Vì hiếu mà loài chim ô thước kiếm mồi về đúc mẹ.

Tương truyền loài ô thước khi lớn lên thường đi kiếm mồi về cho mẹ ăn, nên được người đời gọi là hiếu điểu (loài chim có hiếu).

Xem: Hiếu điểu.



Phải nhớ hiếu đúc mồi loài ô thước,

Đặng đền bồi cho được nghĩa cù lao.

(Phương Tu Đại Đạo).



HIẾU HẠNH 

Hiếu: Lo lắng phụng thờ cha mẹ. Hạnh: Tính nết.

Hiếu hạnh là người con có nết hiếu thảo, tức người con hết lòng lo lắng phụng thờ cha mẹ.



Tiếng hiếu hạnh cảm lòng quận thú,

Biểu nên treo chói đỏ lòng son.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Gương hiếu hạnh giữ mình dè dặt,

Với mẹ cha phép tắc để nên gương.

(Phương Tu Đại Đạo).



Nếu dâu ngoan hiếu hạnh kỉnh nhường,

Mẹ chồng chắc thương hơn gái ruột.

(Phương Tu Đại Đạo).



HIẾU HẠNH HOÀN SANH HIẾU HẠNH NHI

Hay “Hiếu hạnh hườn sanh hiếu hạnh nhi  行兒” là người hiếu hạnh sinh ra con hiếu hạnh.

Sách Minh Tâm có câu: Hiếu hạnh hoàn sanh hiếu hạnh tử, ngỗ nghịch hoàn sanh ngỗ nghịch nhi  行子, , nghĩa là người hiếu hạnh sinh ra con hiếu hạnh, kẻ ngỗ nghịch sinh ra con ngỗ nghịch.

Hiếu hạnh hườn sanh hiếu hạnh nhi,

Không lo cho vẹn Ðạo tương tùy.

(Đạo Sử).



HIẾU HỮU 

Hiếu: Hết lòng thờ phụng cha mẹ. Hữu: Thân yêu anh em.

Hiếu hữu là có hiếu với cha mẹ, có tình nghĩa với anh em bạn bè.



Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,

Mệnh trương dung trao chánh nhường ngôi.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



HIẾU KINH 

Hiếu: Hết lòng thờ phụng cha mẹ. Kinh: Sách.

Hiếu kinh là quyển sách nói về đạo hiếu của con đối với cha mẹ, tức chép lời Đức Khổng Tử nói với Tăng Tử, gồm 18 chương.



Khai tâm từ thuở thiếu niên,

Hiếu Kinh tiểu học trước liền cho thông.

(Gia Huấn Ca).



HIẾU KÍNH 

Hiếu: Hết lòng thờ phụng cha mẹ. Kính: Tôn trọng kẻ khác.

Hiếu kính là người con có lòng hiếu thảo và tôn kính cha mẹ.



Giặc nghe nói khen cho hiếu kính.

Bước lưu ly mà gánh cương thường.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



HIẾU LIÊM 

Hiếu: Hết lòng thờ kính cha mẹ. Liêm: Trong sạch ngay thẳng.

Đời nhà Hán, mỗi quận có lệ cử người hiếu thảo và thanh liêm trong vùng, gọi là Hiếu liêm.

Đến đời Minh, Thanh, Hiếu liêm là tiếng đặc biệt để gọi cử nhân.

Gặp Tần khoa mở Hiếu liêm,

Danh cao Ông Trọng bảng tên ở đầu.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



HIẾU NAM 

Hiếu: Hết lòng thờ phụng cha mẹ. Nam: Người con trai.

Hiếu nam là người con trai có hiếu với cha mẹ.



Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,

Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Tảo tần sớm dưỡng chiều nuôi,

Thế chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HIẾU NGHĨA 

Hiếu: Hiếu thảo, tức hết lòng thờ phụng cha mẹ. Nghĩa: Tiết nghĩa.

Hiếu nghĩa là hiếu thảo và giữ gìn tiết nghĩa.



Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa,

Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Nghiêng triền hiếu nghĩa gánh đôi vai,

Phải xử cân phân nết gái tài.

(Đạo Sử).



Hiếu nghĩa tương lai sau tựu hội,

Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



HIẾU PHỤC 

Hiếu: Tang cha mẹ. Phục: Áo quần.

Hiếu phục là lễ mặc áo quần tang chế, tức là nghi tiết cúng lạy cha mẹ để thọ phục.



Sinh rằng hiếu phục vừa xong,

Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên.

(Truyện Kiều).



HIẾU SINH 

Hay “Háo sanh”.



Hiếu: Ham thích. Sinh: Sự sống.

Hiếu sinh là thích sự sống, nghĩa là có lòng nhân ái, không muốn giết hại ai.

Kinh Thi có câu: Hiếu sinh chi đức hiệp vu nhân tâm  , nghĩa là đức hiếu sinh hoà hợp với lòng người.

1.- Hiếu sinh:



Khi chè chén khi thuốc thang,

Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.

(Truyện Kiều).



Nhưng vì trong dạ hiếu sinh,

Phúc thì làm phúc, dơ đành chịu dơ.

(Quan Âm Thị Kính).

2.- Háo sanh:

Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,

Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.

(Kinh Sám Hối).



Hớn trào Quan Thánh bia danh,

Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.

(Xưng Tụng Công Đức).



Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,

Người thiện phải ngừa đức háo sanh.

(Đạo Sử).



HIẾU TÂM 

Hiếu: Hết lòng thờ phụng cha mẹ. Tâm: Lòng.

Hiếu tâm tức là lòng hiếu thảo. Hiếu thảo phải là phát xuất từ trong tâm, không phải nuôi dưỡng cha mẹ là đủ, mà còn phải có lòng kính. Điều nầy Đức Khổng Tử dạy Tử Du như sau : Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng, chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng, bất kính hà dĩ biệt hồ?  , , , , , nghĩa là cái hiếu ngày nay, người ta cho rằng chỉ có thể nuôi dưỡng cha mẹ, đến như loài chó ngựa đều có người nuôi, nuôi mà không kính thì lấy gì để phân biệt ?.



Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,

Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!

(Truyện Kiều).



HIẾU THÂN 

Hiếu: Hết lòng thờ phụng cha mẹ.Thân: Cha mẹ.

Hiếu thân tức là hiếu thảo với cha mẹ.



Viên nghe nói trọng vì không xiết,

Bé con con mà biết hiếu thân.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Âm Dương cách bóng sớm trưa,

Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.

(Kinh Thế Đạo).



Khanh tể chưa hay bẳng hiếu thân,

Nhơn luân trọn Ðạo đáng nên Thần.

(Đạo Sử).



Xưa ruộng Thuấn voi cày chim cấy,

Vì hiếu thân nổi dậy tuổi tên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Tánh hiền đức một lời chẳng phạm,

Thủ hiếu thân cai quản gia tề.

(Phương Tu Đại Đạo).



HIẾU THÂN NỔI DẬY TUỔI TÊN

Hiếu với cha mẹ mà tên tuổi vang dậy khắp nơi.

Do điển vua Thuấn mẹ chết sớm, ở với người cha có mắt như mù, người dì ghẻ ác nghiệt, và đứa em một cha khác mẹ ngỗ nghịch, độc ác. Họ đày ông ra đất Lịch Sơn cày cấy, hồ Lôi Trạch đánh cá là có ý muốn giết ông, nhưng ông vẫn một lòng hiếu thảo với cha me, hoà thuận với người em, không một lời than oán. Nhờ lòng hiếu thuận mà danh Thuấn truyền khắp nơi, thấu tai đến vua Nghiêu, nên ông được chọn để truyền cho ngôi báu.

Xưa ruộng Thuấn voi cày chim cấy,

Vì hiếu thân nổi dậy tuổi tên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HIẾU TRỌNG TÌNH THÂM 

Hiếu thì nặng, tình thì sâu, hai bên hiếu cha mẹ và tình vợ chồng đều là sâu nặng. Như vậy hiếu và tình bên nào nặng hơn?

Tể Túc là cha vợ của Ủng Củ, có thù với Trịnh Lệ Công. Lệ Công muốn giết Tể Túc, nên sai tôi thần của mình là Ủng Củ lo mưu tính giết cha vợ mình. Ủng Củ không khéo tính toán, để cho vợ là Tề Thị biết được.

Tề Thị về hỏi mẹ: Cha và chồng, bên nào nặng hơn? Người mẹ nói: Cha và chồng đều nặng bằng nhau. Tề Thị lại hỏi: Vậy thương ai nhiều hơn? Người mẹ nói: Nên thương cha nhiều hơn, bởi vì khi chưa chồng đã có cha rồi. Nếu đã có chồng mà chồng chết thì có thể cải giá, còn rủi cha chết thì không có người cha thứ hai. Vậy thì chồng do mình định, còn cha thì thiên định. Thương chồng sao bằng thương cha..

Nghe xong, Tề Thị bèn đem việc Ủng Củ muốn hại cha nói lại với cha. Thế là cha thoát chết, chồng bị hại.

Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,

Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.

(Truyện Kiều).



HÌNH DUNG 

Hình: Dáng vẻ bên ngoài. Dung: Gương mặt.

Hình dung có hai nghĩa:

- Hình dáng bên ngoài của một người hay một vật.

- Gợi trong trí dáng vẻ , dung mạo của một vật hay một người, miêu tả ra.



Một chàng vừa trạc thanh xuân.

Hình dung chải chuốc, áo khăn dịu dàng.

(Truyện Kiều).



Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,

Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,

(Gia Huấn Ca).



Con mày mà giống cha nuôi,

Hình dung ý tứ khác nòi bản sinh.

(Quan Âm Thị Kính).



Tóc râu đều bạc phơ phơ,

Hình dung, cốt cách nhởn nhơ ai bì.

(Dương Từ Hà Mậu).



Con nhờ thầy công danh mới toại,

Như nhờ cha mới giỏi hình dung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HÌNH HÀI 

Hình: Dáng vẻ. Hài: Bộ xương.

Hình hài là thân xác, tức hình thể của con người.



Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,

Không uống ăn tiều tụy hình hài.

(Phật Nói Vu Lan).



Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo,

Khối hình hài đã chịu rã tan.

(Kinh Tận Độ).



Nhìn thung đường đền ơn cúc dục,

Nhớ công sanh giữ chút hình hài.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Với hình hài mình đã sanh thành,

Thì chữ đạo chữ tình cân đúng giá.

(Phương Tu Đại Đạo).



HÌNH HOA

Trong văn chương thường mượn hoa để ví với hình vóc của người phụ nữ đẹp. do vậy, hình hoa là hình dáng đẹp đẽ của người con gái.



Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,

Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HÌNH HƯƠU LỐT CHÓ

Hình hươu lấy ý câu trong Sử Ký “Chỉ lộc vi mã  鹿 ”, tức là trỏ hươu mà bảo rằng ngựa.

Do tích Triệu Cao đời Tấn đem con hươu vào dâng cho Tần Nhị Thế và bảo rằng ngựa. Vua Nhị Thế nói rằng: Khanh lầm rồi, con hươu chứ đâu phải là ngựa. Vua bèn hỏi các quan, có người theo Triệu Cao bảo là ngựa, có người cho là nai. Sau đó, Triệu Cao tìm cách hại lần những người nói theo Tần Nhị Thế.

Lốt chó lấy ý câu trong Tấn Thư: Điêu bất túc cẩu vĩ tục  , , tức đuôi điêu không đủ nối thế đuôi chó. Thời trước các loại mũ quan đều có gắn đuôi điêu, nhưng vì phong quan quá nhiều nên đuôi điêu không đủ, nên dân gian mới chế giễu câu: Điêu bất túc cẩu vĩ tục.

Hình hươu lốt chó dùng để chỉ việc giả dối, lừa bịp, không chân thật.

Đua nhau trở trắng làm đen,

Hình hươu lốt chó, thói quen dối đời.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HÌNH MAI

Mai thường ví với người phụ nữ như thành ngữ “Mình hạc xương mai”.

Hình mai là hình dáng gầy gò, mỏng mảnh của người con gái như hoa mai.

Máu ghen chăn gối dẫy tràn,

Hình mai ủ dột sắc càng héo don.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Chẳng còn yểu điệu hình mai,

Da mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HỌ ĐÀO TỂ TƯỚNG SƠN TRUNG

Tức nói Đào Hoàng Cảnh là “Tể tướng sơn trung  ”, tức là Tể tướng trong núi rừng.

Do tích ông Đào Hoàng Cảnh, tự là Thông Minh, người thời Nam Bắc triều, ở ẩn trong núi sâu tu hành. Đời Lương Vũ Đế, triều đình có việc gì khó khăn, trọng đại, đều cho sứ đến hỏi ý kiến ông, do đó, người đương thời tôn xưng là “Sơn Trung Tể Tướng”, tức là quan tể tướng trong núi.

Họ Đào Tể tướng sơn trung,

Chúa Lương khuất lễ mới dùng đặng va.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HỌ ĐÀO VẬN BỊCH

Tức Đào Khản vận chuyển cái bịch (Tức cái chum), ý nói người có đức tính siêng năng cần mẫn.

Do tích Đào Khản, làm chức Đô đốc đại tướng quân đời nhà Tấn, tính ghét nhàn rỗi, tiếc thời giờ, nên lúc nào rảnh việc ông thường vần cái chum từ chỗ này sang chỗ kia để tự khích lệ cái ý chí của mình.

Người Địch chống chèo thề cũng luống,

Họ Đào vận bịch sức còn tham.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HỌ HÀN

1.- Tức Hàn Phi Tử , một vị công tử của nước Hàn, sinh khoảng 280, mất 233 trước Tây Lịch, cùng với Lý Tư theo học Tuân Tử. Là người có chí học rộng, tập đại thành các triết thuyết đời trước, theo thuyết tính ác của Tuân Tử, dùng thuyết pháp gia để trị nước.

Vua Tần xem sách của Hàn Phi Tử rất kính phục, muốn trọng dụng, nhưng Lý Tư ganh tài ông, dèm pha với vua Tần, bắt ông bỏ ngục, rồi sai người đưa thuốc độc ép ông tự tử. Đến khi vua Tần hối hận, truyền tha cho ông thì ông đã chết rồi.

Ông có để lại bộ sách Hàn Phi Tử gồm 55 thiên là một tác phẩm giá trị cho phái pháp gia.



Kìa là họ Lão, họ Trang,

Họ Dương, họ Mặc, họ Hàn, họ Thân.

(Dương Từ Hà Mậu).

2.- Tức Hàn Dũ , người đứng ra can vua Đức Tôn về việc xa hoa trong cung mà bị biếm làm Lệnh doãn Dương Sơn; lần khác, can vua Hiến Tôn đừng rước cốt Phật vào cung, suýt bị tử tội, nhờ đình thần xin cho mới được giáng làm Thứ sử Triều Châu. Sáng ông dâng biểu can vua thì chiều có chiếu vua bắt đi đày, nên mới có câu: Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên, Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên.

Xem: Hàn Dũ.



Ta từng coi sách nhà Đường,

Thấy lời "Phật biểu" họ Hàn biết tin.

(Dương Từ Hà Mậu).



HỌ LÃO

Tức Lão Tử.

Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, Lão Tử là người nước Sở, huyện khổ, làng Lệ, xóm Khúc nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ.

Ngài họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam. Ngài làm quan giữ Tàng thất (Kho sách) ở Kinh đô Lạc Dương của nhà Châu.

Về gia thế thì sử sách không có nói đến, nhưng theo truyền thuyết thì nói rằng mẹ của Lão Tử mang thai Ngài có đến 80 năm mới sinh Ngài do hông bên trái dưới cội cây lý. khi Ngài được sinh ra thì râu tóc dài và bạc trắng, mới gọi Ngài là Lão Tử. Lão Tử chỉ cây lý mà bảo rằng đó là họ của Ngài.

Kìa là họ Lão, họ Trang,

Họ Dương, họ Mặc, họ Hàn, họ Thân.

(Dương Từ Hà Mậu).



HỌ LÝ

Tức Lý Bạch là một thi hào bậc nhứt đời Đường, người đất Thục, làng Thanh Liên, huyện Xương Minh, tỉnh Tứ Xuyên, tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên Cư Sĩ, tính tình hào hiệp, thích uống rượu ngâm thơ.

Hạ Tri Chương tiến cử Lý Bạch đến Đường Huyền Tông, được vua phong chức Hàn lâm và rất được yêu kính. Sau bị Cao Lực Sĩ gièm pha với Dương Quý Phi, nên vua không tin dùng nữa và đuổi về.

Nhân loạn An Lộc Sơn, Lý Bạch bị liên can với Lân Đương nên bị bắt giam, rồi bị đày, sau được đại xá. Đời vua Túc Tông, Lý Bạch mất, thọ 61 tuổi.



Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,

Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



HỌ PHÀN

Tức Phàn Khoái .

Hán Sử viết: Ông Phàn Khoái là người đất Bái, thuở nhỏ nhà nghèo, phải mở cửa hàng làm thịt chó để sinh sống. Lúc ấy, có ông Lữ Công giỏi xem tướng số, biết hai đứa con gái của mình đại quý, bèn đem đứa con gái lớn gả cho Lưu Bang, đứa con gái thứ gả cho Phàn Khoái. Về sau, Phàn Khoái theo Lưu Bang diệt được Hạng Võ, được phong làm Vũ Dương Hầu.

Vua khen công sánh họ Phàn,

Tước cho năm đẳng hầu ban nghìn điều.

(Thiên Nam Minh Giám).



HỌ TRANG

Tức là Trang Tử.

Trang Tử, tên là Chu hay Châu, Tự là Tử Hưu, người nước Tống, sanh khoảng 369 trước Tây lịch, đời vua Châu Liệt Vương, Ông mất khoảng 286 trước Tây lịch, thường giao du với Huệ Tử. Ông là người chịu ảnh hưởng tư tưởng của Lão Tử và Dương Tử, nên có đời sống thanh bạch, ghét danh lợi, chủ trương trở về với tự nhiên.

Trang Tử có một tư tưởng rất lãng mạn, lại là người không màng thế tục, không ham sống cũng chẳng sợ chết, coi cuộc đời như một giấc mộng lớn, chết đi là tỉnh giấc mộng. Ông có soạn ra bộ Nam Hoa Kinh.



Kìa là họ Lão, họ Trang,

Họ Dương, họ Mặc, họ Hàn, họ Thân.

(Dương Từ Hà Mậu).



HỌ TRƯƠNG ĐÔI GÃ

Hai gã họ Trương, tức Trương Địch Chi và Trương Xương Tông là hai anh em có thân hình và gương mặt đẹp đẽ, được Võ Hậu yêu mến, phong cho hai người làm quan to, và cho tự do vào nơi cung cấm. Sau hai anh em họ Trương vì quá chuyên quyền, nên cả hai đều bị giết.



Họ Trương đôi gã đẹp thay,

Hứa Tam Tư lại chuyền tay mận đào.

(Truyện Trinh Thử).



HỌ VƯƠNG DẠY HỌC PHẦN HÀ

Tức là Vương Thông, tự là Trọng Yêm, người đời Tuỳ, quê ở Long Môn, tính thông minh, ham đọc sách. Sau ông có đến Trường An dâng bài “Thái bình thập nhị sách  ”, không được dùng, bèn lui về ở ẩn, dạy học ở Hà Phần, nhiều lần được mời ra làm quan, nhưng ông đều từ khước.



Họ Vương dạy học Phần hà,

Buổi Tuỳ không đạo, ở nhà cũng hay.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HOA BIỂU 

Hoa biểu là một cây cột đá ở các mồ mả.

Ngày xưa, Đinh Lệnh Uy chết đi, hồn hoá ra con chim hạc, thường đêm bay về đậu trên cây cột đá (Hoa biểu). Vì thế, trong bài cổ thi có câu: Vân ám đỉnh hồ, long khứ viễn, Nguyệt minh hoa biểu, hạc quy trì  , ; , , nghĩa là mây phủ đỉnh hồ rồng bay khuất bóng, trăng soi trụ hoa, hạc bay về muộn.

Xem: Đỉnh hồ.



Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc,

Gót Nam du nhẹ bước tang bồng.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Hạc về huê biểu tủi ngùi ngùi,

Nhạn lại hoành dương trông thẳm thẳm.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



HOA BỐN MÙA

Do từ câu “Bồ đề bách xích thụ, Liên tọa tứ thời hoa  , ”, nghĩa là bồ đề cây trăm thước, toà sen hoa bốn mùa.

Hoa bốn mùa tức hoa sen, biểu tượng của Phật giáo để chỉ “Toà sen” là ngôi vị Phật.

Xem: Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.



Sẵn Quan âm các vườn ta,

Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.

(Truyện Kiều).



HOA BỐN MÙA THƠM CHỖ NHỚP NHƠ

Hoa bốn mùa tức hoa sen.

Phật giáo dùng hoa sen biểu tượng cho chân lý hiện thực trong cuộc đời đầy ưu phiền và tục lụy. Hoa sen biểu trưng cho con đường nhập thế của Phật giáo, như câu thành ngữ: “Cư trần bất nhiễm trần  ” tức sống ở trên trần gian nhưng không bị nhiễm bởi cõi trần, tựa như hoa sen gần bùn mà không hôi mùi bùn. Do vậy, hoa sen thường được Phật giáo biểu tượng là Tòa sen, hay ngôi vị Phật.

Người tu muốn “Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ” thì luyện tập sao cho “Cư trần bất nhiễm trần”.



Cây trăm thước bắc thang bến khổ,

Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HOA BÚT 

Hoa bút là cây viết trổ bông, chỉ tài văn thơ.

Do tích Lý Bạch, một nhà thơ đời Đường nằm chiêm bao thấy cây viết mình trổ ra hoa rất đẹp. Từ đó thơ văn của ông càng ngày càng xuất sắc, tiếng tăm lừng lẫy, trở thành một thi hào lớn của Trung Quốc.

Xem: Bút hoa.



Ngỗng, dê, đặng mấy mươi lời?

Một cây hoa bút dưới trời, vinh hơn.

(Dương Từ Hà Mậu).



HOA CÁI 

Hoa cái là cái mũ hoa.

Sử Ký viết: Trác Lộc dã trung chi vân, thể phân hoa cái 涿 鹿 , , nghĩa là vầng mây trong đồng Trác Lộc như lụa tủa thành cái mũ hoa.

Do điển: Vua Huỳnh Đế đánh trận cùng Si Vưu tại cánh đồng Trác Lộc, có vầng mây năm sắc, cành vàng lá ngọc kết thành hình tụi hoa, che trên đầu vua Huỳnh Đế, tạo thành cái mũ hoa (Hoa cái).



HOA CỎ

Bởi chữ “Hoa thảo  ” là bông hoa và cây cỏ. Trong văn chương hoa cỏ dùng để chỉ phong cảnh thiên nhiên gồm màu xanh của cây và màu sắc của bông hoa.



Một trời hoa cỏ lâng lâng,

Mơ mòng mưa Sở gió Đằng đâu đây.

(Mai Đình Mộng Ký).



Thiên thai xa cách cõi Nam khương,

Hoa cỏ ngùi ngùi cám họ Dương.

(Dương Từ Hà Mậu).



Anh hùng họa biết anh hùng nhĩ,

Hoa cỏ phen này có chủ ông.

(Thơ Trần Tuấn Khải).



HOA CƯỜI

1.- Hoa cười dùng để chỉ hình ảnh bông hoa đang hé nụ trước những tia nắng.



Vườn thượng uyển hoa cười với nắng,

Lối đi về ai chẳng chiều ong.

(Mai Đình Mộng Ký).

2.- Bông hoa được biểu tượng cho người phụ nữ đẹp, vì thế, chữ hoa cười có ý nói người đẹp cười, miệng tươi như đóa hoa nở.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

(Truyện Kiều).



HOA CHI 

Hoa: Bông hoa. Chi: Nhánh, cành.

Hoa chi là nhánh hoa hay cành hoa.



Thám hoa vào lạy đơn trì,

Cẩm bào phô cật, hoa chi giải đầu.

(Truyện Phan Trần).



HOA CHÚC 

Hoa chúc là đuốc hoa.

Chỉ những cây đuốc có cái đế hình hoa sen để các thị nữ đưa cô dâu vào phòng trong đêm tân hôn.

“Hoa chúc” cũng có nghĩa là kết hôn với nhau, như câu “Phu thê hoa chúc”, là kết duyên vợ chồng.

“Đêm hoa chúc” tức là đêm đầu tiên cô dâu về nhà chồng, tức đêm động phòng.

Xem: Đuốc hoa.



Bao giờ thước báo tin xuân,

Bấy giờ hoa chúc nghinh xuân cũng vừa.

(Lưu Nữ Tướng).



HOA DUNG 

Tên đất thời nhà Hán, nay thuộc về phía tây bắc tỉnh Hồ Bắc. Sau khi Tào Tháo thua trận Xích Bích, Khổng Minh biết Tháo sẽ chạy thoát thân theo con đường Hoa Dung, bèn sai Quan Võ phục binh nơi đó. Quả thật, Tào Tháo men theo đường Hoa Dung để thoát thân, nên bị Quan Võ bắt được, Tháo kể ơn việc trước kia đối xử tốt với Quan Võ để xin tha mạng. Quan Võ là người trọng nghĩa, nên đành chịu tội với quân sư Khổng Minh mà tha cho Tào Tháo.



Hoa Dung khiển tướng phân danh,

Gian hùng sớm đã nép kình phá gan.

(Ngọa Long Cương Vãn).



HOA ĐÀ 

Một vị danh y đời Đông Hán, tự là Nguyên Hoá, giỏi nghề thuốc, thạo châm cứu, lại biết cả khoa mổ xẻ. Tương truyền Quan Công bị tên độc trúng nơi cánh tay, chính Hoa Đà đã mổ và nạo hết chất độc thấm vào xương tay.

Tào Tháo bị đau đầu cũng có vời Hoa Đà, ông đã dùng khoa châm cứu đã trị khỏi. Sau lại mời Hoa Đà lần nữa, ông đòi phẩu thuật đầu, không chịu trị nên bị Tào Tháo hại.

Hoa Đà sách cũng khác thường,

Hùng kinh chi cố, nhiều phương rất kỳ.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Lúc ốm đau điều dưỡng cũng thần,

Trị bịnh đến Biển Thước, Hoa Đà khôn dọ.

(Phú Thuốc Phiện).

 

HOA ĐÀM 

Theo kinh Pháp Hoa, “Hoa đàm” do bởi chữ “Ưu Đàm hoa  ”, là một loại hoa thiêng liêng của nhà Phật, ba nghìn năm mới có một lần nở hoa, mỗi khi có hoa nở, tức có Phật ra đời.

Hoa đàm chỉ Phật pháp ưu việt.

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,

Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Bỏ chốn trăng hoa tới cửa thiền,

Hoa đàm đuốc tuệ để làm duyên.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



HOA ĐÈN

Hoa chỉ sắc đẹp của người đàn bà con gái, đèn dùng để thắp sáng.

Hoa đèn là tiếng dùng để chỉ người con gái có sắc đẹp rực rỡ,sáng chói.

Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ,

Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



HOA ĐÀO 

Trong văn chương, người ta thường ví người con gái có nhan sắc là Hoa đào hay Đào hoa   do ở Lệ Tình tập có kể lại câu chuyện tình và một bài thơ của thi gia đời Đường là Thôi Hộ.

Theo số Tử vi, những người đàn bà do sao “Đào hoa” và sao “Hồng loan” chiếu mệnh thì cả đời phải chịu vất vả về số đào hoa, có khi phải chịu kiếp giang hồ nữa.

Xem: Đào hoa.

1.- Chỉ người phụ nữ đẹp:

Trướng tô giáp mặt hoa đào,

Vẻ nào chẳng mặn nét nào chăng ưa?

(Truyện Kiều).



Thù nhau ru hỡi đông phong,

Góc vườn đãi nắng cầm bông hoa đào.

(Cung Oán Ngâm Khúc).

2.- Chỉ số Đào hoa:

Chém cha cái số hoa đào,

Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi.

(Truyện Kiều).



HOA ĐÌNH 

Hoa: Bông hoa. Đình: Cái nhà nhỏ để ngồi chơi hay chỗ nghỉ chân.

Hoa đình là cái đình được trang trí bông hoa để làm nơi đãi yến.



Tính ngày mai, tối mười hai,

Truyền làm tiệc rượu đặt nơi hoa đình.

(Nhị Độ Mai).



HOA ĐƯỜNG

Hay “Đường hoa  ” tức là hoa cây đường lê.

Trong Kinh Thi, bài Đường lê nói về tình nghĩa anh em, nên trong văn chương người ta dùng chữ “Hoa đường” để chỉ anh em.

Nghĩ mình bồ liễu phận thường,

Bóng thung lạnh lẽo hoa đường hiếm hoi.

(Ngọc Kiều Lê).



HOA HẠ 

Ngày xưa người Trung Hoa ở châu Ung và châu Dương, đông nam thì có Hoa Âm, đông bắc thì có Hoa Dương, lấy Hoa Sơn làm hạn định. Do đó mới lấy tên Hoa, còn Hạ là do con sông Hạ Thuỷ.

Vì vậy, Hoa Hạ là tiếng dùng để gọi chung nước Trung Hoa ngày xưa.

Dám xưng rằng hiệu Thiện Trai,

Người trong Hoa Hạ, hay ngoài man di?

(Dương Từ Hà Mậu).



Chàng Từ cáo biệt Lưu Công,

Đè chừng Hoa Hạ ngựa lồng như tên.

(Lưu Nữ Tướng).



HOA KHÔI 

Hoa: Bông hoa. Khôi: Đứng đầu.

Hoa khôi là đứng đầu trong các loài hoa.

Hoa được dùng ví với người con gái đẹp thì “Hoa khôi” là một người con gái đẹp nhứt, đứng đầu trong nhóm phụ nữ.

Hoa khôi mộ tiếng kiều nhi,

Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.

(Truyện Kiều).



HOA LẠC NGUYỆT MINH 

Hoa lạc: Hoa rơi. Nguyệt minh: Trăng mờ tối.

Hoa lạc nguyệt minh là hoa rụng trăng mờ, nghĩa bóng nói số phận bị suy đồi như hoa héo rụng cành, trăng khuyết lu lờ.

Do câu thơ của Đỗ Mục đời Đường: Nguyệt minh hoa lạc hựu hoàng hôn  , nghĩa là trăng mờ hoa rụng lại hoàng hôn.

Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy,

Lửa hoàng hôn như cháy tấm son.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



HOA LÊ 

Tên một thứ hoa nở vào đầu mùa Hạ, sắc trắng như tuyết, nên người ta thường nói: Lê hoa bạch tuyết hương  , nghĩa là hoa lê như tuyết trắng mà có mùi thơm.

Trong “Trường Hận Ca”, Bạch Cư Dị đã ví “Hoa lê” như một người con gái: Lê hoa nhất chi xuân đái vũ  , tức cành hoa lê mùa xuân điểm hạt mưa, ý nói đến người con gái khóc.

Cớ sao trằn trọc đêm khuya?

Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?

(Truyện Kiều).



HOA LÌA CỘI

Hoa lìa cội ví với hình ảnh người con gái lìa cha mẹ, lìa nhà cửa, lìa nơi chôn nhao cắt rún, tức là lìa khỏi nơi nguồn cội để theo chồng.



Tỷ chẳng khác như hoa lìa cội.

Chịu phận gái kiếp sanh đã rủi,

(Phương Tu Đại Đạo).



HOA LƯ 

Hoa Lư là nơi sinh của Đinh Bộ Lĩnh, thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, tức là Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.

Như vậy, “Hoa Lư” là Kinh Đô của nhà Đinh và nhà Tiền Lê.

Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh,

Con quan thứ sử ở thành Hoa lư.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HOA NGUYỆT 

Hoa và trăng, là nơi trai gái thường hẹn hò nhau nên chữ “Hoa nguyệt” thường dùng để diễn tả sự tư tình của con trai và con gái.

Ngoài ra, còn chỉ sự tình tứ, ân ái giữa trai gái.

Nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng,

Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?

(Truyện Kiều).



HOA NHAN 

Hoa: Bông hoa. Nhan: Sắc mặt.

Hoa nhan là gương mặt như bông hoa, ý nói sắc mặt tươi tắn, rạng rỡ như hoa vừa nở.



Lả lơi cười với hoa nhan,

Trải chăn thúy vũ, buông màn phù dung.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



HOA NHƯỜNG NGUYỆT THẸN

Hoa nhường: Đẹp đến nỗi hoa phải nhường thua. Nguyệt thẹn: Trăng phải e thẹn.

Thành ngữ “Hoa nhường nguyệt thẹn” dùng để chỉ người có sắc đẹp đến đổi hoa phải nhường thua, trăng phải thẹn mặt.



Là phu nhân rất hoa nhường nguyệt thẹn,

Nhan sắc kia ai thấy chẳng mê.

(Nhạc Hoa Linh).



HOA PHONG NHUỴ 

Hoa: Bông. Phong: Đóng kín. Nhuỵ: Nhuỵ bông.

Hoa phong nhuỵ là đoá hoa còn khép kín nhuỵ hoa, chưa có ong bướm nào đến hút mật. Ý muốn nói còn gái vừa mới lớn còn trinh nguyên.



Lạ lùng con mắt người thơ,

Hoa còn phong nhụy, trăng vừa tròn gương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Hoa phong nhụy cung Tiên cũng mến,

Gấm lót đường trọng tiếng cũng nhơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HOA TÀN NHUỴ RỮA

Hoa tàn: Bông tàn. Nhuỵ rữa: Nhuỵ úa.

Hoa tàn nhuỵ rữa là bông héo rụng, nhuỵ phai úa, ý nói người đàn bà đã già cỗi, không còn hương sắc.



Đến lúc đã hoa tàn nhụy rữa,

Đừng quên khi hương lửa mặn nồng.

(Phương Tu Đại Đạo).



HOA TIÊN 

Hay “Huê tiên”.

Một loại giấy có vẽ hoa, dùng để viết thư hoặc chép thơ vào tờ giấy đó.

Hoa Tiên cũng là tên một tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Huy Tự, viết theo lối lục bát, gồm 1826 câu, được soạn vào khoảng cuối nhà Lê.



Còn thừa hai mảnh hoa tiên,

Chắt chiu Sinh đã giấu liền biết đâu.

(Hoa Tiên Truyện).



Ngậm ngùi tả bức huê tiên,

Bốn lạy giã từ trần thế.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



HOA TÌNH 

Hay “Huê tình”.



Hoa: Hay huê là bông hoa. Tình: Chỉ sự yêu mến, gắn bõ giữa hai người với nhau.

Hoa tình hay huê tình là chuyện yêu đương giữa đôi nam nữ.



Các thơ truyện huê tình xé hủy,

Kẻo để đời làm lụy luân thường

(Kinh Sám Hối).



HOA TƯỜNG BUÔN ONG

Hoa tường là hoa ngoài tường, không được gìn giữ, ai muốn rờ muốn hái cũng được, ý nói gái lẳng lơ.

Ong bướm dùng để ví với những chàng trai không đứng đắn, nên chữ “Buôn ong” nói trao thân cho kẻ ong bướm.

Hoa tường buôn ong ý nói những hạng gái không giữ phẩm giá, đem thân bán cho loài ong bướm.

Đồng nghĩa với “Hoa tường liễu ngõ”.

Ăn nhờ, ở tạm, mua thương,

Tiếc chi những thói hoa tường buôn ong.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HOA TƯỜNG LIỄU NGÕ

Cây hoa bên tường, cây liễu ngoài ngõ, tự do mà bẻ hái gì cũng được, ý nói những người con gái không giữ phẩm giá, hoặc chỉ gái lầu xanh, ai bỏ tiền ra cũng chiếm được.

Xem: Liễu ngõ hoa tường.

Sá chi giống hoa tường liễu ngõ,

Hại nghiệp nhà nghiêng đổ như chơi.

(Phương Tu Đại Đạo).



HOA TRÔI BÈO GIẠT

Hoa trôi bèo giạt có nghĩa là sự trôi giạt như hoa, như bèo trên sông nước, ví thân phận người con gái lênh đênh, chìm nổi đưa đến đâu cũng đành phải chịu.



Hoa trôi bèo dạt đã đành,

Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!

(Truyện Kiều).



HOÁ CÔNG 

Hoá: Biến hoá, đổi ra. Công: Thợ.

Hoá công là thợ trời gây dựng, biến hóa ra vạn vật trong vũ trụ.

Phú Giả Nghị có câu: Thiên địa vi lô, Tạo hoá vi công  , , nghĩa là trời đất làm lò, ông Tạo làm thợ.

Vì vậy, Hoá công hay Tạo hoá, Thợ tạo cùng một nghĩa, chỉ ông Trời.



Phũ phàng chi bấy Hoá công,

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

(Truyện Kiều).



Bất tình chi bấy Hóa công,

Cho người lấy mảnh má hồng làm chi?

(Hoa Tiên Truyện).



Hóa công sao khéo trêu ngươi,

Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Cảnh Thiên noi bước Hóa Công,

Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.

(Kinh Thế Đạo).



Trên đường Thánh đức lần dò,

Trường sanh mầu nhiệm nơi lò Hóa công.

(Kinh Thế Đạo).



Dạy cho hiểu mảnh thân dầu sống,

Cũng nhờ nương dưới bóng Hóa công.

(Phương Tu Đại Đạo).



HOÁ CƠ 

Hoá: Dạy dỗ. : Nền móng.

Hoá cơ là dạy dỗ hay sửa đổi cái nền móng.



Hóa cơ dựng mối luân thường.

Động đình sớm kết với nàng Thần long.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HOÁ DUYÊN 

Hoá duyên, chữ của nhà Phật, dùng để chỉ người nào hay bố thí thì có duyên với Phật.

Theo kinh Phật, hoá duyên là kẻ có tiền duyên với ai, thì hậu kiếp sẽ hoá kiếp vào gia đình người ấy.

Cớ sao chi thứ nối đời,

Trừ quân lại thác vào người hoá duyên?

(Quốc Sử Diễn Ca).



HOÁ NHI 

Hoá nhi nghĩa là con Tạo, do bởi bốn chữ “Tạo hoá tiểu nhi  ”, nghĩa là quan niệm ông Tạo như là một đứa trẻ đã biến hoá nhiều việc bất ngờ như trò chơi, trò đùa của trẻ con.

Vì vậy, Hoá nhi hay Con tạo, Trẻ tạo hoá cùng một nghĩa, chỉ ông Trời.

Xem: Trẻ Tạo Hoá.



Hóa nhi thật có nỡ lòng,

Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau!

(Truyện Kiều).



Mấy trăm năm một chữ tình,

Dưới trời ai kẻ lọt vành hoá nhi.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Hóa nhi thăm thẳm nghìn trùng,

Nhắc cân phúc tội, rút vòng vần xây.

(Nhị Độ Mai).



HOÁ SINH 

Hay “Hoá sanh”.

Hoá sinh dùng để chỉ Trời đất sinh thành và thay đổi vạn vật.

Hoá sinh còn có nghĩa là biến hoá mà sinh ra.



Đấng Tạo Hóa hóa sanh muôn vật,

Phú cho người tánh rất linh thông.

(Giới Tâm Kinh).



HOÀ CANH 

Hoà: Hạp. Canh: Bát canh.

Muốn cho canh ngon phải nêm vào các thứ gia vị khác cho hạp miệng như chất mặn, chất chua, chất ngọt…Ý muốn nói tài giúp vua để cai trị nước của những bậc tướng tài ba.

Kinh Thư chép: Cao Tông nhà Thương cầu được Phó Duyệt về giúp nước, vua bảo Phó Duyệt: Nhĩ duy huấn vu trẫm chí! Nhược tác tửu lê nhĩ duy cúc nghiệt, nhược tác hoà canh, nhĩ duy diêm mai  ! , , , , nghĩa là nhà ngươi phải dạy dỗ cho chí ta được thông suốt, nếu có nấu rượu ngọt, nhà ngươi là men rượu. Nếu có làm việc nêm canh, nhà ngươi là muối là mơ.

Hoà canh ngày giúp việc thừa tướng,

Thêm bếp đêm liều chước tướng quân.

(Hồng Đức Quỗc Âm).



HOÀ HOÀN GẤU

Lấy mật gấu làm thành viên.

Do câu: “Hoà hoàn giáo tửTrọng Dĩnh mẫu chi hiền  , ”, nghĩa là lấy mật gấu làm hoàn dạy con, người mẹ hiền của ông Trọng Dĩnh.

Xem: Hoà hoàn mật gấu.



Thay nghĩa phương dạy trẻ,

dõi người xưa hoà hoàn gấu vẻ bút lao.

(Tử Tế Mẫu Văn).



HOÀ HOÀN MẬT GẤU

Hoà mật gấu làm thành hoàn để dạy con.

Do điển trong Đường Thư chép: Vợ ông Liễu Công Xước là bà Hàn Thị, thường hoà mật gấu làm hoàn để mỗi đêm cho con là Trọng Dĩnh uống, giúp cho con khỏi nóng cảm, có tinh thần sáng suốt, được người khen là người đàn bà có nghĩa phương.

Lại khen Hàn Thị nghĩa phương,

Hoà hoàn mật gấu giúp trường kinh lân.

(Nữ Phạm Diễn Nghĩa Từ).



HOÀ PHONG 

Hoà phong tức gió hoà, hay gió thuận, chỉ chính sự tốt đẹp của vua khiến nhân dân an vui no ấm.



Thảnh thơi thay chốn thiên tân,

Ứng điềm thuỵ ái đượm nhuần hoà phong.

(Tây Sương).



HOẢ BÀI 

Hoả: Lửa. Bài: Tấm thẻ để làm tin.

Hoả bài là một cái thẻ được chế ra từ thời nhà Thanh, quân lính hay trạm dịch đi đến đâu đều phải xuất trình thẻ để làm tin. Chữ hoả dùng để chỉ sự gấp gáp, cấp tốc.



Hỏa bài tiền lộ ruổi mau,

Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.

(Truyện Kiều).



Ruổi mau lệnh tiễn hỏa bài,

Mấy ngày thoắt đã tới nơi Châu Thường.

(Nhị Độ Mai).



HOẢ CÔNG 

Hoả: Lựa. ng: Đánh.

Đây là một chiến thuật trong phép đánh giặc, dùng lửa để tần công địch.

Trận Xích Bích trong thời Tam Quốc, Châu Do, tướng nhà Ngô, phối hợp với Khổng Minh dùng chước hoả công đốt cháy binh thuyền của Tào Tháo.

Xem: Xích Bích.



Hoả công dâng chước lạ nhường,

Gió ngàn Xích Bích thổi tàn Nguỵ binh.

(Ngọa Long Cương Vãn).



HOẢ ĐỨC 

Vua Thần Nông lấy hiệu là Viêm Đế . Viêm gồm hai chữ hoả, vì thế những dòng dõi sau của vua Thần Nông đều lấy lửa làm biểu hiệu, gọi là “Hoả đức”.



Cháu đời Viêm đế thứ ba,

Nối dòng Hỏa đức gọi là Đế minh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HOẢ NGƯU XUẤT TRẬN 

Trâu lửa ra trận.

Sử Ký chép: Ông Ký Kiếp nước Yên đem binh đánh nước Tề. Ông Điền Đơn mang những người bị thương, bị bịnh, trèo lên thành ước hẹn ra đầu hàng.

Điền Đơn sai quân thám thính dọ xem binh của Kỵ Kiếp lơ là việc phòng bị, bèn đem mấy ngàn con trâu, vẽ mình vằn vện, buộc đao bén ở sừng, buộc bùi nhùi ở đuôi, đào hầm cho trâu ra ngoài thành, đốt nóng đuôi trâu, trâu hoảng sợ chạy tuốt qua quân Yên, chém và đạp chết vô số quân của Kỵ Kiếp. Điền Đơn phục được hơn bảy mươi thành của nước Tề bị mất.



HOẢ QUANG KIẾN DIỆN 

Hoả quang: Lửa sáng. Kiến diện: Thấy mặt.

Chữ thường dùng trong các bản án trộm cướp ngày trước, có nghĩa là nhân nhờ ánh sáng lửa mà trông thấy được mặt.



Bấy giờ tôi có kêu rao,

Hoả quang kiến diện qua rào nhảy ra.

(Truyện Trê Cóc).



HOẠ CHÍ VÔ ĐƠN

Tức “Hoạ vô đơn chí  ” tai hoạ không đến một lần, thường cái vạ nầy rồi lại tới cái vạ khác.

Do câu: Phước bất trùng lai, hoạ vô đơn chí  , , phước chỉ thấy hưởng một lần, chẳng bao giờ được lần nữa; nhưng tai hoạ thường hay đến dồn dập, ít khi xảy đến một lần.

Mới hay tục ngữ thế truyền,

Lời rằng: Họa chí vô đơn cũng thường.

(Nhị Độ Mai).



HOẠ GỞI TAI RƠI

Họa gởi tai rơi là hoạ bỗng gởi đến, nạn lại rơi vào, ý muốn nói những tai họa bất ngờ đưa đến.

Đồng nghĩa với câu “Tai bay vạ gởi”.

Xin tha họa gởi tai rơi,

Hồn linh nhờ có ơn Trời chứng minh.

(Kinh Thế Đạo).



HOẠ HỔ BẤT THÀNH 

Hoạ hổ: Vẽ con cọp. Bất thành: Chẳng giống hình cọp, không nên cọp.

Hoạ hổ bất thành là vẽ cọp chẳng nên hình. Dùng để chỉ người không biết lượng sức mình, làm chẳng nên vịệc, khiến làm trò cười thiên hạ.

Do câu trong Hậu Hán Thư viết: Hoạ hổ bất thành phản loại cẩu  , nghĩa là vẽ hổ không nên, lại giống chó. Ý chê người hay làm càn.

E khi họa hổ bất thành,

Khi không mình lại xô mình vào hang.

(Lục Vân Tiên).



HOẠ HỔ HOẠ BÌ 

Vẽ cọp vẽ da.

Do câu nói của người xưa: Hoạ hổ, hoạ bì nan hoạ cốt, tri nhân, tri diện bất tri tâm  , , nghĩa là vẽ cọp, vẽ được da chứ không vẽ được xương, biết người, chỉ biết mặt chứ không biết được lòng.

Nghĩa bóng: Lòng người khó đoán.



Thế gian hoạ hổ hoạ bì,

Tri nhân tri diện ai hồ tri tâm.

(Nữ Tú Tài).



HỌA LÂY LỬA THÀNH

Bởi câu “Thành môn thất hoả, hoạ cập trì ngư  , ” nghĩa là lửa cháy cửa thành, cá ao bị lây. Thật vậy nếu cửa thành bị cháy, muốn tưới tắt lửa thành, phải múc cạn nước ao. Vì thế, cá ao bị họa lây vì khô cạn.

Xem: Lửa thành.

Bảo thân phải có chước hay,

Thời chi đến nỗi hoạ lây lửa thành.

(Hạnh Thục Ca).



HOẠ PHÚC 

Hay “Hoạ phước”.



Hoạ: Việc rủi ro, tai nạn. Phước: Việc tốt lành.

Hoạ phước là việc rủi ro và việc may mắn.

Tả Truyện có câu: Hoạ phúc vô môn duy nhân tự triệu  , , tức là hoạ phúc không có cửa, chính do người vời nó đến.

Điều họa phước không hay tìm tới,

Tại mình dời nên mới theo mình.

(Sám Hối Kinh).



HOẠ PHÚC BẤT KỲ 

Hay “Hoạ phước bất kỳ”.



Họa phúc: việc rủi ro và việc may mắn. Bất kỳ: Chẳng hẹn trước.

Hoạ phúc bất kỳ là cái may cái rủi không ngờ trước được.



Cho hay hoạ phúc bất kỳ,

Tái ông được ngựa lộ kỳ mất dê.

(Hoài Nam Ca Khúc).



HOẠ TÒNG KHẨU SINH 

Tai hoạ từ miệng mà sinh ra.

Thật vậy, sách có câu: Bệnh tuỳ khẩu nhập, hoạ tòng khẩu xuất  , , tức bịnh do miệng ăn uống không chọn lựa vào sinh bịnh, còn tai hoạ bởi miệng nói năng hay chưởi bới mà ra.

Ý nói ăn uống sinh bịnh hoạn, nói năng bậy bạ sinh tai hoạ.



HOẠ THAI 

Hoạ: Tai ương lớn. Thai: Bào thai.

Hoạ thai ý nói đầu mối của tai hoạ, tức là cái mầm gây ra tai họa.



Hoạ thai bởi ấy rất mau,

Sự sinh sinh sự há đâu bởi trời.

(Hạnh Thục Ca).



HOẠCH TỘI VU THIÊN 

Hoạch tội: Làm nên tội. Vu thiên: Với trời.

Khổng Tử có câu: Hoạch tội vu thiên vô sở đảo dã  , , nghĩa là phạm tội với trời, không thể kêu cầu vào đâu được.



Thánh rằng: Hoạch tội vu thiên,

Sao gì cứu đặng, mà nguyền cúng sao?

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HOÀI NHÂN 

Hoài: Nhớ. Nhân: Người.

Hoài nhân là nhớ người xưa. Do câu thơ trong Kinh Thi, nói lời bà Hậu phi nhớ vua Châu Văn Vương: Ta ngã hoài nhân  .



Có khi gẩy khúc đàn tranh,

Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



HOÀI XUÂN 

Hoài: Tưởng nhớ. Xuân: Mùa xuân.

Hoài xuân là sự tưởng nhớ đến mùa xuân, ý nói người thiếu nữ đang tuổi mộng, nhân ngày xuân về thường ao ước, lo nghĩ đến hôn nhân và tưởng nghĩ đến việc vợ chồng.

Hai chữ “Hoài xuân” mượn ý trong Kinh Thi: Hữu nữ hoài xuân cát sĩ dụ chi  , nghĩa là cô gái nhớ tình xuân, người trai tài dỗ dành đó, nói con gái mới lớn có lòng quyến luyến khơi tình với người con trai.

Đông quân sao khéo bất tình,

Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Dập dìu trước chốn thiền am,

Kẻ hoài xuân những muốn làm ni cô.

(Quan Âm Thị Kính).



HOÀN BÍCH QUY TRIỆU 

Giữ viên ngọc bích toàn vẹn để trả lại nước Triệu.

Do tích: Đời Chiến Quốc, nước Triệu được viên ngọc bích quý của Biện Hoà, Tần Chiêu Vương muốn đem 15 thành đổi viên ngọc ấy. Lạn Tương Như xin đảm nhận đi xứ cho vua Triệu và hứa rằng: Nếu không lấy được 15 thành thì nguyện đem ngọc bích nguyên vẹn trở về nước Triệu.

Lúc dâng ngọc cho vua Tần, thấy vua nhận ngọc mà ý không muốn giao thành, Lạn Tương Như lừa vua Tần lấy lại ngọc bích để trở về hoàn lại cho vua nước Triệu.



HOÀN LƯƠNG 

Hoàn: Trở về. Lương: Lương thiện, lành.

Hoàn lương tức là trở về với con người lương thiện. Nói những phụ nữ lầm lỡ bỏ nghề lầu xanh trở về sống cuộc đời yên lành.



Rõ ràng của dẫn tay trao,

Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công.

(Truyện Kiều).



HOÀN CÔNG 

Hoàn Công là vua nước Tề đời Xuân Thu.

Khi trở về nước Tề, được lên ngôi vua, Hoàn Công sai người giết anh mình là Công tử Củ, đang tỵ nạn ở nước Lỗ rồi đoạt luôn người vợ của công tử Củ.

Xem: Tử Củ.



Hay là học thói nước Tề,

Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công.

(Lục Vân Tiên).



HOÃN BINH 

Hoãn: Chậm lại. Binh: Quân lính.

Hoãn binh tức là có kế hoạch làm chậm lại việc đem binh đi đánh trận.



Đường hoàng nổi giận vội vàng,

Rằng: Vì giặc Thát tìm đường hoãn binh.

(Nhị Độ Mai).



HOẠN ĐỒ 

Hoạn: Làm quan. Đồ: Đường đi.

Hoạn đồ hay hoạn lộ là đường làm quan.

Người đi đường, có khi gặp bằng phẳng, có khi chịu gồ ghề, khó đi. Làm quan cũng vậy, như đi trên một con đường, may thì gặp suông sẻ, lên chức nhanh, rủi thời lận đận, khó thăng tiến được.

Xem: Hoạn lộ.



Nền thế nghiệp đã nhờ gia ấm,

Miền hoạn đồ lại lắm thiêm ân.

(Tự Tình Khúc).



HOẠN GIAI 

Hoạn: Làm quan. Giai: Thềm, thứ bậc.

Quan chức có nhiều thứ bậc cũng giống như những bậc thềm từ thấp lên cao. Hoạn giai tức là thứ bậc của quan chức.



Hoạn giai nhỏ mọn đã đành,

Trong vòng thú lệnh phẩm bình còn khen.

(Tự Tình Khúc).

 

HOẠN HẢI 

Hay Bể hoạn.

Người ta thường ví làm quan như đi trên một chiếc thuyền ra biển, lúc thì biển lặng gió êm, lúc thì ba đào sóng dậy, đi thật gian nan khổ cực.

Do vậy, khi cáo lão về hưu, người ta gọi: “Hoạn hải ba đào châu ký ngạn  , nghĩa là bể hoạn ba đào thuyền đến bến.



HOẠN LỘ 

Hoạn: Làm quan. Lộ: Con đường.

Việc làm quan được người xưa ví với người hành trình trên một con đường, lúc bằng phẳng thì thảnh thơi dễ thăng tiến, lúc gồ ghề, khúc khỉu thì gian nan vất vả dễ buồn rầu, chán nản. Con đường làm quan được gọi là Hoạn lộ. Xem: Hoạn đồ.

Dầu hoạn lộ chưa vừa sở nguyện,

Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân.

(Kinh Thế Đạo).



Sĩ mê hoạn lộ sĩ lầm đàng,

Cái bóng dáng đời há phải quan.

(Đạo Sử).



Ðai mão chưa quen đường hoạn lộ,

Công linh rèn dạ lắm công phu.

(Đạo Sử).



HOẠN NẠN 

Hoạn: Tai hoạ. Nạn: Điều nguy nan xảy đến.

Hoạn nạn tức là gặp những điều khốn khổ, tai ương xảy đến.



Rằng: Này công tử họ Mai,

Trong khi hoạn nạn lạc loài đến đây.

(Nhị Độ Mai).



Này là nặng bỏ nhẹ khiêng

Gặp cơn hoạn nạn, tách riêng lấy mình.

(Huấn Nữ Ca).



HOẠN QUAN 

Hoạn: Hầu hạ. Quan: Ông quan.

Hoạn quan là một vị quan được tuyển để hầu hạ trong cung.

Trong sách Hậu Hán Thư có nói đầu đời Trung Hưng, hoạn quan chỉ dùng những người đã thiến rồi, chứ không dùng những người bình thường.

Cung vắng ngắt chẳng ma nào tới,

Muốn ra vào phải hỏi hoạn quan.

(Mỹ Nữ Cống Hồ).



HOANG ĐƯỜNG 

Hoang: Rậm rạp, không khai khẩn. Đường: Lớn.

Hoang đường là rộng lớn hoang vu. Nghĩa bóng dùng để chỉ những việc vu vơ không đúng với sự thật.



Noãn bào dù chuyện hoang đường,

Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì?

(Quốc Sử Diễn Ca).

HOANG KHIỂM 

Hoang: Năm mất mùa. Khiểm: Ăn không no.

Hoang khiểm là chỉ sự mất mùa, thiếu ăn đói kém.



Đương cơn khói lửa mây bay,

Liền năm hoang khiểm ít ngày đủ no.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



HOANG NIÊN 

Hoang: Cây trái bị hư hại. Niên: Năm.

Hoang niên là năm cây trái, hoa màu bị hư hại, tức năm mất mùa, đói kém.



Dân hoang niên nào có ít tử vong,

được vui thoả hẳn quên câu oán nhạn.

(Phản Tây Hồ Tụng).



HOANG PHẾ 

Hoang: Bỏ bỏ trống, không trồng trọt. Phế: bỏ.

Hoang phế là một nơi không ai đi tới, hoặc không dùng đến.



Ta dặn về nhà lo cúng tế,

Tổ tông hoang phế bấy lâu rồi.

(Đạo Sử).



HOÀNG ÂN 

Hoàng: Vua. Ân: Ơn nghĩa.

Hoàng ân tức là ơn của nhà vua ban xuống cho các quan và nhân dân.



Mừng vì đỉnh trọng hoàng ân,

Giận vì một góc biên trần chưa thanh.

(Lưu Nữ Tướng).



HOÀNG BẢNG 

Hoàng: Màu vàng. Bảng: Tấm bảng.

Hoàng bảng tức là bảng sơn màu vàng, gọi là bảng vàng, dùng để niêm yết những chỉ dụ của vua.

Đồng nghĩa với “Kim bảng  ”, tức là bảng có thếp vàng, đề tên những vị tân khoa đổ Tiến sĩ trong thời khoa cử ngày xưa của Việt Nam.

Xem: Bảng vàng.



Nàng nên sắm sửa bước ra,

Chào quan hoàng bảng tân khoa lấy lòng.

(Nữ Tú Tài).



HOÀNG CÁC 

Hoàng các là cái gác vàng, chỉ dinh thự của quan Tể tướng.

Cung vua dùng màu đỏ (Đan trì), Tể tướng dùng sắc vàng.

Đời Đường có câu: Hoàng các tam thập niên, thanh phong thiên vạn cổ  , , nghĩa là hoàng các ba mươi năm, tiếng thơm lưu vạn cổ.



Một chiều là một não nùng,

Chẳng nơi hoàng các cũng vùng huyền lâu.

(Sơ Kính Tân Trang).



HOÀNG CÂN 

Hoàng: Màu vàng. Cân: Cái khăn.

Hoàng cân là Khăn vàng.

Đời nhà Hán, có ba anh em là Trương Giác, Trương Bảo và Trương Lương dấy binh khởi nghĩa, binh tướng đều đội khăn vàng, nên sử gọi là giặc “Hoàng cân”.

Đua nhau làm giặc Hoàng Cân,

Tướng rơm binh đậu, rần rần kéo đi.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HOÀNG CỰC 

Hoàng cực là nói thi hành chính sách để giáo hoá dân chúng phải hết sức ngay thẳng, không thiên vị.

Kinh Thư có câu: Hoàng kiến kỳ hữu cực  , nghĩa là vua dựng luật pháp lên rất ngay thẳng.

Thương sinh bốn bể chiêu an,

Hoàng cực chín lần áo rủ.

(Cung Trung Bảo Huấn).



Cao vòi vọi ngôi hoàng cực,

Khắp lâng lâng phúc thứ dân.

(Hồng Đức Quốc Âm).



HOÀNG DIÊU TỬ NGUỴ 

Hay “Diêu hoàng Nguỵ tử” (Diêu vàng Nguỵ tía).



Hoàng Diêu: Màu vàng của họ Diêu. Tử Nguỵ: Màu tía của họ Nguỵ.

Hoàng Diêu tử Nguỵ là chỉ loài hoa mẫu đơn, bởi tích nhà họ Diêu tìm được và trồng loại hoa màu vàng, nên còn gọi là Diêu hoàng, nhà họ Nguỵ tìm và trồng hoa màu tía, nên còn gọi Nguỵ tử.

Xem: Cành Diêu đóa Nguỵ.

Vườn riêng còn thú cầm tôn,

Hoàng diêu tử Nguỵ vẫn còn chưa phai.

(Hoa Tiên Truyện).



HOÀNG ĐẾ 

Một vị vua thời Thượng cổ của Trung Hoa, họ Công Tôn, tên là Hiên Viên, vì được sinh ở gò Hiên Viên, nay thuộc tỉnh Hà Nam.

Vào thời bấy giờ, Xy Vưu bạo ngược, dân tình khốn đốn, Hoàng Đế đánh thắng và bắt giết Xy Vưu. Dân chúng cảm đức bèn tôn Hoàng Đế làm vua, thay cho họ Thần Nông.

Vào thời vua Hoàng Đế, các vật dụng, quần áo, sách vỡ hay âm nhạc đều do Hoàng Đế chế tác ra, nhất là tìm được các vị thuốc chữa bịnh cho nhân dân. Hoàng Đế ở ngôi được một trăm năm.



Rằng xưa Hoàng Đế An Kỳ,

Nào phương thoát hoá, tu trì sao đây.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



HOÀNG GIÁP 

Hoàng giáp là người đỗ bực thứ tư sau Thám hoa, tức là đỗ tiến sĩ đệ nhị giáp trong khoa thi đình.



Truyền lô Lương dự Thám hoa,

Diêu sinh Hoàng giáp cũng là Á khôi.

(Hoa Tiên Truyện).



HOÀNG HÀ NHƯ DẢI THÁI SƠN CHẲNG MÒN

Tức là sông Hoàng Hà dù cạn như một dải lụa, núi Thái Sơn dù mòn như hòn đá mài.

Câu trên do nghĩa từ lời thề phong tước của vua Cao Tổ nhà Hán: Sông Hoàng Hà nhỏ lại bằng dây đai, núi Thái Sơn bé như đá mài, nước nhà vẫn vĩnh viễn yên ổn cho đến đời con cháu sau này.

Xem: Thái Sơn như lệ.



Muôn năm công khoẻ thạch bàn,

Hoàng Hà như dải Thái Sơn chẳng mòn.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



HOÀNG HẠC LẦU

Tức “Hoàng hạc lâu  ” (Lầu hạc vàng).

Tên một cái lầu ở tỉnh Hồ Bắc. Theo sách Hoàn Vũ Ký, Phí Văn Vi sau khi thành tiên thường cưỡi hạc vàng vào lầu đó nghỉ ngơi, vì vậy mới có tên là Hoàng Hạc lâu.

Hoàng Hạc Lâu cũng là tên một bài thơ Đường đặc sắc của Thôi Hạo để tại lầu Hàng Hạc.

Khi Lý Bạch tới lầu Hoàng Hạc, đọc được bài thơ của Thôi Hạo, liền ném bút mà than rằng: Trước mặt có cảnh mà nói không được vì có thơ Thôi Hạo ở trên đầu. Sau đến lầu Phụng Hoàng Lý Bạch mới làm bài “Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài” để kình với Thôi Hạo.

Vì câu nói của Lý Bạch, người đương thời có câu: Thôi Hạo đề thi tại thượng đầu , nghĩa là Thôi Hạo đề thi được đứng đầu.



Hạc vàng ai cỡi đi đâu,

Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ.

(Thơ Tản Đà).



HOÀNG HOA 

1.- Trong Văn học có nhiều tên như: Hoàng Hoa Đôi, Hoàng Hoa Lãnh, hay Hoàng Hoa Phụ.

Đời Chiến Quốc và đời Đường, quân lính đã nhiều lần đánh nhau với rợ Nhu Nhiên và rợ Đột Khuyết ở Hoàng Hoa.

Những người đi lính được đưa đến đất Hoàng Hoa thì gọi là “Hoàng Hoa thú”.

Cũng có người cho rằng hoàng hoa là hoa cúc vàng,, nở vào mùa thu tháng 9, mà lính thú thời xưa ra đi phòng thủ các đồn ải xa cũng vào mùa thu, nên cũng gọi là hoàng hoa thú.

Xót người lần lữa ải xa,

Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).

2.- Hoàng hoa còn là tên một bài thơ trong Kinh Thi: Hoàng hoàng giả cách, vu bỉ nguyên thấp, sằn sằn chinh phu, mỗi hoài my cập  , . , , nghĩa là những bông hoa rực rỡ khắp nơi, kìa trên đồng cao, đồng thấp, kẻ chinh phu nhiều người đông đúc, lo lắng không làm hết bổn phận. Nói việc vua tiễn biệt và dặn dò sứ giả.

Mấy vần thơ cũ ngợi hoàng hoa,

Trịnh trọng rày nhân dắng khúc ca.

(Thơ Trần Trùng Quang).



HOÀNG HÔN 

Hoàng: Vàng, tức là cảnh vật nhuộm màu vàng. Hôn: Buổi tối.

Hoàng hôn là trời gần tối, chạng vạng, có màu vàng nhạt. Sách Hoài Nam Tử nói: Mặt trời lặn đến Ngu uyên là hoàng hôn, đến Mông cốc là định hôn (Tối).



Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy,

Lửa hoàng hôn như cháy tấm son.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,

Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa!

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Hoàng hôn gác bóng chênh chênh,

Truyền tìm quán khách bộ hành nghỉ ngơi.

(Nhị Độ Mai).



HOÀNG HƯƠNG 

Người đời Đông Hán, mới 9 tuổi đã mồ côi mẹ, khi mẹ qua đời, ông thương khóc rất thảm thiết, người trong làng đều khen là người con hiếu. Ông hết lòng hầu hạ cha, mùa hè quạt màn để đuổi hết hơi nóng, mùa lạnh nằm trước để ấm áp chiếu chăn. Quan Thái Thú thấy Hoàng Hương là người con hiếu thảo, liền dâng sớ xin vua ban thưởng.



Đời Đông Hán, Hoàng Hương chín tuổi,

Khuất bóng từ dòi dõi nhớ thương.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



HOÀNG LƯƠNG 

Hay “Huỳnh lương  ”.

Giấc chiêm bao thấy cả cuộc đời danh lợi, vợ con, tiền tài, sự nghiệp đã dứt mà nồi kê vàng vẫn chưa chín.

Do điển tích như sau: Lữ sinh đời nhà Đường đến quán trọ, nằm đợi chủ nhà nấu kê vàng (Hoàng lương) nên ngũ quên, nằm mộng thấy mình lấy vợ, đẻ con, sinh cháu, giàu sang tột bực. Phút chốc tỉnh dậy, thấy mất tất cả mà trong lúc ấy người chủ nấu nồi kê vàng vẫn chưa chín. Do vậy, điển tích này dùng để chỉ đời người ngắn ngủi như giấc chiêm bao.

Xem:

1.- Hoàng lương:



Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,

Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?

(Truyện Kiều).



Trong vòng danh lợi...thôi thôi!

Hoàng lương nửa gối, mấy hồi chiêm bao.

(Dương Từ Hà Mậu).

2.- Huỳnh lương:

Huỳnh lương một giấc cuộc đời in

Có trí có mưu phải xét mình

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,

Kiếp phù sinh đặng thất nơi thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HOÀNG OANH 

Hoàng: Màu vàng. Oanh: Chim oanh.

Hoàng oanh là chim oanh màu vàng, tiếng hót véo von, nghe rất vui tai.



Niềm riêng khôn chút tả đề,

Hoàng oanh hót nhớ, tử qui kêu sầu.

(Truyện Phan Trần).



HOÀNG SÀO 

Tên một tướng cướp đời nhà Đường.

Tương truyền khi sanh Hoàng Sào ra có tướng mạo kỳ dị, nên cha mẹ ông mới đem bỏ ở tổ chim. Ba ngày sau ra thăm, thấy chim tha mồi đút cho ăn và ấp cho ấm, nên cha mẹ lại đem về nuôi. Lớn lên đi thi bị hỏng, Hoàng Sào mới bỏ vào rừng tụ tập thành đảng cướp.

Hoàng Sào có hai câu thơ: Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa duy  , , có nghĩa là nữa vai mang cung kiếm có trời cho, một chèo đi khắp non sông trên đất nước.



Làm chi để tiếng về sau,

Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào.

(Truyện Kiều).



Từ năm chạy giặc Hoàng Sào,

Mới đem làng xóm dời vào cõi đây.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Thành quách này lại giáp binh này,

dẫu cường lỗ Hoàng Sào coi chẳng sá!

(Tứ Thành Thất Thủ Phú).



HOÀNG TUYỀN 

Hay là “Huỳnh tuyền” chỉ cõi Âm phủ.

Ngày xưa người Trung Hoa cho rằng dưới Âm phủ có chín ngọn suối vàng, cũng vì thế mà người ta còn gọi Âm phủ là Cửu tuyền hay Chín suối.

Tả truyện có chép: Vua Trịnh Trang Công có mối ác cảm với bà mẹ và thề rằng: Bất cập Hoàng tuyền vô tương kiến dã  , tức là không đến suối vàng thì không bao giờ gặp nhau. Sau Dĩnh Khảo Thúc chỉ Trịnh Trang Công đào một cái hầm sâu dưới đất, rồi hai mẹ con cùng hội kiến nhau dưới hầm, để phá lời thề trước của Trịnh Trang Công.

1.- Hoàng tuyền:

Bia đề hai chữ "Hoàng tuyền",

Người qua, kẻ lại, liền liền ngày đêm,

(Dương Từ Hà Mậu).



Mồ côi cha thác Hoàng tuyền,

Bán củi nuôi mẹ, giữ chuyên một nghề.

(Tội Vợ - Vợ Chịu).



Ví mà ỷ thế cậy quyền,

Thì đành bình thuỷ, Hoàng tuyền thấy ai?

(Nữ Tú Tài).

2.- Huỳnh tuyền:

Công rằng: Chớ hỏi thêm phiền,

Trước đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngà lâm bệnh Huỳnh tuyền xa chơi.

(Lục Vân Tiên).



Ngỏ cho nhân nghĩa vẹn tuyền,

Phòng sau xuống chốn Huỳnh tuyền gặp nhau.

(Lục Vân Tiên).



Mộng điệp còn ngày công quả rỗi,

Hồn linh dường tưởng tượng Huỳnh tuyền.

(Đạo Sử).



HOÀNG TƯỚC 

Hoàng tước là con chim sẻ vàng. Lấy điển “Hoàng tước hàm thư  ” tức chim sẻ vàng ngậm thư.

Theo Tục Tề Hái Ký: Dương Bảo đời Hậu Hán, khi còn trẻ đến mé bắc núi Hoa Âm chơi, thấy con chim sẻ vàng bị chim cắt rược cắn nằm dưới gốc cây, bị kiến bu. Bảo bắt về nuôi, đến chừng chim khoẻ mới thả bay. Sau chiêm bao thấy có người mặc áo vàng tự xưng là sứ giả bà Tây Vương Mẫu đến tạ ơn.

Xa nghe triều đẩu anh hùng,

Đưa tin hoàng tước hỏi cùng phải chăng.

(Truyện Trê Cóc).



HOÀNG THẠCH 

Tên một người tu tiên, gặp Trương Lương ở cầu Hạ Bì. Lần đầu tiên ông thấy Lương là người có tướng mạo phi thường, ông bèn giả rớt giầy xuống cầu Hạ Bì, nhờ Lương lượm lên và mang cho ông, Lương nhẫn nhịn làm theo. Ông không một lời cảm ơn, bỏ ra đi mà còn quay lại hẹn năm ngày sau gặp lại tại nơi nầy. Đúng năm ngày sau, Lương đến chỗ hẹn, ông lão đã ở đấy rồi, ông giận bỏ về, hẹn năm ngày sau nữa gặp lại cho thật sớm. Sau năm ngày nữa, Lương đến từ lúc gà gáy sáng, ông lão lại ở đấy rồi và hẹn lại thêm năm ngày nữa. Đến ngày thứ năm lần nầy, chưa nửa đêm Lương đã ra đi, tới nơi hẹn một lát thì ông lão cũng mới đến. Thấy Trương Lương là người xứng đáng, lần nầy ông mới tặng cho một bộ sách và nói: Ngươi về đọc sách nầy thì làm thầy các bậc đế vương. Mười ba năm sau sẽ gặp lại tại “Tảng đá vàng” ở chân núi Cốc Thành, phía bắc Tế Thuỷ chính là ta đó.

Trương Lương đọc quyển sách ấy, sau nhờ nó mà giúp Hán Bái Công định thiên hạ.

Mười ba năm sau, khi theo Hán Cao Đế đi qua Tế Bắc, Trương Lương có thấy tảng đá màu vàng (Hoàng thạch) ở chân núi Cốc Thành thật, Lương kính tảng đá và cho lập đền thờ nơi ấy. Sau Trương Lương mất cũng chôn ngay ở phía dưới tảng đá ấy.



Thú xuất trần tiên vẫn là ta,

Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



HOÀNG THÀNH 

Hoàng: Vua. Thành: Bức tường thành.

Hoàng thành là những bức tường thành bao chung quanh điện nhà vua.



Một vùng riêng đặt phỵ trời,

Hoàng thành trăm trắm, kỷ đài cao cao.

(Nhị Độ Mai).



HOÀNG THÂN 

Hoàng: Ông vua. Thân: Thân thích.

Hoàng thân là những ông hoàng thân thích với nhà vua, tức là anh, chị, em, hoặc cô, chú bác của nhà vua.



Võng đầy cửa ngựa chen đàng,

Khắp triều quan đến, khắp hoàng thân ra.

(Nhị Độ Mai).



HOÀNG THIÊN CHẲNG PHỤ LÒNG HIẾU

Ý nói Trời chẳng bao giờ phụ lòng người con hiếu.

Bởi câu trong sách Nho: Hoàng thiên bất phụ hiếu tâm nhơn  , nghĩa là Trời không phụ lòng người có hiếu.

Ông bồng cháu, cháu bồng ông,

Hoàng thiên chẳng phụ tấm lòng hiếu đâu.

(Thanh Hoá Quan Phong).



HOÀNG TRIỀU 

Hoàng: Vua. Triều: Triều đình.

Hoàng triều tức là triều đại của vua đang cai trị.



Cứu đời mừng có Thánh nhân,

Hoàng triều khải vận dẹp quân hung tàn.

(Hạnh Thục Ca).



HOÀNG TRỪ 

Hoàng: Ông vua. Trừ (Sừ): Để dành, làm phó.

Thái tử gọi là “Trừ quân”, là ông vua phó, tức là khi vua thăng hà sẽ đưa lên nối ngôi.

Hoàng trừ là vị Hoàng tử để dành đó khi nào vua mất sẽ lên nối ngôi, còn gọi là Hoàng thái tử.

Minh linh sớm phải chọn hiền,

Hoàng trừ ba vị nuôi khuyên bù trì.

(Hạnh Thục Ca).



Ngôi Hoàng đế đặt không,

há nước thấp lao lung thấy đặng;

Tội Hoàng trừ chẳng có,

lòng trinh thêu dệt vào hình.

(Hịch Tây Sơn).



HOÀNG VIỆT 

Búa vàng.

Theo Kinh Thư, các vị vua chúa ngày xưa ngự ngai vàng, bên tả vua ngồi có Hoàng việt (Cây búa vàng), bên hữu vua có cờ mao tiết. Hai vật nầy ở hai bên tả hữu tượng trưng cho uy quyền của nhà vua. Khi có người phạm luật Hoàng việt cũng có thể dùng để chặt đầu.

Xem: Búa việt.



HOÀNH MÔN 

Dùng một cây gỗ, cây tre gác ngang cửa ra vào để thay thế cho cánh cửa, gọi là “Hoành môn”.

Hoành môn dùng để chỉ nơi ở của người nghèo hèn hay cảnh sống giản dị của người ở ẩn.

Kinh Thi có câu: Hoành môn chi hạ khả dĩ thê trì  , tức là chỗ ở giản dị như hoành môn có thể ở yên được.



Cùng nhau một giấc hoành môn,

Lau nhau ríu rít cò con cũng tình.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



HOẮC LÊ 

Hoắc: Rau hoắc. : Rau lê.

Hoắc lê là hai thứ rau như rau dền rau nhiếp, ăn rất ngon, có thể dùng nhiều đỡ đói. Hoắc lê là món ăn của người nhà nghèo.



Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm,

Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



HOẮC QUANG 

Hoắc Quang tự là Tử Mạnh, người đời Hán, anh cùng cha khác mẹ với Hoắc Khứ Bệnh, có công giúp Hán Chiêu Đế , đón Thái tử Xương Ấp về lên nối ngôi, sau lại bỏ Ấp, lập Tuyên Đế. Giúp nước lâu năm với một lòng trung nghĩa, lập được nhiều công trạng, sau Tuyên Đế nhớ đến công lao bèn vẽ tượng Hoắc Quang ở Kỳ lân các.



Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,

Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HOẶC THẾ 

Hoặc: Mê hoặc, lừa dối. Thế: Đời.

Hoặc thế tức là đem những điều mê tín ra để mê hoặc, lừa dối người đời.



Nghĩ điều hoặc thế mà câm,

Tội kia đã đáng thây dầm Đao san.

(Dương Từ Hà Mậu).



HỌC LỄ HỌC VĂN

Do câu “Tiên học lễ hậu học văn  , ” tức là trước học về lễ nghĩa, phép tắc đạo đức, sau là học về văn chương thi phú.



Cầu khẩn Đấng Chơn Linh nhập thể,

Đủ thông minh học lễ học văn.

(Kinh Thế Đạo).



Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,

Rán theo cha học lễ học văn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HỌC SĨ 

Chỉ những người học thức lỗi lạc.

Học sĩ còn là một chức quan, vào các đời Nguỵ, Tấn, Lục Triều, Học sĩ đứng ra biên soạn về điển lễ.

Các vương hầu, tướng soái đều có học sĩ, xem họ như là người cố vấn hay người bạn. Từ đời Đường về sau, Học sĩ dùng để chỉ những ông quan văn học.



Trạng nguyên với lại Trần, Phùng,

Ban quyền Học sĩ dự phần yếu thanh.

(Nhị Độ Mai).



HỌC TÀI 

Học: Học tập. Tài: Tài năng.

Học tài tức là nói những người có tài năng trong việc học tập.



Mày tuông, sĩ tử đôi nơi,

Mới hay thi mạng học tài khéo xinh.

(Truyện Phan Trần).



HOÈ AN 

Tên một nước trong giấc chiêm bao của Thuần Vu Phần. Bài “Nam Kha Ký” của Lý Công Tá đời Đường có kể chuyện Thuần Vu Phần nằm mộng thấy đến nước Hoè An, vua nước ấy chọn Vu Phần làm Phò mã, cho đi trấn nhậm Thái thú Nam Kha quận, hết sức vinh hoa phú quý. Sau bị quân địch đánh bại, công chúa chết, vua đuổi về. Thuần Vu Phần tỉnh mộng, thấy mình nằm dưới cội cây hoè, tức nước Hoè An, trên có cành cây bổ về hướng nam, cạnh có một tổ kiến, tức Nam Kha quận (Kha là cành cây), tổ kiến tức quân địch.

Vì thế, giấc Hoè An hay giấc hoè còn gọi giấc Nam kha.

Phú quý bao nhiêu người thế gian,

Mơ mơ bằng thủa giấc Hoè An.

(Quốc Âm Thi Tập).



HOÈ QUẾ 

Hoè: Cây hoè. Bởi điển đời nhà Tống, Vương Hựu trồng ba cây hoè ở sân, sau có con là Vương Đán làm đến chức Tam công, nên người ta mượn chữ “Hoè” để ví với người con quý.

Quế: Cây quế. Do tích ĐậuYên Sơn đời Tống, nuôi day năm người con trai đều vinh hiển, người ta ví với năm cành quế thơm tho, nên cũng mượn chữ “Quế” để ví với những người con giỏi.

“Hoè quế” chỉ những gia đình có con hiển đạt.



Lấy về hầu hạ nhà ta,

Thêm hoè, nẩy quế có là con ai?

(Gia Huấn Ca).



Nhờ hồng phúc đôi cành hoè quế,

Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi.

(Ai Tư Vãn).



HỎI DƯỚI HỔ NGƯƠI

Bởi câu “Bất sỉ hạ vấn  ” nghĩa là không thẹn khi hỏi người dưới.

Trong Luận Ngữ có câu: Tử viết: Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn, thị dĩ vị chi văn dã  : , , , nghĩa là Khổng Tử nói: Người minh mẫn lại ham học, không thẹn hỏi kẻ kém hơn mình, vì thế nên được đặt tên là văn.

Miễn cho thấy đạo rõ ràng,

Chớ e hỏi dưới ngỡ ngàng hổ ngươi.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HỌP MẶT TRÒN GƯƠNG

Vợ chồng xa cách nhau đã lâu, chẳng khác gì tấm gương bị vỡ, nay lại được đoàn tụ để họp mặt chẳng khác gì tấm gương tròn đầy.

Xem: Gương vỡ lại lành.

Buổi này họp mặt tròn gương,

Mới hay còn có lửa hương kiếp này.

(Hoa Tiên Truyện).

 

HỒ CẦM 

Cây đàn Tỳ bà được gọi là Hồ cầm là do bởi đời Hán Nguyên Đế có bà Chiêu Quân thường hay đánh đàn Tỳ bà. Sau bà Chiêu Quân phải đi cống rợ Hồ, cho nên mới gọi cây đàn Tỳ bà là Hồ cầm.



Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

(Truyện Kiều).



HỒ DƯƠNG 

Tức là Hồ Dương Công chúa, chị của vua Quang Võ nhà Hán, sớm goá chồng. Công chúa muốn Tống Hoằng bỏ vợ để kết duyên với mình, nhưng Tống Hoằng là người khí khái, có tình nghĩa, không chịu bỏ vợ, nói với vua Quang Võ rằng: Tào khang chi thê bất khả hạ đường  , nghĩa là vợ chồng hồi tấm mẳn, chẳng khá bỏ nhau.

Xem: Tống Công.

Hồ Dương xưa mới góa chồng,

Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa.

(Lục Vân Tiên).



Ả Hồ Dương nọ chẳng vừa,

Cớ gì mà lại toan thờ Tống Công.

(Truyện Trinh Thử).



HỒ ĐIỆP 

Hồ điệp là con bươm bướm.

Bởi chữ Hồ điệp mộng, hay Trang Châu mộng.

Do Trang Châu nằm mơ thấy mình hoá ra bướm, tỉnh giấc lại thấy mình rõ ràng là Trang Châu, mới tự nghĩ: Không biết bướm đã hoá Trang Châu, hay Trang Châu hoá bướm. Do vậy, người ta còn gọi Trang Châu mộng.

Nghĩa bóng: Chỉ giấc mộng.

Trong bài Cầm Sắc của Lý Thương Ẩn đời nhà Đường có câu: Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp, Thục Đế xuân tâm hoá đỗ quyên. Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ, Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên  ., . , .



Nào đình, nào khách, nào thơ?

Bấy giờ Hồ điệp, bây giờ Trang sinh!

(Mai Đình Mộng Ký).



Khúc đâu êm ái xuân tình,

Ấy là Hồ điệp hay là Trang Sinh.

(Truyện Kiều).



Hồ điệp mơ màng nhà mấy dặm,

Tử quy khắc khoải nguyệt ba canh.

(Hồng Đức Quốc Âm).



HỒ ĐỒ 

Hồ đồ tức là việc không biết được rõ ràng, không biết phép tắc phải quấy.

Sử Ký có câu: Lư Đoan tiểu sự hồ đồ nhi đại sự bất hồ đồ  , , nghĩa là Lư Đoan chỉ hồ đồ việc nhỏ, nhưng không hồ đồ việc lớn.

Tin vào gởi trước trung quân,

Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.

(Truyện Kiều).



Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ!

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.

(Lục Vân Tiên).



Thế gian ít biết xét so,

Hôn mê tâm tánh hồ đồ phóng ngôn.

(Hứa Sử Tân Truyện).



HỒ GIẢ HỔ UY 

Hồ giả: Cáo mượn. Hổ uy: Oai hùm.

Hồ giả hổ uy là cáo mượn oai hùm, chỉ sự cậy thế ở uy quyền.

Sở Tuyển Vương hỏi quần thần rằng: Dân ở phương bắc sợ Chiêu Hề Tuất là vì lẽ gì? Giang Ất tâu: Bởi vì Hề Tuất theo hổ cùng đi, nay dân phương bắc đâu phải sợ Hề Tuất, mà chính sợ binh giáp của bệ hạ.

Gớm cho hồ giả hổ uy,

Thấy mình mặt xấu nga mi ghen đời.

(Phương Hoa).



HỒ HÁN 

Hồ: Hung Nô. Hán: Đời nhà Hán, chỉ nước Tàu.

Hồ Hán ý muốn nói rợ Hồ, đất Hán là hai miền đất nước cách xa nhau, khó mà gặp gỡ, trùng phùng nhau.



Ngân Hà cách trở còn phen hợp,

Hồ Hán đôi phương biết mấy đời.

(Truyện Vương Tường).



HỒ HOÀN KIẾM

Hay “Hoàn kiếm hồ  ”.

Hồ Hoàn Kiếm, tức là Hồ Gươm, một cái hồ ở giữa thành Hà Nội.

Tương truyền, xưa vua Lê Lợi khi mới khởi nghiệp, gặp được một cây gươm thần, nhờ đó mà dựng nên nghiệp cả. Khi lên làm vua, ra chơi nơi hồ ấy, làm rớt gươm xuống nước, tìm mãi không được, nghĩ rằng gươm ấy đã hoàn trả lại cho Thần, nên gọi hồ đó là Hồ Hoàn Kiếm.



Ðắp lũy Cổ Loa chưa mấy mặt,

Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên.

(Đạo Sử).



HỔ LỖ MAN DI 

Hồ lỗ: Bọn Hung nô và kẻ thù địch. Man di: Tiếng dùng để chỉ bọn rợ. Đối với nước Trung Hoa, ngày xưa bốn phương đều là rợ: Đông thì đông di, tây thì tây nhung, nam thì nam man, bắc thì bắc địch.

Hồ lỗ man di là tiếng dùng để nhiếc mắng, cho là kẻ chưa khai hoá còn là người man di mọi rợ.



Bây thiệt loài hồ lỗ man di,

Xui cho mỗ bội quân phản chúa.

(Nhạc Hoa Linh).



HỒ MỴ 

Hồ: Con chồn. Mỵ: Làm mê hoặc.

Theo người xưa cho rằng loài chồn cáo thường hoá thành yêu tinh, làm mê hoặc người. Do đó chữ “Hồ mỵ” nói đến những kể chuyên lừa gạt, nịnh hót, mê hoặc người khác.



Như nay hồ mỵ hớp hồn,

Quắc giao bắn bóng đều phồn yêu tinh.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Đều thêu dệt lắm lời hồ mỵ,

Rằng nên hư khi thị ở nơi người.

(Phương Tu Đại Đạo).



Chồng dầu nghĩ thương yêu tuân vị,

Đừng dùng lời hồ mỵ xúi hư.

(Phương Tu Đại Đạo).



HỒ NGHI 

Hồ: Chồn cáo. Nghi: Ngờ.

Hồ nghi là nghi ngờ như con chồn, vì loài chồn có tính đa nghi.



Hay là con hãy hồ nghi,

Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?

(Lục Vân Tiên).



Xin chàng nghĩ lại chớ phiền,

Đừng hồ nghi nữa thiếp xin trở về.

(Truyện Trinh Thử).



Quả tình nào có hồ nghi,

Ra điều bán dạ lâm trì khó coi.

(Truyện Trê Cóc).



HỒ QUÝ LY 

Tiên tổ vốn là người làng Bào Đột, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, sau đó có một nhánh dời ra ở Đại Lai, Thanh Hoá, làm con nuôi cho nhà họ Lê, trải bốn đời mới sinh ra Quý Ly.

Được vua Trần Nghệ Tôn tin dùng, Lê Quý Ly xuất thân làm Chỉ hậu Chánh trưởng, chẳng bao lâu được phong tới chức Khu mật Đại sứ, tước Trung Tuyên Hầu và được kết duyên với em gái vua là Huy Ninh Công chúa. Lần hồi sang đời Trần Phế Đế thăng đến Thống Chế Đô Hải Tây. Khi Thượng hoàng Nghệ Tôn mất rồi, Quý Ly lên làm Phụ chính Thái sư, và đến năm Canh Thìn 1400, thì phế Trần Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, đổi họ Hồ, đặt quốc hiệu là Đại Ngu.

Sau Trung Hoa muốn lấy nước ta, mượn tiếng hỏi tội họ Hồ, đem quân qua bắt cha con Hồ Quý Ly, rồi chiếm nước ta trong vòng hai mươi năm.



Nàng nghe chàng nói nhỏ to,

Bây giờ mới kể sự Hồ Quý Ly.

(Truyện Trinh Thử).



HỒ TINH 

Hồ: Con chồn. Tinh: Yêu tinh, người hay vật sống lâu năm thành tinh.

Hồ tinh là chồn sống lâu năm thì thành tinh.



Ở đâu về đấy nhưng nhưng,

Ấy rằng quỉ sứ, hay rằng hồ tinh!

(Nhị Độ Mai).



HỒ THỈ 

Hồ: Cây cung. Thỉ: Cây tên.

Do câu “Tang bồng hồ thỉ  ”, nghĩa là cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng.

Ngày xưa tục của người Trung Hoa, khi sanh ra con trai thì thường lấy cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng bắn bốn phương và trên dưới để cầu cho đứa bé sau nầy lớn lên vẫy vùng, ngang dọc bốn bể hầu lập công danh, sự nghiệp hiển hách.

Dạy rằng: Hồ thỉ chí trai,

Tìm thầy hỏi bạn chi hoài bỗng dưng.

(Hoa Tiên Truyện).



Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,

Cái công danh là cái nợ nần.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Nặng vai nửa gánh giang sơn,

Chắp cánh bốn phương hồ thỉ.

(Văn Tế Tướng Sĩ).



Hồ thỉ vẫy vùng đáng phận trai,

Trời chiều nay đã rạng cân đai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



HỒ THIÊN 

Hồ thiên là bầu thế giới.

Liệt Tiên truyện chép: Hồ Công là một vị Tiên giả làm ông già bán thuốc ngoài chợ, có quải theo một trái bầu, đêm tối ông chung vào trái bầu mà ngủ.

Phí Trường Phòng đời Hậu Hán là vị quan coi ở chợ, rình thấy cho là kỳ lạ. Một ngày kia, Phòng xin cho vào bầu xem thử. Hồ Công đồng ý. Khi vào thì thấy ở trong là một thế giới rộng lớn, nguy nga lộng lẫy, thật là một cảnh Thần Tiên đẹp đẽ.



Kìa ai mến cảnh Hồ thiên,

Chỉ nguyền viên hạc kết nguyền gió trăng.

(Tư Dung Vãn).



HỒ TRẦN 

Hồ trần là bụi Hồ, tức là bụi cát do giặc Hồ khuấy động bay mù mịt, chỉ sự chiến tranh bởi rợ Hồ.



Văn thần ra sức đãng bình.

Dẹp yên khói giặc, quét thanh bụi Hồ.

(Nhị Độ Mai).



HỒ VIỆT ĐÔI PHƯƠNG

Nước Hồ và nước Việt, là hai nước cách xa nhau, nước Hồ ở miền bắc, nước Việt ở miền nam Trung Hoa.

Hồ Việt đôi phương tức là chỉ sự xa cách nhau như kẻ ở nước Hồ người nước Việt.

Mấy thu Hồ Việt đôi phương,

Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau.

(Lục Vân Tiên).



HỒ VIỆT NHẤT GIA 

Hồ Việt: Người Hồ và người Việt. Nhất gia: Ở chung một nhà.

Hồ Việt nhất gia tức là người Hồ và người Việt ở cùng một nhà. Ý thành ngữ này muốn nói người lạ thành quen, người xa thành gần.



Chữ rằng Hồ Việt nhất gia,

Con đi tới đó trao qua thư này.

(Lục Vân Tiên).



HỔ BẢNG 

Hổ: Cọp. Bảng: Nơi ghi tên những người đỗ đạt.

Hổ bảng là bảng niêm yết những người thi đỗ Tiến sĩ. Đến đời nhà Thanh, “Hổ bảng” mới dùng để niêm yết tên những người thi đỗ võ khoa.



Chẳng may hổ bảng vô danh,

Huyện quan cũng khỏi nho sanh chê cười.

(Dương Từ Hà Mậu).



HỔ HUYỆT 

Hang cọp hay hang beo, chỉ nơi vùng nguy hiểm.

Do câu nói của Ban Siêu, khi đi sứ miền Tây Vức, vào những nơi hiển trở, thường nói với các thuộc hạ rằng: Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử  , nghĩa là không vào hang cọp sao bắt được cọp con?

Hổ huyệt nan khai nan khai,

Long đàm dĩ ngộ dĩ ngộ!

Quả Phiên tặc dụng mưu thoái bộ,

Tiền phục binh phấn lực dương qua.

(Nhạc Hoa Linh).



HỔ LANG 

Hổ: Con cọp. Lang: Chó sói.

Hổ lang là con cọp và chó sói, hai vật hung dữ, ví với những kẻ hung tàn bạo ác.



Hai tay chận dọc đè ngang,

Ra tay chống với hổ lang một mình.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Có phen sấm sét bão bùng,

Lúa có hoàng trùng, nội có hổ lang.

(Hoài Nam Ca Khúc).



HỔ MANG

Một loại rắn dữ, độc.

Do truyện “Bộ xà giả thuyết  ” của Liễu Tông Nguyên viết: Ở đất Vĩnh Châu, có nhiều loại rắn độc dữ, nhưng lại có dược tính, trừ được nhiều loại bịnh, nên triều đình ra lịnh, ai bắt nộp hai con rắn thì miễn thuế thân một năm cho.

Trong làng có người họ Tưởng ba đời bắt rắn, ông và cha của anh đã bị rắn độc cắn chết, bản thân anh mấy lần cũng suýt mạng vong. Liễu Tông Nguyên nghe được tìm đến đề nghị anh đổi nghề khác, người bắt rắn nói: Ông thương tình dạy thế thôi, chứ thuế má còn nguy hiểm gấp mười lần rắn độc, nếu không bắt rắn thì tiền đâu đóng thuế, phải bị bắt giữ thôi lôi, không làm ăn được thì làm sao có cơm gạo mà ăn, phải chết lần mòn, còn làm nghề rắn như tôi, tuy nguy hiểm nhưng chỉ cần hai hồi sanh tử để được rắn thì suốt năm tôi sẽ nhàn nhã. Có thơ rằng: Than ôi! Thuế má nặng nề, So vào rắn độc, có bề độc hơn (Thơ Lãng Nhân)



Chánh ra dữ quá cọp vàng,

Lòng dùng độc quá hổ mang, thuồng luồng.

(Dương Từ Hà Mậu).



HỔ PHẬN MÁ ĐÀO

Hổ phận: Hổ thẹn về thân phận. Má đào: Chỉ người con gái đẹp.

Hổ phận má đào ý nói hổ thẹn về thân phận của người con gái.



Đừng làm cho hổ phận má đào,

Xưng quân tử làm sao đáng mặt.

(Phương Tu Đại Đạo).



HỔ PHỤ LÂN NHI 

Hổ phụ: Cha cọp. Lân nhi: Con lân.

Hổ phụ lân nhi tức là cha như hổ, con như kỳ lân, ý muốn nói nòi nào giống ấy, cũng như câu “Cha nào con nấy”. Đồng nghĩa với “Hổ phụ sinh hổ tử”.



Mới hay hổ phụ, lân nhi,

Khéo thay tính trẻ cũng y tính già.

(Nhị Độ Mai).



HỔ TRƯỚNG 

Hổ: Cọp. Trướng: Màn trướng.

Hổ là biểu hiện cho con nhà võ, nên nơi vị tướng soái đóng quân có treo trướng hùm, gọi là “Hổ trướng”.



Nghiệp nhà văn võ theo đòi,

Phạm vây hổ trướng Trương dồi Lân kinh.

(Sơ Kính Tân Trang).



Rêu đá lờ mờ kinh Hổ trướng,

Gió lau veo vắt phú Long cương.

(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).



HỘ PHÁP 

1.- Theo Phật giáo, những vị thần bảo hộ, che chở, bảo vệ Phật pháp, hộ trì Tam bảo để giữ gìn Phật pháp cho được tồn tại. Trong các chùa, chúng ta thường thấy có các tượng thần Hộ pháp.



Tôi dầu thật có tà tây,

Nguyện ông Hộ Pháp phân thây chẳng toàn.

(Hứa Sử Tân Truyện).

2.- Theo Đạo Cao Đài, Hộ Pháp là một phẩm chức sắc Hiệp Thiên Đài cao nhứt, nắm quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, đối phẩm với hàng Phật vị.

Nơi Tòa Thánh Tây Ninh, Hộ Pháp được thờ đối diện với ngôi Chánh Điện Đức Chí Tôn, hai bên là Thượng Phẩm và Thượng Sanh, sau lưng vẽ chữ Khí để thờ. Hộ Pháp ngự trên thất đầu xà (Rắn bảy đầu), mình mặc Kim Khôi Kim Giáp, tay cầm cây Giáng ma xử.



Giáng linh Hộ Pháp Di Đà,

Chuyển cây Ma xử đuổi tà trục tinh.

(Kinh Đại Tường).



HỘ TỐNG 

Hộ: Giúp đỡ, gìn giữ. Tống: Đưa tiễn.

Hộ tống tức là hộ vệ để tiễn đưa đi.



Sắc phong chánh sứ, khâm ban,

Kíp theo hộ tống xe loan vào chầu.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



HỘ VỆ 

Hộ: Giúp đỡ. Vệ: Gìn giữ.

Hộ vệ tức là theo hầu để gìn giữ.



Trạng mguyên xe giá chỉnh tề,

Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.

(Lục Vân Tiên).



HỘC HỒNG 

Hộc: Một loại chim bay rất cao và rất xa. Hồng: Ngỗng trời.

Hộc hồng là hai loài chim có tính dũng mãnh, có cánh bay cao và xa, không sợ gió bão, nên được ví với người có chí khí lớn lao.

Xem: Hồng hộc.

Quanh đường chớ cậy chơn Kỳ Ký,

Ngược gió tài chi sức Hộc Hồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



HỐI HOÁ 

Hối: Đem của đút lót. Hoá: Đồ vật.

Hối hoá là dùng tiền bạc hay vật phẩm đút lót để mua chuộc việc gì, tức là đem vàng lụa hối lộ.



Gẫm xem việc nước suy vi,

Cũng vì hối hoá tiền kia thông đồng.

(Hạnh Thục Ca).



HỐI LỘ 

Hối: Đem của đút lót người. Lộ: Của cải.

Hối lộ là dùng tiền bạc, của cải đút lót với quan quyền để mua chuộc.



Kẻ gian hối lộ thời tha,

Người ngay không của bắt ra hành hình.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Hiển thần chức chịu Tam quang,

Hưởng người hối lộ, thế gian linh gì?

(Tội Vợ Vợ Chịu).



HỐI NGỘ TRÁCH CUNG 

Hối ngộ: Tỉnh ngộ, hối tiếc những điều đã làm. Trách cung: Tự mình hối lỗi.

Hối ngộ trách cung là ăn năn những lỗi lầm rồi tự trách mình để đừng làm những điều lầm lỗi thêm nữa.



Đất Luân Đài phải Hớn chẳng hối ngộ trách cung,

Ải hàm Cốc thì Tần cũng rắp ranh làm phản.

(Sãi Vãi).



HỒI BÁI 

Hồi: Quay trả lại. Bái: Lạy.

Hồi bái tức là lạy đáp lễ.



Rước Diêu lại đến thư phòng,

Lễ thường hồi bái mừng ông sang nhà.

(Hoa Tiên Truyện).



HỒI DÂN 

Hồi: Trở về. Dân: Người dân.

Hồi dân là trở về với dân, nghĩa là đang làm quan, bị cách chức, trả về làm dân.



Trần Đông Sơ với Lạc Thiên,

Vạ lây cũng phải cách quyền hồi dân.

(Nhị Độ Mai).



HỒI HƯƠNG 

Hồi: Trở về. Hương: Làng quê.

Hồi hương là trở về với làng quê xưa.



Hớn Minh đi trước tựu trường,

Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.

(Lục Vân Tiên).



HỒI LOAN 

Hồi: Trở về. Loan: Xe loan dành cho vua đi.

Hồi loan tức là vua đã đi tuần hành rồi trở về cung.



Chiêu an các việc xong rồi,

Pháp quan khiến khá hầu ngài hồi loan.

(Hạnh Thục Ca).



HỒI TẤU BIỂU CHƯƠNG 

Hồi tấu: Tâu báo về triều đình. Biểu chương: Tờ biểu của bề tôi dâng lên vua.

Hồi tấu biểu chương nghĩa là thảo tờ biểu để tâu báo về triều đình.



Hoa Linh nay hồi tấu biểu chương,

Hồi triều nội xin binh cứu viện.

(Nhạc Hoa Linh).



HỒI TIÊN 

Hồi: Trở về. Tiên: Roi ngựa.

Hồi tiên có nghĩa là quất ngựa quay trở về.



Xem hoa rõ nẻo hồi tiên,

Gió đưa hương dạ, sấm rền tiếng xa.

(Truyện Phan Trần).



HỒI TRÀO 

Hồi: Trở về. Trào (Triều): Triều đình.

Sau khi đi các địa phương công tác, rồi trở về chốn triều đình, gọi là hồi trào.



May đâu sum hiệp một nhà.

Giặc đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngà an giặc, khải ca hồi trào.

(Lục Vân Tiên).



HỒI VĂN 

Hồi văn là một thể văn biệt thể, khởi từ ông Tô Bá Ngọc đời nhà Tấn.

Sách Tấn Thư Truyện Liệt Nữ chép: Vợ của Đậu Thao họ Tô tên Huệ, tự là Nhược Lan. Đậu Thao tùng chinh vùng lưu sa (Sa mạc), Tô Huệ dệt gấm, dệt thành bài thơ hồi văn, xin cho chồng về, dệt năm màu chỉ tươi đẹp, dọc ngang qua lại, lời rất bi thương.

Chàng rằng: Muôn đội phúc nhà,

Hồi văn một bản âu là cùng mang.

(Phương Hoa).



HỒI XUÂN

Hồi: Về, trở về. Xuân: Mùa xuân.

Hồi xuân tức là đến mùa xuân vạn vật đều có vẻ sống trở lại, nên thường dùng để ví với người bị bịnh gần chết được cứu sống lại.

Hồi xuân còn dùng để chỉ những người lớn tuổi, như mùa đông tàn, nay trở lại mạnh khoẻ, trẻ trung.

Gẫm trong Tập nghiệm lương phang,

Cùng là Ngự Toản trải đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngàng Hồi Xuân.

(Lục Vân Tiên).



HỘI BIỆT BI HOAN 

Hội biệt: Gặp gở và ly biệt. Bi hoan: Buồn, vui.

Hội biệt bi hoan tức là chỉ cái hoàn cảnh xum hợp, chia ly, hoặc khi buồn lúc vui. Ý muốn nói cái lẽ tự nhiên của cuộc đời có xum hợp phải chia ly, có vui phải có buồn.



Đã đành hội biệt bi hoan,

Mắc khuân tạo hoá tuần hoàn nghĩ chi.

(Tự Tình Khúc).



HỘI GIÓ MÂY

Dịch từ chữ “Phong vân hội  ”.

Bởi câu trong Kinh Dịch: Vân tùng long, phong tùng hổ  , , nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp.

Dùng hai chữ “Gió mây”để chỉ sự gặp gỡ hay vận hội tốt đẹp như rồng gặp mây, cọp gặp gió.



Đã từng tắm gội ơn mưa móc,

Cũng phải xênh xang hội gió mây.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



HỘI LONG HOA

Hay “Long Hoa Hội  ”, một đại hội do Đức Di Lặc Vương Phật làm chủ khảo để tuyển lựa người hiền đức vào hàng Tiên, Phật vị.

Long hoa là một loại cây có hình giống như một con rồng, có nở hoa. Do Đức Phật Di Lặc đắc đạo tại cội cây Long hoa này, nên khi Ngài mở và làm chủ một Đại hội, được gọi là Đại hội Long Hoa. Đại hội, có nhiệm vụ tuyển chọn những bậc hiền lương, đạo đức, không phân biệt chủng tộc, nòi giống, hiệp nhau làm một trong cuối thời kỳ Hạ nguơn Tam chuyển để tạo dựng lại đời Thượng nguơn Tứ chuyển, tức Thượng nguơn Thánh đức.

Công nghiệp dồi dào, âm chất đủ,

Long Hoa đợi Hội hưởng Thiên ân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị,

Cõi Tây Phang đuổi quỉ trừ ma.

(Kinh Tận Độ).



HỘI LONG VÂN

Rồng thường ẩn hiện trong mây. Chẳng có mây, rồng không vùng vẫy được. Chữ trong Kinh Dịch là “Vân tùng long” có ý nói những vật cùng khí loại thường cảm ứng mà tìm nhau, dùng để chỉ cơ hội may mắn, tốt đẹp như rồng gặp mây.



Duyên ngư thuỷ hội Long vân còn đó,

Miếng đỉnh chung cho biết người đời.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



May duyên gặp hội Long vân,

Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa.

(Kinh Thế Đạo).



HỘI MÂY RỒNG

Bởi chữ “Long vân hội  ” là hội rồng mây.

Rồng gặp mây thì vùng vẫy bay cao, ví với người gặp cơ hội may mắn thì hiển dương, thành đạt, hay nói vua Thánh gặp được tôi hiền.

Xem: Hội long vân.



Tưởng là đèn sách nên công,

Sớm cho gặp hội mây rồng hiển vang.

(Dương Từ Hà Mậu).



HỘI NGỘ 

Hội: Nhóm họp. Ngộ: Gặp gỡ.

Hội ngộ là cùng gặp gỡ, hội ngộ với nhau.



Duyên hội ngộ, đức cù lao,

Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?

(Truyện Kiều).



Nước non hội ngộ còn luôn,

Bảo cho non chớ có buồn làm chi.

(Thơ Tản Đà).



Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,

Càng ngổn ngang mối nợ tình chung.

(Kinh Thế Đạo).



HỘI RỒNG MÂY

Đồng nghĩa với “Hội mây rồng” dùng để chỉ người gặp thời cơ tốt đẹp, ví như rồng gặp mây vùng vẫy bay cao. Xem: Hội long vân.



Từ năm dứt hội rồng mây,

Những ngờ chúng bạn theo bầy tinh chiên.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Bây giờ cha tuổi tác này,

Mong con gặp hội rồng mây kịp thời.

(Truyện Phan Trần).



Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng,

Cờ báo tiệp giữa trời nam lay bướm nhẹ...

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



HỘI XUÂN

Hay “Xuân hội  ” là hội thi dành cho các sĩ tử thi đình, thi hội mở vào mùa xuân.



Bảng thu sớm sớm đề tên,

Tiện đường sớm lại ruỗi liền Hội xuân.

(Hoa Tiên Truyện).



HỘI XUÂN THIÊN 

Hội: Nhóm họp. Xuân thiên: Trời mùa xuân.

Hội xuân thiên tức là hội về mùa xuân, các sĩ tử đã đỗ Cử nhân tụ họp ở Kinh Đô để thi Tiến sĩ.



Mỗ vốn quê nhà đất Quảng Xuyên,

Hoàng đô ra ứng hội xuân thiên.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



HÔN CẤU 

Hôn: Kết làm chồng vợ. Cấu: Kết lại.

Hôn cấu tức là trai và gái kết lại làm chồng vợ.



Nghĩ rằng: Nam Bắc một nhà;

Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.

(Quốc Sử Diễn Ca).

 

HÔN NHÂN 

Hôn: Cha vợ. Nhân: Cha chồng.

Hôn nhân là chữ dùng để chỉ trai gái kết duyên vợ chồng với nhau.



Nhân duyên số sẵn tự trời,

Hôn nhân đã định vào nơi họ Hầu.

(Nhị Độ Mai).



HÔN NHÂN TRẠCH PHỐI 

Hôn nhân: Kết duyên vợ chồng. Trạch phối: Lựa chọn để phối hiệp nhau.

Hôn nhân trạch phối tức là lựa chọn trai hoặc gái, phối hiệp nhau để nên duyên vợ chồng.



Tuổi cả khôn hôn nhân trạch phối,

Giàu đừng tham khó đói chớ nề.

(Gia Huấn Ca).



HỒN BƯỚM

Hồn bướm là hồn trong giấc mộng, bởi giấc mộng là giấc bướm, do điển Trang Châu nằm mộng thấy mình hoá ra bướm.

Như vậy hồn bướm cũng là giấc mộng.

Xem: Giấc bướm.



Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,

Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Hồn bướm còn đương mơ giấc thắm,

Miệng hùm thoát đã mắc mưu sâu.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,

Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.

(Đạo Sử).



HỒN HỒ

Hồ tức hồ điệp, là con bướm.

Hồn hồ có nghĩa là hồn bướm, chỉ giấc mộng. Do điển Trang Châu nằm mộng thấy hoá ra bướm.

Xem: Hồn bướm.



Trướng loan lạnh lẽo hồn hồ vẩn,

Cầu thước bơ vơ chiếc nhạn bay.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Tỉnh say bên gối hồn hồ vẩn,

Mong mỏi phương trời chiếc nhạn bay.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



HỒN HỒ ĐIỆP

Hồ điệp là con bướm, như vậy hồ điệp hồn tức là hồn bướm, chỉ giấc ngủ.

Bởi tích Trang Châu nằm mộng thấy mình hoá bướm. Xem: Giấc bướm.

Trường ca chưa tỉnh hồn hồ điệp,

Ngự liễu tuôn mềm trận sóc phong.

(Hồng Đức Quốc Âm).



HỒN LÌA KHỎI TRẦN GIAN

Hồn lìa khỏi trần gian nghĩa là khi một người vừa trút hơi thở cuối cùng thì hồn lìa khỏi thân xác ở cõi trần gian.

Triết lý Cao Đài cho rằng con người có Linh hồn, còn được gọi là Chơn linh hay Tiểu linh quang, là một thể do Đức Chí Tôn ban cho, nên có thể nói cõi giới của Linh hồn là cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống. Vì vậy, khi con người vừa trút hơi thở cuối cùng thì Chơn thần, và Chơn linh sẽ thoát ra khỏi thân xác để lìa khỏi trần gian, tùy theo nghiệp lực dẫn dắt mà trở về Thiên cảnh nhẹ nhàng hay cõi Âm quang đen tối để giải thần định trí.



Khi hồn lìa khỏi trần gian,

Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.

(Kinh Sám Hối).



HỒN MAI

Hay “Mai hồn  ”, chỉ giấc ngủ.

Do chữ “Quế phách mai hồn  ”. Xưa có Triệu Sư Hùng đời Đường, đi chơi đến La Phù, vào một quán ở giữa rừng, có người con gái đến mời uống rượu, Sư Hùng say ngủ cho tới sáng. Khi tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới gốc cây mai.

Xem: Giấc mai.



Hoàng Lương chợt tỉnh hồn mai,

Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?

(Truyện Kiều).



Hồn mai tỉnh tỉnh say say.

Mới trong vài bữa xem rày mấy niên.

(Nhị Độ Mai).



HỒN MỒ CÔI

Bởi chữ “Cô hồn  ” tức là hồn người chết không nơi nương tựa, không người cúng kiếng.

Xem: Cô hồn.

Hương khói đã không nơi nương tựa,

Hồn mồ côi lần lữa đêm đen.

(Thập Loại Chúng Sinh).



HỒN PHÁCH CHẲNG NƠI VỀ

Hồn phách hay hồn vía là hai thể của con người. Hồn là phần tinh thần con người, khi chết lìa khỏi thể xác. Phách là thể thứ hai của con người, thuộc bán hữu hình, nối liền phần hồn và thể xác.

Người xưa quan niệm con người sống cõi đời là “Sanh ký tử quy  ”, nghĩa là sống gửi thân ở thế gian, thác về cõi thiên. Nên khi một người chết, hồn phách sẽ rời khỏi thể xác, nếu có tu, thì hồn sẽ được về cõi thiên, nếu người không tu, thì hồn bay vất vưởng, chẳng có nơi về.

Thế sự những ham sang với trọng,

Quên lo hồn phách chẳng nơi về.

(Đạo Sử).



HỒN XIÊU PHÁCH LẠC

Hồn phách: Hai thể thuộc về phần tinh thần của con người. Xiêu lạc: Vất vơ, không nơi nương tựa.

Hồn xiêu phách lạc ý nói hồn phách bị xiêu lạc, không nơi nương tựa.



Mỗi người một nghiệp khác nhau,

Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

(Thập Loại Chúng Sinh).



HỒNG ÂN 

Hồng: To lớn. Ân: Ơn huệ, ơn nghĩa.

Hồng ân tức là ân huệ to lớn do vua ban, hay do Trời ban cho.



May đăng gặp hồng ân chan rưới,

Giải trái oan sạch tội tiền khiên.

(Kinh Tận Độ).



Kìa Chí Tôn Cao Đài đương ngự,

Rưới hồng ân chặt giữ biên cương.

(Kinh Thế Đạo).



Thanh sử từng nêu gương nữ kiệt,

Hồng ân chi kém bạn nam nhi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Câu tư dục biến ra bác ái,

Nghiệp oan khiên đổi lại hồng ân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HỒNG BAY PHỤNG LÁNH

Hồng bay phụng lánh tức là chim hồng bay đi mất, chim phụng lẫn tránh, không xuất hiện, ý muốn nói bậc hiền tài lui về nơi sằn dã ở ẩn, không chịu ra làm quan giúp đời.



Thà như bốn lão Thương Sơn,

Hồng bay phụng lánh, ai ràng buộc đâu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HỒNG BÀNG 

Họ làm vua cổ nhất của nước Việt Nam ta, từ 2877 đến năm 258 trước Tây lịch.



Nước ta Nam Việt phân phong,

Hiệu Hồng bàng thị vốn dòng Thần nông

(Hạnh Thục Ca).



Kể từ trời mở viêm bang,

Sơ đầu có họ Hồng bàng mới ra.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HỒNG BĂNG 

Hồng: Màu đỏ. Băng: Tuyết giá.

Hồng băng là băng giá màu đỏ, cũng chỉ nước mắt màu đỏ.

Do điển tích: Cung phi Tiết Linh Vân đời vua Nguỵ Văn Đế có dung mạo tuyệt vời, ông Thái thú huyện Thường Sơn là Cốc Tập chuộc nàng hàng ngàn lạng vàng để dâng vua Nguỵ Văn Đế. Khi nàng từ biệt cha mẹ khóc như mưa, lấy bình ngọc hứng, sau hoá thành khối băng đỏ (Hồng băng).

Ngọn tâm hoả đốt rầu nét liễu,

Giọt hồng băng thấm ráo làn son.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



HỒNG CẤU 

Hồng: Đỏ. Cấu: Bụi bặm, dơ bẩn.

Hồng cấu là bụi đỏ, đồng nghĩa với hồng trần chỉ cõi thế gian.



Hồng cấu đã chui thân phải vấy,

Hơn thua cười kẻ biết nơi tiền.

(Đạo Sử).



HỒNG DIỆP 

Hồng diệp là Lá đỏ, hay lá thắm dùng để chỉ nhân duyên vợ chồng.

Đời Đường có cung nữ họ Hàn, viết vào chiếc lá một bài thơ, rồi thả theo dòng nước trong cung cho trôi ra. Vu Hựu nhặt được, hoạ lại bài thơ viết vào chiếc lá khác, rồi thả cho trôi trở vào, cung nữ họ Hàn cũng nhặt được.

Về sau vua Hy Tông thả hơn ba ngàn cung nữ, trong đó có nàng cung nữ họ Hàn, khi về nhà nàng tình cờ kết duyên với Vu Hựu. Trong đêm thành hôn hai người trao lá cho nhau xem mới biết nhơn duyên do chiếc lá kia làm mối. Người cung nữ họ Hàn có câu thơ như sau: Phương tri hồng diệp thị lương môi  , nghĩa là mới biết lá thắm là người mối tốt.

Xem: Thả lá doành câu.

Sự đâu nói gió bàn trăng,

Mà nghe hồng diệp xích thằng như chơi.

(Tây Sương).



HỒNG HỘC 

Hồng: Ngỗng trời. Hộc: Một loại chim bay rất cao và rất xa.

Hồng hộc là hai loài chim có tính dũng mãnh, bay cao và xa, nên được ví với người có chí lớn.



Tiên rằng: Hồng hộc đều bay,

E khi mỏi cánh lạc bầy về sau.

(Lục Vân Tiên).



Anh Hồng, anh Hộc lạ lùng,

Cao cường thủ đoạn bay tung ngang trời.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



HỒNG LẠC 

Hồng Lạc là do bởi họ “Hồng Bàng” và giòng giống của “Lạc Long Quân”.

Họ Hồng Bàng khởi đầu từ vua Kinh Dương Vương. Con vua Kinh Dương Vương là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng hiệu là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra một trăm người con, bà Âu Cơ đem năm mươi đứa con lên núi, Lạc Long Quân đem năm mươi đứa con đi xuống miền Nam Hải. Lạc Long Quân phong cho đứa con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng Vương, truyền được mười tám đời. Đến đời vua Hùng Vương thứ mười tám thì bị Thục Phán lấy mất nước.



Bể dâu biến đổi cơ trời,

Mà so Hồng Lạc lâu dài ai hơn?

(Quốc Sử Diễn Ca).



Mưa xuân Hồng Lạc tươi màu,

Bức tranh mưa gió riêng sầu lòng ai.

(Thơ Tản Đà).



Hồng Lạc giống nòi dầu thoát ách,

Là hai mươi triệu kẻ đồng gan.

(Đạo Sử).



HỒNG LÂU 

Hồng: Màu hồng. Lâu: Lầu.

Hồng lâu là lầu hồng.

Ngày xưa nhà cửa, lầu đài của những người giàu sang phú quý thường hay sơn màu đỏ để dành riêng cho phụ nữ ở. Vì vậy, hồng lâu chỉ nơi ở của con gái.

Bài thơ Đường, Bạch Lạc Thiên có câu: Hồng lâu phú gia nữ, kim lũ tú la nhu  , , nghĩa là lầu hồng nhà phú nữ, áo lụa thêu kim sa.

Sau này, người ta dùng hai chữ “Hồng lâu” để chỉ nhà điếm.

Hồng lâu còn khóa then sương,

Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Tiểu thư ở chốn hồng lâu,

Tuổi vừa đôi tám Thị Mầu là tên.

(Quan Âm Thị Kính).



HỒNG LÂU TỬ CÁC 

Hồng lâu: Lầu hồng. Tử các: Gác tía.

Hồng lâu tử các là lầu hồng gác tía, dùng để chỉ nơi sang trọng dành cho người phụ nữ nhà phú quý ở.



Mượn người thăm hỏi gần xa,

Hồng lâu tử các đâu mà đến đây?

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



HỒNG MAO 

Lông chim hồng.

Chỉ bậc hào kiệt coi mạng sống của mình nhẹ như lông chim hồng.

Ngô Khởi là một tướng võ đời Chiến Quốc, có võ công lừng lẫy, đánh đông dẹp bắc, ai cũng nghe danh, được Lý Bạch, nhà thơ đời Đường ca tụng như sau: Yên Nam tráng sĩ Ngô môn hào, Thái Sợn nhứt trịch khinh hồng mao  , , nghĩa là đất Yên Nam có kẻ tráng sĩ thuộc dòng hào kiệt họ Ngô, ném non Thái nhẹ như lông chim hồng, ý muốn nói gan của kẻ anh hùng xem nhẹ tính mệnh.

Tư Mã Thiên nói: Nhân cố hữu tử, tử hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao  , , , nghĩa là người ta vẫn có cái chết, song cái chết đáng nặng như núi Thái Sơn, cũng có cái chết đáng nhẹ như lông chim hồng. Ý muốn nói có sự đáng chết và không đáng chết.

Xem: Lông hồng.



Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HỒNG MÔN TIỆC

Bữa tiệc ở Hồng Môn .

Hán Bái Công đánh thắng Quan Trung, sai người qua giữ Hàm Cốc quan. Trong khi đó, Hạng Võ lấy Hà Bắc xong, kéo quân vào định đánh ải Hàm Cốc. Chú của Hạng Võ là Hạng Bá, quen thân với Trương Lương, đêm đó chạy báo tin cho Lương biết. Lương bèn cho Bái Công hay. Bái Công nhờ Hạng Bá tâu lại với Hạng Võ là Bái Công không dám chống lại với Sở Vương và mời Sở Vương sáng mai đến dự bữa tiệc ở Hồng Môn.

Phạm Tăng, quân sư của Hạng Võ, biết Bái Công là mối nguy về sau của Hạng Võ, nên lập kế sai Hạng Trang múa gươm giúp vui trong bữa tiệc, nhân đó lừa dịp giết chết Bái Công. Sáng hôm sau, Hạng Trang đang múa gươm trong bữa tiệc thì lúc đó, có viên hổ tướng của Bái Công là Phàn Khoái mang gươm đi vào, khiến Hạng Trang không dám giết Bái Công nữa.



Rắp ra bài yết tôn nhan,

Hồng môn tiệc ấy tấc gan chưa thành.

(Lưu Nữ Tướng).



HỒNG MÔNG 

Hồng: Rộng lớn. Mông: Mờ mịt.

Theo Dịch học, vũ trụ lúc khởi thuỷ chưa được phân định, đang còn trong tình trạng mênh mông, mờ mịt, gọi là hồng mông, hay hỗn độn.



Bàn cổ khai lò tạo hoá,

Hồng mông còn phơi phới hơi xuân.

(Ngã Ba Hạc phú).



HỒNG NGHÊ 

Hồng: Cầu vồng hay mống đực. Nghê: Mống cái.

Hồng nghê chỉ chung loại cầu vòng và mống cụt.

Theo người xưa cho rằng mống xuất hiện trên trời một lần hai cái: Cái sắc tươi, dài gọi là hồng tức mống đực, cái màu sậm hơn, ngắn gọi là nghê, tức mống cái.

Ngày chiều nhả bức hồng nghê,

Hươu vào động núi, hạc về đình xưa.

(Ngư Tiều Vấn Đáp)



HỒNG NHAN 

Hồng: Màu đỏ. Nhan: Mặt, vẻ mặt.

Hồng nhan ý nói là má hồng, dùng để chỉ người đàn bà, con gái đẹp.



Tẻ vui cũng một kiếp người,

Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru.

(Truyện Kiều).



Đậm hương cho toại hồng nhan,

Gẫm thân có lúc khốn nàn ốm o.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Tại nơi chít mát bóng tùng,

Trần hoàn vì nỗi đau lòng hồng nhan.

(Đạo Sử).



HỒNG NHẠN

Hồng: Con ngỗng trời. Nhạn: Con chim nhạn.

Hồng nhạn là hai loài chim bay cao và khi bay bao giờ cũng có trật tự, theo hàng lối.

Hồng nhạn còn dùng để chỉ tin tức, như câu hồng nhạn đưa tin.

Dốc tình bằng hữu chu tuyền,

Nghĩa Hồng nhạn vẫn còn truyền xưa nay.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,

Phụng lầu gác quyển đợi hòa thinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



HỒNG PHƯỚC 

Hồng: To lớn. Phước: Điều may mắn tốt lành.

Hồng phước là những điều phước đức to lớn.



Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,

Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.

(Kinh Tận Độ).



HỒNG QUÂN 

Hồng: To lớn. Quân: Cái khuôn.

Hồng Quân là cái khuôn lớn, chỉ đấng Tạo hoá.

Tạo hoá được ví như một cái khuôn lớn để tạo ra loài người và muôn vật. Nên chữ “Hồng quân” dùng để chỉ Đấng Tạo hoá, tức trời.

Hồng quân với khách hồng quần.

Đã xoay đến thế, còn vần chửa tha.

(Truyện Kiều).



Thịt xương gửi đám Diêm phù,

Sinh sinh hóa hóa trong lò Hồng quân.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Ở trước mặt Hồng quân định phận.

Đạo vợ chồng đã xứng nợ duyên.

(Kinh Thế Đạo).

Day mặt Hồng quân ngó địa hoàn,

Rưới chan vạn vật khối sinh quang.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



HỒNG QUẦN 

Hồng: Màu đỏ. Quần: Áo quần.

Hồng quần là cái quần màu đỏ.

Do ngày xưa bên Trung Hoa, tục người con gái thường mặc quần màu đỏ. Từ đó, chữ “Hồng quần” được người ta dùng để chỉ người đàn bà con gái.

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

(Truyện Kiều).



Vẻ chi một mảnh hồng quần,

Chủ hoa đành đã đông quân đấy rồi.

(Hoa Tiên Truyện).



Khôn ngoan rất mực hồng quần,

Tại bình mà nói dối dần cũng xuôi.

(Truyện Trinh Thử).



HỒNG TIỆN  便

Hồng: Chim hồng, người ta dùng để đưa thư. Tiện: Thuận lợi.

Hồng tiện là có loài chim hồng tiện lợi trong việc đưa thư.



Gió tây nổi không đường hồng tiện,

Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HỒNG THƯ 

Hồng là một loại di cầm, giống như chim nhạn nhưng to lớn và lông màu đỏ.

Hồng thư tức là thư do chim hồng mang đi, chỉ thư từ tin tức qua lại.

Khôn nhạn tín, khó hồng thư,

Viết quơ chẳng nổi, giấy như tránh đề.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HỒNG TRẦN 

Hồng: Màu đỏ. Trần: Bụi bặm.

Hồng trần là bụi hồng. theo Phật, chữ bụi không có nghĩa là đất cát, mà chỉ cho những việc rối rắm, phiền não làm cho con người ô nhiễm.

Nghĩa bóng: Hồng trần chỉ chốn thế gian.

Đùng đùng gió giục mây vần,

Một xe trong cõi hồng trần như bay.

(Truyện Kiều).



Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy,

Xuống hồng trần khuyến dạy thương sanh.

(Xưng Tụng Công Đức).



Hồng trần là biển khổ con ôi,

Cực nhọc đời kia quá ngán đời.

(Đạo Sử).



HỐT HỌ ĐOÀN

Hốt họ Đoàn tức cái hốt của Đoàn Tú Thực, tự Thành Công, người đời Đường, thời Đức Tông làm quan Tư Nông khanh. Khi hoạn quan Chu Thử lập mưu làm phản, Đoàn Tú Thực chưởi thậm tệ và lấy cái hốt ngà đánh Chu Thử giữa triều, bị Chu Thử giết chết.



Hoặc làm cái hốt họ Đoàn,

Đánh đầu kẻ hoạn mưu gian soán Đường.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HƠI ĐỒNG

1.- Hơi đồng là hơi tiền vì ngày xưa tiền làm bằng kim loại đồng.

Hơi đồng do chữ “Đồng xú  ”, tức là đồng tiền tanh hôi để chỉ những đồng tiền có được không phải nghĩa.

Mụ càng tô lục chuốc hồng,

Máu tham dễ thấy hơi đồng thì mê.

(Truyện Kiều).



Tranh nhau vì chút hơi đồng,

Giết nhau vì miếng đỉnh chung của trời.

(Nhân Nguyệt Vấn Đáp).



Chẳng nên mê mẫn hơi đồng,

Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.

(Gia Huấn Ca).

2.- Hơi đồng là âm thanh tiếng tơ đồng, tức tiếng đàn, vì cây đàn có dây tơ và làm bằng gỗ ngô đồng.

Bởi nhan sắc không khoe không mặn,

Bởi hơi đồng không thẳng không kêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HƠI SẮT TIẾNG CẦM

Hơi sắt: Hơi đàn sắt. Tiếng cầm: Tiếng đàn cầm.

Tiếng đàn sắt đàn cầm hoà nhau thường ví với đôi vợ chồng sum họp hoà thuận, cầm sắt lạc cung thì vợ chồng xa nhau, đỗ vỡ.



Phòng đào giữ rủi rơi trâm,

Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HỢP PHỐ CHÂU VỀ

Bởi chữ : Châu hoàn Hợp Phố  ” tức là hạt châu trai trở về đất Hợp Phố.

Do điển đời Hậu Hán, ở miền biển đất Hợp Phố có nhiều hạt trai. Quan lại nơi đó hà khắc, bắt dân đi mò ngọc. Trai bỏ đi nơi khác hết. Sau Mạnh Thường người nhơn đức, được về làm Thái Thú, trai lại lần lần trở về.

Châu về Hợp Phố dùng để chỉ những vật đã mất mà tìm lại được.



Thoa này bắt được hư không,

Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?

(Truyện Kiều).



May đây bèo nước gặp nhau,

Thôi thì Hợp Phố cho châu lại về.

(Hoa Tiên Truyện)



Tiết thanh cảm vật mới kỳ,

Dưới dòng Hợp Phố châu đi cũng về.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HỦ TỆ 

Hủ: Mục nát. Tệ: Hư hỏng.

Hủ tệ là mục nát và hư hỏng. Chữ thường dùng để chỉ phong tục tập quán hay tính cách của con người lỗi thời, hủ bại.



Cơ Trời xây đổi lập Tân Dân,

Cái hủ tệ xưa phải bỏ lần.

(Đạo Sử).



Đời nói rể ít ai tử tế,

Vì tục phong hủ tệ mà ra.

(Phương Tu Đại Đạo).



HUÂN HUYỆT CẦU QUÂN 

Sách Trang Tử chép: Trong ba đời liên tiếp, người nước Việt giết vua. Thái tử tên là Sưu sợ quá, chạy trốn vào động Đan, thế là nước Việt không có vua. Người Việt bèn đi tìm Thái tử, theo dấu vết đến động Đan, Thái tử không chịu ra, họ phải đốt lá, un khói vào động hang. Thái tử Sưu đành chạy ra, liền bị níu lên xe đưa về cung, bèn ngữa mặt lên trời than rằng: Làm vua! Làm vua! Tại sao không tha cho tôi, cứ phải tôi mới được.

Ta thấy rằng Thái tử Sưu không sợ làm vua mà sợ cái hoạ làm vua. Có thể nói: Thái tử Sưu không vì ngôi vua mà làm hại sinh mạng mình, nên người nước Việt mới muốn ông ấy làm vua.

HUÂN LAO 


Huân: Công lao. Lao: Nhọc nhằn.

Huân lao tức là có công lao với đất nước.



Lời uý lạo khấu đầu trước bệ,

Chỉ huân lao vâng mệnh trước sân.

(Tiễn Chồng Đánh Giặc).



HUÂN PHONG 

Huân: Mát. Phong: Gió.

Huân phong là tên một khúc đàn của vua Thuấn, có câu: Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề  , , nghĩa là gió nam thổi mát lạ thay, khiến dân ta được khỏi ngay sự nhọc nhằn.



Trước huân phong nghe phảng phất cung đàn,

làn thâm thuỷ muốn vái lên ngũ bái.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



HUÂN TƯỚNG 

Huân: Công lao. Tướng: Người cầm quân.

Huân tướng tức là ông tướng có công lao to tát.



Nền huân tướng nên công rạng vẻ,

Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HUÂN TRÌ 

Huân: Một loại nhạc khí dùng để thổi. Trì: Loại nhạc cụ thổi.

Huân trì là hai thứ nhạc cụ thời xưa dùng để thổi hoà điệu nhau.

Kinh Thi viết: Bá thị xuy huân, Trọng thị xuy trì  , , tức họ Bá thổi ống huân, họ Trọng thổi ống trì. Ý chỉ tình anh em hoà thuận.

Nghĩa bóng chữ “Huân trì” chỉ anh hoà thuận.



Anh phải anh, em phải đạo em,

Huân trì hai ống thổi nghe êm.

(Dương Từ Hà Mậu).



HUẤN DỤ 

Huấn: Dạy dỗ. Dụ: Lời của người trên dạy bảo với kẻ dưới.

Huấn dụ là lời của vua quan dạy bảo điều gì với nhân dân.



Khôn cầm nước mắt biệt ly,

Ân cần huấn dụ khá ghi vào lòng.

(Hạnh Thục Ca).



HUẤN GIÁO

Bởi chữ “Giáo huấn  ”.



Huấn: Dạy răn. Giáo: Dạy dỗ.

Huấn giáo là lấy luân lý, đạo đức hay điều hơn lẽ thiệt để dạy răn.



Ơn cha sanh hóa ra thân,

Ơn thầy huấn giáo cũng gần như nhau.

(Kinh Thế Đạo).



HUẤN TỬ TRONG THAI

Cổ nhân có kinh nghiệm về “Huấn tử trong thai”, tức là dạy con khi còn nằm trong bào thai, mà ngày nay người ta gọi là “Thai giáo”.

Người xưa thường dạy phụ nữ có thai phải biết cử kiêng việc ăn uống, không nghe những tiếng dâm đãng, chẳng nói lời ác ngôn, không buồn lo, giận hờn, cử chỉ hành động phải nghiêm trang, đoan chính…

Khi thai sản trong phòng gìn giữ,

Học cổ nhân huấn tử trong thai.

(Gia Huấn Ca).



HUỆ KIẾM 

Hay “Tuệ kiếm”, là gươm trí huệ.

Kinh Duy Ma Cật viết: Dĩ trí huệ kiếm phá phiền não tặc  , nghĩa là lấy gươm trí huệ phá tan giặc phiền não. Ý muốn nói do sự giác ngộ, dùng cái trí huệ làm thành cây kiếm để trừ diệt lục dục thất tình và tam độc tham sân si, và chặt đứt các mối dây oan nghiệt trói buộc con người.

Nắm huệ kiếm định thâu trái chủ,

Mặc đạo y sạch giũ phồn hoa.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Dâng gươm huệ kiếm xin cầm,

Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.

(Kinh Thế Đạo).

 

HUỆ NHÃN 

Huệ: Sáng suốt, dứt điều mê muội, thông suốt sự lý. Nhãn: Con mắt.

Huệ nhãn là con mắt trí huệ, tức là thấy bằng trí huệ chứ không thấy bằng mắt phàm.



Làm con hiếu hạnh vi tiên,

Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm.

(Phật Nói Vu Lan).



HUỆ QUANG 

Huệ: Trí huệ. Quang: Ánh sáng.

Huệ quang là ánh sáng của trí huệ.

Trí huệ là trí sáng suốt nhận biết được chân tướng của mọi sự vật, cái thấy chính xác về sự vật, hiểu biết rốt ráo đến chân lý. Có thể nói: Ánh sáng trí huệ là ngọn đèn, là cây đuốc soi sáng cho con người ra khỏi bóng tối của vô minh.

Huệ quang chiếu thấu chánh tà,

Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh.

(Kinh Tận Độ).



HUY HOẮC 

Huy: Vẫy tay. Hoắc: Xài tiền của.

Huy hoắc là người xài tiền một cách thái quá, tức là phung phí quá mức.



Của chung huy hoắc đâu bằng.

Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



HUY TÂY NHẬT  西

Ngăn mặt trời xế bóng.

Điển từ sách Hoài Nam Tử chép: Lỗ Dương khổ chiến huy tây nhật, nhật phản qua đầu  西 , , nghĩa là ông Lỗ Dương mê trận ngăn mặt trời tây, mặt trời quay lại ngang ngọn giáo.

Ông lỗ Dương Công cùng ông Hàn Cấu Nan mê trận đánh vùi đến trời xế chiều, bèn chống cây giáo giữ mặt trời, ba lần trở lại ba lần cho đi.



HUỶ BÁNG 

Huỷ: Nói xấu. Báng: Chế diễu.

Huỷ báng là chê bai, nói xấu, nhạo báng một việc gì hay một người nào. Như huỷ báng tôn giáo là chê bai, nhạo báng tôn giáo.



Hoặc người hủy báng lung lăng,

Số là đời trước Phật, tăng chẳng gần.

(Hứa Sử Tân Truyện).



HUỶ HÙNG 

Huỷ: Con rắn. Hùng: Con gấu.

Huỷ hùng là con rắn và con gấu. Theo Kinh Thi, nằm chiêm bao thấy rắn là điềm sinh con gái, chiêm bao thấy gấu là điềm sinh con trai.

Xem: Hùng huỷ.

Mấy thu hương lửa loan phòng,

Điềm thiêng sớm ứng huỷ hùng mấy phen.

(Sơ Kính Tân Trang).



HUỶ XÀ 

Huỷ: Cũng là loại rắn hết sức độc, loại này lớn và dài 7, 8 thước. Xà: Con rắn.

Kinh Thi có nói nằm mộng mà thấy rắn, là điềm lành sinh con gái.

Xem: Xà huỷ.

Phạm đường cĩng mộng huỷ xà,

Năm ba thơ ngợi đào hoa nghi kỳ.

(Sơ Kính Tân Trang).



HUYÊN ĐÌNH 

Huyên là một loại cỏ ăn được. Khi ăn vào có thể quên phiền muộn, nên còn được gọi là vong ưu thảo. Cỏ huyên thường được người xưa ví như người mẹ, vì lấy điển ở Kinh Thi: Yên đắc huyên thảo ngôn thụ chi bối ( ước gì được cỏ huyên mà trồng thềm bắc). Do đó người ta gọi mẹ bằng huyên đình, huyên đường, hay nhà huyên.



Gia quan mới dạo nhà huỳnh,

Thư nhà hầu hạ huyên đình bấy lâu.

(Hoa Tiên Truyện).



HUYÊN ĐƯỜNG 

Huyên là cỏ huyên, một loại cỏ ăn được. Khi ăn được khi ăn vào có thể quên hết nối phiền muộn, lo lắng cỏ huyên được người xưa ví với bà mẹ.



Đặt tên là ả Phi Nga,

Huyên đường sớm vắng còn nhà nghiêm quân.

(Nữ Tú Tài).



Người Vương Tường cũng là đời Tấn,

Tủi huyên đường sớm lẫn bóng xa.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Thương những thuở huyên đường ôm ấp,

Thương những khi co đắp chung mền.

(Kinh Thế Đạo).



HUYỀN ĐIỂU SINH THƯƠNG 

Huyền điểu: Chim én sắc huyền. Sinh Thương: Sinh nghiệp nhà Thương.

Sử Ký chép: Bà vợ của Đế Hiệu là Giản Địch nuốt trứng chim huyền điểu sau có thai sinh ra Tiết, là vị tổ thứ mười bốn đời của vua Thành Thang, và vua Thành Thang là vị vua khai nghiệp nhà Thương.

Kinh Thi có câu: Thiên mệnh huyền điểu, giáng nhi sinh Thương  , nghĩa là trời sai chim huyền điểu giáng mà sinh nghiệp nhà Thương.

Noãn bào dù chuyện hoang đường,

Ví xem huyền điểu sinh Thương khác gì?

(Quốc Sử Diễn Ca).

HUYỀN ĐÔ 

Huyền Đô quán là nơi các vị Thần Tiên ở.

Do thơ Lưu Vũ Tích viết: Huyền Đô quán lý đào thiên thọ, Tận thị Lưu Lang khứ hậu tài  , nghĩa là nghìn đào ở tại Huyền Đô quán, chàng Lưu đi khỏi mới trồng sau.

Khi lên xuống Tam Thai, Bích Lạc.

Lúc đi về Ngũ Nhạc Huyền Đô.

(Tự Tình Khúc).



HUYỀN TRANG 

Tên một vị Hoà thượng họ Trần đời nhà Đường, Trung Quốc. Vua sai Ngài qua Thiên Trúc (Ấn Độ) để thỉnh kinh về truyền bá đạo pháp ở trong nước. Ngài đi hơn mười năm, đem về rất nhiều kinh sách, chia làm ba tạng: Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Vì vậy, người đời sau thường gọi Ngài Huyền Trang là Huyền Trang Tam Tạng hay Đường Tam Tạng.



Ba trăng tiếng kệ câu kinh,

Bạch Viên sao nỡ phụ tình Huyền Trang.

(Truyện Phan Trần).



HUYỀN TRÂN 

Con gái của vua Trần Nhân Tông, kết hôn với vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý (Gồm khoảng đất từ phía nam Quảng Trị đến phía bắc Quảng Nam).

Tháng 6 năm Bính Ngọ, 1306 đời vua Trần Anh Tông, Công chúa lên đường vào nam. Về Chiêm Thành, Huyền Trân Công Chúa được phong làm Hoàng hậu. Chưa được một năm, thì chồng mất, vua sai Trần Khắc Chung và Đặng Văn sang Chiêm Thành giả tiếng điếu tang vua Chiêm, mà thực sự lập mưu đưa Công chúa về Thăng Long để bà khỏi bị tuẩn táng trên giàn hỏa theo tục lệ Chiêm Thành.

Hai châu Ô, Lý vuông nghìn dặm,

Một gái Huyền Trân của mấy mươi.

(Thơ Hoàng Cao Khải).



HUYỀN VI 

Huyền: Sâu kín. Vi: Nhỏ nhặt.

Huyền vi là sâu kín nhỏ nhặt, dùng để nói về sự mầu nhiệm của trời đất.



Kìa thế cục như in giấc mộng,

Máy huyền vi mở đóng khôn lường.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Cho hay máy động huyền vi,

Thay mình truyện trước còn ghi kim đằng.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Tạo Hóa Thiên Huyền vi Thiên Hậu,

Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).



Ðôi mắt phàm phu đâu biết đặng,

Huyền vi tối trọng Ðấng cao xa.

(Đạo Sử).



HUYỄN KHU 

Huyễn: Không có thật. Khu: Thân thể, hình vóc.

Huyễn khu là thân thể không có thật, tức là giả thân. Đối với Phật pháp, “Hữu hình tức hữu hoại  ” hay “Vạn pháp giai không  ”, như vậy hình thể con người chỉ là “Huyễn khu”, nghĩa là giả tạo, hư huyễn mà thôi, chỉ tồn tại tạm thời, rồi sẽ hoại, chỉ có tánh giác là tồn tại mãi mãi.



Thầy nay tuy bỏ huyễn khu,

Một tánh chơn giác muôn thu như còn.

(Hứa Sử Tân Truyện).



HUYỆN HOA

Tức “Hoa huyện  ”.

Do câu: Hà Dương biến chủng đào hoa, nãi Phan Nhạc chi vi huyện quan  , , nghĩa là huyện Hà Dương trồng khắp cây hoa đào, tức là nhắc đến chức quan huyện của ông Phan Nhạc.

Tấn Thư chép: Ông Phan Nhạc, tự là An Nhân, làm quan Lịnh Doãn huyện Hà Dương, dân có người nào thiếu, ông bảo trồng một cây đào, quan lo chuyên chở giúp. Đến khi ông mãn nhiệm chức quan, từ giã đi, cả huyện đều trồng hoa đào, mọi người nhân đó gọi Hà Dương là “Hoa huyện ”.



Dịp huyện hoa còn quyến khách,

Rày biên tuyết đã nên ông.

(Thơ Nguyễn Trãi).



HUYỆN VỤ 

Huyện: Một khu vực hành chính ở địa phương. Vụ: Công việc.

Huyện vụ là công việc hành chánh trong huyện.



Một ngày huyện vụ vừa xong,

Vào trong ông mới ngỏ cùng phu nhân.

(Nhị Độ Mai).



HUYẾT KHÍ ĐÚC HÌNH

Huyết khí  : Huyết là máu của mẹ, khí là tinh khí của cha. Đúc hình: Nặn đúc nên hình thể đứa con.

Huyết khí đúc hình ý nói tinh cha huyết mẹ nắn đúc nên hình thể đứa hài nhi.



Đưa giọt sữa ra hòa giọt lụy,

Trong tình chung huyết khí đúc hình.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HUYẾT LỆ 

Huyết: Máu. Lệ: Nước mặt.

Huyết lệ là vì khóc quá, máu chảy theo dòng nước mắt, tức là chảy máu mắt. Chỉ nước mắt của người khóc quá thảm thiết.



Sụt sùi huyết lệ thấm bào,

Một phen vĩnh biệt muôn thâu thảm sầu.

(Hạnh Thục Ca).



HUYẾT MẠCH ĐỒNG MÔN 

Huyết mạch: Dòng máu. Đồng môn: Cùng một cửa

Huyết mạch đồng môn ý nói anh em ruột thịt, cùng cha cùng mẹ, cùng một dòng máu, cùng một chỗ sinh ra.

Xem: Đồng huyết mạch.

Chữ rằng huyết mạch đồng môn,

Riêng chưng thân thể, tâm hồn cũng con.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HUỲNH SONG 

Huỳnh: Con đom đóm. Song: Cửa sổ.

Huỳnh song là cửa sổ có ánh sáng con đom đóm.

Do điển Trác Dận là một người học trò rất chăm học, nhà nghèo, không có dầu để đốt đèn học, bèn bắt đom đóm bọc trong giấy để lấy ánh sáng thay thế đèn mà học ban đêm. Xem: Trác Dận.

Lưu liên khi lại huỳnh song,

Gương nga đã gác non đông nửa vừng.

(Hoa Tiên Truyện).



HUNG BẠO 

Hung: Dữ, ác. Bạo: Làm điều trái, loạn.

Hung bạo là người có tính dữ tợn, chuyên làm những điều trái ngược.



Kìa như Hán Võ Đế,

đã nên đứng Minh vương,

Nọ như Tần Thuỷ Hoàng,

rất nên trang hung bạo.

(Sãi Vãi).



Trói người vào đó xát chà,

Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.

(Kinh Sám Hối).



Mạnh hiếp yếu lấy gan hung bạo,

Dữ lấn hiền gươm giáo là hơn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Cha mẹ rủi sanh con hung bạo,

Tội dưỡng nhi bất giáo đã đành.

(Phương Tu Đại Đạo).



HUNG HOANG 

Hung: Dữ tợn. Hoang: Mê loạn.

Hung hoang là “Hung đồ hoang đảng” chỉ bọn hung dữ một cách mê loạn, không ai kềm chế được.



Sư rằng: Nơi chốn Phong đô,

Cầm cân phước tội, trị đồ hung hoang.

(Dương Từ Hà Mậu).



Hung hoang tội báo nghiệt căn,

Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.

(Kinh Sám Hối).



Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,

Cướp giựt rồi chém giết mạng người

(Kinh Sám Hối).



HUNG NÔ 

Tức là rợ Hồ ở phương bắc.

Một dân tộc ở phía bắc Trung Hoa, đời Tần, đời Hán thường qua xâm lược, chiếm lĩnh miền nội ngoại Mông cổ ngày nay.

Nọ thuở Hung Nô đánh Hán,

tướng mạnh như hùm,

binh đông như cỏ,

cướp ải Lang, giành ải Hổ,

tới mãn tuồng Nô cũng về Nô;

(Cáo Thị Cần Vương).



HUNG TÂM 

Hung: Dữ, ác. Tâm: Lòng.

Hung tâm là lòng hung dữ, lòng hung ác.



Gót nhân ái đến nhà kẻ bịnh,

Giọng từ bi thức tỉnh hung tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HÙNG BI 

Hùng: Con gấu. Bi: Một loại với gấu, to hơn gấu, lông vàng, cổ dài chân cao, đứng thẳng được. Hai con Hùng, bi đều thuộc về loài gấu.

Kinh Thi có câu: Cát mộng duy hà, duy hùng duy bi, duy huỷ duy xà đại nhân chiêm chi, duy hùng bi, nam tử chi dạng, duy huỷ duy xà, nữ tử chi tường  , . , . , , , , nghĩa là điềm tốt như thế nào? Chiêm bao thấy gấu và rắn. Đại nhân bói thử: Chiêm bao thấy gấu là điềm sinh trai, chiêm bao thấy rắn là điềm sinh gái.

Nghĩa bóng: Điềm sinh con trai.

Ứng điềm xà huỷ hùng bi,

Hai nhà chính thất một kỳ thụ thai.

(Truyện Phan Trần).



Lạc Long lại sánh Âu ky.

Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Mạch văn còn dõi dòng nho,

Hùng bi mấy giấc đã phô điềm lành.

(Hoa Tiên Truyện)



HÙNG HUỶ 

Hùng: Con gấu. Huỷ: Con rắn.

Hùng huỷ là con gấu và con rắn. Theo Kinh Thi, nằm chiêm bao thấy gấu là điềm sinh con trai, chiêm bao thấy rắn là điềm sinh con gái: Duy hùng duy bi nam tử chi tường, duy huỷ duy xà, nữ tử chi tường  , . 蛇女 .

Xem: Hùng bi, xà huỷ.

Cưỡi rồng ta đã băng nguyền,

Ứng điềm hùng huỷ vầy đoàn gái trai.

(Truyện Trinh Thử).



Tới khi hùng huỷ ứng điềm,

Ấy là mẫu đức có nghiêm có từ.

(Huấn Nữ Ca).



HÙNG LÔI 

Tiếng sấm đực.

Ngày xưa, ông Sư Khoán bói quẻ năm hạn hay năm lụt là dựa vào tiếng sấm đầu mùa. Nếu tiếng sấm đầu mùa nghe chát chúa, nổ dòn tức là “Hùng lôi” (Tiếng sấm đực), có khí hơi khô khan, báo hiệu năm ấy mưa ít; tiếng sấm đầu mùa nghe nổ ầm ì nhỏ, tức là “Thư lôi” (Tiếng sấm cái), có khí ẩm ướt, cho biết năm ấy mưa nhiều.

Vì vậy, sách Thiên Văn Chí mới viết: Hạn niên lạo niên chi chiếm lôi biện thư hùng  , , nghĩa là quẻ bói năm hạn năm lụt là phân sấm cái sấm đực.



HÙNG PHI THANH VỊ 

Gấu bay, sông Vị trong.

Truyện viết: Vua Văn Vương nằm mộng thấy nước sông Vị trong và con gấu có cánh bay. Điềm này được đem hỏi một vị tôi thần là ông Tán Nghi Sanh, ông cho là điềm lành, sẽ gặp hiền tài (Gấu có cánh) và sẽ được bình trị trong thiên hạ (Nước sông Vị trong). Sau quả nhiên, vua Văn Vương đi săn bắn gặp được Tử Nha ngồi câu trên sông Vị và rước về giúp nước.

HÙNG VƯƠNG 

Hùng Vương được xem là tỵ tổ của nòi giống Việt, thuộc họ Hồng Bàng, nối nghiệp Lạc Long quân, làm vua nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu.

Từ vua Hùng thứ nhửt trở về sau, họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đều lấy hiệu là Hùng Vương. Cho đến năm 258 trước Tây lịch thì mất ngôi về nhà Thục.

Hùng vương đô ở châu Phong,

Ấy nơi Bạch hạc hợp dòng Thao giang.

(Quốc Sử Diễn Ca).



HƯ DINH

Hay “Hư doanh  ”.

Hư là trống không, khuyết, vơi. Dinh là tròn vẹn, đủ, đầy. Hư dinh chỉ trăng khuyết, trăng tròn. Nghĩa bóng chỉ sự bất thường: Lúc vơi, lúc đầy.

Hai chục tám sao đều chạy mặt,

Theo thời biết mấy lúc hư dinh.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



HƯ VINH 

: Trống rỗng. Vinh: Vẻ vang.

Hư vinh là cái vẻ vang bên ngoài, tạm bợ, không có giá trị, quyền lợi thực sự.

Theo triết lý Tôn giáo, sự vinh hiển ở cõi thế gian này đều là giả tạm, không bền vững.

Khổ hạnh chí mong qui nẻo chánh,

Ngoài tai chớ chác miếng hư vinh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



HỨA DO 

Hứa Do là bậc cao sĩ đời Thượng cổ, không màng danh lợi, chỉ ở ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dịch Thuỷ.

Vua Nghiêu nghe tiếng Hứa Do là người hiền, định nhường ngôi lại cho, Hứa Do từ chối. Lần khác, vua Nghiêu mời Hứa Do làm Tổng trưởng coi chín châu, Do không muốn nghe chuyện ấy, ra bờ sông Dịch để rửa lỗ tai. Lúc đó có Sào Phủ, cũng là bậc hiền sĩ, đang dắt trâu xuống dưới dòng định cho uống nước, thấy Hứa Do đang rửa lỗ tai, bèn hỏi duyên cớ, Hứa Do thuật chuyện lại, Sào Phủ kéo trâu lên trên dòng nước cho uống và nói: Dưới dòng nước bẩn, dơ miệng trâu.

Quán rằng: Nghiêu Thuấn thuở xưa,

Khó ngăn Sào Phủ, không ngừa Hứa Do.

(Lục Vân Tiên).



Chẳng hay người ấy tên chi?

Chẳng phen Sào Phủ, cũng bì Hứa Do.

(Dương Từ Hà Mậu).



Ỷ Lý há cầu quan tước Hán,

Hứa Do quản ở nước non Nghiêu.

(Quốc Âm Thi Tập).



HỨA QUỐC 

Hứa: Nhận lời. Quốc: Nước nhà.

Hừa quốc tức là sẵn sàng đem thân ra giúp nước.

Khổng Trĩ Khuê có câu thơ: Bổn trì hứa quốc thân  , nghĩa là vốn có nắm chặt tấm lòng đem thân giúp nước.

Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,

Sức tý dân dường sắt trơ trơ.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



HỨA SÀO 

Tức Hứa Do, Sào Phủ, là hai vị cao sĩ đời Thượng cổ, không màng danh lợi, sống ẩn dật tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dịch Thuỷ.

Xem: Sào Do.

Công danh há dựa gần Thiên vị,

Học thiện đua chen bước Hứa Sào.

(Đạo Sử).



HƯNG ĐẠO 

Hay “Hưng Đạo Vương  ”.

Tước phong của vị danh tướng Trần Quốc Tuấn, đệ nhứt công thần đời nhà Trần và là vị anh hùng dân tộc đã đánh đuổi giặc Nguyên xâm lăng vào khoảng cuối thế kỷ XIII. Chính ông đã hai lần chận đứng cuộc xâm lăng của quân Nguyên để bảo tồn nền độc lập cho đất nước.

Sắc sai Hưng Đạo tổng binh,

Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Hưng Đạo nghe biết trước sau,

Yết Kiêu Dã Tượng truyền vào trong cung.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



HƯNG VONG 

Hưng: Nổi lên. Vong: Mất đi.

Hưng vong tức là thịnh vượng và suy sụp.



Trên đời hằng có lẽ hưng vong,

Trước trận dễ không khi thắng phụ?

(Nhạc Hoa Linh).



HƯƠNG ÁN 

Hương: Nhang. Án: Cái bàn.

Hương án là cái bàn đốt hương để cúng tế.



Trở vào bèn lấy bút nghiên,

Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.

(Lục Vân Tiên).



Ngồi trên thấy một ông quan,

Trước bàn hương án bày hàng bút nghiên.

(Dương Từ Hà Mậu).



HƯƠNG ĐẢNG 

Hương: Làng quê. Đảng: Làng xóm.

Hương đảng là người cùng làng quê với nhau, tức người cùng xóm làng.



Công rằng: Bàn việc năm mây,

Cho nên hương đảng đợi ngày xa khơi.

(Lưu Nữ Tướng).



Miền hương đảng khen rằng hiếu nghị,

Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



HƯƠNG ĐƯỢM LỬA NỒNG

Hương lửa: Tình yêu thắm thiết giữa trai gái hay vợ chồng. Đượm nồng: Thấm sâu, đậm đà.

Hương đượm lửa nồng là chỉ tình yêu thắm thiết sâu đậm giữa trai gái hay vợ chồng.



Nào là hương đượm lửa nồng,

Nết khuôn giữ vẹn, chữ đồng lương nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HƯƠNG HOẢ 

Hương: Thơm, chỉ nhang đốt toả hương thơm. Hoả: Lửa, chỉ cây đèn.

Hương hoả là nhang đèn, ngày xưa mỗi khi trai gái thề nguyền về nhân duyên, phối ngẫu, thường dùng hương hoả cúng vái quỷ thần mà thề nguyền, nên nhân duyên cũng gọi hương hoả.

Ngoài ta hương hoả còn dùng để chỉ sự thờ cúng tổ tiên, ông bà.

Lễ xong hương hỏa gia đường,

Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.

(Truyện Kiều).



Nỗi trông hương hỏa giữ bền,

Giúp cho chồng có phẩm quyền cao sang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HƯƠNG HOẢ BA SINH

Hương hỏa: Thắp đèn đốt nhang. Ba sinh: Ba kiếp sống. Hương hỏa ba sinh tức là thắp đèn và đốt nhang để khấn nguyện trời đất chứng minh cho lòng chung thuỷ của đôi trai gái yêu nhau, thề hẹn với nhau nội trong ba kiếp phải kết làm vợ chồng với nhau.

Xem: Ba sinh hương lửa.



Nào khi sắc so tài đẹp dạ,

Nào khi nhen hương hỏa ba sinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HƯƠNG KHUÊ 

Hương: Thơm. Khuê: Buồng của người con gái.

Hương khuê là buồng thơm, tức phòng con gái ở thường có xông hương thơm.



Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,

Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.

(Truyện Kiều).



Lòng hoa phấp phới đôi bề,

Vội vàng vào trước hương khuê ngỏ lời.

(Hoa Tiên Truyện).



Nàng từ xa chốn hương khuê,

Nỗi nhà man mác mọi bề mà lo.

(Quan Âm Thị Kính).



HƯƠNG LÂN 

Hương: Làng quê. Lân: Xóm giềng.

Hương lân tức là làng xóm, láng giềng.



Vẫn nghe thơm nức hương lân,

Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.

(Truyện Kiều).



Dù chẳng phải là ta hơi hướng,

Nghĩa hương lân phải cất tiếng chào.

(Gia Huấn Ca).



HƯƠNG LỬA

Bởi chữ “Hương hoả  ” tức là nhang và đèn. Do ngày xưa trai gái yêu nhau thề non hẹn biển hay phối ngẫu thường dùng hương lửa (Nhang đèn) để cúng vái quỷ thần mà thề nguyền. Vì vậy, nhân duyên cũng gọi là hương lửa.

Hương lửa còn dùng để chỉ sự truyền kế phụng tự Tổ tiên.

1.- Chỉ nhân duyên:



Phải duyên hương lửa cùng nhau,

Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



May mà hương lửa bén duyên,

Cũng vì mấy chữ trúc tiên thơ đề.

(Nữ Tú Tài).



Đó đã rắp nhóm nhen hương lửa,

Đây đành lòng vun quén trúc mai.

(Nhạc Hoa Linh).

2.- Chỉ sự nối dõi tông đường:

Nối hương lửa nhơn luân đạo trọng,

Con gìn câu chết sống trọn nghì.

(Kinh Thế Đạo).



Nối tông môn hương lửa phụng thờ,

Dạy con cháu há chờ kẻ giúp.

(Phương Tu Đại Đạo).



HƯƠNG LỬA BA SINH

Bởi câu “Tam sinh hương hoả  ” tức là duyên nợ ba kiếp sống gắn bó với nhau. Do câu trong Tình Sử: Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn  , nghĩa là ba sinh đá ấy cựu tinh hồn, ý nói người có duyên số là có nợ nần với nhau thì viết lên hòn đá để kiếp này không trả được thì kiếp sau phải trả, đến ba kiếp mà không trả được mới thôi.



Nào khi sắc so tài đẹp dạ,

Nào khi nhen hương lửa ba sinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Biết đâu hương lửa ba sinh,

Còn trăng còn gió còn dành duyên ta.

(Hoa Tiên Truyện).



HƯƠNG NGUYỀN

Bởi chữ “Hương nguyện  ” là đốt hương để thề nguyền với nhau.

Ngày xưa trai gái yêu nhau thường lập bàn hương án để cùng thề nguyền. Hoặc chỉ núi và biển để thề với nhau, nên cũng gọi là thề non hẹn biển. Do vậy, hương nguyền chỉ lời thề nguyền.

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

(Truyện Kiều).



Hương nguyền trời cũng chứng minh,

Rông vàng trao vuốt giắt vành đầu mâu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Trăm năm khá nhớ hương nguyền,

Chồng hay trọn nghĩa, vợ hiền trọn trinh.

(Kinh Thế Đạo).

 

HƯƠNG QUAN 

Hương: Làng quê. Quan: Cái cổng.

Hương quan là cái cổng ở làng quê.

Bài “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu có câu: Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu  , 使 , nghĩa là trời chiều cổng làng ở nơi đâu? Khói sóng trên sông khiến người buồn. Ý chỉ về quê hương.

Mối tình đòi đoạn vò tơ,

Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.

(Truyện Kiều).



Dưới khe nước chảy tợ đàn,

Như tuồng mừng bạn hương quan tách vời.

(Dương Từ Hà Mậu).



Tạ triều một thủ thi tiên,

Đem nhau xe hạc về miền hương quan.

(Truyện Phan Trần).



Hồn khuê phụ lao đao lặng ngắt,

Người hương quan quanh quất thương thay.

(Tự Tình Khúc).



HƯƠNG SƠN 

Hương Sơn là một ngọn núi có phong cảnh đẹp đẽ, trên đó có một ngôi chùa, gọi là Chùa Hương, hay Chùa Hương Tích, ở về phủ Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông, cảnh núi rất u tịch, lối vào quanh co khuất khúc, thực xứng đáng là một nơi danh lam thắng cảnh. Dưới núi Hương Sơn có ngôi đền Quan Thế Âm Bồ Tát.

Vua Lê Thánh Tông có cho khắc một tấm bia đá đề: “Nam Thiên Đệ Nhất Động  ” treo trên núi. Hằng năm, vào tháng hai, ba, dân chúng và du khách đến hành hương xem cảnh không biết bao nhiêu mà kể.

Hương Sơn là thú thanh cao,

Những là nay ước mai ao mấy lần.

(Hương Sơn Hành Trình).



Bầu trời, cảnh bụt,

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay!

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



HƯƠNG TÍCH 

Hương Tích hay Hương Sơn là một ngôi chùa nằm trên núi Hương Sơn, ở phủ Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông. Cảnh chùa thiên nhiên, lối vào quanh co khuất khúc, rừng cây u tịch.

Xem: Hương Sơn.

Thú tự nhiên đâu bằng Hương Tích,

Đủ thanh tao cảnh lịch trăm chiều.

(Thơ Lê Thánh Tông).



HƯƠNG THÂN 

Hương: Làng quê. Thân: Người có học thức trong làng xóm.

Hương thân là người có văn học trong làng, hay bậc văn thân địa phương.



Đón đưa khắp mặt thiếu ai,

Mấy tòa quan tỉnh mấy người hương thân.

(Nhị Độ Mai).



HƯƠNG THỀ

Do chữ “Hương thệ  ”, tức là đốt hương để thề nguyền với nhau.

Trai gái yêu nhau, thường lập bàn hương án để cùng thề nguyền, hoặc chỉ núi và biển để thề với nhau, nên còn gọi là Hương thề, ý chỉ tình duyên trai gái, hay vợ chồng.

Tái sinh chưa dứt hương thề.

Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.

(Truyện Kiều).



Nào khi lén vẽ mày thục nữ.

Nào khi lo gìn giữ hương thề.

(Nữ Trung Tùng Phận:).



HƯƠNG THÍ 

Hương: Làng quê. Thí: Thi cử.

Việc thi cử ngày xưa, triều đình thường tổ chức ở các tỉnh cứ ba năm mở một khoa thi để chọn cử nhân và tú tài, gọi là “Hương thí”.



Mấy khoa hương thí không đâu cả,

Ba luống vườn hoang bán sạch rồi.

(Thơ Trần Tế Xương).



HƯƠNG TRÔI DÒNG LÀ

Hương trôi: Hương sắc bỏ trôi theo dòng nước. Dòng là: Dòng nước do ánh trăng chiếu xuống như một dải lụa trắng uốn khúc, dòng lụa trắng.

Hương trôi dòng là ý muốn nói hương sắc tàn phai như dòng nước chảy.



Phận sao phận bạc như vôi,

Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là.

(Nữ Trung Tùng Phận).



HƯƠNG TRỜI

Bởi chữ “Thiên hương  ” tức là cành hoa thơm của trời. Do câu trong Tình Sử: Thiên hương nhất chi  , tức là một cành hương thơm của trời. Ý chỉ người đàn bà đẹp đẽ.

Hương trời là chỉ người con gái đẹp, có hương thơm trời ban cho, tức người có hương sắc.

Xem: Thiên hương.



Một vẻ nhìn xem một não nùng,

Hương trời khôn dấu dưới mây lồng.

(Truyện Vương Tường).



HƯƠNG XẠ 

Như chữ “Mùi xạ”.



Hương: Mùi thơm. Xạ: Một loài hươu, có chứa chất thơm nằm dưới bụng..

Hương xạ hay xạ hương là một chất thơm lấy trong loài xạ (Như hươu nai). Ngày xưa người ta dùng xạ hương để ướp áo, nệm, mền và dùng làm thuốc trị bịnh. Xem: Mùi xạ.



Than rằng gác phụng đài tiên,

Chớ nào hương xạ bỗng liền tanh hôi.

(Hoài Nam Khúc).



Lửa đâu thấp thoáng trong rèm,

Khi đưa hương xạ, khi đem khói tùng.

(Mai Đình Mộng Ký).



HƯỚNG BÌNH CHI NGUYỆN 

Nguyện vọng của Hướng Bình.

Tên là Hướng Tường, tự Tử Bình, người Đông Hán, thích hưởng nhàn không chịu ra làm quan. Sau khi con lớn hết, dựng vợ gả chồng xong, bèn bỏ nhà ra đi, viếng các nơi danh lam thắng cảnh, không trở về nhà nữa. Nhân đó, người đời sau gọi việc dựng vợ gả chồng cho con cái là “Hướng Bình chi nguyện”.

HƯỚNG DƯƠNG 


Hướng: Quay về phía. Dương: Mặt trời.

Hướng dương là hoa quỳ, một loài hoa có màu vàng, buổi sáng luôn hướng về phía mặt trời, tức hướng đông, chiều hướng tây.

Cổ Thi có câu: Huỳnh hoa linh lạc vô nhân khán, độc tự khuynh tâm hướng thái dương  , , nghĩa là Hoa vàng rời rã không ai thấy, chỉ tự một mình nghiêng lòng theo bóng mặt trời. Ý muốn nói mình có lòng trung trinh tự mình biết không ai hay.

Hướng dương lòng thiếp như hoa,

Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Ở đây nương náu bồ đề,

Chăm chăm một tấm lòng quỳ hướng dương.

(Truyện Phan Trần).



Bình dương nhật nguyệt rạng kiêu,

Tấm lòng quì, hoắc cũng đều hướng dương.

(Quốc Sử Diễn Ca).

HƯƠU TẦN

Tức là con hươu của nhà Tần. Chỉ thiên hạ hay ngôi vua của nhà Tần.

Hán Thư viết: Tần thất kỳ lộc, thiên hạ công trục chi  鹿 , nghĩa là nhà Tần mất con hươu, thiên hạ cùng đuổi đi bắt.

Hươu Tần hay đuổi hươu chỉ ngôi vua, hoặc chỉ thiên hạ.



Phụng Thuấn, lân Nghiêu, tuồng trước nát,

Hươu Tần, rắn Hán, thói sau dời.

(Dương Từ Hà Mậu).



Chim Việt ngựa Hồ lơ láo đó,

Hươu Tần yến Tạ lạc loài mô?

(Hoài Nam Khúc).



Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối,

Vì lo khỉ Sở mới dùn da.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



HƯƠU HÀM CỐC

Hàm Cốc là tên một cửa ải nhà Tần. Sau khi thấy nhà Tần bạo ngược, sáu nước chư hầu nổi dậy phá cửa ải Hàm Cốc, và tiêu diệt nhà Tần.

Hươu Hàm Cốc ý muốn nói hươu nhà Tần.

Xem: Hươu Tần.



Ba thước gươm trở lại chợ Hoài Âm,

Hươu Hàm Cốc tưởng đinh ninh nằm góc ghế.

(Hàn Vương Tôn Phú).



HƯƠU TẦN RẮN HẮN

Hươu Tần là con hươu của nhà Tần. Hán Thư chép: Tần thất kỳ lộc, thiên hạ công trục chi  鹿, , nghĩa là nhà Tần mất con hươu, thiên hạ cùng đuổi bắt. Hươu Tần hay đuổi hươu chỉ ngôi vua, hoặc chỉ thiên hạ.

Rắn Hán là con rắn của nhà Hán. Hán Thư chép: Bái Công say rượu, đêm đi ngang qua đầm, có con rắn to chận đường. Bái Công rút gươm chém chết rắn, con rắn đó chính là con của Bạch Đế. Từ khi chém được rắn, Bái Công lấy được giang san, lên ngôi vua, tức Hán Cao Tổ. Rắn Hán hay chém rắn chỉ việc được ngôi vua.

Hươu Tần rắn Hán có ý nói theo đúng như lề lối Nghiêu Thuấn đời trước, đổi bỏ thói tục Hán Tần đời sau.



Phụng Thuấn, lân Nghiêu, tuồng trước nát,

Hươu Tần, rắn Hán, thói sau dời.

(Dương Từ Hà Mậu).



HƯU TRÍ 

Hưu: Nghỉ ngơi, thôi làm việc. Trí: Đến.

Quan, cán bộ, và công chức đến tuổi hạn định phải thôi việc gọi là “Hưu trí”.



Bà những hay có tánh lo xa,

Lo hưu trí về nhà toại hưởng.

(Phương Tu Đại Đạo).



HỮU BẰNG TỰ VIỄN PHƯƠNG LAI

Có bằng hữu từ nơi xa đến.

Do câu nói của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ: Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?  , ? Nghĩa là có những bằng hữu ham mộ mình, từ nơi xa đến thăm, há không vui sao?

Hữu bằng tự viễn phương lai,

Lạc hồ quân tử, lấy ai bạn cùng.

(Thanh Hoá Quan Phong).



HỮU DUYÊN 

Hữu duyên là có duyên. Duyên có nhiều nghĩa:

- Duyên là mối dây ràng buộc vô hình từ kiếp trước, như Duyên tiền định, Duyên phần, Duyên tình.

- Duyên là cái lý do, nguyên do, như duyên khởi.

- Duyên là cái bổ trợ cho nhân thành cái quả, như Nhân duyên.

1.- Hữu duyên có duyên phần gặp gỡ:



Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,

Lấy câu bình thủy hữu duyên làm đề.

(Lục Vân Tiên).

2.- Hữu duyên là có duyên do:

Trực rằng: Lời nói hữu duyên,

Thế trông Kinh sử có tuyền cùng chăng?

(Lục Vân Tiên).

3.- Hữu duyên là có nhân duyên. Theo Phật, người có nhân duyên tức là người có tiền duyên hay duyên tiền định. Ngày nay được hưởng cái duyên tốt đẹp là do kết quả của việc làm đạo đức (Nhân) từ trong kiếp trước.

Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh,

Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.

(Phật Mẫu Chơn Kinh)



HỮU ĐỨC TẤT HỮU LÂN 

Hữu đức: Người có đức. Tất: Ắt là. Hữu lân: Có láng giềng tốt.

Hữu đức tất hữu lân có nghĩa người có đức sẽ có láng giềng tốt.

Luận Ngữ có câu: Đức bất cô tất hữu lân  , nghĩa là người có đức chẳng bị cô độc, ắt sẽ có láng giềng tốt.

Bất tri bất uẩn,

hữu đức tất hữu lân.

(Sãi Vãi).



HỮU HẠNH 

Hữu: Có . Hạnh: May mắn.

Hữu hạnh là có sự may mắn.



Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh,

Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên.

(Phật Mẫu Chơn Kinh)



Kính có công tu nay gặp hội,

Tặng mình hữu hạnh phục quy nguyên.

(Đạo Sử).



HỮU NGU 

Hữu Ngu là tên triều đại của vua Thuấn 2255 đến 2206 trước Tây Lịch, họ diêu, tên Trùng Hoa, một trong năm vị vua thời cổ bên Trung Hoa, gọi là Ngũ đế.

Vua Thuấn là vị vua đời Thượng cổ, được vua Nghiêu nghe tiếng là người hiền, hiếu thảo, nên gả con và nhường ngôi cho, làm vua được 48 năm, không truyền ngôi cho con là Thương Quân, mà nhường ngôi cho vua Võ.

Vua băng tại Thương Ngô, thọ 101 tuổi.



Vua Bàn Cổ mở lò tạo hoá,

hồng mông đà lẽo đẽo thêm xuân;

họ Hữu Ngu khoi mạch sơn xuyên,

cương giới vẫn rành rành như tạc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



Chánh tâm thân mới vẹn đường tu,

Phải sánh đời này tỉ Hữu Ngu.

(Đạo Sử).



HỮU TAM BẤT HIẾU 

Bởi câu: Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại  , , nghĩa là có ba điều bất hiếu, không con là tội nặng. Xuất xứ câu này là của Mạnh Tử. Trong Tứ Thư Tập Chú, Chu Hy chú giải về ba điều bất hiếu rằng: Nhà nghèo, cha mẹ già yếu, mình không mưu tính việc làm để nuôi mẹ, ấy là một bất hiếu. Hùa theo ý muốn chẳng hay để hãm cha mẹ vào việc bất nghĩa, ấy là hai bất hiếu. Không lấy vợ đẻ con, làm tuyệt nòi giống của cha mẹ, ấy là ba bất hiếu.



Hữu tam bất hiếu đã đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngành,

Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.

(Lục Vân Tiên).



HỮU XẠ TỰ NHIÊN HƯƠNG 

Xạ: Một chất có mùi thơm, lấy dưới bụng con chồn, người ta dùng làm thuốc, gọi là Xạ hương.

Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: Hữu xạ tự nhiên hương hà tất đương phong lập  , , là có xạ tự nhiên thơm, lựa phải ra đứng trước gió.

Nghĩa bóng: Người có tài đức tự nhiên thiên hạ biết, không cần phải khoe khoang.

 

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...