Wednesday, September 16, 2020

Việt Nam Sử Lược - Chương 6 Công việc họ Nguyễn làm ở miền Nam

CHƯƠNG VI 

Công việc họ Nguyễn làm ở miền Nam

1. Quan chế

2. Thi cử

3. Việc võ bị

4. Việc thuế khóa

5. Số tiền chi thu trong nước

6. Lấy đất Chiêm thành

7. Mở đất Nam Việt và sự giao thiệp với Chân lạp

8. Việc giao thiệp với nước Tiêm la

9. Việc lập dinh định phủ

Họ Nguyễn đã giữ riêng một cõi ở phía nam, lập ra nghiệp chúa, lưutruyền đời nọ qua đời kia, bởi vậy cho nên chính trị, thuế lệ, binh lính, việc gì cũng tự sửa sang và xếp đặt lấy như là một nước tự chủ vậy.

1. Quan Chế.

Lúc họ Nguyễn chưa ra mặt chống nhau với họ Trịnh thì quan lại vẫn ở ngoài Bắc bổ vào nhưng mà từ khi chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế cho nhà Lê, và đem quân chống giữ với quân họ Trịnh ở bắc Bố Chính thì các quan viên đều do chúa Nguyễn đặt lấy cả.

Ở Chính dinh là chỗ chúa đóng thì đặt tam ti để giúp chúa coi việc chínhtrị.

Tam ti là: Xá sai ti, Tướng thần lại ti, Lệnh sử ti.

1. Xá sai ti giữ việc từ tụng văn án. Có quan Đô tri, Ký lục làm đầu.

2. Tướng thần lại ti giữ việc thu tiền thu thuế, chi phát lươngthực cho quan các đạo. Có quan cai bạ làm đầu.

3. Lệnh sử ti giữ việc tế tự, tết nhất và việc chi cấp lương cho quân ở chính dinh. Có quan Nha úy làm đầu.

Mỗi ti lại có quan Cai hợp, Thủ hợp và các lại ti để làm mọi việc.

Ở ngoài các dinh, thì có nơi chỉ đặt có một Lệnh sử ti kiêm cả việc Xá sai ti và Tướng thần lại ti, có nơi thì đặt Xá sai ti và Lệnh sử ti để coi việc quân dân, từ tụng, đinh điền, sổ sách, thuế khóa, v.v. nghĩa là tùy nơi quan trọng hay là không, mà thêm bớt quan viên.

Ở phủ huyện, thì đặt tri huyện, tri phủ, để coi việc từ tụng, thuộc hạ thì có đề lại, thông lại, chuyên việc khám xét. Lại có huấn đạo, lễ sinh, chuyên việc tế tự ở chỗ sở tại. Còn việc thu thuế thì đặt quan khác để coi về việc ấy.

Đến đời chúa Thượng Nguyễn phúc Lan (1635 1648) lại đặt thêm chức nội tả, ngoại tả, nội hữu, ngoại hữu, gọi là tứ trụ để giúp chúa trị dân.

Về đàng quan võ thì đặt chức: chưởng đinh, chưởng cơ, cai cơ, caiđội để coi việc binh.

2. Thi Cử.

Năm đinh hợi (1674) chúa Nguyễn mở khoa thi gọi là thi chính đồ và thi hoa văn.

Thi chính đồ chia ra làm ba kỳ: kỳ đệ nhất thi tứ lục, kỳ đệ nhị thi thơ phú, kỳ đệ tam thi văn sách. Quan tri phủ tri huyện làm sơ khảo, quan cai bạ, ký lục, vệ úy làm giám khảo. Những quyển đậu, thì chia ra làm ba hạng: hạng thứ nhất gọi là giám sinh, được bổ ra làm tri phủ, tri huyện; hạng thứ nhì gọi là sinh đồ được bổ làm huấn đạo; hạng thứ ba cũng gọi là sinh đồ được bổ làm lễ sinh, hoặc làm nhiêu học.

Thi hoa văn thì cũng phải ba ngày, mỗi ngày chỉ phải làm có một bài thơ mà thôi. Ai đậu thì được bổ vào làm việc ở Tam ti.

Năm ất hợi (1695) Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 1725) mở khoa thi ở trong phủ chúa, gọi là thi Văn chức và thi Tam ti. Thi Tam ti là thi Xá sai ti, thi Tướng thần lại ti và thi Lệnh sử ti. Thi Văn chức thì thi tứ  lục, thơ phú, văn sách; thi Xá sai ti thì hỏi về việc binh lính, tiền lương, từ tụng; thi Tướng thần lại ti và Lệnh sử ti thì chỉ làm một bài thơ mà thôi.

Năm canh thân (1740), Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 1765) định lại phép thi: những người đậu kỳ đệ nhất gọi là nhiêu học, được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ nhị và kỳ đệ tam thì được miễn sai chung thân; đậu kỳ đệ tứ gọi là hương cống, được bổ đi làm tri phủ, tri huyện.

Xem như vậy thì sự thi cử ở miền Nam đời bấy giờ còn sơ lược lắm.

3. Việc Võ Bị.

Họ Nguyễn bấy giờ phải chống nhau với họ Trịnh cho nên phải lo việc võ bị hơn. Quân thì chia ra làm năm cơ gọi là: trung cơ, tả cơ, hữu cơ, tiền cơ, hậu cơ. Số quân độ chừng non ba vạn người.

Năm tân mùi (1631) chúa Sãi lập ra sở đúc súng đại bác và mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa, cứ hằng năm luyện tập để phòng bị chiến tranh.

4. Việc Thuế Khóa. Điền thổ chia ra làm 3 hạng để đánh thuế. Lại có hạng gọi là thu điền, khô thổ, nghĩa là ruộng đất xấu thì thuế đánh lại nhẹ hơn ruộng đất thường.

Những công điền thì cấp cho dân cày cấy để nộp thuế; còn ai khai khẩn được đất hoang ra làm ruộng, thì cho là tư điền.

Thuế mỏ. Ở đất Quảng nam, Thuận hóa có mỏ vàng; ở đất Quảngnghĩa có mỏ bạc; ở đất Bố chính có mỏ sắt. Các mỏ ấy đều đánh thuế cả.

Thuế xuất cảng nhập cảng. Lệ cứ những tàu ở Thượng hải và ở Quảng đông lại, thì phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300 quan. Tàu ở Mả cao, ở Nhật bản lại, thì phải nộp 4.000 quan, đến lúc đi phải nộp 400 quan. Tàu ở Tiêm la, ở Lã tống lại, thì phải nộp 2.000 quan, đến lúc đi phải nộp 200 quan. Tàu ở các nước phương Tây lại, thì phải nộp 8.000 quan, đến lúc về phải nộp 800 quan.

Thuế ấy chia ra làm 10 thành: 6 thành thì đem vào kho, còn 4 thành để nộp cho quan lại, binh lính đã coi về việc thu thuế.

5. Số tiền chi thu trong nước.

Năm quí đậu (1753) Vũvương sai quan Chưởng thái giám là Mai văn Hoan tính số vàng, bạc và tiền thu vào phát ra mỗi năm là bao nhiêu.

Bấy giờ số tiền thì có năm thu vào được hơn 338.100 quan, mà phát ra mất hơn 364.400 quan; có năm được hơn 423.300 quan, mà phát ra mất hơn 369.400 quan. Vàng thì có năm thu được 830 lượng, có năm được 890 lượng. Bạc thì thứ giáp ngân (?) có năm thu được 240 lượng, có năm được 390 lượng; thứ dung ngân (?) có năm được 2.400 lượng, có năm được 1.800 lượng; thứ kê ngân (?) có năm được 10.100 đồng, có năm được 400 đồng, cũng có năm không có đồng nào.

Tính đổ đồng lại từ năm bính dần (1746) đến năm nhâm thân (1752) nghĩa là trong 7 năm, số vàng được 5.768 lượng, số giáp ngân được 9.978 lượng, số dung ngân được 14.276 lượng, số kê ngân được 21.150 đồng.

Từ đó trở đi mỗi năm phải làm sổ kê rõ ra trong năm vàng bạc và tiền thu vào và phát ra mất bao nhiêu, lệ cứ đến ngày mồng ba tháng giêng năm sau dâng lên để chúa xem.

Những tiền tiêu trong nước, thì có tiền đồng và tiền kẽm, khắc hai chữ thái bình.

6. Lấy đất Chiêm Thành.

Trước Trịnh Kiểm chỉ cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận hóa mà thôi; sau đến năm canh ngọ (1570) họ Trịnh đòi quan trấn thủ Quảng nam là Nguyễn Bá Quýnh về trấn đất Nghệ an, để đất Quảng nam cho Nguyễn Hoàng kiêm lĩnh.

Năm tân hợi (1611) Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm thành lấy đất lập ra phủ Phú yên; chia ra làm hai huyện là Đồng xuân và Tuyên hòa.

Đến năm quí tị (1653) vua nước Chiêm thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần mới sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan lang trở ra lấy làm Thái ninh phủ, sau đổi làm phủ Diên khánh (tức là Khánh hòa bây giờ), đặt dinh Thái khang để Hùng Lộc làm thái thú.

Năm quí dậu (1693) vua nước Chiêm thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn hữu Kính (con Nguyễn hữu Dật) đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn thần tử là Tả trà Viên, Kế bà Tử cùng thân thuộc là Bà Ân đem về Phú Xuân.

Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm thành làm Thuận phủ, cho Tả trà Viên, Kế bà Tử làm chức Khám lý và ba người con của Bà Ân làm đề đốc giữ Thuận phủ, lại bắt phải đổi y phục theo như người Việt nam để phủ dụ dân Chiêmthành.

Qua năm sau lại đổi Thuận phủ ra làm Thuận thành trấn, cho Kế bà Tử làm tả đô đốc. Năm đinh sửu (1697) chúa Nguyễn đặt phủ Bình thuận lấy đất Phan lý (Phan tri) Phan lang (Phan rang) làm huyện Yên phúc và huyện Hòa đa.

Từ đó nước Chiêm thành mất hẳn.

Nước Chiêm thành chính là nước Lâm ấp ngày trước đã từng qua mấy trăm năm, cùng với họ Lý, họ Trần đối địch, chống với quân Mông cổ, không cho xâm phạm vào cõi, lập nên một nước có vua, có tôi, có chính trị, có luật pháp. Nhưng chỉ hiềm vì người nước ấy cứ hay sang cướp phá ở đất Việt nam, thành ra hai nước không mấy khi hòa hiếu được với nhau.

Đã là đối địch thì không sao tránh khỏi được cái luật chung của tạohóa là: khỏe còn, yếu chết. Vì vậy cho nên từ khi vua Thánh tông nhà Lê đã lấy đất Quảng nam và đã chia nước Chiêm ra làm 3 nước rồi, thì từ đó về sau thế lực nước ấy mỗi ngày một kém, dân tình mỗi ngày một suy. Chẳng những là đến nỗi mất nước với chúa Nguyễn mà chủng loại Chiêm thành bây giờ cũng chẳng còn được mấy nghìn người nữa. Một nước trước như thế, mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa với nước ta mặc lòng, song nghĩ cũng thương tâm thay cho những nước yếu hèn không tránh khỏi được cái họa: cá nhỏ bị cá lớn nuốt.

7. Mở đất Nam Việt và sự giao thiệp với Chân Lạp.

Nguyên nước Chân lạp ở vào quãng dưới sông Mê kông, có lắm sông nhiều ngòi, ruộng đất thì nhiều mà nước Nam ta thường hay mất mùa, dân tình phải đói khổ luôn, và lại vào lúc chúa Nguyễn, chúa Trịnh đánh nhau, cho nên nhiều người bỏ vào khẩn đất, làm ruộng ở Mô xoài (Bà rịa) và ở Đồngnai (nay thuộc Biên hòa).

Năm mậu tuất (1658) vua nước Chân lạp mất rồi, chú cháu tranh nhau, sang cầu cứu bên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là chúa Hiền sai quan đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi xuy (nay thuộc huyện Phướcchánh, tỉnh Biên hòa) bắt được vua nước ấy là Nặc ông Chân đem về giam ở Quảng bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều cống và phải bênhvực người Việt nam sang làm ăn ở bên ấy.

Năm giáp dần (1674), nước Chân lạp có người Nặc ông Đài đi cầuviện nước Tiêm la để đánh Nặc ông Nộn.

Nặc ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái khang (nay là Khánh hòa). Chúa Hiền bèn sai Cai cơ đạo Nha trang là Nguyễn dương Lâm cùng với Nguyễn đình Phái làm tham mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc ông Đài, phá được đồn Sài gòn, rồi tiến quân lên vây thành Namvang.

Nặc ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc ông Thu ra hàng. Nặc ông Thu là chính dòng con trưởng cho nên lại lập làm chánh quốc vương đóng ở Long úc, để Nặc ông Nộn làm đệ nhị quốc vương, đóng ở Sài gòn, bắt hằng năm phải triều cống.

Năm kỷ tị (1679) có quan nhà Minh là tổng binh trấn thủ đất Longmôn (Quảng tây) Dương ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh châu Cao, châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng đông) là Trần Thượng Xuyên, phó tướng Trần an Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt nam. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân lạp, bèn cho vào ở đất Đông phố (tức là đất Gia định).

Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc đã (tức là đất Đồng nai thuộc Biên hòa), ở Mỹ tho (thuộc Định tường), ở Ban lân (thuộc Biên hòa) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường phố, có người phương tây, người Nhật bản, người Chà và đến buôn bán đông lắm.

Năm mậu thìn (1688) những người khác ở Mỹ tho làm loạn. Hoàng Tiến giết Dương ngạn Địch đi, rồi đem chúng đóng đồn ở Nan khê, làm tàu đúc súng để chống nhau với người Chân lạp. Vua Chân lạp là Nặc ông Thu cũng đào hào đắp lũy để làm kế cố thủ và bỏ không chịu thần phục chúa Nguyễn nữa.

Bấy giờ chúa Nguyễn là Nguyễn phúc Trăn sai quan đem quân đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua Chân lạp phải theo lệ triều cống.

Năm mậu dần (1698) chúa Nguyễn là Nguyễn phúc Chu sai ông Nguyễn hữu Kính làm kinh lược đất Chân lạp, chia đất Đông phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng nai làm huyện Phúc long và Sài gòn làm huyện Tân bình. Đặt Trấn biên dinh (tức là Biên hòa) và Phan trấn dinh (tức là Gia định) sai quan vào cai trị. Lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất. Còn những người Tàu ở đất Trấn biên (Biên hòa) thì lập làm xã Thanh hà, những người ở đất Phan trấn (Gia định) thì lập làm xã Minh hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta.

Bấy giờ lại có người khách Quảng đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh bên Tàu, bỏ sang ở Chân lạp, thấy ở phủ Sài mạt có nhiều người các nước đến buôn bán, bèn mở sòng đánh bạc, rồi lấy tiền chiêu mộ những lưu dân lập ra 7 xã, gọi là Hà tiên. Năm mậu tí (1708) Mạc Cửu xin thuộc về chúa Nguyễn; chúa phong cho làm chức tổngbinh, giữ đất Hà tiên.

Đến khi Mạc Cửu mất, chúa Nguyễn lại phong cho con Mạc Cửu là Mạc thiên Tứ làm chức đô đốc, trấn ở Hà tiên. Mạc thiên Tứ đắp thành, xây 138 lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho học để khai hóa đất Hàtiên.

Thời bấy giờ đất Chân lạp cứ loạn lạc luôn. Năm kỷ mão (1699) vua nước ấy là Nặc ông Thu đem quân chống với quân chúa Nguyễn, chúa sai quan tổng suất Nguyễn hữu Kính sang đánh. Quân ta sang đến thành Namvang, Nặc ông Thu bỏ chạy, con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm mở cửa thành ra hàng. Sau Nặc ông Thu cũng về hàng, xin theo lệ triều cống như cũ.

Quân ta rút về.

Được ít lâu vua thứ hai là Nặc ông Nộn mất, vua thứ nhất là ông Nặc ông Thu phong cho con Nặc ông Nộn là Nặc ông Yêm làm quan và lại gả con gái cho. Sau Nặc ông Thu già yếu, truyền ngôi cho con là Nặc ông Thâm.

Năm ất dậu (1705) Nặc ông Thâm nghi cho Nặc ông Yêm có ý làm phản, bèn khởi binh đánh nhau. Nặc ông Thâm lại đem quân Tiêm la về giúp mình. Nặc ông Yêm phải chạy sang cầu cứu ở Gia định.

Chúa Nguyễn sai quan cai cơ là Nguyễn cửu Vân sang đánh Nặc ông Thâm. Nguyễn cửu Vân sang phá được quân Tiêm la; đem Nặc ông Yêm về thành La bích. Từ đó Nặc ông Thâm ở Tiêm la cứ thỉnh thoảng đem quân về đánh Nặc ông Yêm.

Năm giáp ngọ (1714) quân của Nặc ông Thâm về lấy thành La bích và vây đánh Nặc ông Yêm nguy cấp lắm. Nặc ông Yêm sai người sang Gia định cầu cứu. Quan đô đốc Phiên trấn (Gia định) là Trần thượng Xuyên và quan phó tướng Trấn biên (Biên hòa) là Nguyễn cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm ở trong thành La bích. Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm sợ hãi, bỏ thành chạy sang Tiêm la. Bọn ông Trần thượng Xuyên lập Nặc ông Yêm lên làm vua Chân lạp.

Năm tân hợi (1729) quân Chân lạp sang quấy nhiễu ở hạt Gia định.

Chúa Nguyễn bèn đặt sở Điều khiển để thống nhiếp việc binh ở mạn ấy.

Năm bính thìn (1736) Nặc ông Yêm mất, con là Nặc ông Tha lên làm vua. Đến năm mậu thìn (1747) Nặc ông Thâm lại ở bên Tiêm la về, cử binh đánh đuổi Nặc ông Tha đi, rồi chiếm lấy ngôi làm vua. Nặc ông Tha phải bỏ chạy sang Gia định.

Được ít lâu Nặc ông Thâm mất, con là Nặc Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yếm tranh nhau. Chúa Nguyễn bèn sai quan Điều khiển là Nguyễn hữu Doãn đem quân sang đánh bọn Nặc Đôn và đem Nặc ông Tha về nước.

Nặc ông Tha về được mấy tháng lại bị người con thứ hai của Nặc ông Thâm là Nặc Nguyên đem quân Tiêm la sang đánh đuổi đi. Nặc ông Tha chạy sang chết ở Gia định.

Nặc Nguyên về làm vua Chân lạp thường hay hà hiếp rợ Côn man110 và lại thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn.

Chúa Nguyễn biết tình ý ấy, đến năm quí dậu (1753), sai Nguyễn cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm ất hợi (1755) Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam vang chạy sang Hà tiên nhờ Mạc thiên Tứ.

Năm sau Mạc thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm bôn và Lôi lạp để chuộc tội, và xin cho về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn cư Trinh dâng sớ bày tỏ cách khaithác nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá, thì mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân lạp.

Năm đinh sửu (1759) Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc. Nặc Nhuận còn đang lo để xin chúa Nguyễn phong cho làm vua, thì bị người con rể là Nặc Hinh giết đi, rồi cướp lấy ngôi làm vua.

Quan tổng suất là Trương phúc Du thừa kế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy bị thuộc hạ giết chết, bấy giờ con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc thiên Tứ ở Hà tiên. Mạc thiên Tứ dâng thư về xin lập Nặc Tôn làm vua Chân lạp. Chúa Nguyễn thuận cho, sai Thiên Tứ đem Nặc Tôn về nước.

Nặc Tôn dâng đất Tầm phong long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa bèn sai ông Trương phúc Du và Nguyễn cư Trinh đem dinh Long hồ về xứ Tầm bào, tức là chỗ tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh long bây giờ, và lại đặt ra ba đạo là Đông khẩu đạo ở Sa đéc, Tân châu đạo ở Tiền giang và Châu đốc đạo ở Hậu giang.

Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương úc, Cần bột, Trực sâm, Sài mạt và Linh quỳnh để tạ ơn Mạc thiên Tứ. Mạc thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà tiên cai quản.

Vậy đất 6 tỉnh Nam Việt bây giờ là đất lấy của nước Chân lạp mà người Việt nam khai thác ra.

110 Côn man là chỗ những người Chiêm Thành sang tụ họp ở tại xứ Chân Lạp

8. Việc giao thiệp với nước Tiêm La.

Tiêm la là một nước ở về phía tây nam sông Mê kông dòng đõi người Thái sang ở đấy.

Cứ theo sử ta và sử Tàu thì thoạt đầu tiên gọi là nước Phù nam.

Đến quãng nhà Tùy và nhà Đường bên Tàu là vào quãng thế kỷ thứ sáu, thứ bảy thì đất Phù nam chia ra làm hai: một nửa về phía đông có một dân tộc khác đến lập ra nước Chân lạp, còn một nửa về phía tây thì người Phù nam ở gọi là nước Xích thổ.

Vào quãng nhà Tống, nhà Kim (thế kỷ thứ XI, thứ XII) thì nước Xíchthổ lại chia ra làm hai: một nước gọi là La hộc, một nước gọi là Tiêm. Lúc nhà Nguyên làm vua bên Tàu (thế kỷ thứ XIII, thứ XIV) thì sử có chép hai nước ấy sang cống.

Về sau nước La hộc gồm được cả nước Tiêm, mới gọi là nước Tiêmla  hộc. Đến đầu nhà Minh (cuối thế kỷ thứ XIV) vua nước ấy sang cầu phong bên Tàu, vua Thái tổ nhà Minh mới phong là nước Tiêm la111.

Nước Tiêm la lúc đầu còn nhỏ yếu, thường bị người Chân lạp ápchế.

Sau cường thịnh dần dần lên, rồi vào khoảng năm Vạn lịch (1573 - 1620) nhà Minh, nước Tiêm la lại đánh Chân lạp mà hùng bá cả phương ấy.

Trong thời ấy vua Tiêm la là Phra Naroi dòng dõi nhà Ayouthia dùng một người Hi lạp tên là Constantin Phaulcon làm tướng. Người ấy xin vua giao thiệp với nước Pháp. Bởi vậy năm 1620 mới có bọn sứ thần Tiêm la sang bái yết Pháp hoàng Louis XIV ở tại Versailles.

Thủa bấy giờ chúa Nguyễn còn đang khai sáng ở đất Phú yên, Khánh hòa, nhưng về sau chúa Nguyễn lấy hết đất Chiêm thành, lại lấn sang đất Chân lạp. Người Tiêm la có ý muốn ngăn trở để giữ lấy Chân lạp làm của mình. Nhưng vì thế chúa Nguyễn mạnh hơn, cho nên phải chịu để chúa Nguyễn sang bảo hộ Chân lạp.

Tuy vậy nước Tiêm la thường hay dùng những người phản đối với vua Chân lạp, rồi giúp binh lực cho về làm loạn trong nước. Nhiều khi quân ta phải sang đánh đuổi quân Tiêm la để giúp quốc vương Chân lạp. Cũng có khi quân Tiêm la sang đánh ở đất Hà tiên, như năm ất tị (1715) người Chân lạp là Nặc Thâm đem quân Tiêm la sang cướp phá, quan tổng binh Hà tiên là Mạc Cửu phải bỏ thành mà chạy.

111 Nước Thái Lan ngày nay.

Quân ta và quân Tiêm la đã giao chiến nhiều lần, cho nên hai bên không thông sứ với nhau. Mãi đến năm canh ngọ (1750) đời chúa Nguyễn là Võ vương Nguyễn phúc Khoát, thì mới thấy sử chép rằng chúa sai quan đem thư sang trách nước Tiêm la dung túng kẻ nghịch thần để làm loạn nước Chân lạp.

Năm ất hợi (1755) nước Tiêm la sai sứ sang xin đừng đánh thuế những thuyền của nước ấy sang buôn bán ở đất chúa Nguyễn. Chúa đáp thư lại rằng thuế ấy là quốc lệ đã đặt ra không thể bỏ đi được.

Năm đinh hợi (1767) quân nước Diến Điện sang đánh Tiêm la bắt được vua nước ấy là Phong vương112 và con là Chiêu Đốc cùng mấy vạn người dân đem về Diến Điện. Còn những người con của Phong vương là Chiêu xỉ Khang thì chạy sang Chân lạp và Chiêu Thúy thì chạy sang Hà Tiên.

Bấy giờ nước Tiêm la không có vua, chức Phi nhã (Phya) đất Mangtát là Trịnh quốc Anh bèn khởi binh tự lập làm vua. Trịnh quốc Anh là người Triều châu, tỉnh Quảng đông, cha tên là Yển sang ở đất Tiêm la làm trưởng ở Mang tát. Yển chết, Trịnh quốc Anh lên nối nghiệp xưng là Phi nhã, là một chức xã trưởng vậy.

Trịnh quốc Anh lên làm vua rồi sai sứ sang bắt vua Chân lạp là Nặc Tôn phải sang cống. Nặc Tôn lấy lẽ rằng Trịnh quốc Anh không phải là dòng dõi người Tiêm la, không chịu cống.

Vua Tiêm la lấy điều ấy làm hiềm, sai tướng là Bôn Ma đem người Chân lạp tên là Nặc Non về đánh Nặc Tôn. Nặc Tôn giữ vững các nơi, quân Tiêm la không làm gì được lại phải rút về.

Trịnh quốc Anh biết con vua cũ là Chiêu Thúy còn ở Hà tiên, sợ ngày sau sinh ra biến loạn, bèn đến tháng 10 năm tân mão (1771) đem binhthuyền sang vây đánh Hà tiên. Quan tổng binh là Mạc thiên Tứ giữ không nổi phải bỏ thành chạy.

Vua Tiêm la để tướng là Trần Liên, ở lại giữ Hà tiên rồi tiến quân sang đánh Chân lạp. Quốc vương là Nặc Tôn phải bỏ chạy. Vua Tiêm la đóng quân ở thành Nam vang và lập Nặc Non lên làm vua Chân lạp.

112 Vua nước Tiêm La bấy giờ có bệnh hủi, cho nên sử gọi là Phong Vương 140 Tháng 6 năm sau (1772) chúa Nguyễn sai quan tổng suất là Nguyễn cửu Đàm lĩnh chức Điều khiển đem binh thuyền đi đánh quân Tiêm la.

Quân của Nguyễn cửu Đàm tiến sang đến Nam vang, quân Tiêm la bỏ chạy về Hà tiên, Nặc Non cũng chạy về Cầu bột.

Nặc Tôn lại về làm vua Chân lạp.

Vua Tiêm la về đến Hà tiên sai người đưa thư sang gọi Mạc thiên Tứ về để giảng hòa. Mạc thiên Tứ không chịu. Vua Tiêm la bèn để Trần Liên ở lại giữ Hà tiên, rồi bắt con gái Mạc thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về nước.

Năm sau Mạc thiên Tứ thấy việc không xong, bèn sai người sang Tiêm la xin hòa. Vua Tiêm la gọi Trần Liên về và cho người con gái của Mạc thiên Tứ về Hà tiên. Còn Chiêu Thúy thì đem giết đi.

Từ đó Mạc thiên Tứ lại về giữ đất Hà tiên.

9. Lập dinh định phủ.

Lúc đầu, Nguyễn Hoàng mới vào trấn đất Thuận hóa thì đóng dinh ở làng Ái tử (thuộc huyện Đăng xương, gần tỉnh lỵ tỉnh Quảng trị). Được 13 năm sau (1570) Nguyễn Hoàng lại dời vào làng Trà bát ở huyện ấy, tức là Cát Dinh. Đến năm bính dần (1626) chúa Sãi là Nguyễn phúc Nguyên sắp sửa chống nhau với chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc an (thuộc huyện Quảng điền, tỉnh Thừa thiên bây giờ) và đổi chỗ tư sở là phủ.

Năm bính tí (1636) chúa Thượng là Nguyễn phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim long (thuộc huyện Hương trà, tỉnh Thừa thiên).

Năm đinh mão (1687) chúa Nguyễn là Nguyễn phúc Trăn đem phủ về làng Phú xuân, tức là đất Kinh thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái tông miếu, thờ chúa Hiền.

Năm giáp tí (1744) Vũ vương mới xưng vương hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa sang phép tắc, và định triều phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh.

1. Chính dinh (Phú xuân)

2. Cựu dinh (Ái tử)

3. Quảng bình dinh

4. Vũ xá dinh

5. Bố chính dinh

6. Quảng nam dinh

7. Phú yên dinh |

8. Bình khang dinh | đất Chiêm thành

9. Bình thuận dinh |

10. Trấn biên dinh }

11. Phiên trấn dinh } đất Chân lạp

12. Long hồ dinh } Dinh nào cũng đặt quan Trấn thủ, quan Cai hạ, quan Ký lục để coi việc cai trị. Còn phủ Quảng nghĩa và phủ Qui nhơn thì thuộc về tỉnh Quảngnam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần phủ và quan Khám lý để coi mọi việc. Đất Hà tiên thì đặt là Trấn, có quan đô đốc cai trị.

Tóm lại mà xét, họ Nguyễn làm chúa miền nam, nhưng trước thì vẫn giữ chức vua Lê phong cho, mãi đến đầu thế kỷ thứ XVIII năm nhâm ngọ (1702) Nguyễn phúc Chu mới sai người sang cống vua nhà Thanh để xin phong làm vua, nhưng Thanh triều nói rằng nước Nam còn có họ Lê không phong được cho họ Nguyễn. Việc ấy lại im đi. Nguyễn phúc Chu bèn xưng là quốc chúa và đúc cái ấn Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo để làm cái Truyền quốc bảo, đến đời vua Thế tổ mới thôi. Đến năm giáp tí (1744) Nguyễn phúc Khoát mới xưng vương hiệu và đổi lại chế độ, định ra triều nghi.

Bấy giờ đất phía nam tuy độc lập, nhưng họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua và vẫn không đặt quốc hiệu. Nhưng người ngoại quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là Quảng nam quốc. Đấy là vì ở Quảng nam có phố Hội an (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra vào buôn bán, cho nên mới lấy tên Quảng nam mà gọi.

Còn những công việc họ Nguyễn làm ở phía nam quan trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở mang bờ cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ những người nghèo khổ trong nước đưa đi khai hóa những đất phì nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam Việt bây giờ phồn phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lắm vậy. 

Toàn văn tác phẩm "Việt Nam Sử Lược" của Trần Trọng Kim   

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...