G
GÀ HẠC KHÁC
NGÔI
Gà, hạc khác địa vị nhau, ý nói người hèn kẻ sang.
Gà
lồng hạc nội, gà vì ham ăn, phải cam chịu cảnh nhốt lồng, hạc tuy bụng đói,
được tự do ngoài đồng nội. Gà hạc được ví với hai hạng người: Kẻ tầm thường,
người quý phái, kẻ ham danh, người ẩn dật…
Cho hay gà, hạc, khác ngôi,
Cây hiền, trái báu, biết mùi, mấy ai?
(Dương Từ Hà Mậu).
GÀ LỒNG HẠC
NỘI
Do chữ “Lung kê dã hạc 籠 雞 野 鶴” tức là gà bị nhốt trong lồng, còn hạc thì tung bay ngoài đồng nội, ý muốn ví kẻ bị danh lợi ràng buộc như gà lồng, người thì thoát tục được tự do như hạc nội.
Cổ
ngữ có câu: Lung kê hữu mễ thang oa cận, Dã hạc vô lương thiên địa
khoan 籠 雞 有 米 湯 堝 近, 野 鶴 無 糧 天 地 寬,
nghĩa là gà lồng có lúa ăn hằng ngày, mà nồi nước sôi cận kề, không biết bị giết
ngày nào; chim hạc ở nội đồng, tuy bữa đói bữa no, nhưng trời đất rộng thinh, mặc
tình bay lượn.
Khuyên chàng sớm nghĩ lấy nao,
Gà lồng hạc nội bên nào là hơn?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
GÀ LUỘC
Gà luộc tức gà đem luộc lại dùng để ví người đàn bà đã có chồng lại cải giá.
Hạ qua dám ước lại xuân,
Dễ hầu gà luộc mấy
lần nữa sao.
(Truyện Trinh Thử).
GÀ LỮ GÁY CÀN
Gà Lữ: Tức chỉ bà Lữ Hậu. Gáy càn: Gáy bừa bãi,
không chính đáng.
Gà Lữ gáy càn tức là nói Lữ Hậu là người đàn bà làm càn, soán ngôi nhà Hán, cầm quyền trị dân là một điềm xấu cho đất nước, chẳng khác gì gà mái mà gáy là điềm chẳng lành.
Xem:
Lữ Hậu.
Gặp khi gà Lữ gáy càn,
Chia đôi Hán, Việt lại toan sinh lòng.
(Quốc Sử Diễn Ca).
GÀ NGŨ ĐỨC
Gà có năm đức tính.
Do
Hàn Thi Ngoại Truyện chép: Gà có năm đức tính: 1- Có ăn, đều gọi nhau là
“Nhân”, 2- Có chí phấn đấu hăng hái là “Dũng”, 3- Gáy đúng giờ là “Tín”, 4-
Chân có cựa sắt là “Võ”, 5- Đầu có mào đỏ là “Văn”.
Này này! Gà ngũ đức thẳm sâu,
Nhân, dũng, tín, võ, văn gồm đủ.
(Lục Súc Tranh Công).
GÃ CÔNG KHANH
Công khanh do “Tam công cửu khanh 三 公 九 卿”. Tam công gồm: Thái sư, Thái phó, Thái bảo. Cửu khanh là: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Trung tể, Tư đồ, Tôn bá, Tư mã, Tư khấu và Tư không.
Gã công khanh chỉ những vị quan to có quyền cao chức trọng trong triều đình.
Xem: Công khanh.
Mồi phú quí dữ làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã
công khanh.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
GÃ NỊNH
Tức là Ninh Thích (Hay Nịnh Thích), một hiền thần của vua Tề Hoàn Công đời Chiến Quốc. Thời hàn vi, Nịnh Thích đi kéo xe mướn và chăn trâu ở núi Dao Sơn. Sau được Quản Trọng giới thiệu, Tề Hoàn Công phong Ninh Thích làm quan Đại Phu, giúp cho nước Tề nhiều công lớn.
Xem:
Ninh Thích.
Mảnh áo tơi lớp sớp trong mưa,
Ca Thanh thản quyến đàn trâu gã Nịnh.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
GÃ TÀO
Tức Tào Thực, tự là Tử Kiến, con của Tào Tháo, em của Tào Phi, là người tài hoa, thơ ca rất đặc sắc, đáng được coi là đệ nhất thi nhân trong hai đời Tần, Hán và mở đường cho lối thơ diễm lệ đời Lục Triều.
Gã
Tào chỉ người có tài văn chương thi phú.
Kể điều tài mạo cũng ngoan,
Gã Tào kiếp trước, chàng Phan phen này.
(Quan Âm Thị Kính).
GÁC ĐẰNG
Một cái gác được xây dựng tại Hàng Châu, một nơi danh lam thắng cảnh của Trung Quốc. Gác nầy do Đằng Vương Lý Nguyên Anh đã xây dựng, lấy hàm tước vua phong để đặt tên gác: Đằng Vương Các.
Xem:
Đằng Vương Các.
Hay đâu cơ hội còn dành,
Gác Đằng lại nhủ gió thanh đem đường.
`(Hoa Tiên Truyện).
Nỉ non chàng mới gạn rằng:
Bấy lâu mượn gió gác Đằng truyền
hơi.
(Truyện Phan Trần).
Đưa duyên nhờ có gác Đằng,
Đành hay con tạo nhắc bằng đồng
cân.
(Truyện Trinh Thử).
GÁC ĐẰNG ĐƯA
DUYÊN
Nói tích Vương Bột, nhà thơ đời Đường nhờ duyên của gió to đưa thuyền đến gác Đằng Vương ở đất Hồng Châu, mà làm bài tự rất nổi tiếng.
Xem:
Gác Đằng Vương.
Buồm lan nhẹ cánh lâng lâng,
Hay đâu mượn gió gác Đằng đưa duyên.
(Hương Sơn Hành Trình)
GÁC ĐẰNG
VƯƠNG
Đằng Vương là hàm tước vua nhà Đường phong cho Lý Nguyên Anh. Gác Đằng Vương là cái gác do Đằng Vương Lý Nguyên Anh xây dựng khi còn làm thứ sử đất Hồng Châu. Nơi đây, Vương Bột nhờ gió đưa đến kịp lúc để dự yến tiệc và làm bài “Đằng Vương các tự” rất nổi tiếng.
Hữu duyên đến gác Đằng
Vương,
Quên quê Phúc Kiến nhớ đường
An Nam.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
GÁC ĐƯỜNG
Tức là cái gác của vua Đường Thái Tông cho vẽ tượng các vị công thần ở Lăng Yên Các để lưu niệm công lao của công thần.
Xem:
Gác khói.
Rồng mây một hội nghìn thu,
Gác Đường vẽ mặt, yến Chu thỏa lòng.
(Hoa Tiên Truyện).
GÁC KHÓI
Dịch từ chữ “Lăng Yên Các 凌 煙 閣”, nghĩa là cái lầu gác cao vượt lên trên từng mây khói. Gác này do vua Đường Thái Tông dựng lên để vẽ tượng thờ các vị công thần.
Xem:
Gái khói đài mây.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
GÁC KHÓI ĐÀI
MÂY
Bởi chữ “Vân đài yên các 雲 臺 煙 閣”.
Gác khói tức Lăng Yên Các, một cái lầu gác cao vượt lên trên từng mây khói. Gác này do vua Đường Thái Tông dựng lên để vẽ tượng thờ các vị công thần.
Đài mây tức Vân đài, là tên một cái cung đời nhà Hán được xây rất cao, vào đời vua Hiền Tông, mới vẽ tượng 28 công thần vào vách ở phía nam cung vân đài.
Gác
khói đài mây chỉ nơi ghi công các tướng sĩ.
Phận dù không gác khói đài mây,
Danh đã dậy ngàn cây ngọn cỏ.
(Trận Vong Tướng Sĩ).
GÁC LÂM XUÂN
Gác Lâm Xuân là một cái gác do Trần Hậu Chúa lập, làm toàn bằng gỗ trầm hương. Nơi đó là chỗ hội tựu của các cung nữ có văn học cùng hát bài “Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa”.
Vườn Tây Uyển khúc trùng Thanh
Dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
GÁC LÂN
Gác xây hình con kỳ lân, mà triều đình ngày xưa dùng để ghi khắc tên họ và công nghiệp của các vị công thần, cũng như đài tưởng niệm các tướng sĩ.
Xem:
Gác phượng đài lân.
Việc nước một mai công ngõ vẹn,
Gác lân danh tiếng dõi lâu xa.
(Thơ Trần Trùng Quang).
GÁC LÊ
Theo Thông Chí, Lưu Hướng đời Hán là người học rộng, thông kinh sử, giỏi thiên văn được nhà vua chọn giúp việc hiệu thư tại gác Thiên Lộc.
Tương
truyền một đêm kia, vì sao Thái Ất biến hình một cụ già mặc áo vàng, chống gậy
lê đến gác Thiên Lộc tìm Lưu Hướng và cho một số sách thiên văn địa lý.
Bút son vâng mệnh đan đình,
Gác lê lần giở sử xanh muôn đời.
(Quốc Sử Diễn Ca).
GÁC NGUYỆT
Gác nguyệt là cái gác có ánh trăng chiếu vào của các bậc tao nhân mặc khách, lên đó để hóng gió, thưởng trăng. Gác nguyệt còn là nơi người đẹp ở.
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt,
Lầu hoa kia phảng phất mùi
hương.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Khi ấp mận ôm đào gác
nguyệt,
Lúc cười sương cợt tuyết đền
phong.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Hai chữ tin hồng trao gác
nguyệt,
Một roi vó ký tếch đường mây.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
GÁC PHƯỢNG
Bởi chữ “Phượng các 鳳 閣”. Phượng: Một loài linh điểu nằm trong tứ linh: Long, lân, quy, phượng. Các: Lầu gác.
Gác
phượng là gác vẽ hình chim phượng, chỉ lầu gác của vua, ngoài ra còn dùng để
chỉ nơi ghi khắc công nghiệp các công thần.
Đồng hưu rờ rỡ thẻ khuyên,
Công ghi gác phượng, danh truyền đài lân.
(Truyện Phan Trần).
Trên gác phượng,
dưới lầu oanh,
Gối du tiên hãy rành rành song
song.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
GÁC PHƯỢNG
ĐÀI LÂN
Do chữ “Phượng các lân đài 鳳 閣 麟 臺”.
Gác phượng: Gác vẽ hình chim
phượng. Đài lân: Đài xây hình kỳ lân.
Gác phượng đài lân là hai nơi mà triều đình ngày xưa dùng để ghi khắc tên họ và công nghiệp của các vị công thần, cũng như đài tưởng niệm các tướng sĩ.
Đồng hưu rờ rỡ thẻ khuyên,
Công ghi gác phượng,
danh truyền đài lân.
(Truyện Phan Trần).
GÁC QUYỂN
Quyển là ống sáo. Gác quyển là một cái gác của nàng Công chúa Lộng Ngọc, con vua Tần Mục Công thường ngồi thổi sáo, tức là Phụng lầu.
Xem:
Phụng lầu.
Phụng lầu gác quyển chờ tiêu,
Gieo cầu cho đáng, nhiễu điều gói gương.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GÁC TÍA LẦU
SON
Do chữ “Hồng lâu tử các 紅 樓 紫 閣”.
Hồng lâu, tức lầu hồng hoặc lầu son do bởi các nhà phú quý ngày xưa thường hay sơn son hoặc sơn màu đỏ dùng để làm nơi phụ nữ ở.
Tử các, tức gác tía dùng để chỉ nhà quyền quý.
Gác
tía lầu son dùng để chỉ chỗ con gái nhà quyền quý cao sang ở.
Gác tía lầu son thong thả,
Sương sa tuyết bạc dãi mình.
(Nhạc Hoa Linh).
Tuy ra vào gác tía lầu
son,
Song khuya sớm mày châu mặt ủ,
(Nhạc Hoa Linh).
GÁI LỊCH TRAI
THANH
Gái lịch: Con gái lịch sự đẹp
đẽ. Trai thanh: Con trai thanh lịch.
Gái lịch trai thanh là nói trai gái đẹp đẽ, lịch sự.
Phong lưu gái lịch trai
thanh,
Đủ mùi ăn mặc phỉ tình vui
chơi.
(Nam Cầm Khúc).
GAN ỐC ĐỀN
NGHÌ
Lấy nghĩa từ chữ “Can não đồ địa 肝 腦 塗 地” nghĩa là đem gan và ốc bôi xuống đất, ý muốn nói lấy cái chết để đền ơn nghĩa.
Gan
ốc đền nghì là đem gan ốc mà đền ơn nghĩa, ý muốn nói dù chết thảm cũng không
từ.
Chạm xương chép dạ xiết chi,
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây!
(Truyện Kiều).
GAN SẮT
Đồng nghĩa với chữ “Gan vàng”.
Gan
sắt chỉ người có lòng dạ trung trinh, bền chặt như sắt thép. Xem: Gan
vàng.
Nhuộm sao đen rỡ rỡ đuốc lòng son,
Mài chi mỏng trơ trơ phơi gan sắt?
(Nhạc Hoa Linh).
GAN VÀNG DẠ NGỌC
Gan vàng dạ ngọc tức là gan cứng như vàng, dạ chặt như ngọc, dùng để chỉ người có lòng dạ trung trinh, bền vững như vàng ngọc.
Xưa nay mấy kẻ hồng nhan,
Gan vàng dạ ngọc cơ hàn được đâu.
(Truyện Trinh Thử).
GẠN ĐỤC KHƠI
TRONG
Gạn đục: Gạn lọc chất cặn
để bớt đục. Khơi trong: Làm cho nước trở lại trong.
Gạn đục khơi trong là loại bỏ cặn để nước trong trở lại, ý nói loại bỏ cái xấu để khơi dậy điều tốt.
Thân tàn gạn đục khơi
trong,
Là nhờ quân tử khác lòng người
ta.
(Truyện Kiều).
Hỏi ai gạn đục khơi
trong,
Đục trong, trong đục mà lòng
trơ trơ.
(Thơ Bùi Kỷ).
GANG TẤC
Tức là một gang tay, một tấc dùng để chỉ khoảng cách ngắn ngủi.
Trong gang tấc mặt
trời xa bấy,
Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu?
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Dạy rằng: Gang tấc nên
xa,
Thế mà già vẫn còn ngờ rằng ai!
(Nhị Độ Mai).
GÁNH Y
Tức là chiếc gánh của Y Doãn, một vị khai quốc công thần, có công giúp vua Thang đánh đuổi vua Kiệt, diệt nhà Hạ mà lập nên nhà Thương.
Gánh Y là nói gánh vác trách nhiệm trị nước an dân của Y Doãn, một bề tôi hết lòng với dân với nước.
Xem: Y Doãn.
Gió thanh hây hẩy gác vàng,
Thảnh thơi chèo Phó, nhẹ
nhàng gánh Y.
(Hoa Tiên Truyện).
GÀNH LÃ VỌNG
Hay “Gành Lữ Vọng”, tức là gành hay ghềnh đá của ông Lữ Vọng.
Lữ Vọng tức là ông Khương Tử Nha, lúc còn hàn vi ngồi trên một cái gành đá ở sông Vị tại Bàn Khê để câu cá chờ thời. Sau vua Văn Vương nhà Châu đi săn bắn, gặp ông rước về tôn làm thầy.Ông đã giúp cho vua Văn Vương và Võ Vương dựng nên nghiệp nhà Châu.
Xem: Lữ Vọng.
Như tôi còn dựa gành Lữ
Vọng,
Hềm chưa gặp chúa Châu Văn.
(Nhạc Hoa Linh).
GẠO CHÂU CỦI
QUẾ
Bởi chữ “Mễ châu tân quế 米 珠 薪 桂”.
Gạo châu củi quế, tức là gạo quý như hạt châu, củi hiếm như cành quế.
Quốc Sách chép: Tân như quế, thực như ngọc, ngôn tân mễ chi đằng quý 薪 如 桂, 食 如 玉, 言 薪 米 之 騰 貴, tức là củi như quế, đồ ăn như ngọc, nói sự quá mắc của củi gạo.
Tô Tần đến nước Sở ba ngày, mới ra mắt vua Tần, rồi lật đật giã từ đi. Vua nói: Sao chẳng ở lại ít hôm nữa? Tô Tần đáp: Nước Sở món ăn quý như ngọc, củi quý như quế!
Nghĩa bóng: Ý chỉ vật giá đắt đỏ
Càng ngày giá chợ càng cao
Gạo châu củi quế, nhẽ nào bền gan
(Huấn Nữ Ca).
Gạo châu củi quế gặp thời hư,
Biết bấy lâu chờ gặp thói dư.
(Đạo Sử).
GẬY RÚT ĐẤT
Hay “Gậy thâu đường”, “Rồng trúc”, “Trúc long”.
Một
cây gậy bằng tre rất thần thông của Phí Trường Phòng. Cây gậy nầy có thể cỡi
lên đi xa nghìn dặm đường chỉ trong một chốc lát.
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy Tiên.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
GẬY TÍCH TRƯỢNG
Gậy tích trượng 錫 杖 hay thiếc trượng, là cây gậy của các nhà sư, còn gọi là thiền trượng, trên đầu trượng có gắn chuông nhỏ để khi khất thực đến trước nhà rung chuông cho gia chủ biết.
Xem:
Tích trượng.
Mũ tì lư rập tăm tắp vỏ dừa,
đội khi hầu nắng,
Gậy tích trượng chỉn lô nhô đốt trúc,
chống thuở còn sương.
(Thập Giới Cô Hồn).
GẤM THÊU
Bởi chữ “Cẩm tú 錦 繡” tức là gấm thêu, chữ dùng để ca tụng lời nói hoa mỹ hay văn chương đẹp đẽ. Đồng nghĩa với câu thành ngữ “Cẩm tâm tú khẩu”.
Xem:
Cẩm tâm tú khẩu.
Nàng rằng: Vâng biết ý chàng.
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
(Truyện Kiều).
GẤM VÓC BẠC
VÀNG
Gấm vóc: Một loại hàng tốt
và quý, dùng để may mặc. Bạc vàng: Tiền bạc vàng vòng.
Gấm vóc bạc vàng ý nói những thứ quý giá mà con người thường ham muốn.
Chẳng tham gấm vóc bạc
vàng,
Can gì mà phải làm đường nghịch
hung.
(Cai Vàng Tân Truyện).
GẦN ĐIỀU NÊN
LÁNH LẼ HƯ
Theo Nho giáo, con người sinh ra tính vốn lành, vì tập nhiễm xã hội nên tính của con người trở nên bất thiện. Do vậy người xưa dạy phải gần gũi điều nên, xa lánh lẽ hư, tức là thân cận với người lành, việc lành, đặng học hỏi những sở hành hay tánh tình của người thiện; “lánh lẽ hư” tức là tránh xa các thói xấu, trừ bỏ những việc hư tệ.
Tục
ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, ông Thái Công cũng dạy
rằng: Cận chu giả xích, cận mặc giả hắc, cận hiền giả minh, cận tài giả
trí, cận si giả ngu, cận lương giả đức, cận nịnh giả siểm, cận thâu giả tặc 近 朱 者 赤, 近 墨 者 黑, 近 賢 者 明, 近 才 者 智, 近 癡 者 愚, 近 良 者 德, 近 佞 者 諂, 近 偷 者 賊,
nghĩa là gần son thì đỏ, gần mực thì đen, gần người hiền thì sáng, gần người tài
thì trí, gần kẻ ngây thì dại, gần người lành thì có đức, gần người trí thì thông
minh, gần kẻ ngu thì ám muội, gần kẻ nịnh thì bợ đỡ, gần kẻ trộm thì sinh giặc.
Gần điều nên, lánh lẽ hư,
Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.
(Kinh Thế Đạo).
GÒ ĐÔNG BÓNG
DÂU
Gò đông do chữ “Đông ngu 東 隅” là gò bên đông, chỉ mặt trời mọc.
Bóng dâu do chữ “Tang du 桑 榆” nói về cảnh về chiều và cũng ví với người luống tuổi.
Cổ Thi có câu: Thất chi đông ngu, thu chi tang du 失 之 東 隅, 收 之 桑 榆” nghĩa là mất đông ngu, còn thu lại tang du, ý nói trẻ đã lỡ thì còn mong ở tuổi già.
Xa bể Bắc, gió tuôn cũng tới,
Mất gò Đông, gỡ lại bóng
dâu.
(Thơ Lãng Nhân).
GOÁ THÂN
Goá: Người đàn bà có chồng chết, goá chồng, hoặc người đàn ông
có vợ chết. Thân: Thân mình.
Goá thân là tiếng dùng để chỉ người đàn ông hay người đàn bà có vợ hoặc chồng chết, sống một mình.
Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,
Xin hiển linh giúp kẻ góa
thân.
(Kinh Thế Đạo).
Ngồi quạnh quẽ đèn tàn một
bóng,
Chịu góa thân tuyết
đóng song thu.
(Kinh Thế Đạo).
GÓC BỂ CHƠN
TRỜI
Do chữ “Hải giác thiên nhai 海 角 天 涯” dùng để chỉ nơi xa xôi nhứt ở chơn trời.
Xem:
Thiên nhai hải giác.
Từ đây góc bể bên trời,
Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
(Truyện Kiều).
GÓT KIM LIÊN
Bởi chữ “Kim liên bộ 金 蓮 步”, tức là gót sen vàng hay gót sen.
Xưa Đông Hôn Hầu cho đúc hoa sen bằng vàng lát lên mặt đất, bảo Phan Phi bước lên mà đi, rồi khen rằng: Bước chân của nàng sinh ra bông sen vàng. Vì thế, sau người ta thường gọi gót chân người con gái đẹp là kim liên hay liên bộ.
Xem: Gót sen.
Cầu Hồng giậm tiếng hài tợ sấm,
xô bồ dưới nguyệt gót
kim liên,
(Tần Cung Nữ).
GÓT LÂN
Gót chân con kỳ lân.
Bởi chữ “Lân chỉ 麟 趾” trong thiên “Lân chi chỉ”, thuộc phần Chu nam trong Kinh Thi, nói về con cháu vua Văn Vương đều được giáo hoá tốt, chỉ dòng dõi quý phái, hay chỉ sự nối dòng.
Nghĩa bóng: Con quý nối dòng.
Xem:
Lân chỉ.
Phước đà liền nối gót lân,
Phận mình giàu có, thanh bần cũng ưng.
(Dương Từ Hà Mậu).
Tần Khanh đặng nối gót
lân,
Tấm lòng yêu mến phu nhân khôn
cùng.
(Dương Từ Hà Mậu).
GÓT LÂN CHỈ
Lân chỉ 麟 趾: Ngón chân con kỳ lân. Cũng là
tên một thiên trong kinh thi nói về con cháu vua Văn Vương nhà Chu được giáo
hoá tốt.
Gót lân chỉ ý nói việc nối dòng, hay chỉ dòng dõi quý phái.
Gót lân chỉ mấy hàng lấm chấm,
Đầu mũ mao mình tấm áo gai.
(Ai Tư Vãn).
GÓT NGỌC
Thân người phụ nữ thường được ví với ngọc ngà, vì vậy, “Gót ngọc” là gót chân của người con gái đẹp.
Chúng tôi là gái tơ đào,
Khoan khoan gót ngọc bước
vào thềm hoa.
(Thanh Hoá Quan Phong).
GÓT SEN
Chỉ gót chân người con gái quý phái.
Do
điển tích: Thời Nam Bắc triều, vua Nam Tề là Đôn Hôn Hầu có người vợ yêu là
bà Phan Phi, Vua truyền lót hình hoa sen bằng vàng trên nền gạch được
trải trong cung, để mỗi bước đi của bà Phan Phi có bông sen nở dưới đất.
Tiếng vàng vội gọi con hầu,
Gót sen nhè nhẹ dạo mau về nhà.
(Hoa Tiên Truyện).
Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu,
Ghẹo hoa kia lại diễu gót
sen.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Xông mai chợt động bóng người,
Vẻ lan vừa chán vội dời gót
sen.
(Mai Đình Mộng Ký).
Nhà vàng phận quý khi thơ,
Gót sen dầu lịch cũng nhờ vẻ xuân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GỐC KIỀU
Bởi chữ “Kiều mộc 喬 木” là cây kiều, một loại cây cao và to lớn.
Gốc kiều dùng để chỉ người cha.
Xem: Kiều tử.
Gốc kiều mong tựa bóng chung,
Vầng cao biết có rủ lòng đến
chăng.
(Ngọc Kiều Lê).
GỐC PHẦN
Tức gốc cây phần 枌 là một loại cây cùng với cây du 榆, thường được trồng ở làng quê. Nên cây phần du được dùng để chỉ chỗ quê hương, làng xóm.
Xem:
Phần du.
Rộng thương còn mảnh hồng quần,
Hơi tàn được thấy gốc phần là may!
(Truyện Kiều).
Gốc phần dù lại dạo qua,
Cành vin chẳng kẻo bẻ hoa tay
người.
(Hoa Tiên Truyện).
GỐC TỬ
Gốc cây tử, tức là gốc cây thị, một loại cây ngày xưa thường trồng ở đồng quê, biểu thị làng xóm, chỉ quê hương xứ sở.
Thơ Cao Thích: Đệ huynh mạc tương kiến, thân tộc viễn phần tử 弟 兄 莫 相 見, 親 族 遠 枌 梓, nghĩa là anh em không gặp được nhau, họ hàng thân thích đã xa làng xóm.
Xem: Tử phần.
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã
vừa người ôm?
(Truyện Kiều).
GỐC THUNG
Bởi chữ “Thung thụ 樁 樹” là một loại cây to, sống lâu, lấy 800 năm làm một mùa xuân, 800 năm làm một mùa thu, mượn để tượng trưng cho tuổi thọ.
Tục ngày xưa mong cha được trường thọ, cho nên gọi người cha là “Gốc thung” hay Thung đường.
Xem: Xuân đường, xuân đình.
Chị nhờ em gánh hiếu trung,
Chồi huyên gần cỗi, gốc
thung gần già.
(Nhị Độ Mai).
GỐI ẤM CHĂN
ÊM
Tức gối chăn êm ấm, dùng để chỉ cảnh vợ chồng yêu thương, hoà thuận lẫn nhau.
Gối
ấm chăn êm đồng nghĩa với thành ngữ chăn êm nệm ấm.
Mấy thu gối ấm chăn êm,
Cửa cài then nghĩa, phòng niêm khoá tình.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
GỐI CÒN NỮA
NGUYỆT
Tức là chiếc gối đôi của vợ chồng chỉ còn nửa mảnh (như nửa vầng nguyệt), ý nói người chồng đã ra đi rồi, chỉ còn người vợ với nửa chiếc gối trong cô phòng. Cổ thi có câu: Thuỳ bả kim bôi phân lưỡng đoạn, Bán trầm thuỷ để bán phù không 誰 把 金 杯 分 兩 斷, 半 沉 水 底 半 浮 空, nghĩa là ai đem chén vàng phân hai mảnh, nữa chìm đáy nước, nửa trên không.
Trường đình giục thảm canh
thâu,
Gối còn nửa nguyệt đỡ đầu phòng thu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GỐI CHĂN
Tức là cái gối, cái chăn (Cái mền). Trong văn chương người ta thường dùng chữ “Gối chăn” để chỉ việc ân ái và tình yêu hoà hợp giữa vợ chồng.
Còn ta luống những đoạn trường,
Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GỐI DU TIÊN
Do chữ “Du tiên chẩm 游 仙 枕” là gối du tiên.
Theo
sách “Khai Thiên Di Sự” thì nước Qui Tư xưa kia có đem dâng cho vua Đường Minh
Hoàng một cái gối kết bằng mã não, màu sắc rực rỡ. Và cho biết rằng ai muốn
mộng lên cảnh Tiên thì nằm đặt đầu lên gối ấy, ắt được như nguyện. Gối ấy được
vua Đường gọi là “Du Tiên Chẩm”.
Trên gác phượng, dưới lầu oanh,
Gối du Tiên hãy rành rành song song.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
GỐI LOAN
Gối loan là cái gối có thêu hình con chim loan, dành cho người vợ nằm, người chồng thì thêu gối phụng. Gối loan phụng là cặp gối dành cho vợ chồng mới cưới nhau. Chỉ tình yêu khắng khít.
Gối
loan còn dùng để chỉ nỗi nhớ lứa đôi.
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Hơi mảnh áo còn cầm đặng ngữi,
Gối loan gìn từ buổi kết duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GỐI ÔN CÔNG
Gối của Ôn Quốc Công Tư Mã Quang nằm.
Tư Mã Quang lúc chết được tặng Ôn Quốc Công, người đời Tống đỗ Tiến sĩ, làm quan dưới đời Nhân Tông. Vì nhận thấy phép tắc do Vương An Thạch đặt ra có hại, liền phản đối, nên bị đày đến đất Lạc. Sau Cao Thái Hậu giữ việc triều chính, Quang được phong làm Tể tướng, thay đổi phép tắc của Vương An Thạch, được tám tháng thì mất.
Tư Mã Quang là người rất ham học, khi ngủ thường hay gối trên một cái gối bằng cây đẽo tròn, nếu ngủ quên gối lăn làm cho tỉnh giấc, trở dậy đọc sách lại.
Nghĩa
bóng: Chỉ sự ham học.
Bởi chàng đèn sách mỏi mê,
Gối Ôn Công thủa giấc hòe thiu thiu.
(Quan Âm Thị Kính).
Đèn Hàn Tử, gối Ôn
công,
Thức nhắp chẳng lìa nhật dạ.
(Thập Giới Cô Hồn).
Màn Đổng Tử gối Ôn
Công,
Lớn lên em phải ra công học
hành.
(Thơ Nguyễn Khuyến).
GỐI PHỤNG
Hay “Gối phượng”.
Gối thêu hình chim phượng, cùng với gối loan là cặp gối trong loan phòng dành cho vợ chồng nằm để chỉ tình nghĩa vợ chồng khắng khít, bền chặt.
Âu Dương Tu có câu: Tịch mịch phượng chẩm cô nan túc 寂 寞 鳳 枕 孤 難 宿, nghĩa là đêm tịch mịch, lẻ loi gối phượng nên khó ngủ yên.
Chừ sao để lụn canh gà,
Vắng hoe gối phụng,
nguyệt tà hoa thưa.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GỐI PHƯỢNG
CHĂN LOAN
Loan phượng là loài chim thường được dùng để ví với vợ chồng hoà thuận đẹp đôi. Gối chăn chỉ việc ân ái của vợ chồng.
Gối phượng chăn loan dùng để nói gối, chăn của đôi vợ chồng trẻ yêu thương hoà thuận nhau.
Xem: Chăn loan gối phượng.
Kẻo tôi vò võ môn phòng,
Lẽ loi gối phượng lạnh
lùng chăn loan.
(Hoa Tiên Truyện).
GỐI TIÊN
Tức là “Gối du tiên”, chiếc gối do nước Quy Tư dâng cho vua Minh Hoàng kết bằng mã não, khi nằm ngủ mộng thấy lên cảnh tiên.
Xem:
Gối du tiên.
Buông màn nhẹ bước vào trong,
Gối tiên trằn trọc luống dong canh dài.
(Hoa Tiên truyện).
GỐI TUYẾT NẰM
SƯƠNG
Tức là nằm dưới sương, gối trên tuyết, ý nói chịu sự gian nan, vất vả, tức chịu cảnh khổ cực.
Thương sinh dân gối
tuyết nằm sương,
Ngoài mới triệu về chư tướng.
(Hoài Nam Khúc).
GỘI TỤC TẦM
THANH
Gội tục: Tắm gội bụi tục. Tầm thanh: Đi tìm chốn trong
sạch.
Gội tục tầm thanh tức là trúc bỏ điều trần tục để đi tìm chốn thanh tĩnh, ý chỉ xa lánh cuộc đời bụi bặm để được về cõi Thiêng liêng.
Gội tục trà thường pha nước tuyết,
Tầm thanh trong vắt tiễn chè mai.
(Quốc Âm Thi Tập).
GÔNG KỀM
Gông: Vật mang vào cổ để
kẹp cổ và hai tay. Kềm: Một loại hình cụ dùng để kềm kẹp.
Gông kềm là những dụng cụ dùng để trói buộc, tra khảo các tội phạm ở nơi Dương thế, và cũng là những hình cụ dùng cho các tội hồn ở Âm phủ.
Ngày sau đọa chốn âm ty,
Gông kềm khảo kẹp ích gì rên la.
(Kinh Sám Hối).
Nơi Địa ngục gông kềm sẵn
đủ,
Để răn loài dâm phụ gian
phu,
(Giới Tâm Kinh).
GÔNG TRÓNG
Gông: Một tấm gỗ nặng
có khoét lỗ dùng để tròng vào cổ và tay tội nhân để giải đi.
Tróng: Cái cùm để khóa
chơn người có tội.
Gông trống là hình cụ của các quan ngày xưa, dùng để cùm chân giải tội phạm đi, và cũng là những hình cụ dùng cho các tội hồn ở nơi Âm phủ.
Xem:
Trống gông.
Âm đài gông trống sẵn sàng,
Chờ khi thác xuống cổ mang hành hình.
(Kinh Sám Hối).
GỬI MAI
Bởi chữ “Ký mai 寄 梅” là gởi cành mai mùa xuân cho phu trạm.
Nghĩa bóng: Để chỉ tin tức.
Do bài thơ đời nhà Đường của Lục Khải như sau: Chiết mai phùng dịch sứ, Ký dữ Lũng Đầu nhân. Giang Nam vô sở hữu, Dao tặng nhất chi xuân, nghĩa là bẻ mai vừa gặp trạm, Lũng Đầu gởi cố nhân. Giang Nam gì chẳng có. Xa tặng một cành xuân.
Xem:
Dịch xuân.
Rằng: Từ bẻ liễu lên đường,
Gửi mai sao hãy trễ tràng đến nay.
(Hoa Tiên Truyện).
GƯƠM ĐÀN NỬA
GÁNH
Nói chí tung hoành của kẻ nam nhi, với thanh gươm và cây đàn quảy đi khắp sông hồ.
Do
câu thơ của Hoàng Sào đời nhà Đường: Bán kiên cung kiếm bằng thiên
túng, Nhất trạo giang sơn tận địa duy 半 肩 弓 劍 憑 天 縱, 一 棹 江 山 盡 地 維,
nghĩa là nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp thiên hạ, một mái chèo mà đi khắp
non sông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
(Truyện Kiều).
GƯƠM HUỆ
Bởi chữ “Huệ kiếm 慧 劍” tức cây gươm hay cây kiếm trí huệ.
Theo
nhà Phật, Trí huệ được ví như một lưỡi gươm (hay lưỡi kiếm) sắc bén, có thể
chiến thắng được giặc thất tình lục dục, và có thể cắt đứt hết mọi phiền não
trói buộc vào con người.
Cứ nương dưới máy linh cơ Tạo,
Gươm huệ đưa trị xảo trừ tà.
(Kinh Thế Đạo).
Cầm gươm huệ chặt
tiêu oan trái,
Dìu độ quần sanh diệt quả nhân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
GƯƠM HÙNG
Bởi chữ “Hùng kiếm 雄 劍” là thanh gươm trống.
Ngày xưa gươm thư hùng là hai cây gươm trống mái do Can Tương và vợ là Mạc Da rèn. Gươm trống là Hùng kiếm, gươm mái là Thư kiếm.
Ở đây, gươm hùng dùng để chỉ người chồng.
Xem:
Thư hùng kiếm.
Gươm thư giúp sức gươm hùng,
Điểm tô nghiệp cả con rồng cháu tiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GƯƠM NGƯỢC
CÁN
Tức là cầm cây gươm ngược, đưa cán cho người nắm, ý nói giao quyền bính cho kẻ khác.
Hán
Thư có câu: Đảo trì Thái a, thụ sở kỳ bính 倒 持 太 阿, 受 楚 其 柄,
nghĩa là cầm ngược gươm Thái a để trao cán cho nước Sở.
Gươm ngược cán còn đem xuống dưới,
nghĩa lý nào trời đất còn dong?
Lưới đứt giềng quân đuổi được quan,
chính sự ấy xưa nay cũng lạ!
(Hịch Tây Sơn).
GƯƠM THẦN HUỆ
Cũng như chữ “Gươm huệ”, là lấy trí huệ làm một cây gươm thiêng liêng dùng để chặt đứt mọi oan khiên, phiền não và thất tình lục dục đã ràng buộc con người.
Xem:
Gươm huệ.
Gần điều nên, lánh lẽ hư,
Nương gươm thần huệ đặng trừ nghiệt căn.
(Kinh Thế Đạo).
Trao gươm Thần huệ đôi
lời dặn,
Chặt đứt oan khiên giữ dạ lành.
(Đạo Sử).
GƯƠM THƯ
Bởi chữ “Thư kiếm 雌 劍” là thanh gươm mái.
Thư hùng kiếm là hai cây gươm trống mái do vợ chồng người thợ rèn giỏi là Can Tương và Mạc Da rèn nên. Gươm trống là gươm hùng, gươm mái là gươm thư. Gươm thư ở đây chỉ người vợ.
Xem: Thư hùng kiếm.
Gươm thư giúp sức gươm hùng,
Điểm tô nghiệp cả con rồng
cháu tiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GƯƠM TRÍ HUỆ
Bởi chữ “Huệ kiếm 慧 劍”.
Theo Phật, vì vô minh mà con người phải chịu mãi luân hồi, nên cần trau luyện trí huệ như một cây gươm để chặt đứt thất tình lục dục và diệt những thứ phiền não oan trái.
Xem: Huệ kiếm.
Nhuộm áo nâu sồng về Cực Lạc,
Trau gươm trí huệ phủi
đai cân.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
GƯƠNG CỘT ĐŨA
Lấy sự tích “Cột bó đũa” để làm gương cho việc đoàn kết là sức mạnh.
Do
tích có một người cha, muốn dạy các con về tình đoàn kết, bèn lấy bó đũa kêu
mỗi đứa con bẻ một chiếc, tất cả đều bẻ gãy được hết. Ông bèn cột lại thành một
bó, đưa cho từng đứa con bẻ, thì không ai bẻ gãy được. Ông dạy rằng: Từng chiếc
đũa các con bẻ gãy được, nếu nhập chung một bó, các con không bẻ nổi. Như vậy,
sự cột đũa thành một bó là dạy cho các con gương đoàn kết gây sức mạnh đó.
Của chia tư nhập lại làm công,
Gương cột đũa, gương hay dùng phải dịp.
(Phương Tu Đại Đạo).
GƯƠNG LẦU TẦN
Do điển nhà Tần, vua Thuỷ Hoàng có cái gương thật lớn, gọi là “Chiếu đởm kính” 照 膽 鏡, nghĩa là gương soi ngũ tạng lục phủ, tức là soi thấy các bộ phận thân thể người gian ngay. Vua thường dùng soi lòng các cung nữ.
Thoa cung Hán thuở ngày xuất
giá,
Gương lầu Tần dấu đã soi chung.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
GƯƠNG LOAN
Do chữ “Loan kính 鸞 鏡”. Theo sách Dị Uyển, Diệm Tân Vương có nuôi một con chim loan, đã ba năm nay mà không bao giờ hót. Vợ của ông bảo muốn chim loan hót thì phải lấy một tấm gương cho nó soi, nó thấy hình trong gương tưởng là gặp đôi bạn bèn hót lên thánh thót. Nhưng đến đêm chim không thấy bạn nữa rồi kêu nhảy buồn bã cho đến chết.
Vương
Bột có câu: Nguyệt khai loan kính, hoài tinh giám dĩ phân hình 月 開 鸞 鏡, 懷 精 鑑 以 分 形,
nghĩa là gương mở kính loan, soi bóng tinh tường mà lẻ phân hình dạng.
Gương loan phảng phất hồn cung quế,
Giấc bướm mơ màng khách trướng sa.
(Thơ Chu Mạnh Trinh).
Trước cố cung treo nửa mảnh gương
loan,
vầng trăng he hé,
Sau cổ tự gửi mấy phong da ngựa,
đám cỏ lù rù.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
GƯƠNG NGA
Gương nga là cái gương của Hằng Nga, vợ của Hậu Nghệ. Tục truyền, Hậu Nghệ xin được thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga trộm uống, bay lên cung trăng, biến thành vị tiên nữ rất đẹp và trẻ mãi không già.
Nghĩa bóng: Mặt trăng, bóng trăng.
Xem: Hằng Nga.
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng
bóng sân.
(Truyện Kiều).
Lưu liên khi lại huỳnh song,
Gương nga đã gác non đông nửa vừng.
(Hoa Tiên Truyện).
Tai nghe văng vẳng bốn bề,
Gương nga vằng vặc soi hè quế lan.
(Nhân Nguyệt Vấn Đáp).
GƯƠNG TUYẾT
GIÁ
Nói gương trinh liệt của người phụ nữ.
Gương
tuyết giá là chỉ lòng trong sạch sáng đẹp của người đàn bà đối với chồng, trong
như tuyết, sạch như giá.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GƯƠNG THIỀM
Gương con thiềm thừ, chỉ mặt trăng.
Do
điển vợ Hậu Nghệ là Hằng Nga lấy trộm thuốc trường sanh uống, bay lên mặt
trăng, tương truyền sau hoá thành con thiềm thừ, tức con cóc. Vì vậy, “Gương
thiềm” hay “Bóng thiềm” cũng dùng chỉ mặt trăng.
Bóng thỏ ven mây lồng đất trắng,
Gương thiềm đáy nước vẽ trời xanh.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
GƯƠNG THU
Gương: Gương soi để
trang sức, chỉ người con gái. Thu: Mùa thu, ví với người luống tuổi.
Gương thu, như chữ phòng thu, chỉ người đàn bà con gái luống tuổi.
Xem:
Phòng thu.
Rủi duyên gặp phải thường phu,
Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GƯƠNG VỠ LẠI
LÀNH
Do chữ “Phá kính trùng viên 破 鏡 重 圓”.
Từ Đức Ngôn là phò mã của Lạc Xương Công chúa nước Trần. Khi nước nhà gặp lúc loạn lạc, giặc cướp phá thành, vợ chồng Đức Ngôn phải đi lánh nạn, mỗi người giữ nửa mảnh gương soi mặt, dặn rằng cứ đến ngày nguyên tiêu hai người đều đem nửa mảnh gương ra thành Trường An bán đặng tìm nhau.
Công chúa bị Việt Công bắt ép làm vợ, còn Phò mã thì chạy thoát đặng. Năm sau đến ngày rằm tháng giêng Đức Ngôn đem mảnh kiếng ra chợ Trường An bán, thì thấy có người cũng bán nửa mảnh gương như mình, ráp lại thì hai mảnh ăn khớp nhau như một. Đức Ngôn biết là gương của vợ mình bèn làm một bài thơ gởi cho người bán gương đem về cho vợ. Lạc Xương công chúa đọc xong hoà lên khóc, Việt Công biết được bèn vời Đức Ngôn đến trả vợ lại. Hai vợ chồng sum họp như hai mảnh “gương vỡ lại lành”.
Xem:
Phá kính trùng viên.
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
(Truyện Kiều).
GƯƠNG XƯA LỖI
RÁP
Do tích Từ Đức Ngôn và Lạc Xương Công chúa, mỗi người giữ một nửa mảnh gương, vì giặc giã mà thất lạc nhau, đến khi tìm nhau đem hai mảnh gương ráp lại thì khớp nhau, gọi là gương vỡ lại lành.
Còn “Gương xưa lỗi ráp” tức là hai mảnh gương ngày xưa ráp lại không đúng khớp, có ý nói tình duyên đã lỗi nhịp, không nối lại được nữa.
Xem: Gương vỡ lại lành.
Thân Tiên dầu lỡ gót phàm,
Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi ?
(Nữ Trung Tùng Phận).
GHỀNH HẠC
BÃI ÂU
Hạc và âu là những loại chim thường được thể hiện sự phóng khoáng, thông thả. Vì thế, “Ghềnh hạc bãi âu” dùng để chỉ nơi thanh vắng, tự nhiên thích hợp cho người ẩn dật.
Trải nơi ghềnh hạc bãi
âu,
Thú vui sông nước mặc dầu
nghênh ngang.
(Dương Từ Hà Mậu).
GHỀNH THÁI
Hay “Ghềnh Thái Thuỷ”.
Ghềnh Thái Thuỷ, tức là một cái ghềnh đá tại sông Thái Thạch.
Do điển Lý Bạch, thi nhân đời nhà Đường, tương truyền một hôm đi thuyền đến sông Thái Thạch, nhân thấy bóng trăng in trên dòng sông, bèn nhảy ôm bóng trăng, rồi có con cá kình đến rước đi mất.
1.-
Ghềnh Thái:
Ngẫm cơ ghềnh Thái các Đằng,
Hay đâu là chẳng xích thằng sẵn xe.
(Hoa Tiên Truyện).
2.-
Ghềnh Thái Thuỷ:
Thuyền ngự tọa đã ngang ghềnhThái Thuỷ,
Bánh long xa thẳng trỏ chốn tiên hương.
(Văn Tế Quang Trung).
GHI TÂM KHẮC
CỐT
Ghi tâm: Ghi nhớ vào lòng. Khắc cốt: Khắc vào xương cốt.
Bởi chữ “Khắc cốt minh tâm 刻 骨 銘 心” là chạm vào xương ghi vào dạ.
Ghi
tâm khắc cốt ý nói ghi nhớ vào lòng mãi mãi, không bao giờ quên.
Bảy tháng gấm thêu lời nhỏ nhẹ,
Ghi tâm khắc cốt trọn đời thôi.
(Đạo Sử).
GIA CÁT 諸 葛
Họ Gia Cát tên là Lượng, tự là Khổng Minh, đời Tam Quốc, trước ở ẩn tại Ngoạ Long Cương, Nam Dương (Vì vậy, Gia Cát Lượng còn có tên là Ngoạ Long).
Lưu Bị, người nước Thục, ba lần thân hành lên rước, Gia Cát Lượng mới chịu về làm quân sư. Học rộng tài cao, thông hiểu thiên văn địa lý, mưu kế không ai sánh kịp, nhưng không gặp thời, phải đành chia ra ba nước, không làm sao thâu về một mối đặng.
Xem: Khổng Minh.
Khỏe mắt Hi Di trời ngũ quý,
Mỏi lòng Gia Cát đất
tam phân.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
Thương ông Gia Cát tài
lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi
pha.
(Lục Vân Tiên).
Thử thị Đà Giang phi Xích Bích,
Dã vô Gia Cát dữ
Chu Lang!
(Thơ Tản Đà).
Nên chưa giúp Hớn buổi hưng
vong,
Gia Cát xưa kia chẳng khỏi vòng.
(Đạo Sử).
GIA CÁT GẶP
CHÚA CHẲNG PHẢI THÌ
Gia Cát Khổng Minh là một người tài lược trong thời Tam Quốc. Lúc còn hàn vi ở ẩn nơi Ngọa Long Cương, Nam Dương, sau ra làm quân sư cho Lưu Bị nhà Thục. Ông đã nhiều lần đánh Ngô, chống Ngụy để mong khôi phục Hán thất, nhưng vì vận Hán đã hết, nên không thành công được.
Thương Gia Cát có
tài lương đống,
gặp chúa chẳng phải thì;
Thương Nhạc Phi nên tướng ân
uy,
không hòa mà bị hại.
(Sãi Vãi).
GIA ĐẠO 家 道
Gia: Nhà. Đạo: Phép tắc, đường lối.
Gia đạo là những phép tắc, đường lối sinh hoạt trong một gia đình.
Cho hay gia đạo khi
nên.
Đã con hiếu, lại được hiền cả
dâu.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
Hai con đều đẹp mắt xem,
Việc trong gia đạo lại
thêm bần hàn.
(Dương Từ Hà Mậu).
GIA ĐỒNG 家 童
Gia: Nhà. Đồng: Đứa trẻ nít, chưa đến tuổi thành niên. Gia đồng đứa nhỏ hầu
hạ và giúp việc vặt trong nhà.
Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.
(Truyện Kiều).
May sao vừa gặp Viên công,
Rụng rời kíp gọi gia đồng thuốc
thang.
(Hoa Tiên Truyện).
GIA ĐƯỜNG 家 堂
Gia đường là nhà ở của cả gia đình, trong đó có cha mẹ và có bàn thờ ông bà, tổ tiên.
Lễ xong hương hỏa gia
đường,
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi
ngay.
(Truyện Kiều).
Đưa nàng vào lạy gia
đường,
Cũng thần mày trắng, cũng phường
lầu xanh!
(Truyện Kiều).
GIA HÀO 嘉 餚
Gia: Ngon. Hào:Thức ăn để nhắm rượu.
Gia hào là đồ nhắm ngon, thức ăn ngon.
Bày phô chén ngọc đũa ngà,
Gia hào mấy vị, trân la mọi mùi.
(Nhị Độ Mai).
GIA HÌNH 加 刑
Gia: Tăng thêm, làm. Hình: Hình phạt.
Gia hình tức là thi hành các hình phạt, hay tăng thêm hình phạt.
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình.
(Truyện Kiều).
Một là cứ phép gia
hình,
Một là lại cứ lầu xanh phó về.
(Truyện Kiều).
GIA HƯƠNG 家 鄉
Gia: Nhà. Hương: Làng quê.
Gia hương tức là làng quê của gia đình mình.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia
hương,
Nhớ quê chàng lại tìm đường
thăm quê.
(Truyện KIều).
GIA KÊ 加 稽
Hay “Cập kê” là đến tuổi cài trâm.
Gia kê là lễ cài trâm.
Lễ gia kê dành cho con gái từ mười lăm đến hai mươi tuổi làm lễ giắt trâm để tỏ rằng người con gái đã trưởng thành, có thể gả lấy chồng được.
GIA NÔ 家 奴
Gia: Nhà. Nô: Đầy tớ.
Gia nô tức là đầy tớ trong nhà.
Há rằng sai khiến không ai,
Đem thân quan trọng thay người gia
nô.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
Dầu cho lúc đứng khi ngồi,
Chàng là chúa cả, thiếp thời gia
nô.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIA NGHIÊM 家 嚴
Gia nghiêm là gia đình giữ phép tắc nghiêm khắc.
Gia nghiêm còn là chữ dùng để gọi ông cha trong khi nói chuyện với người khác.
Người ta thường nói: “Mẫu từ phụ nghiêm 母 慈 父 嚴”, vì bà mẹ là người dịu dàng, thương yêu con cái một cách hiền từ, còn cha thì nghiêm trang để tạo vẻ nể sợ cho con cái.
Vẻ chi một mối tơ mành,
Nặng công thân cữu bận
tình gia nghiêm.
(Ngọc Kiều Lê).
Anh em nhiều cha mẹ dầu thương,
Gia nghiêm giữ thường thường đừng rẻ rúng.
(Phương Tu Đại Đạo).
GIA NGHIỆP 家 業
Gia: Nhà. Nghiệp: Cơ nghiệp.
Gia nghiệp đồng nghĩa với chữ sản nghiệp, cơ nghiệp, chỉ tài sản trong nhà.
Gia nghiệp đã an con cái đủ,
Khá tua cửa Phạm đến cầu duyên.
(Đạo Sử).
Chia gia nghiệp trong
cơn khốn khó,
Hiệp đôi nhà con nhỏ làm chung.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIA PHẠM 家 範
Gia: Nhà. Phạm: Khuôn phép, quy tắc.
Gia phạm là cái khuôn phép hay quy tắc trong một gia đình.
Trông vào những thẹn bóng đèn,
Muốn lưu gia phạm,
nên truyền quốc âm.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
GIA PHÁP 家 法
Gia: Nhà. Pháp: Phép tắc.
Gia pháp là phép tắc trong nhà.
Các
danh gia vọng tộc có nhiều tôi tớ, nên trong nhà có những thứ hình cụ dùng để
trừng phạt những tôi tớ phạm lỗi, cũng gọi là gia pháp.
Nào là gia pháp nọ bay!
Hãy cho ba chục biết tay một lần.
(Truyện Kiều).
Lại e lỗi đạo nhơn luân,
Dỡ dang gia pháp,
vương thần loạn ngôi.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Đừng buông lời lỗ mãng hài tên,
Nhà gia pháp dưới
trên cho phải mặt.
(Phương Tu Đại Đạo).
GIA PHONG 家 風
Gia: Nhà. Phong: Thói, lề lối.
Gia phong là lề thói trong nhà, tức những tập quán nề nếp, phong hoá trong gia đình.
Người đời giữ nếp gia
phong,
Sang hèn, giàu khó cũng trong
khuôn lò.
(Huấn Nữ Ca).
Điệu chồng vợ phân phân phải
phải,
Nét gia phong để
lại cháu con bền.
(Phương Tu Đại Đạo).
GIA QUAN 加 冠
Một trong bốn lễ lớn của đời người bên Trung Quốc thời xưa: Quan, hôn, tang, tế. Lễ gia quan dành cho người con trai đến 20 tuổi làm lễ đội mũ, để thể hiện người đã trưởng thành.
Gia quan mới dạo nhà huỳnh,
Thú nhà hầu hạ huyên đình bấy
lâu.
(Hoa Tiên Truyện).
Sinh chàng Thiện Sĩ là trai,
Qua vòng tổng giốc mới ngoài gia
quan.
(Quan Âm Thị Kính).
GIA SỰ 家 事
Gia: Nhà. Sự: Việc.
Gia sự là những công việc trong và ngoài của một gia đình.
Truyền làm tiệc rượu vui vầy,
Dặn dò gia sự định
ngày khởi thân.
(Nhị Độ Mai).
Thiện tánh tu tâm căn hữu thiện,
Thiên niên gia sự đắc
bình an.
(Đạo Sử).
GIA TÔ 耶 蘇
Da Tô 耶 蘇 là chữ do người Hán phiên âm từ tiếng Jésus, tên một người Do Thái được tín đồ Thiên Chúa giáo tôn là Giáo Chủ, hay đức Chúa trời.
Da
Tô hay Jésus sanh vào đêm 25 tháng 12 tại thành Bethléem. Mẹ của Ngài là Maria,
một nữ tu tại đền thờ Jérusalem. Cha Ngài là Joseph. Hai ông bà rất mộ đạo, tuy
bà đang có thai, gần ngày sanh, nhưng hai người vẫn cố gắng tới Đền thờ để chầu
lễ. Vì vậy, đúng 12 giờ đêm Noel bà chuyển bụng sanh ra Chúa Jésus nơi máng cỏ
trong chuồng chiên.
Năm 30 tuổi, Ngài được Thánh Jean Baptiste làm lễ giải oan tại bờ sông
Jourdain. Từ đó, Ngài khởi sự giảng Thánh Kinh ngay trong xứ Galilée và
Jérusalem, lập nên đạo Thánh ở Do Thái, rồi truyền bá mạnh mẽ sang Châu Âu. Uy
quyền bọn vua quan phong kiến bị lung lay, nên chúng tìm cách giết Ngài.
Bọn chúng mua chuộc một tông đồ của Ngài là Yuda, phản lại Ngài vu cáo cho Ngài mưu việc phản loạn, rồi bắt Ngài lên án tử hình và đóng đinh trên thập tự giá.
Cái chết của Đức Chúa Jésus thật là cao cả, Ngài chuộc tội cho loài người
bên xứ Châu Âu, trở thành một vị Chúa Cứu Thế cho nhơn loại.
Hỏi rằng hai gã Gia Tô,
Đến đây lòng muốn hỏi, phô, việc
gì?
(Dương Từ Hà Mậu).
Núi Ô Li Vê để dấu chân,
Gia Tô Giáo Chủ giải phần hữu sanh.
(Kinh Thế Đạo).
GIA TỘC 家 族
Gia: Nhà. Tộc: Họ.
Gia tộc tức là nói chung họ hàng trong gia đình.
Ngoài gia tộc, nước
non vầy bạn,
Lựa tài danh giao cạn tâm tình.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIA TƯ 家 資
Gia: Nhà. Tư: Tiền của.
Gia tư là tiền của hay nói rõ hơn là tài sản trong gia đình.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghỉ cũng thường thường bực trung.
(Truyện Kiều).
Nại chi xác yếu thịt mòn,
Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIA THANH 家 聲
Gia: Nhà. Thanh: Tiếng tăm.
Gia thanh là tiếng tăm của gia đình. Nếu có người trong nhà làm việc tốt đẹp thì gia thanh rạng rỡ, nếu có người làm điều ác đức thì gia thanh ấy sẽ xấu xa. Do vậy, người xưa mong cầu gia thanh tốt đẹp, nên thường đề ba chữ “Chấn gia thanh 振 家 聲” vào khuôn biển để treo trong nhà.
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục
vào gia thanh.
(Gia Huấn Ca).
GIA THẤT 家 室
Chữ gia, thất đều có nghĩa chỉ cái nhà. Nghĩa rộng chữ gia chỉ người chồng, thất chỉ người vợ.
Kinh Thi có câu: Chi tử vu quy, nghi kỳ gia thất 之 子 于 歸, 宜 其 家 室, nghĩa là người con gái về, hoà thuận cửa nhà. Do vậy “Gia thất” dùng để chỉ vợ chồng.
Sách Nho có câu: Nữ tử sinh nhi nguyện vi chi hữu gia. Tam thập viết tráng hữu thất 女 子 生 而 願 為 之 有 家. 三 十 曰 壯 年 有 室, nghĩa là con gái sinh ra mong cho nó có chồng. Ba mươi tuổi gọi là tráng niên có vợ.
Tình gia thất nào
ai chẳng có,
Kìa lão thân, khuê phụ nhớ
thương.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Ðiều đình gia thất vẹn
nhơn luân,
Cái nẻo Thiền môn giống đám rừng.
(Đạo Sử).
Nỗi lo đôi lứa vuông tròn,
Còn lo gia thất vĩnh
tồn hậu lai.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIÁ ÁO TÚI
CƠM
Do chữ “Y giá phạn nang 衣 架 飯 囊”, tức là cái giá máng áo, đãy đựng cơm, hai vật phụ thuộc để máng áo và đựng cơm.
Nghĩa
bóng: Dùng để chỉ những hạng người không ra gì, không ích lợi cho xã hội.
Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm sá gì.
(Truyện Kiều).
GIÁ MỎNG
Giá là nước đông cứng lại. Do chữ “Lý bạc băng 履 薄 冰” tức là đi trên giá mỏng.
Giá mỏng ý nói đi trên băng giá mỏng sợ băng giá sẽ tan bị rơi xuống. Nghĩa bóng: Chỉ cảnh nguy hiểm.
Xem: Giá mỏng vực sâu.
Sợ giá mỏng, nước
nhà cơ bại;
sợ móc nhiều, thân gái mình gầy.
(Sãi Vãi).
GIÁ MỎNG VỰC
SÂU
Bởi chữ “Bạc băng thâm uyên 薄 冰 深 淵”, dùng để chỉ lo sợ.
Do câu trong Kinh Thi “Chiến chiến căng căng như lâm thâm uyên, như lý bạc băng” nghĩa là nươm nướp sợ sợ như đến vực sâu như bước trên giá mỏng.
Xem: Vực sâu giá mỏng.
Dễ từ nơi giá mỏng,
Đâu lánh chốn vực sâu.
(Nhạc Hoa Linh).
GIÁ NGỌC
Bởi chữ “Băng ngọc 冰 玉” là trong trắng như băng, tinh khiết như ngọc, dùng để chỉ hành vi trong sạch thanh cao.
Băng ngọc còn có thể hiểu “Băng tâm tại ngọc hồ 冰 心 在 玉 壺”, là một mảnh lòng băng tại hồ ngọc, dùng để chỉ tấm lòng thuỷ chung trong trắng.
Xem: Băng ngọc.
Lầu xanh, mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc,
càng cao phẩm người.
(Truyện Kiều).
Chiếu nêu cao giá ngọc lành,
Xe loan có thủa công danh có
ngày.
(Gia Huấn Ca).
Nỗi sợ con giá ngọc chẳng
gìn,
Sợ nỗi rể đoạn tình chẳng cưới.
(Phương Tu Đại Đạo).
GIÁ TUYẾT
Giá tuyết do chữ “Băng tuyết 冰 雪”, tức là gìn giữ trinh tiết trong trắng như băng giá.
Giá
tuyết chỉ lòng trong sạch của người vợ đối với chồng, sạch như tuyết, trong như
giá.
Tầng nghe giá tuyết trong ngần,
Cớ sao bị nhiễm phong trần bởi đâu?
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIÁ TRONG
Bởi chữ “Băng thanh 冰 清” tức giá trong sạch, ý muốn nói đàn bà phải giữ tiết trong sạch như băng giá, nghĩa là khi có chồng phải giữ lòng ngay thẳng, trong sạch với người chồng.
Miễn nàng tiết sạch giá
trong,
Vàng không thẹn lửa, sen không
nệ bùn.
(Truyện Phan Trần).
Giữ mình tuyết trắng, giá
trong,
Thiên duyên sẵn có tơ hồng buộc
chưn.
(Huấn Nữ Ca).
Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
(Sám Hối Kinh).
Ngà ngọc chưa phen đổi đức tài,
Giá trong ai dám độ nên hay.
(Đạo Sử).
GIÀ CHIỀN
Già: Tức già lam chỉ nhà chùa. Chiền: Chùa chiền.
Già chiền là nơi thờ Phật, tức là ngôi Phật tự hay chùa chiền.
Rằng: Đây há khách tầm thường,
Đem thân đài các mà
nương già chiền.
(Truyện Phan Trần).
GIÀ GIANG
Già là cái gông cùm hai tay. Giang là cái gông cùm vào cổ.
Già
giang là gông cùm, dụng cụ bắt giữ người phạm luật của quan lại thời xưa.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô loại buộc hai thâm tình.
(Truyện Kiều).
GIÀ LAM 伽 藍
Gọi tắt từ “Tăng Già Lam Ma” dịch từ Phạn ngữ là Sangharâma.
Già
Lam có nghĩa là chúng viên, tức là nơi vườn mà tăng chúng ở. Từ gọi chung chỉ
chùa chiền, trung tâm tu học, thiền định. Từ “Chốn Già Lam” được dùng để chỉ
nơi chùa chiền hay giới Tăng già.
Ngoài ra, Dà Lam còn dùng để chỉ ngôi vị Phật, gọi là Phật Dà Lam.
Nam mô hai chữ già lam,
Xin thương bần sãi ở am chầy ngày!
(Dương Từ Hà Mậu).
Già lam hai chữ thơm danh,
Mới đặt bài vị tụng kinh siêu
hồn.
(Dương Từ Hà Mậu).
Dà Lam dẫn nẻo Tây Qui,
Kim chung mở lối kịp kỳ kỵ sen
(Kinh Tận Độ).
GIÀ PHÒ GẬY
Tức già chống gậy, chỉ đời thái bình thịnh trị.
Ngày
xưa, đời vua nào đất nước được thanh bình, nhân dân no ấm, triều đình cho phép
các vị bô lão được chống gậy vào triều để xem các quan hành sự.
Già phò gậy đến xem thạnh trị;
Trẻ ngậm cơm mừng gặp thái bình.
(Sãi Vãi).
GIÀ TĂNG 伽 僧
Già: Nhà chùa. Tăng: Thầy tu theo Phật giáo.
Già tăng tức tăng già, là người xuất gia vào chùa làm thầy tu theo Phật giáo.
Già tăng cũng dự quan sang,
Bặc, Điền, Cơ, Tú đều phường
vũ nhân.
(Quốc Sử Diễn Ca).
GIẢ NGÂY GIẢ
ĐIẾC
Do câu: Bất si bất lung, bất tác a gia a ông 不 癡 不 聾, 不 作 阿 家, 阿 翁, nghĩa là không ngây không điếc thì không làm cha làm mẹ.
Đường Thư chép: Con Quách Tử Nghi tên là Ái, kết hôn cùng Công chúa Thăng Bình, sắt cầm lỗi nhịp. Ái nói: Nàng ỷ cha là Thiên tử ư? Cha ta coi thường ngôi Thiên tử. Công chúa đem sự việc tâu với vua cha. Vua Đại Tông nói: Nó nói đúng như thế! Nó muốn làm Thiên tử thì thiên hạ nầy đâu phải sở hữu của gia đình nhà ngươi. Vua bèn an ủi Công chúa, rồi bảo về.
Ông Quách Tử Nghi hay được, giam tên Ái, vào triều thỉnh tội. Vua nói: Không giả ngây, giả điếc, thì không làm người cha, người mẹ vợ được. Cái lời nói của đứa nhi nữ chốn khuê vi chớ nghe.
GIẢ NGHỊ 賈 誼
Người Lạc Dương, sanh năm 200, mất năm 168 trước Tây lịch, thông minh học rộng, mười lăm tuổi đã nổi tiếng, được viên Thái thú Hà Nam tiến cử với Hán Văn Đế, được Văn Đế vời vào triều làm bác sĩ.
Sau
ông bị bọn cựu thần ganh ghét, sàm tấu với vua, rồi bị đày làm Thái phó cho
Trường Sa Vương. Ông phẫn uất, qua sông Tương làm bài phú “Điếu Khuất Nguyên
Phú”, để than thở cho Khuất Nguyên mà chính là than thở cho mình. Ông mất vừa
mới 32 tuổi.
Truất Giả Nghị vì không lỗi chúa,
Đày Lương Hồng há đổ tại thời?
(Thơ Lãng Nhân).
GIÁC MÊ 覺 迷
Giác: Hiểu biết, tỉnh
ra mà biết rõ đạo lý. Mê: Tối tăm, lầm lạc.
Giác mê là thuyết giảng giáo lý làm cho những người đang mê muội tỉnh ngộ, hiểu rõ được đạo lý.
Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng
Thánh,
Tiếng trống giác mê nhặt
đỉnh Thần.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
GIÁC NGẠN 覺 岸
Tức là Bến giác, một cảnh giới trong đó chúng sanh đã được giác ngộ.
Muốn
đến bến giác, phải có trí tuệ dùng làm thuyền Bát Nhã mới vượt qua biển luân
hồi sanh tử để đến bên bờ giác ngộ.
Bờ giác ngạn dễ đà đặng lại,
Bởi thất tình còn hỡi năm mang.
(Thơ Nguyễn Cư Trinh).
Khách rằng: Trong hội Vô già,
Cửa không, giác ngạn đấy
là từ bi.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
GIÁC NGỘ 覺 悟
Hay chứng ngộ.
Giác ngộ là tỉnh thức, hay tỉnh ngộ, không còn sai lầm. Hiểu biết thấu triệt mọi sự vật, mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh.
Giác ngộ cũng là thấy rõ nguyên nhân nguồn gốc của mọi khổ đau, sinh tử và biết rõ con đường giải thoát sinh tử. Giác ngộ là sự tỉnh thức trong đời sống từng giây từng phút của đời mình.
Xin Từ Phụ ra ơn cứu độ,
Tăng huyền linh giác
ngộ chí thành.
(Kinh Thế Đạo).
GIÁC THẾ 覺 世
Giác: Thức tỉnh. Thế: Đời.
Giác thế là thức tỉnh người đời, tức là đem giáo pháp của chư Phật hay các Đấng thiêng liêng ra thuyết để thức tỉnh người đời.
Giác thế muốn trông mấy phép lành,
Khuyên đời chớ mến lợi cùng
danh.
(Đạo Sử).
Mượn thế đặng toan
phương giác thế,
Cũng như nương viết của chàng
Hồ.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
GIAI ÂM 佳 音
Giai: Tốt đẹp. Âm: Tin tức.
Giai âm là tin tức tốt đẹp.
Trong cơ thanh khí tương tầm,
ở đây hoặc có giai âm chăng
là?
(Truyện Kiều).
GIAI CHƯƠNG 佳 章
Giai: Tốt đẹp. Chương: Văn chương, chỉ
bài văn.
Giai chương là bài văn chương hay.
Giai chương ước được mảnh tờ.
Hoa tươi thêm vẻ là nhờ bút
tươi.
(Hoa Tiên Truyện).
GIAI KỲ 佳 期
Giai: Tốt. Kỳ: Hẹn hò.
Giai kỳ là cuộc hẹn hò tốt đẹp.
Nước trong vắt, cỏ xanh rì,
Thạch kiều thấy đó giai
kỳ nào đâu?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
GIAI LÃO 偕 老
Giai: Đều. Lão: Già.
Giai lão đây là lời chúc vợ chồng ăn ở hoà thuận với nhau cho đến lúc tuổi già.
Kinh
Thi có câu: Chấp tử chi thủ dữ tử giai lão 執 子 之 手, 與 子 偕 老,
nghĩa là cầm tay chàng cùng chàng chung sống cho đến già.
Một thơ giai lão lên lời chúc,
Đôi chữ thừa hoan mượn chén khuyên.
(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).
GIAI NGẪU 偕 耦
Giai: Tốt. Ngẫu: Hai người cùng
cày ruộng với nhau, số chẳn.
Giai ngẫu là tốt đôi, ý nói vợ chồng hoà thuận, sống đẹp đôi bên nhau.
Những e kẻ Tấn, người Tần,
Nào hay chữ ngẫu đặng
gần chữ giai.
(Lục Vân Tiên).
GIAI NGẪU
THIÊN THÀNH 偕 耦 天 成
Giai ngẫu: Tốt đôi. Thiên thành: Do trời mà thành.
Giai ngẫu thiên thành là nói vợ chồng tốt đôi là nhờ trời định.
Chữ rằng giai ngẫu
thiên thành,
Nào ai kén cá, chọn canh được
nào.
(Thanh Hoá Quan Phong).
GIAI NHÂN 佳 人
Giai: Đẹp. Nhân: Người.
Giai nhân là người đàn bà đẹp.
Cổ
Thi có câu: Yên, Triệu đa giai nhân, mỹ nhân nhan như ngọc 燕, 趙 多 佳 人, 美 人 顏 如 玉,
nghĩa là đất Yên, đất Triệu nhiều giai nhân, người đẹp như ngọc.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
(Truyện Kiều).
Mấy vàng đổi được khắc xuân.
Xưa nay tài tử, giai
nhân lạ gì?
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Nung trang trí thức nữ lưu,
Biết thân giữ mặt hảo cừu giai
nhân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIAI NHÂN
TÀI TỬ 佳 人 才 子
Giai nhân: Người đàn bà đẹp. Tài tử: Người có tài xuất
sắc.
Giai nhân tài tử nghĩa là trai tài gái sắc, chỉ trai gái xứng đôi vừa lứa.
Xem:
Tài tử giai nhân.
Song song một vách đôi bài,
Giai nhân tài tử sánh vai khéo là.
(Hoa Tiên Truyện).
GIAI TIẾT 佳 節
Giai: Tốt đẹp. Tiết: Một khoảng thời
gian chỉ định khí hậu.
Giai tiết chỉ ngày giờ tốt gặp chuyện lành.
Một là giai tiết phòng
khuê,
Hai là mượn kẻ liệu bề mối
manh.
(Hoa Tiên Truyện).
GIAI THÀNH 佳 城
Thành phố đẹp đẽ.
Giai thành còn có nghĩa là nơi mộ địa, do điển tích sau: Đời nhà Hán có Hạ Hầu Anh được phong tước là Đằng Công vừa mới chết, mọi người theo đưa đi chôn ở Đông Đô. Nhưng trên đường di quan đến một chỗ đất sầm uất, con ngựa kéo quan tài bỗng dừng lại hý vang và lấy chân cào trên mặt đất. Người nhà thấy lạ cho đào chỗ đất ấy thì thấy dưới chôn một phiến đá trong đó có khắc câu: Giai thành uất uất, tam thiên niên kiến bạch nhật, Hu ta! Đằng Công cư thử thất 佳 城 鬱 鬱, 三 千 年, 見 白 日, 吁 嗟! 藤 公 居 此 室, nghĩa là “Giai thành” sầm uất, ba nghìn năm mới trông thấy mặt trời, chao ôi! Đằng Công ở tại ngôi nhà nầy.
Thấy được lời nầy, người nhà bèn chôn Đằng Công tại nơi đất ấy. Do vậy, “Giai thành” cũng chỉ nơi mộ địa.
Muôn thu viếng chốn Giai
thành,
Vẫn còn hai chữ bất bình mang
đi.
(Quan Âm Thị Kính).
GIẢI BINH 解 兵
Giải: Cởi bỏ. Binh: Quân lính.
Giải binh tức là cho binh lính giải ngủ để giải tán quân lính, không đánh nhau nữa.
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải
binh.
(Truyện Kiều).
GIẢI CĂN 解 根
Giải: Cởi bỏ, thoát khỏi. Căn: Gốc rễ.
Giải căn là cởi bỏ mọi căn nghiệp, tức là giải bỏ hết cái gốc rễ đã gây ra những nghiệp báo.
Những
việc làm thiện ác trong kiếp sống này là gốc rễ của những điều hoạ phước cho
kiếp sau. Cái gốc rễ ấy tạo thành cái nghiệp, nếu làm lành thì tạo nên thiện
nghiệp, đời sống mai sau sẽ tốt đẹp hạnh phúc; còn nếu làm dữ thì gây ra ác
nghiệp, làm cho đời sống mai sau sẽ hoạn nạn, đau khổ.
Dìu đường thoát tục nắm phan,
Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.
(Kinh Tận Độ).
GIẢI CẤU 邂 逅
Tình cờ không hẹn mà gặp gỡ.
Kinh
Thi có câu: Giải cấu tương ngộ thích ngã nguyện hề 邂 逅 相 遇 適 我 願 兮,
có nghĩa là tình cờ không hẹn mà gặp, thực thoả lòng ước ao của ta.
May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá, thoả lòng tìm hoa.
(Truyện Kiều).
May thay giải cấu duyên
đâu,
Mượn tay vườn hãn mở lầu rừng
nho.
(Hoa Tiên Truyện).
Chẳng như thiếp nhớ ơn giải
cấu,
Mến từ khi mở nụ đào yêu.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Nhớ ơn giải cấu trao
gươm huệ,
Chặt mối oan khiên ở động đào.
(Thiên Thai Kiến Diện).
GIẢI KẾT 解 結
Giải: Cởi ra. Kết: Buộc lại.
Chữ nhà Phật, Giải kết tức là "Giải oan kết 解 冤 結", ý nói oan gia nên giải không nên kết. Chữ giải kết trong trường hợp này ám chỉ về sự chẳng may.
Nghĩa
bóng: Ý muốn nói điều chẳng may mắn xảy đến.
Ví dù giải kết đến điều,
Thì đem vàng đá mà liều với thân!
(Truyện Kiều).
Ví dù giải kết có
tin,
Bảo nhau sớm liệu tìm miền ẩn
thân.
(Nhị Độ Mai).
Biết tu thân ắt cải vận thời,
Cơ giải kiết lẽ
trời đã định.
(Phương Tu Đại Đạo).
GIẢI NGUYÊN 解 元
Giải: Theo chế độ thi cử
đời nhà Đường, kẻ sĩ từ các vùng tiến lên thi, gọi là “Giải”. Sau này, thi
Hương gọi là “Giải thí”. Như vậy, chữ “Giải” ở đây chỉ kỳ thi Hương. Nguyên: Đầu.
Giải nguyên là người đi thi đậu đầu khoa Hương thí.
Phun châu nhả ngọc đua tài,
Giải nguyên thoắt đã tên bài bảng ngay.
(Truyện Phan Trần).
GIẢI NGHIỆT 解 孽
Giải: Cởi bỏ, thoát khỏi.
Nghiệt: Mầm ác, là cái gây ra những đau khổ, hoạn nạn sau này.
Giải nghiệt là cởi bỏ hết các mầm ác độc, tức cởi bỏ các nghiệp ác để tránh sự ác báo.
Trường Canh chói rạng lòa Kim
Khuyết,
Xin ban ơn giải nghiệt cho
đời.
(Giới Tâm Kinh).
GIẢI OAN 解 冤
Giải: Cởi bỏ. Oan: Thù giận. Sự thù giận là nguyên nhân gây ra việc ác hại người,
tạo thành ác nghiệp nên được gọi là oan nghiệt.
Giải oan là cởi bỏ hết các mối oan nghiệt.
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
(Truyện Kiều).
Chí Tôn xá tội giải
oan,
Thánh, Thần, Tiên, Phật, cứu
nàn độ vong.
(Kinh Tận Độ).
GIẢI PHIỀN 解 煩
Giải: Cởi bỏ. Phiền: Buồn bực.
Giải phiền là cởi bỏ những phiền muộn.
Mua về treo chốn thư hiên,
Như ai đem ngọc giải
phiền lại cho.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Muốn đem ca tiếu giải
phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát nên
giọng sầu.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Ba sanh dầu toại thửa nguyền,
Họa trong giấc mộng giải
phiền giao hoan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIẢI PHIỀN
DIỆT KHỔ 解 煩 滅 苦
Giải phiền: Cởi bỏ những điều
phiền muộn. Diệt khổ: Dứt điều khổ sở.
Muốn cởi bỏ những điều phiền não và diệt trừ hết mọi khổ đau thì phải sống và hành theo giáo pháp của Tôn giáo, tức là phải theo đạo.
Thiếp nhờ Đạo giải phiền
diệt khổ,
Biết may duyên lựa chỗ gởi tâm.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIẢI QUẢ 解 果
Giải: Cổi bỏ. Quả: Kết quả.
Giải quả là cởi bỏ hết các kết quả xấu, do các hành vi ác đã gây ra từ trong kiếp trước. Muốn giải quả nghiệp, phải nhờ trí tuệ và mượn Phật pháp diệt trừ.
Trương thẳng cánh con thuyền
Bát Nhã,
Cổi đau thương giải quả trừ
khiên.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIẢI QUẢ TRỪ
CĂN 解 果 除 根
Giải quả: Cởi bỏ hết các kết
quả xấu.Trừ căn: Trừ tiêu gốc rễ.
Giải quả trừ căn tức là giải trừ căn quả. Nghĩa là cỡi bỏ những kết quả xấu do hành vi hung ác gây ra từ kiếp sống trước.
Trung khổ hải độ thuyền Bát nhã,
Phước Từ bi giải quả
trừ căn.
(Phật Mẫu Chơn Kinh).
GIẢI THI 解 尸
Giải: Cởi bỏ. Thi: Hình hài.
Giải thi là cởi bỏ thi thể, hình hài, ý nói đã chết.
Giải thi lánh chốn đọa đày,
Chơn linh trong sạch ra ngoài
Càn khôn.
(Kinh Tận Độ).
Quản bao thập ác lục hình,
Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.
(Kinh Tận Độ).
GIẢI THOÁT 解 脫
Giải: Cởi bỏ. Thoát: Ra khỏi.
Giải thoát là cởi bỏ, thoát khỏi mọi trói buộc, phiền não và được an lạc, tự tại.
Chữ
“Giải thoát” trong Tôn giáo có nghĩa là bỏ mê theo giác, hay dứt tục trần để về
Cực Lạc.
Bảo đường tụng niệm mấy lời,
Chúc cho giải thoát sang đời mai sau.
(Quan Âm Thị Kính).
Cảm quang diêu động tâm tu,
Khai cơ giải thoát mở
tù Phong Đô.
(Kinh Thế Đạo).
GIẢI TRẠI 解 豸
Tên một loài thú giống như con trâu núi nhưng chỉ có một sừng ngay giữa đầu. Cũng có người cho rằng con giải trại giống như con nai một sừng.
Theo truyền thuyết, con giải trại là con vật linh, nó phân biệt được người gian ngay, vì thế mỗi khi có vụ tranh tụng giữa hai người, con giải trại được đem ra, nó sẽ lấy sừng húc vào người không ngay thẳng.
Con giải trại tượng trưng cho công lý, nên trên chóp mũ của quan tư pháp có một cái sừng, gọi là mũ “Giải trại”.
Có kẻ đội điêu thuyền nhẵn mặt,
Có người vận giải trại ngang
ngang.
(Thập Giới Cô Hồn).
GIẢI UẨN 解 慍
Cởi bỏ sự buồn giận.
Trong
bài hát của vua Thuấn có câu: Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô
dân chi uẩn hề 南 風 之 勛 兮, 可 以 解 吾 民 之 慍 兮,
nghĩa là gió nam thổi man mát hề, có thể cởi bỏ mối giận của dân ta hề.
Giải uẩn ca xưa dường lại thấy,
Tri âm bạn cũ ước cùng tâm.
(Hồng Đức Quốc Âm).
GIẢI VI 解 圍
Giải: Cởi bỏ. Vi: Vòng vây, bao quanh.
Giải vi tức là phá bỏ vòng vây do địch quân bao vây, hoặc nói phá bỏ những điều gì khó khăn.
Nghe lời nói cũng thương lời,
Dẹp uy mới dạy cho bài giải
vi.
(Truyện Kiều).
GIÀY CỎ
Dịch từ chữ Hán là “Thảo hài 草 鞋” tức giày được kết bằng cỏ.
Ngày xưa các đạo sĩ thường mang các loại giày kết bằng cỏ, có hình thô sơ, đi lại giản tiện mà lại êm chân.
Giày cỏ dùng để chỉ giày của người tu.
Xem:
Thảo hài.
Đạp giày cỏ nương cây gậy bá,
Mặc áo tơi nón lá che thân.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIAM CẦM 監 禁
Giam: Nhốt vào ngục. Cấm: Ngăn không cho làm một điều gì.
Giam cấm tức bắt người có tội đem nhốt vào cấm ngục.
Truyền đem giam cấm một
nơi,
Luận xong tội ấy, ngày mai tiến
trình.
(Nhị Độ Mai).
GIAM DANH KHOÁ
LỢI
Do chữ “Danh cương lợi tỏa 名 綱 利 鎖”, tức là con người bị ràng buộc bởi danh, bị xiềng xích bởi lợi.
Công danh như sợi dây cương ràng buộc người mê dính mắc vào, lợi lộc như cái khoá đóng kín người tham vô đó, chẳng khác như sợi dây giàm và cái khoá miệng ngựa, buộc ngựa phải đi theo ý người cỡi.
Giam danh khoá lợi ý muốn nói người ta bị danh lợi buộc khóa làm mất cả tự do.
Rằng: Coi cho thấu sự đời,
Giam danh khoá lợi, những người thế gian.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
GIÁM QUỐC 監 國
Giám: Trông coi. Quốc: Nước.
Giám quốc tức là người thay thế cho nhà vua để trông coi việc nước khi vua có việc phải đi.
Nhờ nay giám quốc rộng
khoan,
Thành trì đất nước giao hoàn lại
cho.
(Hạnh Thục Ca).
GIÀM DANH
Bởi chữ “Danh cương 名 綱” tức là Công danh như sợi dây cương ràng buộc người mê dính mắc vào đó.
Giàm
danh có nghĩa là công danh như là sợi dây cương trói buộc người ta như dây giàm
trói buộc ngựa.
Quản bao kẻ mang cái giàm danh,
áo giới lân trùm dưới cơ phu,
mõi gối quỳ mòn sân tướng phủ.
(Tài Tử Đa Cùng Phú).
GIAN DÂM 奸 淫
Gian dâm là việc quan hệ thể xác giữa hai người nam nữ không chính đáng như đàn ông lấy vợ người, đàn bà lấy chồng người.
Đây là phạm điều thứ ba của ngũ giới cấm: Không được tà dâm, tà hạnh.
Theo Phật, người hành trì giới tà dâm là không được quan hệ bất chính với người ngoài chồng hay vợ chính thức. Phải hết lòng trung trinh với người chồng hay vợ của mình.
Người giữ được giới này thì tạo được hạnh phúc trong gia đình mình, ngoài
ra cũng tránh được sự gây ra đổ vỡ khổ đau trong gia đình khác và bảo vệ tiết hạnh
của kẻ khác.
Gian dâm nầy lòng đã chẳng thương,
Nhơ nhuốc ấy đây khôn tha thứ.
(Nhạc Hoa Linh)
Còn một nỗi gian dâm đại
tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết
trinh.
(Kinh Sám Hối).
Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành
phạt gớm ghê.
(Kinh Sám Hối).
Còn một nỗi gian dâm đại
tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết
trinh.
(Kinh Sám Hối).
GIAN ĐẢNG 奸 黨
Gian: Xảo quyệt. Đảng: Tổ chức gồm nhiều
người liên kết với nhau.
Gian đảng tức là đảng gian ác, làm việc càn bậy.
Trách vua Đường, ở bất minh,
Dung bên gian đảng mà
khinh hiền tài.
(Nhị Độ Mai).
GIAN GIẢO 奸 狡
Gian: Dối trá. Giảo: Xảo quyệt, tức
khôn ngoan một cách bất chính.
Gian giảo, cùng nghĩa với chữ gian xảo, chỉ người gian manh xảo quyệt.
Bàn chông nhọn liền liền đánh
khảo,
Tra tội nhơn, gian giảo ngược
ngang.
(Kinh Sám Hối).
GIAN MƯU 奸 謀
Gian: Xảo quyệt. Mưu: Mưu kế.
Gian mưu là mưu kế gian xảo, nghĩa là bày mưu tính kế gian xảo
để hại người.
Rày đừng vây cánh cha con,
Gian mưu đứt nọc, xảo ngôn hết nghề.
(Nhị Độ Mai).
Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại,
Đừng gian mưu hãm
hại người hiền.
(Kinh Sám Hối).
GIAN TÀ 奸 邪
Gian: Dối trá. Tà: Cong, không ngay thẳng.
Gian tà dùng để chỉ người xảo trá, không thành thật và không ngay thẳng.
Gian tà đắc chí mấy hơi,
Mắt thần khôn giấu lưới trời
khôn dung.
(Nhị Độ Mai).
GIAN THẦN 奸 臣
Gian: Dối trá. Thần: Bề tôi.
Gian thần là kẻ bề tôi gian nịnh, dối trá.
Cha làm quan, họ là Trần,
Chẳng may mắc phải gian
thần vu oan.
(Nhị Độ Mai).
GIAN TRÁ 奸 詐
Gian: Xảo quyệt. Trá: Lừa gạt, tráo trở.
Gian trá là nói người có tính xảo quyệt, chuyên dối gạt, lừa gạt người.
Trước người giả bộ siêng lo,
Sau lưng gian trá so
đo tấc lòng.
(Kinh Sám Hối).
GIAN TRUÂN 艱 迍
Gian: Khó khăn. Truân:Khó tiến tới.
Gian truân chỉ lúc gian nan vất vả, khó khăn tiến bước được.
Chẳng may gặp lúc gian
truân,
Đương khi quá đói, thuốc thần
cũng no.
(Lục Vân Tiên).
Sinh từ gặp bước gian
truân,
Vinh khô gọi nếm mùi trần chút
chơi.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
Về nhà Tham tướng họ Văn,
Nào hay thời vận gian
truân quở người.
(Nữ Tú Tài).
Ngẫm đời trước vốn không oan
trái,
Sao kiếp này vướng mãi gian
truân?
(Tự Tình Khúc).
Dầu khi gặp lúc gian
truân,
Cũng đồng giúp ích chớ đừng mặt
ngơ.
(Kinh Sám Hối).
GIẢN NƯỚC TỀ
Ngày xưa khi chưa có giấy người ta muốn viết phải khắc chữ lên thẻ tre, gọi là giản.
Giản nước Tề tức là nói sử của nước Tề do quan Thái sử Bá, người nước Tề thời Xuân Thu chép “ Thôi Chữ thí vua”. Thôi Chữ giận, giết Bá. Hai em của Bá là Trọng và Quý nối theo anh giữ chức Thái sử cũng lần lượt bị giết do đều chép như Bá.
Xem: Quan sử nối đề thí vua.
Kìa như cái giản nước
Tề,
Ba phen quan sử nối đề thí vua.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
GIANG CÁCH 江 革
Giang Cách sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha từ lúc bé, thờ mẹ rất có hiếu. Gia cảnh nghèo, lại gặp buổi loạn lạc, ông phải cõng mẹ đi lánh nạn, giữa đường gặp bọn giặc toan bắt ông đi, ông khóc lóc van xin với bọn giặc nói là ông còn bà mẹ già, chỉ có hai mẹ con nương tựa nhau, nay bắt ông đi thì không ai nuôi mẹ già.
Bọn
giặc nghe nói, nghĩ thương tình, tha không bắt ông đi nữa. Ông cõng mẹ chạy về
Hạ Bì, rồi ông cố sức làm thuê, làm mướn để nuôi mẹ được no đủ qua cơn loạn
lạc.
Hán, Giang Cách cô đơn từ bé,
Bước truân chuyên với mẹ đồng cư.
(Nhị Thập Tứ Hiếu).
GIANG CHÂU
TƯ MÃ 江 洲 司 馬
Giang Châu: Tên một châu ở Trung
Hoa, thuộc Hà Bắc ngày nay. Tư mã: Chỉ Bạch Cư Dị, một
nhà thơ đời Đường, khi ông bị đày làm chức Tư mã ở Giang Châu.
Giang Châu Tư Mã chỉ Bạch Cư Dị nhà thơ đời Đường, do câu chữ trong bài “Tỳ Bà Hành” của ông như sau: Tựu trung khấp hạ thuỳ tối đa, Giang châu Tư mã thanh sam thấp 就 中 泣 下 誰 最 多 江 洲 司 馬 青 衫 濕, nghĩa là thử hỏi ai là người khóc nhiều? Giang Châu Tư mã áo xanh ướt.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
(Tỳ Bà Hành).
Ai trước mắt Giang
Châu Tư Mã,
Ai lắng tai Lâm hạ Chung Kỳ.
(Thú Cầm Ca, Vô Danh)
GIANG HÀ 江 河
Giang: Sông lớn. Hà: Sông.
Giang hà là chữ dùng để chỉ các sông ngòi.
Chiêu Quân nhảy xuống giang
hà,
Thương vua nhà Hớn, vốn đà quyên sinh.
(Lục Vân Tiên).
Khi vui, vui lấy kẻo già,
Cơn men giốc cả giang
hà chưa say.
(Thơ Tản Đà).
GIANG HỒ 江 湖
Giang là con sông, hồ là cái hồ, chỉ người không có định sở, rày đây mai đó.
Đối với người đàn ông, “Giang hồ” chỉ sự phiêu lưu nay đây mai đó.
Đối với người đàn bà, con gái, “Giang hồ” có nghĩa là gái trắc nết, lăng loàn, hay gái bán thân.
1.-
Chỉ phiêu lưu nay đây mai đó:
Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài.
(Truyện Kiều).
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một
chèo.
(Truyện Kiều).
2.-
Chỉ giới bán thân:
Gái giang hồ trai tứ chiếng,
mặc ai ngang dọc,
tha hồ kẻ bắc người tây.
(Phú Khuyết Danh).
GIANG LĂNG 江 陵
Tên một huyện thuộc tỉnh Hồ Bắc nước Trung Hoa, trên tả ngạn sông Trường Giang, xưa thuộc nước Sở. Bạch Cư Dị có lần bị chuyển ra ở đấy.
Biếng trang điểm, lòng người sầu
tủi,
Xót nỗi chàng, ngoài cõi Giang
Lăng.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
GIANG SƠN 江 山
Hay “Giang san”.
Giang: Sông. Sơn: Núi.
Sông và núi là tài sản của đất nước, nên sông, núi tượng trưng cho quốc gia. Vì vậy, Giang sơn có nghĩa là đất nước. Giang sơn đồng nghĩa với sơn hà.
Xem:
Sơn hà.
Giang sơn thì vẫn người quen,
Dạo chơi Châu phố xuôi miền Đục khê.
(Hương Sơn Hành Trình).
Vì ai khiến dưa chia khăn xé,
nhìn giang sơn ba
tỉnh luống thêm buồn;
(Văn Tế Trương Định).
Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt
nguyệt,
Phơi gan chí sĩ nhuộm giang
san.
(Đạo Sử).
Trời còn roi nước hùng anh,
Giang sơn là đấy, còn mình ở đâu?
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIANG TÂN 江 津
Giang: Sông. Tân: Bến, bờ.
Giang tân là bến sông, bờ sông.
Duy còn hồn mộng được gần,
Ðêm đêm thường đến giang
tân tìm người.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
Xa nghe tiếng nhạc thẳng xông,
Đuốc hoa trăm ngọn ánh hồng giang
tân.
(Lưu Nữ Tướng).
GIÁNG HẠ 降 下
Giáng: Trên rơi xuống. Hạ: Dưới.
Giáng hạ chỉ việc từ trên rơi xuống, hay nói các đấng thiêng liêng xuống cõi trần.
Hễ ai nói xấu cho ai,
Thì trời giáng hạ củ
khoai ngoài đồng.
(Ca Dao).
GIÁNG HƯƠNG 降 香
Tên một người con gái dạo vườn hoa, thấy hoa mẫu đơn nở đẹp, rờ làm hoa rụng, bị lính canh bắt giữ. Trong lúc ấy, có chàng tên là Từ Thức thương tình, đem áo chuộc cho nàng.
Sau Từ Thức đi lạc vào động Bích Đào, gặp lại nàng Giáng Hương, mới biết nàng là vị tiên nữ, bèn kết duyên với nàng.
Xem: Từ Thức.
May chân bước tới vườn đào,
Giáng Hương, Từ Thức lẽ nào gặp tiên!
(Nữ Tú Tài).
GIÁNG KIỀU 降 嬌
Tên một tiên nữ trong tác phẩm “Bích Câu kỳ ngộ” (Sự gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu).
Giáng Kiều nguyên là vị tố nữ trong tranh do Trần Tú Uyên mua được ở Cầu Đông, đem về treo ở thư phòng. Một hôm Tú Uyên ở trường học về, thấy mâm cơm đã dọn sẵn, qua ngày sau chàng giả cách ra đi, nhưng lại lẻn về bắt gặp tố nữ trong tranh hiện ra nàng Giáng Kiều. Hai người bèn kết duyên với nhau. Sau hai vợ chồng hết hạn trần gian, được đôi chim hạc rước về cõi tiên.
Xem: Bích Câu kỳ ngộ.
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu,
Tiên thù là hiệu, Giáng
Kiều là tên.
(Bích Câu Kỳ Ngộ).
GIẢNG ĐƯỜNG 講 堂
Giảng: Giải thích cho hiểu
rõ. Đường: Nhà.
Giảng đường là nhà để giảng bài dạy học, hay dùng để ngồi nghe diễn thuyết, nghe giảng kinh.
Ấy ai tầm thước trẻ trung,
Chực hầu sư phụ đứng
trong giảng đường.
(Truyện Phan Trần).
GIAO BÁI 交 拜
Giao bái là lạy lẫn nhau.
Theo
hôn lễ xưa ở Trung Hoa, khi rước dâu về, chàng rể và cô dâu lạy trời đất trước,
gọi là nhất bái thiên địa, kế lạy ông bà, gọi nhị bái Cao đường, rồi hai vợ
chồng cùng quay mặt lạy nhau, gọi là phu thê giao bái. Giao bái
xong vợ chồng mới dự tiệc hợp cẩn.
Cùng nhau giao bái một nhà,
Lễ đà đủ lễ, đôi đà xứng đôi.
(Truyện Kiều).
GIAO BINH 交 兵
Giao: Giao chiến, tức
hai bên đánh nhau. Binh: Quân lính.
Giao binh tức quân lính hai bên đánh nhau.
Rằng: Ngày hôm nọ giao
binh,
Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.
(Truyện Kiều).
GIAO BÔI 交 盃
Vợ chồng trao đổi chén rượu cùng chung uống trong lễ hợp cẩn.
Theo
nghi thức hôn lễ của Trung Hoa, sau khi làm lễ nghinh hôn về, chàng rể và cô
dâu cùng ăn mâm tơ hồng, cùng uống chung một chén rượu với nhau, gọi là lễ giao
bôi.
Giao bôi là nặng ước thề,
Một lời đã hứa chẳng hề lãng xao.
GIAO CANH 交 更
Giao: Gặp nhau. Canh: Khoảng thời gian một phần năm của đêm.
Giao canh tức là khoảng thời gian từ canh này kế tiếp sang canh kia.
Kíp truyền ngục tốt giao
canh,
Rồi đây ta sẽ tiến kinh cho rồi!
(Nhị Độ Mai).
Giao canh trống mới sang hai,
Phạm tù đã thấy lôi thôi điệu
về.
(Nhị Độ Mai).
GIAO CÀNH
Do tích: Vợ Hàn Bằng tên là Hà Thị, là người đàn bà đẹp người đẹp nết, đến đổi Tống Khang Vương thấy rồi mê thích. Nhưng biết Hà Thị là người tiết hạnh, khó mà ép uổng cho được, bèn ra lịnh giết Hàn Bằng. Vậy mà Hà Thị vẫn cương quyết không chịu thất thân với Khang Vương, cắn lưỡi tự tử và để lại một bức thư xin được chôn chung với chồng.
Tống Khang Vương tức giận, chôn hai người cách xa nhau nhưng hai mộ đối nhau. Sau người ta thấy mỗi cái mộ mọc lên một cây to, trên thì có cành giao nhau, còn dưới thì rể ăn liền với nhau.
Xem: Hàn Bằng.
GIAO CHÂU 交 州
Theo Việt Nam Sử Lược, quốc hiệu nước Việt Nam về đời Hồng Bàng gọi là Văn Lang, đời Thục An Dương Vương thì gọi là Âu Lạc. Đến đời nhà Tần lược định phía nam thì đặt làm Tượng Quận, sau nhà Hán dứt nhà Triệu, chia đất Tượng Quận ra làm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Đến cuối đời Đông Hán, vua Hiến Đế đổi Giao Chỉ làm Giao Châu.
Như
vậy, Giao Châu là hiệu và tên đất của nước ta vào cuối đời Đông Hán.
Nam Hải trổ nhiều tay Thánh đức,
Giao Châu sanh lắm mặt Anh hùng.
(Đạo Sử).
GIAO HOÀ 交 和
Giao: Qua lại với nhau. Hoà: Hợp nhau.
Giao hoà là đối xử tử tế, hoà hợp nhau, không gây sự với nhau.
Muốn cho khỏi giặc Ô Qua,
Đưa con gái tốt giao
hòa thời xong.
(Lục Vân Tiên).
Ai về nhắn với mẹ cha,
Chồng tôi nay đã giao
hoà cùng tôi.
(Ca Dao).
GIAO HOAN 交 歡
Giao: Qua lại với nhau. Hoan: Vui vẻ.
Giao hoan là vui vẻ với nhau, hoặc chỉ trai gái ăn nằm với nhau.
Thêm nến giá nối hương bình,
Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao
hoan.
(Truyện Kiều).
Hoa tàn lại bén hơi xuân,
Giao hoan đôi mặt, hòa thân một lòng.
(Quốc Sử Diễn Ca).
Ba sanh dầu toại thửa nguyền,
Họa trong giấc mộng giải phiền giao
hoan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Tri âm ví đáng dây cầm nguyệt,
Đừng đem tình chí thiết giao
hoan.
(Nữ Trung Tùng Phận).
GIAO LÂN 交 鄰
Giao: Qua lại với nhau. Lân: Láng giềng.
Giao lân giao thiệp với nhau theo tình láng giềng.
Nhưng cùng Pháp quốc giao
lân,
Cũng cho triều yết, cũng thân
ước điều.
(Hạnh Thục Ca).
GIAO LOAN 膠 鸞
Keo con chim loan.
Sách Ngoại Truyện chép: Xứ Tây Hải có một loại keo được chế bằng máu con chim loan rất khắng, đem dâng cho vua. Nhà vua lấy loại keo đó nối dây cung bị đứt, giương cung bắn hoài mà dây không bị đứt nữa. Vua bèn đặt tên là “Tục huyền giao” (Keo nối dây đứt).
Nghĩa bóng: Nối lại cuộc tình duyên.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Giao loan chắp mối tơ thừa mặc em.
(Truyện Kiều).
GIAO LONG 蛟 龍
Như chữ “Giao long đắc thuỷ 蛟 龍 得 水”.
Giao: Một loài rồng
nhưng nhỏ. Long: Rồng.
Giao long là loài rồng và loài giao. Hai loài vật này rất hung dữ.
Giao long là loài vật dưới nước, nên khi gặp được nước thì vẫy vùng. Vì vậy, chữ “Giao long” hay “Giao long đắc thuỷ” dùng để ví với người anh hùng gặp thời.
1.- Giao long:
Trông vời trời bể mênh mang,
Đem thân băng tuyết gửi
hàm giao long.
(Hoa Tiên Truyện).
Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao long dìu dắt vào trong bực rày.
(Lục Vân Tiên).
2.-
Giao long đắc thuỷ, chỉ người gặp thời.
GIAO NHÂN 蛟 人
Người có hình dáng con giao.
Do
tích như sau: Nguyên thời xưa có loài giao long hóa thành người, gọi là giao
nhân, sống trên thế gian lấy vợ, lấy chồng và buôn bán với loài người. Nhưng
đến cuối năm lại phải về thủy phủ để chầu vua. Lúc từ biệt gia đình, họ khóc
rất thảm thiết, mà khóc bao nhiêu thì nước mắt hóa thành những hạt châu bấy
nhiêu. Nên có câu: “Sái giao nhân chi châu lệ 洒 蛟 人 之 珠 淚”,
nghĩa là người giao nhân khóc, nước mắt sa xuống thành hạt châu.
Mấy tiếng đấm tràn miền Trúc quốc,
Một vần in lọt bóng Giao nhân.
(Hồng Đức Quốc Âm).
GIAO PHU 交孚
Giao: Qua lại với nhau. Phu: Tin cậy.
Giao phu là rất tin cậy với nhau trong việc giao du.
Theo
Kinh Dịch, đồng chí hướng, tương đắc mà không nghi ngờ nhau thì gọi là giao phu.
Chạnh nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt,
Lúc tiếu đàm dường thoả ý giao phu.
(Tụng Cảnh Tây Hồ).
GIAO TẤT 膠 漆
Keo sơn, hai chất khi hoà với nhau thì dính rất khắng, không bao giờ tách lìa nhau được.
Nghĩa bóng: Chỉ sự giao tình bền chặt, không lìa nhau được.
Thơ xưa có câu: Dĩ giao đầu tất trung, thuỳ năng biệt ly thử 以 膠 投 漆 中, 誰 能 別 離 此, nghĩa là lấy keo bỏ vào trong sơn, ai làm cho chia rẻ được.
Lại
có điển Lôi Nghĩa và Trần Trọng là hai người bạn thiết, cùng nhau đi thi. Lôi
đậu mà Trần rớt. Lôi nhường lại cho Trần đậu thì quan không cho. Lôi mới giả
điên không nhận chức, chừng sau hai người cùng thi đậu, Lôi mới bằng lòng nhận.
Nên có câu: Giao tất vi kiên, bất như Lôi dữ Trần 膠 漆 為 堅, 不 如 雷 與 陳, Keo
sơn bảo là bền, chẳng bền bằng Lôi Trần.
Ba sinh hương hoả,
Cuộc trần hoàn nào mấy mặt tri âm.
Một phút nhàn du,
nghĩa giao tất dễ quên lòng quyến cố.
(Văn Tế Thuốc Phiện).
GIAO TÌNH 交 情
Giao: Qua lại với nhau. Tình: Sự yêu mến, gắn
bó.
Giao tình tức là giữa hai người có sự yêu mến, gắn bó qua lại với nhau. Giao tình còn dùng để chỉ sự ái ân.
Bao quản giao tình dễ
mấy lòng,
Đến khi viễn vọng cũng trông
mong.
(Lưu Bình Diễn Ca).
Đây còn nỗi bế bồng thêm trẻ,
Hễ giao tình chẳng
lẽ không con.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Hằng bữa trau tánh đức minh
minh,
Lúc chồng vợ giao tình tua
để dạ.
(Phương Tu Đại Đạo).
GIÁO DÂN 教 民
Giáo: Dạy dỗ. Dân: Quần chúng, Chỉ người sống trong một khu vực.
Giáo dân dạy dỗ nhân dân.
Theo
đạo Thiên Chúa, giáo dân là chỉ những người tin theo đạo.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
(Lục Vân Tiên).
Một chức giáo dân tua
lãnh lịnh
Làm cho đời tệ hoá ra hay
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
GIÁO HOÁ 教 化
Giáo: Dạy dỗ. Hoá: Thay đổi.
Giáo hoá là dạy dỗ để làm thay đổi con người từ dỡ hoá hay, từ xấu trở nên tốt.
Dạy trẻ con toan trước dạy
mình,
Cái công giáo hóa cũng
đồng sinh.
(Thánh Thi Hiệp Tuyển).
GIÁO HỐI 教 誨
Giáo: Dạy dỗ. Hối: Răn dạy.
Giáo hối là dạy bảo khuyên răn.
Phận là gái ít đường giáo
hối,
Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn.
(Gia Huấn Ca).
GIẢO HOẠT 狡 猾
Giảo: Xảo quyệt. Hoạt: Nhiều mưu mẹo.
Giảo hoạt chỉ người tinh ranh, lanh lợi và nhiều mưu mẹo.
Kén người giảo hoạt nói
năng,
Cho làm chánh sứ để dâng lễ
thành
(Hoa Điểu Tranh Năng).
GIÁP BẢNG 甲 榜
Giáp: Chữ đứng đầu thập
thiên can. Bảng: Tấm bảng đề tên người thi đỗ.
Trong khoa thi tiến sĩ ngày xưa, bảng ghi tên những người thi đỗ tiến sĩ, gọi là “Giáp bảng”.
Mảnh giấy làm nên khoa giáp
bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
(Thơ Nguyễn Khuyến).
GIÁP BINH 甲 兵
Giáp: Áo giáp, một loại
áo chống tên đạn, mặc ra trận. Binh: Quân lính.
Giáp binh là binh lính trang bị bằng áo giáp.
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp
binh.
(Truyện Kiều).
GIÁP CÔNG 夾 攻
Giáp: Kẹp vào giữa. Công: Đánh.
Giáp công tức là tấn công quân địch để kẹp vào ở giữa, không thể thoát ra được.
Bỗng đâu Hán lại tiếp sang,
Một kỳ tịnh tiến, năm đường giáp
công.
(Quốc Sử Diễn Ca).
GIÁP KHOA 甲 科
Giáp: Chỉ sự đứng đầu. Khoa: Khoa thi.
Giáp khoa tức là người đỗ đầu khoa thi.
Giáp khoa trắng nợ sách đèn,
Thái thường vả dự ngồi quyền
chính khanh.
(Ngọc Kiều Lê).
GIÁP KHÔI 甲 魁
Giáp: Chữ đầu thiên
can. Khôi: Đứng đầu.
Giáp khôi là người đỗ đầu trong các sĩ tử thi đỗ.
Bảng vàng rõ mặt giáp
khôi,
Đuốc hoa duyên ấy một lời thì
nên.
(Ngọc Kiều Lê).
GIÀU BA HỌ
Theo luật biến chuyển của trời đất, mọi vật, mọi hiện tượng ở thế gian đều phải thay đổi. Vận mệnh của con người cũng vậy, sẽ thay đổi theo từng thời kỳ, từng lúc, nên người xưa thường nói: “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”.
Cầm cân tạo hoá đổi dời,
Giàu ba họ khó ba đời mấy ai?
(Gia Huấn Ca).
GIẶC HOÀNG
CÂN
Đời nhà Hán, vào thời vua Linh Đế, có ba anh em Trương Giác, Trương Bảo, Trương Lương ở Cự Lộc theo đạo Hoàng Lão, chuyên dùng phù chú để trị bịnh, thu hút hơn mười muôn đệ tử. Thấy nhà Hán ngày một suy, ba anh em bèn nổi dậy dấy binh khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa đầu đều đội khăn vàng, nên sử gọi là giặc Hoàng cân 黃 巾 (Khăn vàng).
Đua nhau làm giặc
Hoàng cân,
Tướng rơm binh đậu, rần rần
kéo đi.
(Ngư Tiều Vấn Đáp).
GIẶC THÁT
Giặc Thát tức rợ Thát Đát 韃 靼, nguyên là một bộ lạc ở phía bắc nước Trung Quốc. Thát Đát là một nước di địch như giống Hung nô, Đột Quyết. Về sau Thát Đát tức là giống dân Mông Cổ, một dân tộc thượng võ đã có phen làn rung động hoàn cầu.
Ong trong tay áo có người,
Giao thông giặc Thát toan
bày nọ kia.
(Nhị Độ Mai).
GIẶC TRỜI
Do chữ “Thiên kiêu 天 驕”.
Thuyền
vu của Hung nô có gửi quốc thư cho Hán Đế một câu như sau: Nam hữu đại
Hán, bắc hữu cường Hồ. Hồ nãi thiên tử chi kiêu tử dã 南 有 大 漢, 北 有 強 胡, 胡 乃 天 子 之 驕 子 也,
nghĩa là phương nam có đại Hán, phương bắc có cường Hồ. Hồ chính là đứa con kiêu
ngạo của trời vậy. do vậy, đứa con kiêu ngạo của trời được gọi là “Giặc Trời”.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.
(Chinh Phụ Ngâm Khúc).
GIẤC BƯỚM
Tức là giấc mơ thấy bươm bướm. Bởi chữ “Hồ điệp mộng 蝴 蝶 夢”, do tích Trang Tử nằm mơ thấy mình hoá ra con bướm.
Người
ta cũng thường dùng chữ “Điệp mộng” là “Giấc bướm” để chỉ giấc ngủ.
Người đương giấc bướm Dương đài,
Giấc tàn nhường thấy hiên cài ngẩn ngơ.
(Hoa Tiên Truyện).
Thưa rằng: Giấc bướm vừa
say,
Dao con nàng bỗng cầm tay kề gần.
(Quan Âm Thị Kính).
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh
rồi gà kêu.
(Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm).
Lạnh lùng gió thổi sương bay,
Chập chờn giấc bướm,
canh chầy lại canh.
(Thơ Tản Đà).
GIẤC ĐIỆP
Bởi chữ “Điệp mộng 蝶 夢” tức chiêm bao thấy hoá thành bươm bướm, chỉ giấc ngủ.
Trang
Châu chiêm bao thấy mình hoá bướm. Khi tỉnh dậy, không biết Trang Châu hoá bướm
hay bướm hoá Trang Châu. Lục Du có câu thơ rằng: Thính tận đề oanh xuân
dục khứ, kinh hồi mộng điệp tuý sơ tinh 聽 盡 啼 鶯 春 欲 去, 驚 回 夢 蝶 醉 初 醒,
nghĩa là nghe dứt tiếng oanh hót xuân muốn đi, giựt mình giấc bướm say mới tỉnh.
Xem: Giấc bướm.
Cung quế mơ màng say giấc điệp,
Trường xuân nghiêng ngửa sánh màu hoa.
(Hồng Đức Quốc Âm).
GIẤC HÀNH MÔN
Hành môn 衡 門: Cửa làm bằng thanh gỗ ngang, ý chỉ nơi quê mùa mộc mạc. Bài “Hành môn” trong Kinh Thi có câu: Hành môn chi hạ, khả dĩ thê trì; tiết chi dương dương, khả dĩ lạc ky 衡 門 之 下 可 以 梯 遲, 泌 之 洋 洋, 可 以 樂 饑, nghĩa là dưới túp lều cửa gỗ ngang ta có thể nghỉ nhàn ở đây, suối róc rách chảy khoảng mênh mông, ta có thể vui với đạo mà quên cảnh đói khát.
Giấc
hành môn là giấc mơ yên vui với cảnh quê mùa mộc mạc.
Cùng nhau một giấc hành môn,
Lau nhau ríu rít cò con cũng tình.
(Cung Oán Ngâm Khúc).
GIẤC HY HOÀNG
Hy Hoàng tức là Phục Hy và Hoàng Đế, hai vị vua thời Thượng cổ của Trung Hoa.
Giấc
Hy Hoàng là giấc ngủ thấy Phục Hy và Hoàng Đế, chỉ giấc ngủ ngàn năm tức là
chết.
Kinh Dương một giấc Hy Hoàng,
Trao quyền Thái tử giữ giàng vạn dân.
(Thiên Nam Ngữ Lục).
GIẤC HOÀNG
LƯƠNG
Hay “Giấc huỳnh lương”.
Bởi chữ “Hoàng lương mộng 黃 糧 夢” là giấc kê vàng, chỉ đời người ngắn ngủi, công danh phú quý như giấc mộng.
Do tích Lư Sinh nằm mộng cạnh bếp nấu nồi kê vàng, thấy mình cưới vợ đẹp con xinh, giàu sang phú quý, khi tỉnh giấc nồi kê vẫn chưa chín.
Xem: Hoàng lương.
1.- Giấc hoàng lương:
Canh chầy mơ giấc
Hoàng lương,
Tỉnh ra lại thấy muôn dường
như không.
(Tây Sương).
2.-
Giấc huỳnh lương:
Chiếc bách dập dồn dòng Bích Thủy,
Phồn hoa mờ mệt