Thursday, September 17, 2020

Việt Nam Sử Lược - Chương 8 Giặc giã ở trong nước

CHƯƠNG VIII

Giặc giã ở trong nước

1. Việc rối loạn trong nước

2. Giặc Tam đường

3. Giặc châu chấu

4. Giặc tên Phụng

5. Sự phản nghịch ở Kinh thành

6. Giặc Khách ở Bắc kỳ

1. Việc rối loạn trong nước. Vua Dực tông vốn là ông vua có lòng chăm chỉ về việc trị dân, ngay từ năm canh tuất (1850), là năm Tự đức thứ 3, ngài đã sai ông Nguyễn Tri Phương làm Kinh lược đại sứ 6 tỉnh Namkỳ; ông Phan Thanh Giản làm Kinh lược đại sứ Bình định, Phú yên, Khánhhòa và Bình thuận; Ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh lược đại sứ Hà tĩnh, Nghệ An và Thanh hóa. Các ông ấy đi khám xét công việc các quan lại và sự làm ăn của dân gian, có điều gì hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.

Tuy vậy mặc lòng, không có đời nào lắm giặc giã bằng đời ngài làm vua. Chỉ được vài ba năm đầu thì còn có hơi yên trị, còn từ năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi, thì càng ngày càng nhiều giặc. Mà nhất là đất Bắc kỳ là có nhiều giặc hơn cả, bởi vì đất Bắc kỳ là đất của nhà Lê cũ, dân tình cũng có nhiều người tưởng nhớ đến tiền triều, nên chỉ những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là giòng dõi nhà Lê, hoặc tìm một người nào giả nhận dòng dõi nhà Lê, rồi tôn lên làm minh chủ để lấy cớ mà khởi sự.

Lại nhân lúc bấy giờ bên Tàu có giặc Thái bình nổi lên đánh nhà Thanh, đến khi giặc ấy tan thì dư đảng chạy tràn sang nước ta cướp phá ở mạn thượng du. Nào giặc khách, nào giặc ta, quan quân cứ phải đi đánh dẹp luôn. ở trong nước thì thỉnh thoảng lại có tai biến, như nước lụt, đê vỡ, v. v. Ở Hưng yên, đê Văn giang vỡ 18 năm liền, cả huyện Văn giang thành bãi cát bỏ hoang, dân gian đói khổ, nghề nghiệp không có, cho nên người đi làm giặc càng ngày càng nhiều vậy.

2. Giặc Tam đường. Năm Tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, có giặc khách là bọn Quảng nghĩa Đường, Lục thắng Đường, Đức thắng đường, v. v... tục gọi là giặc Tam đường, quấy nhiễu ở mặt Thái nguyên, vua sai ông Nguyễn đăng Giai ra kinh lược Bắc kỳ. Ông ấy dùng cách khôn khéo dụ được chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến cuối năm giáp dần (1854) là năm Tự Đức thứ 7, Nguyễn đăng Giai mất, đất Bắc kỳ lại có loạn.

3. Giặc châu chấu. Năm Tự Đức thứ 7 (1854), ở tỉnh Sơn tây có một bọn người đem Lê duy Cự là dòng dõi nhà Lê ra lập lên làm minh chủ để khởi sự đánh nhà Nguyễn. Lúc bấy giờ có Cao bá Quát, người làng Phúthụy, huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh, thi đỗ cử nhân, ra làm quan, được bổ chức giáo thụ phủ Quốc oai (Sơn tây). Cao bá Quát có tiếng là người vănhọc giỏi ở Bắc kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở vùng Sơn tây và Hà nội. Tháng chạp năm ấy quan phó Lĩnh binh tỉnh Sơn tây là Lê Thuận đi đánh bắt được Cao bá Quát đem về chém tại làng.

Nhân vì mùa tháng năm ấy ở vùng tỉnh Bắc ninh và Sơn tây có nhiều châu chấu ra phá hại mất cả mùa màng, rồi đến cuối năm lại có giặc ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu chấu.

Cao bá Quát chết đi rồi, Lê duy Cự còn quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được. Từ đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc, nhưng kiệt hiệt hơn cả là có giặc tên Phụng và giặc Khách ở mạn Thượngdu.

4. Giặc tên Phụng. Năm tân dậu (1861), quân nước Pháp và nước Ipha  nho sang đánh Quảng nam, có mấy người ở Bắc kỳ theo vào làm lính mộ. Trong ấy có tên Tạ văn Phụng, trước đã theo giáo sĩ ra ngoại quốc đi học đạo, sau lại theo trung tướng Charner về đánh Quảng nam.

Đến tháng chạp thì tên Phụng ra Bắc kỳ, mạo xưng là Lê duy Minh dòng dõi nhà Lê, rồi tự xưng là minh chủ, cùng với một người đạo trưởng tên là Trường làm mưu chủ, và tên Ước, tên Độ dấy binh ở Quảng yên.

Đảng tên Phụng đem quân giặc Khách ở ngoài bể vào đánh lấy phủ Hảininh, rồi lại thông với giặc Khách và giặc ta ở các tỉnh, để làm loạn ở Bắc Kỳ.

Tháng ba năm nhâm tuất (1862), ở Bắc ninh có tên cai tổng Nguyễn văn Thịnh (tục gọi là cai tổng Vàng) xưng làm nguyên súy, lập tên Uẩn mạo 208 xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh chủ, rồi nhập đảng với tên Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng giang, huyện Yên dũng, và vây thành Bắc ninh.

Bấy giờ quan bố chính ở Hà nội là Nguyễn khắc Thuật, quan bố  chính tỉnh Sơn tây là Lê Dụ và quan phó lĩnh binh tỉnh Hưng yên là Vũ Tảo đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.

Phía đông thì tên Phụng vây thành Hải dương, tỉnh thần dâng sớ cáo cấp. Triều đình bèn sai quan Thượng thư bộ Hình là Trương quốc Dụng ra làm tổng thống Hải an163 quân vụ, cùng với Phan tam Tỉnh, Đặng Hạnh, Lê Xuân, đem quân Kinh và quân Than, Nghệ ra tiến tiễu. Lại sai Đào Trí làm tham tán đại thần, Nguyễn bá Nghi làm Sơn Hưng Tuyên164 tổng đốc, để cùng với Trương quốc Dụng đánh giặc ở Bắc kỳ.

Lúc ấy, tỉnh Thái Nguyên thì có giặc Nông và giặc Khách đánh phá, tỉnh Tuyên Quang thì có bọn tên Uẩn, tên Nông hùng Thạc quấy nhiễu, tỉnh Cao bằng thì bị tên Giặc Khách Lý hợp Thắng vây đánh, tỉnh Bắc ninh thì có cai tổng Vàng cướp phá, các quan to la rối cả lên. Vua Dực tông sai Nguyễn tri Phương ra làm tây bắc tổng thống quân vụ đại thần, cùng với Phan đình Tuyển và Tôn thất Tuệ ra đánh mặt Bắc ninh, Thái nguyên và Tuyên quang.

Tháng 3 năm quí hợi (1863) Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên quang và bắt được tên Uẩn đóng củi giải về trị tội. Qua tháng 4, Nguyễn tri Phương dẹp xong giặc ở Bắc ninh, rồi đem binh lấy lại thành Thái nguyên, bắt được tên Thanh, tên Đắc, tên Vân và lại phá được sào huyệt của giặc ở núi Ma hiên, thuộc châu Bạch thông.

Còn ở mặt Hải dương và Quảng yên, thì tuy Trương quốc Dụng và Đào Trí đã giải được vây cho thành hải dương, nhưng thế quân giặc ở mặt bể còn mạnh lắm. Vua Dực tông lại sai Nguyễn tri Phương làm tổng thống hải an quân vụ, Trương quốc Dụng làm hiệp thống đem quân ra đánh mặt ấy.

Lúc bấy giờ bọn tên Phụng có sai người vào cầu viện quan thiếutướng Bonard ở trong Nam kỳ, ước hễ lấy được Bắc kỳ thì xin để nước Pháp bảo hộ. Nhưng vì trong Nam kỳ còn lắm việc, mà sự giảng hòa với Triềuđình ở Huế đã sắp xong, cho nên thiếu tướng không nhận. Đảng tên Phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng yên và những đảo ở ngoài bể, để làm sào huyệt, 163 Hải Dương và Quảng An 164 Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang rồi cho binh thuyền đi cướp phá khắp nơi. Quan quân đi đánh, nhiều người bị hại.

Cuối năm quí hợi (1863) là năm Tự đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Các bà và ở núi Đồ sơn, có ý muốn đem quân vào đánh đất Kinh kỳ, nhưng chẳng may phải bão, thuyền đắm mất nhiều. Quan đề đốc là Lê quang Tiến và quan bộ phủ Bùi huy Phan được tin ấy liền đem quân ra đánh, bị quân giặc tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê quang Tiến và Bùi huy Phan phải nhảy xuống biển tự tận.

Đến tháng 6 năm giáp tí (1864) là năm Tự đức thứ 17, quan hiệpthống Trương quốc Dụng, quan tán lý Văn đức Khuê, quan tán tương Trần huy Sách và quan chưởng vệ Hồ Thiện đánh nhau với giặc ở đất Quảng yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân sĩ thiệt hại rất nhiều.

Tháng 4 năm ất sửu (1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra làm 3 đạo vào cướp ở mạn Hải dương. Nguyễn tri Phương sai Nguyễn văn VĨ đem quân ra đón đánh, bắt và chém được rất nhiều. Từ đó quan đề đốc Mai Thiện quan tán lý Đặng trần Chuyên, quan đốc binh Ông ích Khiêm phá được quân giặc hơn 10 trận, quân giặc lui về giữ mặt Hải ninh.

Tháng 7 năm ấy, Nguyễn tri Phương sai Đặng trần Chuyên, Ông ích Khiêm đem binh ra Quảng yên, ước với quan nhà Thanh ở Khâm châu để đánh lấy lại thành Hải ninh. Quân giặc thua to, đem hơn 70 chiếc thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh thuyền ra đuổi đánh, tên Phụng, tên Ước thì chạy vào mạn Quảng bình, Quảng trị, còn những đồ đảng, đứa thì phải bắt, đưa thì chạy trốn được. Sau tên Phụng, tên Ước cũng bị bắt đem về trị tội ở Huế.

Giặc Phụng khởi từ cuối năm tân dậu (1861) đến cuối năm ất sửu (1865) mới dẹp xong, kể vừa 4 năm trời, nhà nước tổn hại rất nhiều. Khi giặc Phụng ở Quảng yên dẹp gần xong, thì ở mạn Cao bằng đã có giặc Khách đánh lấy tỉnh thành. Quan kinh lược Võ trọng Bình và quan tuần phủ Phạm chi Hương đem binh lên Lạng sơn rồi chia quân đi đánh các nơi, từ tháng 9 năm ất sửu (1865) cho đến tháng 3 năm bính dần (1866), thì tướng giặc là Trương cận Bang mới xin về hàng, và mới thu phục lại được thành Cao bằng.

Nguyễn tri Phương và Võ trọng Bình về Kinh coi việc triều chính.

5. Sự phản nghịch ở Kinh thành. Việc ngoài Bắc mới hơi nguôi nguôi, thì Kinh đô lại có việc làm cho náo động lòng người.

209 Nguyên vua Dực tông là con thứ mà được nối ngôi, là vì người anh ngài là Hồng Bảo phóng đãng, không chịu học hành cho nên không được lập. Ông ấy lấy điều đó làm tức giận, bèn đồ mưu với một nước ngoại quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. Còn con ông thì được tha mà phải đổi tên là Đinh Đạo Đến năm bính dần (1866) là năm Tự đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn niên cơ tức là Khiêm lăng bây giờ, quân sĩ phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Bấy giờ ở Kinh có Đoàn Trưng cùng vơi em là Đoàn hữu Ái, Đoàn tư Trực, và bọn Trương trọng Hòa, Phạm Lương kết làm " Sơnđông  thi tửu hộ" để mưu việc lập Đinh Đạo lên làm vua. Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm làm ở Vạn niên cơ và cùng với qua hữu quân Tôn thất Cúc làm nội ứng, định ngày khởi sự.

Đến đêm hôm mồng 8 tháng 8, bọn tên Trưng đem quân vào cửa tả dịch, chực xông vào điện giết vua Dực tông. May nhờ có quan chưởng vệ là Hồ Oai đóng được cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên Trực và cả bọn đồng đảng.

Đinh Đạo phải tội giảo, Tôn thất Cúc thì tự vẫn chết, còn các quan có trách nhiệm đều phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải cách.

Lúc ấy ngoài thì có giặc cướp phá, trong thì có nghịch thần làm loạn.

Ở mặt Quảng nghĩa lại có giặc mọi Đá vách cứ hay xuống quấy nhiễu dângian, may nhờ có quan tiểu phủ Nguyễn Tấn ra sức đánh dẹp mới yên được.

Việc giao thiệp với nước Pháp càng ngày càng khó. Ở Bắc kỳ thì có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh không được, phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều đình cũng bối rối không biết tính ra thế nào cho khỏi được sự biến loạn.

6. Giặc Khách ở Bắc kỳ. Bên Tàu lúc bấy giờ cũng loạn: ngoài thì đánh nhau với nước Anh cát lợi và nước Pháp lan tây. Triều đình phải bỏ Kinh đô mà chạy; trong thì có giặc Thái bình nổi lên đánh phá, tí nữa ngôi vua nhà Thanh cũng đổ nát.

Nguyên từ năm Đạo quang thứ 29, là năm kỷ dậu (1849), tức là bên ta năm Tự đức thứ 2, ở Quảng tây có tên Hồng tú Toàn cùng với bọn Dương tú Thanh, Tiêu triều Quí, Lý tú Thành, nổi lên xưng là Thái bình thiên quốc, rồi chiếm cứ đất Kim lăng và các tỉnh phía nam sông Trường giang. May nhờ có bọn Tăng quốc Phiên, Tả tôn Đường, Lý hồng Chương, hết sức đánh dẹp, và lại có thế lực ngoại quốc tư giúp, cho đến năm Đồng trị thứ hai là năm quí hợi (1863) tức là bên ta năm Tự đức thứ 16, quan nhà Thanh mới bắt được các tướng Thái bình, Hồng tú Toàn phải uống thuốc độc tự tử, triều đình nhà Thanh lại thu phục được các tỉnh phía nam nước Tàu.

Lúc ấy có dư đảng của Hồng tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy tràn sang nước ta, trước còn nói xin hàng, rồi sau đem quân đi cướp phá các tỉnh, quan quân đánh mãi không được. Năm mậu thìn (1868) là năm Tự đức thứ 21, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao bằng. Triều đình sai quan tổng đốc Phạm chi Hương viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin quân Tàu sang tiểu trừ. Nhà Thanh sai phó tướng Tạ kế Quí đem quân sang cùng với quan tiểu phủ Ông ích Khiêm và quan đề đốc Nguyễn viết Thành, đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua ở Lạng sơn, quan tham tán Nguyễn Lệ, quan phó đề đốc Nguyễn viết Thành tử trận, quan thống đốc Phạm chi Hương bị bắt.

Triều đình sai Võ trọng Bình ra làm Hà ninh tổng đốc kiêm chức Tuyên Thái Lạng quân thứ khâm sai đại thần, để hội với quan đề đốc tỉnh Quảng tây là Phùng tử Tài mà đánh giặc Ngô Côn.

Quân hai nước cùng đồng sức đánh dẹp, đến tháng 5 năm kỷ tị (1869) thì mới khôi phục lại được tỉnh thành Cao bằng. Đến cuối năm canhngọ (1870), Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh thành Bắc ninh, quan tiểuphủ Ông ích Khiêm đánh một trận bắn chết Ngô Côn và phá tan quân giặc.

Ngô Côn tuy chết, song còn có những đồ đảng là Hoàng sùng Anh, hiệu cờ vàng, Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, Lương văn Lợi, hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy nhiễu ở mạn Tuyên quang, Thái nguyên, quan quân phải hết sức chống giữ thật là vất vả. Triều đình sai quan trung quân Đoàn Thọ ra làm tổng thống quân vụ ở Bắc kỳ.

Đoàn Thọ vừa mới ra, kéo quân lên đóng ở tỉnh thành Lạng sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành, bắt ông ấy giết đi, còn Võ trọng Bình thì vượt thành chạy thoát được.

Tin ấy vào đến Huế, Triều đình vội vàng sai Hoàng kế Viêm165 ra làm Lạng Bình Ninh Thái thống đốc quân vụ đại thần, cùng với quan tán tương Tôn thất Thuyết đi dẹp giặc ở Bắc kỳ. Qua tháng tư năm sau (1871), nhà vua lại sai quan Hình bộ thượng thư là Lê Tuấn làm chức Khâm sai thị sự để cùng với ông Hoàng kế Viêm lo việc đánh dẹp.

165 Có sách chép là Hoàng Tá Viêm.

210 Tháng 11 năm tân mùi (1871), ở Quảng yên lại có tên Hoàng Tề nổi lên, thông với giặc Tô Tứ và giặc Tàu ô ở ngoài bể, rồi đem binh thuyền đi cướp phá các nơi. Hoàng kế Viêm giữ mạn Sơn tây, Lê Tuấn ra cùng với tỉnh thần Hải dương đem quân đi đánh giặc Tề. Được ít lâu, quân thứ tỉnh Hải dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh lâm, dư đảng giặc ấy đều tan cả.

Ở mạn thượng du thì đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc và đảng cờ vàng là bọn Hoàng sùng Anh quấy nhiễu ở đất Tuyên quang. Bao nhiêu thuế má ở mạn ấy, chúng thu cả, sau hai đảng ấy lại thù khích nhau, đánh phá nhau thật là tàn hại, đảng cờ đen về hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu vĩnh Phúc cho đất ở Lao kay, được thu cả quyền lợi ở chỗ ấy, để chống giữ với đảng cờ vàng, đóng ở _c_ó_mạn Hà giang.

Đất Bắc kỳ cứ giặc giã mãi, quan quân đánh dẹp thật là tổn hại mà không yên được. Đến tháng 7 năm nhâm thân (1872), Triều đình lại sai Nguyễn tri Phương làm Tuyên sát đổng sức đại thần ra thay mặt vua xemxét việc đánh giặc ở Bắc kỳ. Nhưng lúc bấy giờ việc giặc ở trong nước chưa xong, thì sự giao thiệp với nước Pháp đã sinh ra lắm nỗi khó khăn, khiến việc nước lại rối thêm ra nữa.

Toàn văn tác phẩm "Việt Nam Sử Lược" của Trần Trọng Kim  

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...