Wednesday, September 16, 2020

Việt Nam Sử Lược - Chương 1 Thế Tổ

PHẦN V 

 Cận Kim Thời Đại Nhà Nguyễn 

(1802 - 1945)

CHƯƠNG I  

Thế Tổ  

(1802 - 1819)

Niên hiệu: Gia Long

26. Thế Tổ xưng đế hiệu

27. Việc triều chính

 28. Binh chế

29. Việc tài chánh

30. Công vụ

31. Pháp luật

32. Việc học hành

33. Việc giao thiệp với nước Tàu

34. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La

35. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao

36. Việc giao thiệp với nước Pháp Lang Tây

37. Sự giết hại công thần

38. Xét công việc của vua Thái Tổ

1. Thế Tổ xưng đế hiệu.

Thế tổ khởi binh chống nhau với Tây Sơn ở đất Gia Định từ năm mậu tuất (1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà Tây Sơn, thu phục được giang sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và họp cả nam bắc lại làm một mối. Khi việc đánh dẹp xong rồi, ngài xưng đế hiệu, đặt quốc hiệu là Việt Nam, đóng Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành Huế bây giờ.

Khi vua Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ tha cho dân một vụ thuế, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Ngài lại phong tước cho con 170 cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ phụng tổ tiên.

Đoạn rồi, ngài đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn Thành ở Quy Nhơn ra sung chức ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ, tào Binh, tào Hình, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, và Phạm Văn Đăng ra coi các tào ấy, để giúp Nguyễn Văn Thành.

Đến tháng bảy năm nhâm tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn về làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị. Lại sai quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Thái Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi, còn đầu thì đem bỏ giam ở trong ngục tối.

Những bọn văn thần nhà Tây Sơn như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem nọc ra đánh ở trước văn miếu, rồi tha cho về. Lúc bấy giờ có Ngô Thì Nhiệm vì trước có hiềm với Đặng Trần Thường, cho nên đến khi đánh ở văn miếu, Đặng Trần Thường sai người đánh chết.

Vua Thế Tổ định tội, thưởng công xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm đền Cần Chính để lập thường triều, đền Thái Hòa để lập đại triều; lại sai quân dân xây thành Kinh Đô và Hoàng Thành cùng các thành trì ở ngoài các doanh trấn.

Tuy rằng ngài đã đặt niên hiệu, lên ngôi từ năm nhâm tuất (1802), nhưng mà đến năm giáp tí (1804), tức là Gia Long tam niên, vua nhà Thanh mới sai sứ sang phong vương, và đến năm bính dần (1806), ngài mới làm lễ xưng đế hiệu ở đền Thái Hòa. Định triều nghi, cứ ngày rằm và ngày mồng một thiết đại triều; ngày mồng 5, mồng 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.

Lúc ngài đánh xong Tây Sơn, thì chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy hoại, việc gì cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong thì ngài chỉnh đốn pháp luật, và mọi việc cai trị cùng là sửa sang phong tục, cấm dân gian không cho lấy việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn uống, nghiêm dụ quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo sự giao hiếu với nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước Việt Nam lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị.

2. Việc Triều Chính.

Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì tự quân lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.

Quan lại trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê, nhưng bỏ chức Tham Tụng và Bồi Tụng tức là chức tể tướng đời xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương hết cả. Mỗi bộ có quan Thượng Thư làm đầu, quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang, cùng các thuộc viên như là lang trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại, v.v.....

Bộ Lại: coi việc thuyên bổ quan văn, ban thưở Og phẩm cấp, khảo xét công trạng, phong tặng tước ấm, thảo những tờ chiếu sắc cáo mệnh và làm những sổ các hàng quan lại v.v....

Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ v.v...

Bộ Lễ: coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong, cùng là cách thức học hành thi cử, tinh biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa, phong thụy cho các thần nhân v.v.....

Bộ Binh: coi việc thuyên bổ võ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh.

Bộ Hình: coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.

Bộ Công: coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v....

Ngoài lục bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc can gián vua, và đàn hạch các quan. Cấp sự trung các khoa và giám sát ngự sử các đạo, đều thống thuộc về viện ấy. Trong viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu.

Bấy giờ vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má tàu bè. Có quan Tào Chính Sứ và Tào Phó Sứ làm đầu.

Các địa phương thì lúc bấy giờ từ nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa ngoại (tức là Ninh bình bây giờ) trở ra, gọi là Bắc Thành, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành, thống cả 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên.

Còn ở quãng giữa nước, thì đặt Thanh Hóa Trấn (gồm cả Thanh Hóa nội, Thanh Hóa ngoại), Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa trấn, Bình Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa trấn (tức là Khánh hòa) và Bình Thuận trấn. Đất kinh kỳ thống bốn doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là Thừa Thiên bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng bình doanh, Quảng Nam doanh.

Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng trấn, và phó tổng trấn, để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan lưu trấn hay là quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục để coi việc cai trị trong trấn.

Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri phủ, tri huyện, tri châu để coi việc cai trị.

Những trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5 nội trấn ở Bắc Thành, thì dùng những quan cựu thần nhà Lê làm quan cai trị. Còn 6 ngoại trấn ở Bắc Thành, thì giao quyền cai trị cho những thổ hào sở tại.

3. Binh Chế.

Khi vua Thế Tổ đánh được Tây Sơn rồi, ngài ban thưởng cho các tướng sĩ, tặng phong và làm đền thờ những người tử trận. Còn những quân lính già nua thì cho về quê quán. Đặt ra phép giản binh: lệ định các trấn, tự Quảng Bình vào đến Bình Thuận thì cứ ba tên đinh kén lấy một tên lính; tự Biên Hòa trở vào thì cứ 5 tên đinh kén lấy một tên lính; tự Hà Tịnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc Thành thì cứ 7 tên đinh kén lấy một tên lính.

Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên thì cứ 10 tên đinh kén lấy một tên lính.

Ở chỗ Kinh thành thì đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người tập quân nhạc. Ở các trấn thì đặt ra lính cơ, lính mộ. Lại đặt biền binh ban lệ, nghĩa là các binh lính chia ra làm 3 phiên, 2 phiên về quán, còn một phiên ở tại ban luân lưu thay đổi cho nhau.

Những binh khí thì dùng gươm giáo, mã tấu, và lại có súng lớn bằng đồng gọi là súng đại bác, súng nhỏ gọi là súng thạch cơ điểu thương, nghĩa là bắn thì mổ bằng máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba sở xạ trường để quân lính tập bắn.

Ở các cửa bể đều làm đồn đặt súng để phòng giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc đi lại.

Nước Việt Nam ta có nhiều bể cần phải giữ gìn, bởi vậy vua Thế Tổ lưu tâm về việc chỉnh đốn binh thuyền: lấy người ở gần bể về doanh Quảng Đức và doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy quân đóng tại Kinh Thành. Còn ở các hải khẩu, mỗi nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà vua lại làm một thứ thuyền lớn ngoài bọc đồng, để đi lại tuần phòng ở miền bể.

4. Việc Tài Chính.

Thuế đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng.

Thuế đinh thì lệ định: từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu: Thuế thân 1 quan 2 tiền Mân tiền 1 tiền Cước mễ 2 bát 5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên139, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu: Thuế thân 1 quan 2 tiền Mân tiền 1 tiền Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền Cước mễ 2 bát 6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu: Thuế thân 6 tiền Mân tiền 1 tiền Điệu tiền 3 tiền Cước mễ 1 bát Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v.v... thì nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Lúa 10 phần thiệt hại tới 4 phần thì khoan giảm cho hai phần thuết; thiệt hại 5 phần thì giảm cho 3; thiệt hại 6 phần thì giảm cho 4; thiệt hại 7 phần thì giảm cho 5; thiệt hại 8 phần thì giảm cho 6; thiệt hại 9 phần thì giảm cho 7; thiệt hại hết cả thì giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy dân đinh đi làm đường, đào sông, xây thành v.v... thì cũng được giảm thuế.

139 Tức là phủ Hoài Đức bây giờ.

Vụ thuế: Nhà vua lại tùy từng địa phương mà định vụ thuế. Từ Quảng Bình đến Bình Thuận cứ mỗi năm một vụ thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng 7 thì hết. Từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa ngoại, cùng các trấn ở Bắc thành mỗI năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ thì khởi tự tháng 4 đến tháng 6 thì hết; mùa đông thì khởi sự tự tháng 10 đến tháng 11 thì hết.

Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải khai vào sổ.

Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chí phải chua cho rõ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần đệ vào bộ đóng dấu kiềm, rồi một bản lưu lại bộ, để phòng khi xét đến; còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiểu, còn một bản gia trả dân xã lưu thủ.

Cấm bán ruộng công điền: Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xã có nơi thì đem công điền đổi ra tư điền, có nơi thì đem cố bán đi, bởi vậy năm Gia Long thứ hai (1803) nhà vua lập lệ cấm dân xã không được mua bán công điền công thổ, chỉ trừ lúc nào xã thôn có công dụng điều gì, thì mới được phép cho điển cố, hạn hết 3 năm lại phải trả lại. Ai giữ quán hạn ấy thì phải tội.

Thuế các sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân, và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người tìm được cây quế, phải trình quan để cấp cho văn bằng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người tìm được.

Năm Gia long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng, và được tha việc binh lính.

Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.

Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp.

Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Tàu khai để đánh thuế.

Đúc tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc Thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán trong nước.

Mỗi đồng tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ "Gia Long Thông Bảo", một mặt in chữ "thất phân", mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng.

Giá vàng ở Bắc Thành thì định cứ một lượng vàng đổi lấy 10 lượng bạc.

Về sau mở thêm lò đúc tiền ở Gia Định Thành và ở các trấn.

Thước đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long cửu niên thu bát nguyệt", một mặt khác 10 chữ "ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo". Chuẩn định lại các thước vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ "Gia Long Cửu Niên Thu Bát Nguyệt", một mặt khắc 12 chữ "ban hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo".

Phép cân: Năm Gia Long thứ 12 (1813), chế tạo ra cân thiên bình, cấp cho các doanh các trấn, để cân đồng, sắt, chì, thiếc và các sản vật. Còn vàng và bạc thì dùng cân trung bình.

5. Công Vụ.

Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân gian được tiện lợi.

Đường Quan Lộ: Đường sá trong nưóc là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ: bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo.

Lại từ cửa Nam quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến Bình Thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm.

Còn từ Bình Thuận trở vào phía nam đến Hà Tiên thì đi đường thủy.

Sông ngòi và đê điều: Những sông ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận: chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa 173 lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy mà phát cho dân.

6. Pháp Luật.

Nguyên khi trước vẫn theo luật nhà Lê, nhưng nay nhà Nguyễn đã nhất thống cả nam bắc, vua Thế Tổ bèn truyền cho đình thần lập ra pháp luật rõ ràng, để cho tiện sự cai trị. Năm tân mùi (1811) sai Nguyễn Văn Thành làm tổng tài, coi việc soạn ra sách luật; lấy luật cũ của đời Hồng Đức nhà Lê, mà tham chước với luật nhà Thanh làm thành một bộ, cả thảy 22 quyển, có 398 điều.

Đến năm ất hợi (1815), thì in sách luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi.

7. Việc Học Hành.

Thời bấy giờ nhờ có võ công mới dựng nên cơ nghiệp, cho nên lúc ấy các quan đầu triều là quan ngũ quân đô thống, và quan tổng trấn Nam Bắc hai thành đều là quan võ cả. Nhưng vua Thế Tổ cũng biết rằng sự trị nước cần phải có võ có văn, bởi vậy đêm ngày ngày lưu ý về việc học hành thi cử trong nước.

Ngài lập nhà Văn Miếu ở các doanh các trấn, thờ đức Khổng tử, để tỏ lòng trọng Nho học. Đặt Quốc Tử Giám ở Kinh đô, để dạy con các quan và các sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học hành ra là quan.

Đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ.

Vua Thế Tổ lo cả đến địa dư và quốc sử, bởi vậy ngày sai quan Binh Bộ Thượng Thư là Lê Quang Định kê cứu ở trong các trấn các doanh, tự Lạng Sơn đến Hà Tiên, xem sơn xuyên hiểm trở, đưòng sá xa gần, sông bể, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản, có những gì làm thành sách "Nhất Thống Địa Dư Chí" để dâng lên. Đến năm bính dần (1806), bộ sách ấy làm xong cả thảy được 10 quyển.

Năm tân mùi (1811), ngài sai quan tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử.

Thời bấy giờ văn quốc âm cũng thịnh lắm. Một đôi khi nhà vua cũng dùng chữ nôm mà làm văn tế. Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn Văn Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế không rõ ai làm, nhưng thật là một bài văn chương đại bút. Lại có những chuyện như "Hoa Tiên" của ông Nguyễn Huy Tự, "Truyện Thúy Kiều" của quan Hữu Tham tri bộ Lễ là ông Nguyễn Du140, cũng phát hiện ra thời bấy giờ.

"Truyện Thúy Kiều" là một tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân tình thế cố, tả được cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ cũng lý thú. Nói theo tiếng đời nay thì "Truyện Thúy Kiều" thật là một tập văn chương đạ. 

Toàn văn tác phẩm "Việt Nam Sử Lược" của Trần Trọng Kim   

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...