Thursday, September 17, 2020

Việt Nam Sử Lược - Chương 10 Tình thế nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau

CHƯƠNG X

Tình thế nước Nam từ năm Giáp Tuất về sau

1. Văn thân nổi loạn ở Nghệ tỉnh

2. Giặc ở Bắc kỳ

3. Sự giao thiệp với Tàu

4. Tình thế nước Tàu

 5. Sự giao thiệp với nước Pháp

1. Văn thân nổi loạn ở Nghệ tỉnh. Nhờ có ông Philastre và ông Nguyễn văn Tường thu xếp việc Bắc kỳ vừa xong, thì ở mạn Nghệ tĩnh có loạn.

Nguyên lúc bấy giờ dân trong nước ta chia ra làm hai phái: bên lương, bên giáo; hai bên vẫn không ưa nhau. Đến khi sảy ra việc đại úy Francis Garnier lấy Hà nội, bọn sĩ phu ở mạn Nghệ tĩnh thấy giáo dân có nhiều người theo giúp ông ấy, thì lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá.

Tháng giêng năm giáp tuất (1874), là năm Tự đức thứ 27, đất Nghệ an có hai người tú tài là Trần Tấn và Đặng như Mai hội tập cả các vănthân trong hạt, rồi làm một bài hịch gọi là " Bình Tây sát tả ", đại lược nói rằng " Triều đình dẫu hòa với với Tây mặc lòng sĩ phu nước Nam vẫn không chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết, để giữ lại cái văn hóa của ta đã hơn 1000 năm nay, v. v..." Bọn Vănthân cả thảy độ non hơn ba nghìn người, kéo đi đốt phá những làng có đạo.

Nước ta mà không chịu khai hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ phu cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự suy nhược của mình đã sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt ra mà nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà việc nông nỗi càn rỡ, để cho thiệt hại thêm, như thế thì cái tội trạng của bọn sĩ phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru! Lúc bấy giờ quan tổng đốc Nghệ an là ông Tôn thất Triệt lại có ý dung túng bọn Văn thân, cho nên họ càng đắc thế càng phá dữ. Triều đình thấy vậy, mới truyền bắt quan quân phải dẹp cho yên. Bọn Văn thân thấy quan quân đuổi đánh, bèn cùng với bọn giặc Trần quang Hoán, Trương quan Phủ, Nguyễn huy Điển đánh lấy thành Hà tĩnh, rồi ra vây phủ Diễn châu.

Triều đình thấy thế giặc càng ngày càng to, bèn sai ông Nguyễn văn Tường ra làm khâm sai và ông Lê bá Thận làm tổng thống, đem quân ra đánh dẹp, từ tháng 2 đến tháng 6 mới xong.

2. Giặc ở Bắc kỳ. Thuở ấy ở mạn Thượng du đất Bắc kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh mãi không được, phải nhờ quân Tàu sang đánh giúp cũng không xong.

Mạn Hải dương và Quảng yên thì vẫn có những người mạo xưng là con cháu nhà Lê, cứ quấy rỗi mãi. Khi Francis Garnier ra lấy Hà nội, những người ấy về xin theo đi đánh quân ta, nhưng vì sau nước Pháp trả lại các tỉnh ở Bắc kỳ, họ lại tản đi. và từ khi nước ta và nước Pháp đã ký hòa ước rồi, quan Pháp có đem binh thuyền đi đánh giúp, cho nên mới diệt được đảng ấy.

Còn ở mạn Tuyên quang, thì có giặc cờ vàng nhũng nhiễu đã lâu.

Quan quân phải đánh dẹp mãi không được. Đến tháng 8 năm ất hợi (1875), là năm Tự đức thứ 28, tướng cờ vàng là Hoàng sùng Anh đem quân về đóng ở làng Châu thượng, thuộc phủ Vĩnh tường. Bấy giờ quan quân tán dương quân vụ tỉnh Sơn tây là Tôn thất Thuyết về đánh một trận. Giặc ấy từ đó tan dần.

Năm sau Tôn thất Thuyết lại giết được tên giặc Trận ở làng Cổ loa, và dẹp yên được ở mạn Sơn tây. Nhưng đến năm mậu dần (1878), ở Lạngsơn lại có tên giặc Khách là Lý dương Tài nổi lên.

Lý dương Tài trước làm quan hiệp trấn ở Tầm châu, thuộc tỉnh Quảng tây, sau bị cách mới nổi lên làm giặc và đem quân tràn sang đánh lấy tỉnh Lạng sơn. Quan ta đem thư sang cho quan Tàu biết. Quan đề đốc Quảng tây là Phùng tử Tài đem quân 26 doanh sang cùng với quân ta hộitiễu.

Đến tháng 9 năm kỷ mão (1879), quan quân mới bắt được Lý dương Tài ở núi Nghiêm hậu thuộc tỉnh Thái nguyên đem giải sang Tàu.

Vì đất Bắc kỳ cứ có giặc giã luôn cho nên Triều đình đặt ra chức Tĩnh biên sứ để giừ các nơi về đường ngược. Năm canh thìn (1880), đặt ra Lạng giang đạo và Đoan hùng đạo sai hai viên Tĩnh biên phó sứ là Trương 216 quang Đản đóng ở Lạng giang và Nguyễn hữu Độ đóng ở Đoan hùng, lại phong cho Hoàng kế Viêm là Tĩnh biên sứ, kiêm cả hai đạo .

3. Sự giao thiệp với Tàu. Nước ta từ xưa đến nay tuy là độc lập, nhưng vẫ giữ lệ triều cống nước Tàu, lấy cái nghĩa rằng nước nhỏ phải tônkính nước lớn. cho nên khi chiến tranh, dẫu ta có đánh được Tàu đi nữa, thì rồi nhà nào lên làm vua cũng phải theo cái lệ ấy, mà đời nào cũng lấy điều đó làm tự nhiên vì rằng triều cống cũng không tổn hại gì mấy, mà nước vẫn độc lập và lại không hay có việc lôi thôi với một nước láng diềng mạnh hơn mình. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ sang Tàu cầu phong, và cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.

Các vua đời nhà Nguyễn cũng theo lệ ấy, nhưng các đời vua trước thì vua phải ra Hà nội mà tiếp sứ Tàu và thụ phong cho. Đến đời vua Dựctông thì sứ Tàu vào tại Huế phong vương cho ngài.

Còn những cống phẩm thì cứ theo lệ, mà thường chỉ đưa sang giao cho quan Tổng đốc Lưỡng Quảng để đệ về Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến Yên kinh. Trong đời vua Dực tông thì sử chép rằng năm mậu thìn (1868), có ông Lê Tuấn, ông Nguyễn tư Giản và ông Hoàng Tịnh sang sứ Tàu. Năm quí dậu (1873), lại có các ông Phan sĩ Thục, ông Hà văn Khai, và ông Nguyễn Tu sang sứ Tàu, để bày tỏ việc đánh giặc Khách ở Bắc kỳ.

Từ năm giáp tuất (1874) trở đi, Triều đình ở Huế đã ký tờ hòa ước với Pháp, công nhận nước Nam độc lập, không thần phục nước nào nữa, nhưng lúc bấy giờ vì thế bất đắc dĩ mà ký tờ hòa ước, cứ trong bụng vua Dực tông vẫn không phục, cho nên ngài vẫn cứ theo lệ cũ mà triều cống nước Tàu, có ý mong khi hữu sự, nước Tàu sang giúp mình. Bởi vậy năm bính tí (1876), vua Dực tông sai ông Bùi ân Niên tức là ông Bùi Dỵ, ông Lâm Hoành và ông Lê Cát sang sứ nhà Thanh. Năm canh thìn (1880), lại sai ông Nguyễn Thuật, Trần Khánh Tiên, Nguyễn Hoang sang Yên kinh dâng biểu xưng thần và các đồ cống phẩm. Năm sau, Triều đình nhà Thanh sai Đường đình Canh sang Huế bàn việc buôn bán và lập cuộc chiêu thương, chủ ý là để thông tin cho chính phủ Tàu biết mọi việc bên nước ta.

Một bên đã hòa với nước Pháp, nhận theo chính lược ngoại giao của nước Pháp mà độc lập168, một bên cứ triều cống nước Tàu, có ý để cầu viện, bởi thế cho nên chính phủ Pháp lấy điều đó mà trách Triều đình ta vậy.

168 Tờ hòa ước năm giáp tuất 1874

4. Tình thế nước Tàu. Xưa nay ta vẫn công nhận nước Tàu là thượng quốc và vẫn phải lệ triều cống. Hễ khi nào trong nước có việc biếnloạn và vẫn trông mong nước Tàu sang cứu viện. Không ngờ từ thế kỷ thứ XIX trở đi, thế lực các nước bên Tây âu mạnh lên, người phương Tây đi lược địa rất nhiều, mà tình thế nước Tàu thì rất là suy nhược. Năm Đạo quang thứ 19 (1839) tức là năm Minh mệnh thứ 20 bên ta, vì việc cấm thuốc nhaphiến ở Quảng đông thành ra có chiến tranh với nước Anh cát lợi. Quân nước Anh đánh phá thành Ninh ba, Thương hải, v. v. Vua Đạo Quang phải nhận những điều hòa ước năm nhâm dần (1842) làm tại Nam kinh, nhường đảo Hương cảng cho nước Anh và mở những thành Quảng châu, Hạ môn, Phúc châu, Ninh ba và Thương hải ra cho ngoại quốc vào buôn bán.

Cuộc hòa ước ở Nam kinh định xong, các nước ngoại dương vào buôn bán ở nước Tàu và đặt lĩnh sự ở Quảng châu, Ninh ba, Thương hải, v..v. Đến năm Hàm phong thứ 8 (1858), tức là năm Tự đức thứ 11, nước Anh và nước Pháp ký tờ hòa ước với nước Tàu, đặt sứ thần ở Bắc kinh. Đoạn nước Tàu có điều trái ước, gây thành việc chiến tranh với hai nước ấy. Quân nước Anh và nước Pháp đánh lấy hải khẩu, rồi kéo lên đánh lấy Bắc kinh.

Vua Hàm phong phải nhận những điều hòa ước năm canh thân (1860) làm tại Thiên tân.

Từ đó nước Tàu bị các nước khác sách nhiễu mọi điều và bị đè nén nhiều cách. Lúc ấy nước Tàu chẳng khác gì cái nhà lớn đã bị hẩm nát sắp đổ, mà ta vẫn không tỉnh ngộ, cứ mê mộng là nước ấy còn cường thịnh, có thể giúp ta được trong khi nguy hiểm. Bởi vậy khi quân nước Pháp đã lấy Bắc kỳ rồi, người mình còn trông cậy ở quân cứu viện của nước Tàu.

Phương ngôn ta có câu rằng " Chết đuối vớ phải bọt " thật là đúng lắm. Nếu người Tàu có đủ thế lực cứu được ta, thì trước hết họ hãy cứu lấy họ đã.

Nhưng lúc bấy giờ từ vua quan cho chí bọn sĩ phu trong nước ta, ai là người hiểu rõ cái tình thế ấy ? Cho nên không những là ta không chịu cải cách chính thể của ta cho hợp thời mà lại còn làm những điều ngang ngạnh để cho chóng hỏng việc. Ấy cũng là cái vận nước chẳng may, song những người đương lộ lúc ấy cũng không so tránh được cái lỗi của mình vậy.

5. Sự giao thiệp với nước Pháp. Từ khi ông Philastre ra điềuđình mọi việc ở Bắc kỳ xong rồi, ông Rheinart ra thay ở Hà nội, đợi cho đến ngày ký hòa ước thì chiếu mọi khoản mà thi hành. Ông Rheinart ở được mấy tháng, rồi về lại Sài gòn, giao quyền cho lục quân thiếu tá Dujardin (LaĐăng).

Thiếu tá có đem binh thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hảidương và Quảng yên.

Đến khi tờ hòa ước và tờ thương ước đã ký xong thì Triều đình sai ông Nguyễn tăng Doãn ra Bắc kỳ để cùng thiếu tá Dujardin chọn đất ở Hànội và ở Ninh hải (Hải phòng) để làm dinh làm trại cho quan quân nước Pháp đóng, và lại sai quan thượng thư bộ Hộ là ông Phạm phú Thứ ra làm Hải an tổng đốc sung chức tổng lý thương chánh đại thần, cùng với ông Nguyễn tăng Doãn và ông Trần hi Tăng bàn định việc thương chánh ở Bắc  Kỳ.

Tháng 6 năm ất hợi (1875) chính phủ nước Pháp sai ông Rheinart sang làm khâm sứ ở Huế, ông Truc làm lĩnh sự ở Hải phòng, và ông Kergaradec (Kê la đích) làm lĩnh sự ở Hà nội. Triều đình sai ông Nguyễn thành Ý vào làm lĩnh sự ở Sài gòn.

Ông Rheinart ở Huế đến tháng 10 năm bính tí (1876), thì cáo bịnh xin về, ông Philastre ra thay.

Triều đình lúc bấy giờ cũng đã hiểu rằng hễ không theo tân học thì không tiến hóa được, cho nên mới định cho người đi du học. Năm mậu dần (1878), bên Pháp có mở hội vạn quốc đấu xảo ở Paris, vua sai ông Nguyễn thành Ý và ông Nguyễn tăng Doãn đem đồ đi đấu xảo và cho người sang học ở Toulon.

Nhưng vì năm tân tị (1881), Triều đình lại sai quan Lễ bộ thị lang là Phạm Bính sang Hương cảng, đem 12 đứa trẻ con đi học ở trường Anh cátlợi, rồi lại sai sứ đi sang Tiêm la và sang Tàu mà không cho sứ thần nước Pháp biết, bởi vậy chính phủ Pháp lấy những điều đó mà trách Triều đình ở Huế không theo hòa ước năm giáp tuất (1874).

Khi ông Philastre còn ở Huế, vì ông ấy là một người công chính và lại có học chữ Nho, cho nên Triều đình ta trọng đãi và có điều gì trang trải cũng còn dễ. Từ năm kỷ mão (1879) về sau, ông ấy về Pháp rồi, sự giaothiệp càng ngày càng khó thêm: phần thì vì người mình không biết cách giao thiệp với ngoại quốc, phần thì cái quyền lợi nước ta và nước Pháp lúc bấy giờ tương phản với nhau, cho nên hai bên không có lòng tin cậy nhau, thành ra sự giao thiệp không được thân thiết lắm.

Vả về sau, sự cai trị ở Nam kỳ đã thành nếp, giặc giã đã yên cả; ở bên Pháp thì thế lực đã mạnh, và đã có nhiều người bàn đến việc bên Viễnđông này và việc bảo hộ ở Bắc kỳ. Lại nhân có những nước I ta ly. I phanho, Anh cát lợi và Hoa kỳ muốn sang thông thương với nước Nam, mà có ý không muốn chịu để quan nước Pháp phân xử những việc can thiệp đến người những nước ấy. Bởi vậy nước Pháp muốn lập hẳn cuộc bảo hộ để cho khỏi mọi sự lôi thôi, bèn bỏ lệ đặt quan hải quân khiêm lĩnh chức thống đốc ở Nam kỳ, mà sai quan văn sang sung chức ấy để trù tính mọi việc.

Tháng 6 năm kỷ mão (1879), viên thống đốc mới là ông Le Myre de Vilers sang nhận chức ở Sài gòn và ông Rheinart lại sang làm khâm sứ ở Huế để thay cho ông Philastre.

Bắc kỳ thì người Pháp đã ra vào buôn bán, nhưng vì quan ta không biết lo sự khai hóa, việc thông thương không được tiện lợi, và ở mạn thượng du thì có quân cờ đen tuy là mượn tiếng theo lệnh quan ta, nhưng kỳ thực chúng nó làm gì cũng không ai ngăn cấm được. Bởi vậy, chính phủ Pháp mới lấy những điều đó mà trách quan ta và sai quan đem quân ra Bắc kỳ, lấy cớ nói ra mở mang sự buôn bán, kỳ thực là ra kinh doanh việc ở vùng ấy. 

Toàn văn tác phẩm "Việt Nam Sử Lược" của Trần Trọng Kim   

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...