Thursday, September 17, 2020

Điển tích - C

 

C

CA CANH TẠC 

Tức là bài ca nói về cày ruộng và đào giếng. Chỉ cảnh tự do, thiên hạ thái bình.

Do bài “Khang cù”, một bài hát của nhân dân trong thời Nghiêu Thuấn: Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực, nghĩa là đào giếng lấy nước uống, cày ruộng trồng trọt lấy mà ăn.

Xem: Tạc canh.



Dưới cũng vui vỗ bụng trời Nghiêu,

xướng ca canh tạc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



CA NGÂM 

Ca: Hát. Ngâm: Đọc có giọng lên xuống và kéo dài ra.

Ca ngâm là ca hát và ngâm thơ.



Thông minh vốn sẵn tư trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.

(Truyện Kiều).



CA SA 

Hay “Cà sa”.

Dịch âm từ tiếng Phạn Kasaya, một loại y phục của tăng sĩ Phật giáo, áo ca sa. Còn gọi là Pháp y, Giải thoát y, Phước điền y hay Điều phục y.

Các sư theo Nam Tông mặc áo ca sa màu vàng nhạt hoặc thẩm. Còn các sư Bắc Tông thường mặc áo màu nâu hoặc đen nhạt.

Áo ca sa cũng có loại do nhiều mảnh vải hình chữ nhựt kết lại với nhau thành chiếc áo như những thủa ruộng, nên còn gọi là bá nạp y, hay cát tiệt y (Áo cắt vụn).

Áo xanh đổi lấy cà sa,

Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.

(Truyện Kiều).



Đã lồng ba tấm cà sa,

Nhưng người tiên vẫn trông ra khác phàm.

(Quan Âm Thị Kính).



Thiếu bê son bình sái,

Thiếu tích trượng ca sa.

(Sãi Vãi).

CA THANH THẢO

Hay “Thanh thảo ca  ” tức là bài hát cỏ xanh. Trong Tam Quốc chí chép: Lúc Đổng Trác sắp bị giết, có mấy đứa trẻ chăn trâu hát rằng: Thiên lý thảo hà thanh thanh  , nghĩa là cỏ nghìn dặm sao xanh xanh?



Mảnh áo tơi cày lớp xớp trong mưa,

ca thanh thảo quyến đàn trâu gã Nịnh.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



CÁ AO CHÁY THÀNH

Bởi câu “Thành môn thất hoả , họa cập trì ngư  , ”, nghĩa là lửa cháy cửa thành vạ lây đến cá dưới ao. Do hai điển tích:

1-.Cá trong ao.

Sách Lã Thị Xuân Thu chép: Tống Hoằng Tư Mã bị tội bỏ trốn đi, mang theo một hạt châu rất quý, vua cho người chạy theo hỏi hạt châu đâu rồi thì ông cho biết là ném xuống ao. Vua cho người tát cạn ao để tìm hạt châu. Hạt châu tìm chẳng thấy, nhưng cá bị khô nước mà chết.

2-.“Ương cập trì ngư” hoặc “Hoạ cập trì ngư”.

Ương cập: Tai hoạ dẫn đến. Trì ngư: Cá trong ao.

Sách Quảng Văn chép: Ngày xưa có người tên là Trì Trọng Ngư, gọi tắt là Trì Ngư, ở gần cửa thành. Khi thành bị hoả hoạn, làm cho Trì Ngư bị chết thiêu, nên ngạn ngữ Trung Hoa mới có câu: Cửa thành lửa cháy, hoạ đến cả Trì Ngư.

Hoặc có thể hiểu theo nghĩa: Thành bị hoả thiêu, người ta múc nước ao để chữa lửa, khiến nước bị cạn, cá trong ao vì thế phải chết theo.

Cá ao lệ nữa cháy thành,

Cũng nhiều cấp phải lánh mình cho hay.

(Truyện Trinh Thử).



Cá ao luỵ bởi lửa thành,

Mảng tìm vượn Sở hoạ banh cây rừng.

(Thơ Tương An Quận Vương).



CÁ CHẬU CHIM LỒNG

Cá chậu chim lồng tức là cá bị nhốt trong chậu, chim bị giam vào lồng, chỉ người bị giam giữ hay bị ràng buộc, không được thông thả.

Ca dao ta có câu: “Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra”.

Một đời được mấy anh hùng,

Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi!

(Truyện Kiều).



Hãm lương, Hồ những để rông,

Chắc rằng cá chậu chim lồng vội đâu.

(Hoa Tiên Truyện).



Mạnh yếu há ngồi cam chịu vậy,

Hay chi cá chậu với chim lồng.

(Đạo Sử).



CÁ CHẬU GÀ CHUỒNG.

Đồng nghĩa với “Cá chậu chim lồng”. Ý muốn nói người bị ràng buộc, thân bị giam giữ mất tự do, như cá rộng ở chậu, gà nhốt trong chuồng.

Xem: Cá chậu chim lồng.

Dân như cá chậu gà chuồng,

Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.

(Đạo Sử).



CÁ CHÌM NHẠN SA

Theo Trang Tử, hai nàng Vương Tường và Lệ Cơ có một nhan sắc tuyệt trần, đến đổi nhạn thấy sắc đẹp đó cũng phải bay cao, cá thấy thì lặn sâu dưới nước.

Người ta dùng chữ “Cá chìm nhạn sa” để ca tụng sắc đẹp của phụ nữ.

Xem: Trầm ngư lạc nhạn.



Mỉa chiều nét ngọc làn hoa,

Cá chìm mặt nước, nhạn sa lưng trời.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CÁ ĐI NHẠN LẠI

Cá nhạn do chữ “Ngư thư nhạn tín  ”, dùng để chỉ mối manh tin tức.

Cá kia chung chậu hơi quen ý nói vợ chồng chung sống, cùng chiếu cùng giường lâu ngày quen hơi.

Cá đi nhạn lại tin bay,

Đủ năm lễ đã đến ngày thừa long.

(Quan Âm Thị Kính).



CÁ KIA CHUNG CHẬU HƠI QUEN

Lấy ý từ câu ca dao “Chim quyên hái trái nhãn lồng, thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi”.

Cá kia chung chậu ví như vợ chồng chung sống, cùng chiếu cùng giường lâu ngày quen hơi.

Cá kia chung chậu hơi quen,

Ái ân đầm thấm bởi bền nghĩa nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÁ KÌNH LẶNG TĂM

Cá kình: Một loài cá hung tợn, chỉ bọn giặc cướp. Lặng tăm: Lặng lẽ tăm hơi.

Cá kình lặng tăm ý nói hết giặc giã, không còn bọn cướp giựt.



Cá kình im lặng tăm hơi,

Duyền Ngân rửa mác non Đoài treo cung.

(Truyện Phan Trần).


CÁ LẶN NHẠN SA

Như câu “Cá chìm nhạn sa” dùng để chỉ phụ nữ có một nhan sắc tuyệt trần, đến đổi cá thấy sắc đẹp đó thì lặn sâu dưới nước, chim nhạn thấy phải sa xuống.

Nghĩa bóng: Ca tụng sắc đẹp.

Xem: Cá chìm nhạn sa.



Chìm đáy nước  lờ đờ lặn,

Lững da trời nhạn ngẩn ngơ sa.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CÁ LỘI DIỀU BAY

Bởi chữ trong Kinh Thi: “Ngư dược diên phi  ” tức là cá nhảy diều bay, dùng để chỉ sự thoả thích của loài chim trời cá nước để nói về sự tự do của người và muôn vật.



Chốn chiểu đài xem cá lội diều bay,

Thấu sĩ lộ nơi thông nơi trệ.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



CÁ NƯỚC

Bởi chữ “Ngư thuỷ  ”. Cá và nước được ví vợ chồng yêu thương nhau, vua tôi tin cậy nhau.

1.- Vợ chồng yêu thương:

Kinh Thi có câu: Hạo hạo giả thuỷ, dục dục giả ngư, nghĩa là mênh mang kìa nước, nhởn nhơ kìa cá. Ý nói nhơn duyên vợ chồng tương đắc cùng nhau.



Những mong cá nước sum vầy,

Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Ví dù đây cũng như ai,

Ép tình cá nước phải nài nẫm chi.

(Truyện Trinh Thử).

2.- Vua tôi tương đắc:

Do điển: Khi Lưu Bị cùng Khổng Minh thân mật, thì Quan Công cùng Trương Phi không bằng lòng. Lưu Bị nói: Cô đắc Khổng Minh do ngư chi đắc thuỷ, nghĩa là ta có Khổng Minh như cá gặp nước.

Nghĩa bóng: Vua tôi tin cậy nhau.

Xem: Ngư thuỷ.



Chúa tôi cá nước duyên lành,

Ba giềng đạo cả nỡ đành phủi tay.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Bao giờ cá nước gặp duyên,

Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay.

(Lục Vân Tiên).



CÁ NƯỚC DUYÊN ƯA

Do câu “Ngư thuỷ duyên hài  cá nước có duyên hoà hợp nhau.

Cá nước duyên ưa ý nói vợ chồng đẹp duyên với nhau. Xem: Cá nước.

Cười rằng: Cá nước duyên ưa,

Nhớ lời nói những bao giờ hay không?

(Truyện Kiều).



CÁ NHẢY NHẠN SA

Cá nhảy nhạn sa là thành ngữ dùng để ca tụng sắc đẹp của người phụ nữ đến nổi cá dưới nước thấy phải nhảy lên, chim nhạn bay thấy phải sa xuống.

Đồng nghĩa với Cá lặn nhạn sa.

Cá nhảy nhạn sa mừng mặt phấn,

Đào phai liễu ủ thẹn quần hồng.

(Truyện Vương Tường).



Chiều cá nhảy vẻ nhạn sa,

Mặt long lanh nguyệt tóc rà rà mây.

(Sơ Kính Tân Trang).



CÁ NHẢY RỒNG BAY

Cá nhảy: Hằng năm vào tháng 7, mưa đổ xuống, cá sắp thành hàng nơi Võ môn, nhảy lên núi cao. Con nào nhảy được, tức là thi đỗ, được hoá thành rồng. Rồng bay: Rồng bay lên, chỉ sự mưa thuận gió hoà.

Cá nhảy rồng bay là một thành ngữ chỉ về sự đạt được sự mong ước.



Trải qua thủy tú, sơn kỳ,

Phỉ lòng cá nhảy, gặp thì rồng bay.

(Lục Vân Tiên).



CÁ VƯỢT VÕ MÔN

Võ môn tức là cửa Võ, một cái cửa do vua Võ đào để trị thuỷ. Hằng năm vào tháng 7, mưa đổ xuống, cá gáy sắp thành hàng, nhảy lên núi cao.

Cá vượt Võ môn tức cá vượt khỏi cửa Võ, được hoá thành rồng, ý chỉ sự thi đỗ.

Một phen cá vượt Võ môn,

Ba chàng cùng chiếm Khôi nguyên, Tú tài.

(Nữ Tú Tài).



Phận gái lấy được chồng khôn,

Xem bằng cá vượt Võ môn hoá rồng.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CÁC ĐẰNG 

Hay Đằng vương Các là cái toà lâu đài của Đằng Vương Lý Nguyên Anh, con của Đường Cao Tổ Lý Uyên, làm Thứ sử Hàng Châu. Đây là một công trình kiến trúc nổi tiếng đẹp đẽ, xây dựng bên cửa sông Chương Giang, quận Nam Xương, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.

Xem “Đằng Vương Các”.

Ngẫm cơ ghềnh Thái, các Đằng,

Hay đâu là chẳng xích thằng sẵn xe.

(Hoa Tiên Truyện).



Các Đằng nhờ gió đưa duyên,

Song hai gã ấy tài hiền ngang nhau.

(Nữ Tú Tài).



Thương nhé hồng nhan nguyền khéo lỗi,

Các Đằng nhờ gió những ai vay?

(Truyện Vương Tường).



May duyên gặp hội Long vân,

Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa.

(Kinh Thế Đạo).



CÁC HẠ 

Dưới lầu các.

Ngày xưa hàng phẩm tam công mới có lầu các, nên người thấp kém không dám tiếp xúc thẳng, mà chỉ nói ở dưới gác. Vì thế, trong văn thư gọi những bậc nầy, người ta thường dùng tiếng “Các hạ” để tôn xưng.

Ngày nay tiếng “các hạ” được dùng phổ biến hơn để tôn kính đối với người trên của mình.



Hoang mang tiếp túc tùy tòng,

Khẩn cấp tất lai các hạ.

(Nhạc Hoa Linh).



CÁC LÂN 

Các lân là cái lầu cao trên đó có chạm hình con Kỳ lân, do vua Hán Tuyên Ðế lập nên để thờ 11 vị Khai quốc Công Thần của nhà Hán. Ðây là đài vinh quang của kẻ bề tôi, còn đối với người tu thì “Các lân” ý nói là nơi đắc đạo.

Xem: Gác lân.

Ví xưa biết chút đường tu niệm,

Thì chắc nay đà ngự các lân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Sang như Tần Thỉ lúc đương hưng,

Chừng quá ba đời hết các lân.

(Đạo Sử).



CÁC LÊ 

Gậy lê nơi lầu các.

Do tích Lưu Hướng đời Hán là vị quan coi về văn thư ở gác Thiên Lộc. Hằng đêm đều thấy một ông lão đầu bạc, tay cầm gậy bằng gỗ lê, đầu gậy sáng rực hào quang. Ông lão cho Lưu Hướng biết ông ấy là sao Thái Ất. Chính vì vậy, sau nầy từ “Các lê” được dùng để chỉ nơi đọc sách.

Bút son vâng mệnh đan đình,

Các lê lần giở sử xanh muôn đời.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CÁCH CỰU ĐỈNH TÂN 

Bỏ cũ dựng mới.

Cách cựu là đổi mới. Đỉnh là một vật được đúc bằng kim loại dùng để nấu thức ăn cho các nhà quý hiển, cũng có nghĩa là làm cho mới. Vì thế, đỉnh tân là làm cho mới.

Đồng nghĩa với “Cách cố thành tân  ”, hoặc “Cách cố đỉnh tân  ”, nghĩa là thay cũ để đổi thành mới.



Sau toan cách cựu đỉnh tân,

Lại vầy lại hợp cho nhuần sớm khuya.

(Truyện Trinh Thử).



CÁCH GIÁNG 

Cách: Bãi bỏ. Giáng: Rơi xuống.

Cách giáng là tiếng dùng để chỉ những quan lại lỗi lầm bị hạ chức, không cho giữ chức vụ cũ nữa.



Này là chồng lỡ công danh,

Nghe hơi cách giáng đã sanh phụ phàng.

(Huấn Nữ Ca).



CÁCH MẠNG 

Hay “Cách mệnh”.

Ngày xưa vua chịu mệnh nơi Trời, nên thay đổi một vị vua khác được gọi là cách mạng.

Ngày nay chữ cách mạng được dùng với nghĩa rộng rãi hơn là thay đổi cái tệ thành cái tốt.

Ví dụ: Cách mạng kinh tế, cách mạng giáo dục, cách mạng văn học…

Liệu đứng dậy mở cờ cách mạng,

Thoát khỏi vòng nô lệ bấy nay.

May ra sống được là hay,

Chẳng may thác cũng là tay anh hùng.

(Thơ Lê Văn Huân).



CÁCH QUYỀN HỒI DÂN 

Cách quyền: Bãi bỏ quyền hành. Hồi dân: Trở về với thường dân.

Cách quyền hồi dân là bị bãi bỏ quyền hành, tức là cách chức về làm thường dân.



Trần Đông Sơ với Lạc Thiên,

Vạ lây cũng phải cách quyền hồi dân.

(Nhị Độ Mai).



CÁCH TRỞ 

Bị ngăn cách.

Do sự xa cách nhau và do việc gì hoặc vật gì ngăn cản không thể gần gũi nhau được gọi là cách trở.

Gạt châu mới kể sự tình,

Nỗi quê cách trở, nỗi mình truân chuyên.

(Truyện Phan Trần).



CÁCH VẬT TRÍ TRI 

Cách vật: Tìm hiểu sự vật. Trí Tri: Đến sự biết.

Cách vật trí tri nghĩa là lấy cái lẽ sâu xa của sự vật mà suy ra cái trí thức cùng cực thì thấu đáo được tất cả.

Theo sách Đại Học, có cách vật mới trí tri, có trí tri mới thành ý, có thành ý mới chánh tâm…

Xem chữ Cách trí.



Nhiều bề cách vật trí tri

Tiếng muông chim lại hay suy nên lời.

(Truyện Trinh Thử).

Học cho cách vật trí tri,

Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng thông.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Mình phải người cách vật trí tri,

Nhớ tình nghĩa trong khi lựa rể.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÁI QUAY

Hay bánh xe quay là cái máy quây của Tạo hoá. Phật cho rằng chúng sanh ở trong thế giới, từ lúc sinh ra đến nay cứ bị quay vòng trong Lục đạo, hết kiếp này đến kiếp khác, như cái bánh xe quay mãi chẳng thôi. Đó gọi là Luân hồi sinh tử. Chỉ có kẻ tu hành đắc Đạo mới thoát khỏi luân hồi được.



Cái quay búng sẵn lên trời,

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CÁI QUAN 

Bởi câu “Cái quan luận định  ” nghĩa là con người sau khi đậy nắp quan tài rồi thì mới biết được hay dỡ, tốt xấu của họ.

Truyện Lưu Nghị trong Tấn Thư có viết: Đại trượng phu cái quan sự phương định  , nghĩa là kẻ đại trượng phu đến khi đậy nắp quan tài mới biết sự nghiệp đến đâu.

Cái quan chỉ sự đánh giá con người sau khi chết.



Tuổi này rày đã cam tâm,

Cái quan ngày khác cười thầm cũng vui.

(Ngọc Kiều Lê).



CÁI THẾ 

Cái: Che trùm. Thế: Đời.

Cái thế là tài năng hơn hẳn mọi người trong cõi thế gian, tức là suốt trong cõi đời không ai địch nổi. Do điển Hạng Võ có tiếng sức mạnh và võ nghệ cao cường hơn thiên hạ, không ai đương cự nổi, nên sách có câu: Lực bạt sơn hề, khí cái thế  , , nghĩa là sức nhổ núi hề, khí trùm đời.



Anh hùng cái thế phút đâu lở làng.

(Lục Vân Tiên).



Văn chương cái thế mãn đời còn,

Ðức hạnh vững bền sánh nước non.

(Đạo Sử).



CÀI TRÂM SỬA ÁO

Hay “Cài trâm sửa trấp”.

Cài trâm sửa áo hoặc “Cài trâm sửa trấp” đồng nghĩa với câu “Nâng khăn sửa túi”, tức là lo khăn lược, mũ áo cho chồng, ý chỉ bổn phận của người đàn bà thời xưa, lo lắng, săn sóc cho chồng.

Xem: Nâng khăn sửa túi.

1.- Cài trâm sửa áo:

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,

Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông.

(Thơ Phan Văn Trị).

2.- Cài trâm sửa trấp:

Dầu cài trâm sửa trấp cũng nên xem,

Suy từ việc dạy thêm từ tiếng.

(Phương Tu Đại Đạo).


CẢI KIM

Hạt cải, cây kim.

Không phải chỉ có những vật đồng loại mới có sự tương cảm, mà cũng có những sự tương cảm của các vật khác loại, như hổ phách hút hạt cải, từ thạch dẫn kim loại.

Cải kim dùng để chỉ sự hoà hợp tìm đến với nhau, như tình duyên, tình vợ chồng.



Cũng là phận cải duyên kim,

Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao.

(Truyện Kiều).



Ai hay xem nghĩa hơn mình,

Nỗi mình bèo bọt tan tành cải kim.

(Hoa Tiên Truyện).



Cải kim đã vẹn mảnh gương thề,

Chẳng biết trọng mình để chúng chê.

(Đạo Sử).



CẢI NGUYÊN 

Sửa lại nguyên niên.

Ngày xưa khi một vị vua lên ngôi bèn đặt niên hiệu mới cho mình gọi là nguyên niên.

Nếu vị vua sau kế thừa vua trước thì lấy năm sau của năm lên ngôi làm nguyên niên, không còn ghi niên hiệu của vua trước nữa, nên gọi là cải nguyên.

Ví dụ: Minh Mệnh lên ngôi năm Kỹ Mão thì lấy năm Canh Thìn là Minh Mệnh nguyên niên.

Vua Lê Thánh Tông lúc lên ngôi lấy hiệu là Quang Thiện, cai trị một thời gian rồi ông cải nguyên vào năm Canh Dần (1478), gọi là Hồng Đức nguyên niên.



Vạn Xuân mới đặt quốc danh,

Cải nguyên Thiên Đức, đô thành Long biên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Trường yên đầu dựng đô thành.

Cải nguyên là hiệu Thái bình từ đây.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CẢI NHẬM 

Cải: Thay đổi, sửa đổi. Nhậm: Gánh vác.

Cải nhậm là thay đổi để nhận lãnh một chức vụ khác, hay đổi đi làm việc nơi khác.



Kim thì cải nhậm Nam Bình,

Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu Dương.

(Truyện Kiều).



CẢI TIẾT BIẾN NGHÌ

Bởi chữ “Cải tiết biến nghĩa  ”.

Cải tiết biến nghì tức là thay đổi lòng trinh tiết, biến cải điều lễ nghĩa, ý nói thay lòng đổi dạ bỏ quên điều nhân nghĩa.

Chàng sao chưa tát sông mê,

Xui ai cải tiết biến nghì sao đang.

(Truyện Trinh Thử).



CẢI TÒNG MẪU TÍNH 

Cải tòng: Sửa đổi theo. Mẫu tính: Họ của mẹ.

Cải tòng mẫu tính là thay đổi theo họ mẹ.

Thời xưa, những người trong họ vua phạm tội nặng đều phải cải qua họ mẹ, ngụ ý rằng người của họ vua không làm bậy.

Truyền thu chức tước mạo bào,

Cải tòng mẫu tính ải Lao lưu hình.

(Hạnh Thục Ca).



CẢI TỬ HOÀN SANH 

Hay “Cải tử huờn sanh”.

Người sắp chết mà được cứu sống trở lại.

Có hai nghĩa đen và nghĩa bóng.

Nghĩa đen: Anh ấy bị bệnh sắp chết, nhờ thuốc mà anh ấy được cải tử hoàn sanh.

Nghĩa bóng: Anh ấy nhờ ông thầy giáo hoá mà được cải tử hoàn sanh, nếu không thân sẽ bị tù tội.



Phép thiêng cải tử hoàn sanh,

Ở hiền may gặp lại lành đến đây.

(Nhị Độ Mai).



Nếu ai làm đặng chí thành,

Phật Trời cải tử huờn sanh, khó gì.

(Hứa Sử Tân Truyện).



CAY CHUA

Bởi chữ “Tân toan  ” là vị cay và vị chua.

Cay chua đồng nghĩa với chữ “Cay đắng”, dùng để chỉ sự gian nan, vất vả, hay khổ cực.

Xem: Cay đắng.



Hạnh tu đã chịu lắm cay chua,

Ðạo thế cho xong mới đến chùa.

(Đạo Sử).



CAY ĐẮNG

Bởi chữ “Tân khổ  ” là vị cay, vị đắng.

Vị cay, vị đắng là hai trong ngũ vị ăn vào khó khăn, gây khổ sở cho người chưa quen dùng, nên người ta thường dùng hai vị “Cay đắng” để chỉ sự khổ sở, gian nan hay vất vả.

Xem: Tân khổ.



Mùi tục lụy đường kia cay đắng,

Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Tình kiều tử, dạ phần hương,

Dù cay đắng cũng phận thường nghĩ sao.

(Hoa Tiên Truyện).



Cay đắng lần soi gương trí huệ,

Chia phui chờ trải lối tang thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Thường ngày cay đắng phải âu lo,

Ðộ dẫn nhằm nơi phải gắng dò.

(Đạo Sử).



CÀY ĂN ĐÀO UỐNG

Bởi chữ “Canh thực tạc ẩm  ”, nghĩa là cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống, nói sống đời tự do, tự làm tự ăn trong cảnh thái bình thịnh trị.

Xem: Tạc tỉnh canh điền.

Cày ăn đào uống yên đòi phận,

Sự thế chẳng hay đã Hán Tần.

(Quốc Âm Thi Tập).



CÀY MÂY CÂU NGUYỆT

Bởi chữ “Canh vân điếu nguyệt  ” tức là cày ruộng trong mây núi, câu dưới trăng.

Cày mây câu nguyệt dùng để nói cảnh thơ mộng, nhàn nhã, sinh hoạt thanh cao của người ẩn dật.

Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi,

Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu.

(Lục Vân Tiên)



CÀY MÂY CUỐC NGUYỆT

Lấy ý từ chữ “Canh vân điếu nguyệt  ” tức là cày ruộng trong mây núi, câu dưới trăng.

Cày mây cuốc nguyệt dùng để nói cảnh sống thanh cao của người ẩn dật.

Xem: Cày mây câu nguyệt.



Thương vua Nghiêu áo vải quần gai;

Thương vua Thuấn cày mây cuốc nguyệt.

(Sãi Vãi).



Cày mây cuốc nguyệt gánh yên hà,

Nào của nào chăng phải của ta.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



Cày mây cuốc nguyệt chờ Thang Võ,

Rằng biết cho dân chịu buộc ràng.

(Đạo Sử).



CÀY MƯA CUỐC GIÓ

Cày mưa: Cày dưới mưa. Cuốc gió: Cuốc trong gió. Cày mưa cuốc gió nghĩa là cày cuốc dưới cơn mưa gió, ý chỉ sự nhọc nhằn, vất vả của người nông dân.

Lại bàn đến việc nông dân,

Cày mưa cuốc gió chuyên cần công phu.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CAM ĐƯỜNG 

Tên một loại cây, còn gọi là đường lê.

Theo Kinh Thi: Ông Thiệu Bá là một vị quan đời nhà Chu, rất liêm cần, nhà cất dưới cây cam đường. Ông tuần hành các nước ở phương nam để phủ dụ và ban bố chính sách nhơn trị của vua Văn Vương, nên sau nầy người ta cảm ơn đức của Thiệu Bá thường hay quý cây đường lê và lấy làm tên của một thiên Kinh Thi để ca tụng ông. Thơ rằng: Tế phế cam đường, vật tiễn vật phạt, Thiệu Bá sở bạt  , . , nghĩa là rườm rà cây cam đường chớ cắt chớ chặt, nơi Thiệu Bá nghỉ ngơi.

Tấc lòng xem bẵng mẹ cha,

Đọc ca mạch tuệ ngâm thơ cam đường.

(Nhị Độ Mai).



Cam đường bóng ngã tà tà,

Gió xuân quyến gót mưa hòa dặm khơi.

(Truyện Trinh Thử).



CAM KHỔ 

Cam: Tự nguyện. Khổ: Cực nhọc, vất vả.

Cam khổ tức là tự nguyện chịu sự nhọc nhằn, lo lắng, vất vả.



Chém tre ngã gỗ trên ngàn,

Uống ăn cam khổ phàn nàn cùng ai.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CAM LA 

Cam La là người nước Tần, từ nhỏ rất thông minh, làm môn hạ của Lữ Bất Vi.

Lữ Bất Vi muốn giúp nước Yên, nên sai Trương Đường sang làm tướng. Trương Đường không chịu đi, Lữ Bất Vi phải nhờ Cam La thuyết phục, nên Trương Đường mới nhận lời.

Vua Tần biết Cam La là người tuổi trẻ tài cao nên ban cho năm mươi cổ xe, một trăm người theo hầu để đi sứ sang nước Triệu.

Cam La khuyên Triệu nên liên kết với Tần bằng cách cắt năm thành chia cho Tần để Tần tuyệt giao với Yên. Triệu nghe lời, dâng năm thành cho Tần. Vua Tần triệu Trương Đường về nước, không giúp cho nước Yên nữa.

Triệu biết Tần tuyệt giao với Yên, nên đem quân qua đánh nước nầy, lấy được ba mươi thành, chia cho Tần mười một, còn giữ lấy mười chín thành.

Nhờ công lao lớn, vua Tần mới phong cho Cam La là Thượng Khanh, là một vị quan trẻ nhất bấy giờ. Chẳng may, Cam La lại mất sớm.

Cam La sớm gặp cũng xinh,

Muộn mà Khương Tử cũng vinh một đời.

(Lục Vân Tiên).



Cam La trước trẻ đã công hầu,

Bảy chục Khương Công nhẫn nhấp câu.

(Đạo Sử).



Cam La sớm phận đã nên quan,

Mình thiệt thòi thôi cứ việc làng.

(Đạo Sử).



CAM LAI 

Do chữ “Khổ tận cam lai  ”, nghĩa là hết đắng đến ngọt, ý muốn nói hết đời hết khổ đến sướng.

Nghĩa bóng: Hết suy tới thịnh.

Tẻ vui bởi tại lòng này,

Hay là khổ tận đến ngày cam lai?

(Truyện Kiều).

CAM LỘ 

Hay nước “Cam lồ”.

Tức Cam lộ thủy , là nước sương ngọt, còn gọi là nước nhành dương, bởi vì nước Cam lộ là một thứ nước thiêng liêng được đựng trong cái Tịnh bình của Phật Quan Âm, và dùng nhành dương liễu nhúng vào nước Cam lộ rải vào người hay vật để trừ oan khiên, tiêu nghiệp chướng hay tiêu tai giải nạn.

1.- Cam lộ:



Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,

Diệt trần tình Cam lộ tẩy nhơ.

(Kinh Thế Đạo).



Sông Tương đổ ngọc làm Cam lộ,

Ðảnh giáp trao châu cất Phụng lầu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Cam lồ:

Am tự đóng chặt gài bước tục,

Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Mượn nước Cam lồ lau tục trái,

Ðường Tiên nẻo Phật sớm đưa chơn.

(Đạo Sử).



CAM TUYỀN 

Hay Cam Toàn là tên một cái ly cung đời nhà Tần, được xây dựng trên núi Cam Tuyền, tỉnh Thiểm Tây, gần Trường An hai trăm dặm.

Cung Cam tuyền lấy núi là tên, nó còn được gọi là Vân Dương Cung, hay Lâm Quang Cung.

Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CAM VŨ TÙNG XA 

Bị hạn lâu ngày bỗng nhiên theo sau xe mưa lớn đổ xuống. Do tích: Tổng Trấn Từ Châu là Bách Lý Trung, một vị quan liêm chánh, có đức tính tốt. Trong hạt của ông bị hạn rất lâu ngày, dân tình khốn đốn, ông thương xót, ngồi xe đi phủ dụ. Nơi nào Lý Trung đi ngang qua liền có trận mưa lớn đổ xuống. Dân cảm ơn đức cho ông là vị quan tốt.

Nghĩa bóng: Chỉ vị quan có tài đức.

CAN CHI 

Theo lịch số Đông phương, năm tháng ngày giờ đều do mười can, gọi mười Thiên Can (Thập Thiên Can) hiệp với mười hai chi, gọi là Thập Nhị Địa Chi.

Thập Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỹ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Thập Nhi Chi gồm có: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.



Can chi đều ở trong tay.

Đã thông trời đất, lại hay việc người.

(Lục Vân Tiên).



CAN QUA 

Can là cái mộc, một loại binh khí làm bằng da để che thân. Qua là cây giáo hay cây mác.

Ngày xưa nơi nào có các loại binh khí như can qua là nơi đó có loạn lạc, giặc giả. Vì thế, hai chữ can qua được dùng để chỉ chiến tranh.

Dấn mình trong đám can qua.

Vào sinh ra tử họa là thấy nhau

(Truyện Kiều).



Xảy nghe quân ó vang dầy,

Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.

(Lục Vân Tiên).



Song ta vốn đã hàn vi,

Lại sinh ra gặp phải thì can qua.

(Gia Huấn Ca).



Thiên Tào Thánh ngự an ngôi,

Cầu cho dân chúng khỏi hồi can qua.

(Kinh Thế Đạo).



Tấn giả vô mưu an bá tánh,

Nể phu nan thoát nạn can qua.

(Đạo Sử).



CAN THÀNH 

Can là cái mộc dùng để đỡ binh khí, thành là thành quách để ngăn giữ quân giặc. Can thành có nghĩa là chống giữ.

Kinh Thi có câu: Củ củ vũ phu, công hầu can thành  , nghĩa là kẻ dũng sĩ uy vũ, làm cái mộc, cái thành cho bậc công hầu.

Can thành dùng để chỉ người có tài chống giặc, giữ nước.



Nghe rằng nước Tấn chinh đông,

Cầu người võ sĩ ra công can thành.

(Dương Từ Hà Mậu).



CAN TƯƠNG 

Tên một cây bảo kiếm, cũng là tên một ông thợ rèn cây bảo kiếm ấy.

Nước Ngô có một thợ rèn, tên là Can Tương, có người vợ tên là Mạc Gia. Can Tương muốn rèn một cặp kiếm báu có công năng chém sắt như chém bùn. Ông rèn một loại sắt cứng, nấu mãi mà không chảy, ông bèn dùng tóc và móng tay của vợ là Mạc Gia, sắt liền chảy ra, rèn thành một cặp âm dương bảo kiếm. Cây dương lấy tên là Can Tương, cây âm lấy tên là Mạc Gia.

Trong lang miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Ai muốn đem gươm báu Can tương,

chôn nơi ngoài ải.

(Văn Tế Trương Định).



CAN TRƯỜNG 

Hay “Can tràng”.

Can trường là gan ruột, dùng để chỉ những người có khí phách anh hùng hoặc những tâm sự thầm kín từ trong gan ruột.

Chút riêng chọn đá thử vàng,

Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?

(Truyện Kiều).



Can trường sắt đá chẳng sờn,

Dấu thơm ghi để nước non sau này.

(Thơ Học Canh).



CÀN KHÔN 

Tên hai quẻ trong Bát Quái.

Càn là dương, tượng cho trời hay người cha; khôn là âm, tượng cho đất hay người mẹ. Càn khôn dùng để chỉ Âm dương, trời đất hay cha mẹ.

Người quân tử, khách hồng nhan,

Càn khôn còn rộng, tạo đoan còn dài.

(Truyện Phan Trần).



Chưởng quyền cực lạc phân ngôi vị ,

Quản xuất càn khôn định cõi bờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Hạc reo bay khắp dạo cùng,

Càn Khôn Thế Giái cũng chung một bầu.

(Đạo Sử).



CÀN KHÔN PHÚ TẢI 

Càn khôn: Trời đất, cha mẹ. Phú Tải: Che chỡ, chỉ ơn bảo dưỡng.

Càn khôn phú tải là trời đất hay cha mẹ che chỡ. Nghĩa bóng: Chỉ ơn bảo dưỡng của trời đất hay cha mẹ.



Lăm đền “Mộc bổn thuỷ nguyên,

Dốc báo “Càn khôn phú tải

(Sãi Vãi).



CẠN DÒNG LÁ THẮM

Cạn dòng nước nơi ngự câu khiến lá thắm không trôi đi được, ý nói bặt tin tức nhau.

Do tích Vưu Hựu đời Đường, nhặt được chiếc lá nơi ngự câu có đề bài thơ. Vu Hựu cũng đề thơ vào một chiếc lá thả xuống ngòi trôi vào cung. Cung nữ họ Hàn nhặt được. Sau tình cờ Vu Hựu lấy được cung nữ họ Hàn, cùng đem chiếc lá có thơ đề, vẫn giữ cho nhau xem, mới biết rằng nhân duyên hai người do chiếc lá kia làm mối.

Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.

(Truyện Kiều).



CANH ĐIỀN 

Canh điền là cày ruộng, do bài “Khang Cù” có câu: Canh điền nhi thực, tạc tỉnh nhi ẩm  , nghĩa là cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống. Ý nói đời thái bình an lạc, sống tự tại an nhàn, nên tự cày ruộng mà ăn, tự đào giếng mà uống.

Xem: Tạc canh.

Ruộng nhiều quê tổ năm ba thủa,

Tạc tỉnh canh điền tự tại nhàn

(Quốc Âm Thi Tập).



Công Thần Nông hóa dân buổi trước,

Dạy khôn ngoan học chước canh điền.

(Kinh Thế Đạo).



CANH GÀ

Người xưa chia ban đêm làm năm canh, nên canh năm là trời sắp sáng.

Canh gà là tiếng dùng để chỉ khoảng thời gian về cuối nửa đêm đến gần sáng, khi gà vừa gáy báo sang canh. Xem: Canh lụn, canh tàn.

Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ xương.

(Ca Dao).



Say sưa đòi thú lân la,

Giang thành đã gióng canh gà sang tư.

(Mai Đình Mộng Ký).



CANH LỤN

Một đêm chia làm năm canh. Canh lụn, tức là canh sắp tàn dần, ý nói đêm sắp hết, gần sáng.

Xem: Canh tàn.

Nào khi tựa bên màn canh lụn,

Nào khi ngồi ngó bóng Hằng nga.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CANH SẰN 

Sằn là Hữu Sằn, một địa danh ngày xưa, nơi làm ruộng của ông Y Doãn, ngày nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Sau ông Y Doãn được vua Thành Thang mời ra giúp, dựng nên nghiệp nhà Thương.

Canh sằn chỉ việc ẩn dật của bậc hiền tài.

Sách Mạnh Tử có viết: Y Doãn canh ư Hữu Sằn chi dã  , nghĩa là Ông Y Doãn cày ruộng ở đất Hữu Sằn.



Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,

Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



CANH TẠC 

Cũng như chữ “Canh điền  ”, nói đến dân chúng hát bài “Khang Cù” để ca tụng đời thái bình tự làm ruộng mà ăn, tự đào giếng mà uống.

Xem: Canh điền.

Trên lọ phải vén quần vua Tống,

ra sức anh uy;

Dưới cũng vui vỗ bụng trời nghiêu,

dắng ca canh tạc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



CANH TÀN 

Ngày xưa chia thời gian ban đêm ra làm năm canh, nên gọi là đêm năm canh.

Canh tàn có nghĩa là thời gian đã trôi qua gần hết năm canh, tức là trời bắt đầu sáng.

Đêm thâu khắc lậu canh tàn,

Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.

(Truyện Kiều).



Trời khuya chưa rõ canh tàn lụn,

Não oán trí lo ruột nát bầm.

(Đạo Sử).



Chừ sao bướm cũ lìa huê,

Vườn thu vắng khách, ử ê canh tàn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CANH THIẾP 

Canh: Tuổi tác. Thiếp: Một tờ giấy trong đó ghi thiệp mời dự tiệc hay biên tên họ để xin yết kiến như danh thiếp.

Theo hôn lễ ngày xưa, khi nạp sính hai bên họ nhà trai, gái trao đổi tờ thiếp cho nhau, trong đó ghi lý lịch của đôi trai gái, gọi là canh thiếp.



Một lời thuyền đã êm giầm,

Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.

(Truyện Kiều).



CANH THUẦN GỎI VƯỢC

Do tích Trương Hàn đời Tấn, đang làm quan ở Lạc Dương, nhân buổi gió thu bắt đầu thổi mà nhớ đến canh rau thuần, gỏi cá vược ở quê nhà, rồi bỏ quan trở về làng cũ.

Canh thuần gỏi vược dùng để chỉ lòng nhớ quê hương.

Xem: Rau thuần gỏi vược.



Canh thuần gỏi vược thú quê,

Nồng phương tiêu sái lạt bề công danh.

(Tư Dung Vãn).



CÁNH BẰNG

Hay “Cánh chim bằng”.

Cánh bằng, một loại chim bay cao và xa, chỉ sự tung hoành của người có chí lớn, nói về công danh. Nếu gặp gió nổi, tức là gặp được thời thuận lợi thì làm nên việc cả.

Sách Tề Hài của Trang Tử viết: Khi chim bằng dời sang biển nam, nước sóng sánh ba ngàn dặm. Nó liệng theo gió lốc mà bay lên là chín vạn dặm. Đi liền sáu tháng mới nghỉ.

1.- Cánh bằng:

Cánh bằng khi gặp gió xa,

Tung mây chưa biết lên đà đến đâu,

(Nhị Độ Mai).



Quyết lời dứt áo ra đi,

Cánh bằng tiện gió đã lìa dặm khơi.

(Truyện Kiều).

2.- Cánh chim bằng:

Gió hỡi gió phong trần ta đã chán,

Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong.

(Thơ Tản Đàn).



CÁNH ĐIỆP

Điệp tức “Hồ điệp  ” là con bươm bướm.

Cánh điệp tức cánh bướm, chỉ giấc ngủ.

Do tích Trang Châu nằm ngủ chiêm bao thấy mình hoá ra bươm bướm.

Xem: Giấc bướm.

Thảo mà cánh điệp, lá đào,

Đi về Vu giáp, ra vào Vũ lăng.

(Mai Đình Mộng Ký).



CÁNH HỒNG

1.- Ví với người anh hùng có chí lớn như chim hồng hộc vỗ cánh bay cao.

Sử Ký chép: Trần Thiệp thời hàn vi đi cày thuê cho người ta, lúc ngồi nghỉ, nói với các bạn cày: Nếu được phú quý không bao giờ quên nhau. Những người cày khác cười mà nói: Nếu còn cày thuê thì làm sao giàu sang được? Trần Thiệp thở dài nói: Ta hồ, yến tước an tri hồng hộc chi chí tai  , !, nghĩa là than ôi, loài chim én chim sẻ sao biết được chí chim hồng chim hộc.

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

(Truyện Kiều).

2.- Ví như tấm thân nhẹ nhàng uyển chuyển của người đàn bà đẹp.

Bài phú Tào Thực có câu: Phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du long  , , nghĩa là nhẹ nhàng bay vút như chim hồng khi kinh sợ, uyển chuyển như con rồng khi lượn chơi.



Ngọn triều non bạc trùng trùng,

Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.

(Truyện Kiều).



CÁNH LÔNG

Bởi chữ “Mao dực  ” có nghĩa là lông và cánh, để chỉ sự thay đổi về bề thế, như thành ngữ “Thay lông đổi cánh”, hoặc “Cánh thêm lông”.

Cánh lông còn dùng để chỉ cái thế lực, quyền uy, hay vây cánh.

Dõi đời con cháu lâu xa,

Cánh lông đã lắm trảo nha đã nhiều.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



CÁNH MÂY

Có hai nghĩa:

1.- Chỉ cánh cửa sổ:

Người ta hay đứng bên cửa sổ nhìn ra mây trời để trông tin tức, nên cánh cửa sổ gọi là cánh mây.



Song hồ nửa khép cánh mây,

Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.

(Truyện Kiều).

2.- Chỉ tờ giấy viết thư:

Mây làm hoa văn trên giấy cho đẹp, dùng để viết thư từ.



Trong đình bốn báu sẵn sàng,

Cánh mây mới thảo, ngòi sương chửa rời.

(Mai Đình Mộng Ký).



CÁNH NHẠN VỀ NON

Cánh nhạn về non tức là đàn chim nhạn thấy trời sắp tối, lũ lượt bay về núi, ý muốn nói chim nhạn tìm về tổ ấm.



Chiều thu nhắc ủ ê cảnh hạn,

Nhấp nhô xem cánh nhạn về non.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CÁNH PHƯỢNG

Phượng là loài chim quý, thường được dùng để ví với người con giống cha, có chí khí và tài giỏi.

Cánh phượng cũng như gót phượng, lông phượng, chỉ con cháu có tài đức, nối chí cha ông.

Xem: Lông phượng.



Ngán thay cánh phượng chân lân,

Đến phong trần cũng phong trần biết sao.

(Truyện Phan Trần).



CÀNH BÍCH

Cành bích tức là cành cây ngô đồng , một loại cây mà chim phượng hoàng thường hay đậu. Ví với nhà vua. Ca dao ta có câu: “Cây ngô, cành bích, con chim phượng hoàng nó đậu cao…

Thơ Đỗ Phủ có câu: Bích ngô thê lão phụng hoàng chi  , tức là cành ngô biếc là cành chim phượng hoàng đậu đã già rồi.

Xem: Ngô đồng.



Khi trận gió 
lung lay cành bích,

Nghe rì rào tiếng mách ngoài xa.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CÀNH DIÊU ĐOÁ NGUỴ

Diêu Nguỵ là hai họ đã tìm ra hoa mẫu đơn.

Họ Diêu đã tìm ra đầu tiên giống hoa mẫu đơn màu vàng, còn họ Nguỵ đã tìm ra được hoa mẫu đơn màu tím.

Xem: Diêu Nguỵ.



Xảy nhớ khi cành Diêu đoá Nguỵ,

Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CÀNH THIÊN HƯƠNG

Do câu thành ngữ trong Tình sử: “Thiên hương nhất chi  ”, nghĩa là một cành thiên hương, dùng để chỉ người con gái đẹp.



Phận hồng nhan có mỏng manh,

Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

(Truyện Kiều).



CÀNH XUÂN NHUỴ NỞ

Cành xuân: Ví với con gái trẻ tuổi. Nhuỵ nở: Chỉ gái sinh con.

Cành xuân nhuỵ nở là nói người con gái trẻ tuổi sinh ra đứa con.



Kìa máu huyết, cành xuân nhụy nở,

Khối ái ân đành ở nơi con.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẢNH BỒNG LAI

Tương truyên trong bể Bột hải có ba ngọn núi tên là Bồng lai, Phương trượng và Doanh châu, người tiên và thuốc tiên đều ở ba núi ấy, loài vật toàn sắc trắng, cung điện toàn làm bằng châu báu bạc vàng.

Cảnh Bồng lai tức là cảnh trên núi Bồng lai, ý nói cảnh tiên ở.

Xem: Bồng lai.



Thôi xếp cả nguyệt hoa, hoa nguyệt,

Cảnh Bồng lai trải biết gọi làm duyên.

(Thơ Tản Đà).



CẢNH PHẠM

Bởi chữ “Phạm cảnh  ” tức là cảnh Phật, hay cảnh chùa.

Phạm do chữ Brahma là thanh tịnh, Phật. Cảnh phạm tức là cảnh Phật hay cảnh chùa.

Xem: Cõi Phạm.



Đã quen cảnh Phạm lánh mình,

Nên phương nhờ bởi đoạn tình ái yêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẢNH TỈNH 

Cảnh: Đánh thức. Tỉnh: Thức dậy.

Cảnh tỉnh là đánh thức dậy. Nghĩa bóng: Đánh thức người thoát khỏi cảnh mê muội, sai lầm.



Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,

Tiếng trống giác mê nhặt đỉnh Thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CẢNH TỊNH

Bởi chữ “Tịnh cảnh  ” là cảnh trong sạch và thanh tịnh.

Cảnh tịnh chỉ ngôi chùa hay cõi Tiên.

Ðâu bằng cảnh tịnh cõi Bồng Lai,

Thế thượng không ai biết giá nài.

(Đạo Sử).



Nương phướn Tây Thiên về cảnh tịnh,

Bỏ nơi phiền não chịu ai bi.

(Đạo Sử).



Bước cảnh tịnh đã đành để cẳng,

Tóc qui y nửa trắng nửa vàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,

Đem tấm tình để ngụ đài sen.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẢNH THIÊN

Bởi chữ “Thiên cảnh  ” là cõi Trời

Cảnh thiên là cõi Trời, theo Cao Đài, tức cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Xem: Thiên cảnh.



Cảnh Thiên noi bước Hóa Công,

Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.

(Kinh Thế Đạo).



Rẽ phân cốt nhục đồng bào,

Cảnh Thiên cõi tục lẽ nào không thương.

(Kinh Thế Đạo).



CẢNH TRÍ

Tức “Trí cảnh  ” là cảnh của những bậc đạt được sự sáng suốt, trí tuệ.

Cảnh trí là chỉ cõi sáng suốt, cõi của những người đắc Đạo, đó là cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, hay cảnh Tiên.

Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí,

Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân.

(Kinh Thế Đạo).



Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,

Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Lần gội tâm phàm vui cảnh trí,

Ðường trần lưu luyến nhọc tranh đua.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CẠNH TRANH 

Cạnh: Tranh nhau. Tranh: Giành giựt.

Cạnh tranh là cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau.



Tiếng đời hằng nói phước do lành,

Con chẳng biết tu cứ cạnh tranh.

(Đạo Sử).



CAO ĐÌNH 

Cao đình là tên một cái núi ở Chiết Giang, nơi ngày xưa có nhiều bộ hành qua lại tấp nập, là chỗ tiễn đưa, chia biệt nhau.

Cổ thi có câu: Cao đình tương biệt xứ  , nghĩa là chỗ tiễn biệt nhau ở Cao Đình.

Tiễn đưa một chén quan hà,

Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.

(Truyện Kiều).



CAO ĐƯỜNG 

1.- Ngôi nhà cao, nhà trên dành cho cha mẹ ở, chỉ cha mẹ. Thơ Lý Bạch có câu: Bão kiếm từ cao đường  , tức là ôm gươm từ giã cha mẹ.

Cao đường còn dùng để chỉ khách quý.

Chàng tuy vâng mệnh cao đường,

Nghĩa tình quỳnh ngọc chưa đường nào nguôi.

(Sơ Kính Tân Trang).

2.- Tên ngôi đền ở đầm Vân Mộng, chỉ trai gái ân ái với nhau.

Bởi tích vua Sở Tương Vương nằm mộng thấy chăn gối cùng Thần nữ ở đền Cao Đường núi Vu Sơn.

Xem: Vu Sơn.

Mộng hồn say giấc mây mưa,

Đá Vu Sơn tạc tiếng dư Cao Đường.

(Từ Thức).



Há rằng bán ngọc trao gương,

Năm năm Vu Giáp Cao Đường như ai.

(Tây Sương).



Lầu xanh thánh thót tiếng chuông truyền,

Tỉnh giấc Cao Đường lúc ngã nghiêng.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



CAO LƯƠNG 

Cao: Thịt mỡ. Lương: Kê, một loại cốc ngon.

Cao lương là tiếng dùng để chỉ thức ăn ngon của kẻ giàu sang, phú quý.



Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm,

Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Đã rằng dưa muối bả bô,

Lạp bình tương thuỷ, những đồ cao lương.

(Tư Dung Vãn).



CAO LƯƠNG MỸ VỊ  

Cao lương: Thịt béo, gạo ngon. Mỹ vị: Thức ăn ngon và quý.

Cao lương mỹ vị là gạo thơm thịt béo, nói chung là món ăn ngon và sang quý.



Cao lương mỹ vị hại thân phàm,

Hỏi thử thế đời mấy món tham?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CAO NIÊN 

Cao niên là tuổi cao, dùng để chỉ các cụ già.

Hán Thư có câu: Vu hương lý phụng cao niên, cổ chi đạo dã  , , nghĩa là trong làng xóm tôn trọng người già cả, đó là đạo xưa nay.

Lần lần hè lại thu qua,

Hai ông thắm thoắt tuổi đà cao niên.

(Truyện Phan Trần).



CAO NGHĨA 

Cao: Cao lớn. Nghĩa: Làm việc phải. Cao nghĩa tức làm việc nghĩa to lớn.

Sử Ký có câu: Cứu Triệu cao nghĩa, khước Tần binh hiển danh dã  , , cứu nước Triệu là nghĩa lớn, từ khước quân Tần là làm rõ rệt thanh danh vậy.



Tướng công dẫn sự dọc đường,

Gặp Lưu cao nghĩa, được nàng tốt đôi.

(Hoa Tiên Truyện).



CAO QUỲ 

Tức là ông Cao Dao và ông Quỳ, là hai vị tôi thần giỏi của vua Thuấn.

Cao Dao là vị quan coi về tư pháp và giáo dục. Còn ông Quỳ giữ chức quan lo việc điển nhạc.

Xem: Cao Dao và Tiết Quỳ.



Tượng vì trên chúa Đào Đường,

Dưới tôi lại có những trang Cao Quỳ.

(Hoài Nam Khúc).



Cho hay Thuấn đã qua kỳ,

Tài dầu chẳng sánh Cao Quỳ cũng dâng.

(Hoài Nam Khúc).



CAO SĨ 

Cao là vượt trội hơn người. Sĩ là người có học thức và đạo đức. Vậy cao sĩ là người có học, có phẩm hạnh tốt, đạo đức hơn người.



Lão Lai Tử đời Chu, cao sĩ,

Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



CAO SƠN 

Núi cao.


Cao Sơn là tên khúc nhạc do Bá Nha đàn, Chung Tử Kỳ nghe qua đoán biết được tâm ý của Bá Nha.

Xem Bá Nha Tử Kỳ.



Gió đưa nhẹ mái thuyền lan,

Điệu xoang lưu thuỷ cung đàn cao sơn.

(Lưu Nữ Tướng).



CAO VƯƠNG 

Tức là Cao Biền , người được tôn xưng là “Cao Vương”.

Cao Biền là tướng giỏi của nhà Đường, sang đánh nước ta, và sau được vua nhà Đường phong làm Tiết độ sứ cai trị Giao Châu, rất có uy tín, được dân ta tôn lên là Cao Vương.

Sau Kim ngưu chạy vào đây hoá vực,

Cao Vương đào chặn mạch Hoàng Đô.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



CAO XANH

Dịch từ chữ “Cao thương  ”, tức là vòm trời cao mà xanh, dùng để chỉ Tạo hoá, ông Trời.



Tuần hoàn lẽ ấy chẳng xa,

Chớ đem nông nỗi mà ngờ cao xanh.

(Nhị Độ Mai).



Bâng khuâng mình tiếc cho mình,

Xa xa nói với cao xanh giải lòng.

(Tự Tình Khúc).



Cao xanh nào có phụ chi con,

Mà chẳng giữ cho đức vẹn còn.

(Đạo Sử).

CÁO ĐỘI OAI HÙM

Nói người chuyên mượn uy danh của kẻ có quyền thế để loè đời, bịp đời như cáo đội cái oai quyền của con cọp.

Xem: Cáo giả oai hùm.

Cáo đội oai hùm mà nết giống,

Ruồi nương đuôi ký luống khoe người.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



CÁO GIẢ OAI HÙM

Bởi câu “Hồ giả hổ uy  ”, tức là cáo mượn oai hùm.

Ví như con cáo đi sau lưng cọp để mượn oai, các loài vật khác thấy đều bỏ chạy hết, thật ra chúng sợ hùm chứ không sợ cáo.

Nghĩa bóng: Mượn thế lực để áp bức người.



Ngạnh rằng: Quan sự đã am,

Những phường cáo giả oai hùm ghê thay.

(Truyện Trê Cóc).



CÁO KÌNH

Cáo và cá voi, là hai loài vật một con thì có tính gian giảo, một con thì có thân mình to lớn và hung tợn, được dùng để chỉ bọn giặc cướp.

Xem: Kình ngạc.

Cáo kình im lặng tăm hơi,

Doành ngân rửa mác, non đoài treo cung.

(Truyện Phan Trần)



CÁO THÀNH

Bởi chữ “Thành hồ  ” là cáo ở bờ thành.

Cáo làm hang ở bờ thành, người ta không dám đào lỗ để bắt nó, vì sợ sập bờ thành, ý muốn nói kẻ cậy quyền thế.

Xem: Thành hồ xã thử.



Anh hùng trong nước khoe tài,

Nơi nơi chuột xã nơi nơi cáo thành.

(Thiên Nam Ngữ Lục)



CẢO TÁNG 稿

Cảo: Cọng rơm. Táng: Chôn cất. Cảo táng tức là lấy rơm bó xác người lại rồi đem chôn cất.

Nghĩa bóng: Chôn đơn sơ, vội vã.



Hồ công nghe nói thương tình,

Truyền cho cảo táng di hình bên sông.

(Truyện Kiều).



CẢO TÔ 稿

Cảo: Bản thảo, tài liệu nhà văn. : Tô Đông Pha.

Cảo Tô tức là những tài liệu, sách vở của Tô Đông Pha đời nhà Tống.

Xem: Tô Thức.

Trước hiên nương bóng tà song,

Cảo Tô biếng giở, túi đồng để suông.

(Hoa Tiên Truyện).



CÁT ĐẰNG 

Cát: Dây sắn bìm. Đằng: Dây mây.

Dây sắn bìm và dây mây là hai loại dây leo chuyên sống bám nhờ vào gốc cây khác. Chữ cát đằng còn có nghĩa là vương vấn, vấn vít.

Trong Diêu Kinh có nói rằng: Chúng sinh nếu sa vào lưới tình thì cũng như dây cát đằng vương vấn vào cây khô.

Cát đằng có nghĩa rộng là nương nhờ vào kẻ khác.



Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,

Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.

(Truyện Kiều).



Hễ cát đằng nhảy lá xanh chồi,

Thân tòng bá càng tươi thêm vẻ đẹp.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÁT LẦM

Cát lầm tức là bị cát sông hay bùn đất làm vẩn đục, làm nhơ bẩn.

Cát lầm được ví như thân phận con người ta bị cuộc đời làm đau đớn, khổ nhục.

Tính rằng sông nước cát lầm,

Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!

(Truyện Kiều).



CÁT LẦM NGỌC TRẮNG

Cát lầm: Bùn cát làm dơ bẩn. Ngọc Trắng: Ví thân phận người con gái.

Cát lầm ngọc trắng là bùn cát làm nhơ bẩn, vẩn đục viên ngọc trắng, ví với người con gái đẹp bị hành hạ khổ sở.



Vì ta cho lụy đến người,

Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!

(Truyện Kiều).



Cát lầm ngọc trắng cũng là,

Càng kiên trinh lắm, càng ma chiết nhiều.

(Thơ Bùi Kỷ).



CÁT LEO CÙ MỘC

Cát: Dây sắn, một loại dây leo. Cù mộc: Một loại cây to gốc lớn.

Bởi câu trong Kinh Thi: Nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi  , , nghĩa là phương nam có cây cù mộc, dây sắn dây bìm leo vào đó.

Cát leo cù mộc có ý muốn nói người vợ lẽ nhờ người vợ cả che chỡ.

Xem: Cù mộc.



Cát leo cù mộc rắp toan,

Xích thằng xui khéo tạo đoan một niềm.

(Truyện Trinh Thử).



CÁT LUỸ 

Cát: Dây sắn bìm. Luỹ: Dây mây.

Dây sắn bìm là giống dây mộc lan ra hay leo lên một cây khác. Chỉ phận người vợ nhỏ nương nhờ vào người vợ cả.

Kinh Thi có câu: Nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi  , , nghĩa là phương nam có cây cù mộc, dây sắn dây bìm leo vào đó.

Xem: Cát leo cù mộc.



Tin nhà ngày một vắng tin,

Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.

(Truyện Kiều).



CÁT NHÂN THIÊN TƯỚNG 

Cát nhân là người lành, người tốt. Thiên tướng là Trời giúp.

Cát nhân thiên tướng là người tốt được Trời giúp đỡ cho.

Cũng nhờ đức cả cao dày,

Cát nhân thiên tướng ắt rày vững an.

(Hạnh Thục Ca).



CÁT PHÂN 

Cát: Cắt. Phân: Chia ra.

Cát phân là chia cắt, tiếng dùng để chỉ sự phân chia cương thổ.



Kể từ Ngô, Tấn lại đây,

Hai trăm mười bốn năm chầy cát phân.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CÁT TỊCH 

Cắt lìa chiếc chiếu.

Do sách Thế Thuyết chép: Ngày xưa có hai người bạn học là Hoa Hâm và Quảng Ninh, thường cùng ngồi trên một chiếc chiếu đọc sách. Một hôm, trong làng có một học trò đi thi về được vinh quy bái tổ, mũ cao áo rộng, cờ xí xe ngựa đi ngang qua nhà.

Lúc đó, Quảng Ninh vẫn điềm nhiên đọc sách, còn Hoa Hâm vội vàng liệng bỏ sách chạy đi xem. Ninh cho rằng Hâm là người không đáng cho mình làm bạn, bèn cắt đôi chiếc chiếu.

Nghĩa bóng: Tuyệt giao.

CĂN BỊNH

Hay “Bệnh căn  ”, còn được gọi là bệnh nghiệp, là bịnh do những hành vi hung ác từ kiếp trước, tạo nên căn nghiệp mà báo ứng trong hiện kiếp. Bịnh này làm cho người thọ lãnh phải chịu đau khổ triền miên để trả nghiệp, nên không có thuốc nào điều trị được, chỉ khi nào hết nghiệp là mới hết bịnh.

Tử Đồng Đế Quân có để lời dạy như sau: Diệu dược nan y oan trái bệnh, hoạnh tài bất phú mệnh cùng nhân  , , nghĩa là cái bịnh oan nghiệt thì thuốc hay khó chửa cho lành, của hoạnh tài không có thể làm cho người mạng cùng giàu sang được.

Sống dương thế hành thì căn bịnh,

Xui tai nàn dấp dính theo mình.

(Kinh Sám Hối).



CĂN NỢ

Bởi chữ Hán “Trái căn  ” tức là món nợ có gốc rễ từ kiếp trước, kiếp hiện tại phải trả.

Căn nợ khiến cho hai người phải vay trả cho nhau.

Phải căn nợ cách non cũng gặp,

Lỡ trái duyên vội gấp ra hư.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CĂN NGUYÊN 

Căn: Rễ. Nguyên: Nguồn nước.

Căn nguyên là nguồn gốc, tức là gốc tích, hay duyên do.



Để cho được tỏ căn nguyên,

Dở hay sẽ liệu kinh quyền giúp cho.

(Lục Vân Tiên).



CĂN NGHIỆT 

Căn: Gốc rễ. Nghiệt: Mầm ác.

Căn nghiệt là những việc ác gây ra từ kiếp trước (nghiệt) làm gốc rễ (căn) của các tai họa xảy đến trong kiếp này.



Cương tỏa đương thời đã giải vây

Đừng mơ căn nghiệt một đời này

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CĂN SANH 

Căn: Gốc rể. Sanh: Kiếp sống.

Gốc rể tức là những việc làm thiện hay ác của kiếp trước làm ảnh hưởng đến kiếp này. Do cái gốc rể đó mà kiếp sống này được sung sướng hay khổ sở, giàu sang hay nghèo hèn.

Căn sanh đồng nghĩa với “Kiếp căn”.

Xem: Kiếp căn.



Phải đủ căn sanh mới thấy Trời,

Ai ai đừng tưởng dễ như chơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Nhìn non chỉ nước làm hơn,

Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CĂN TA CA

Căn Ta Ca là phiên âm từ Phạn ngữ Kantaka, Hán dịch là Càn Trắc (hay Kiền Trắc), là con ngựa của Thái tử Tất Đạt Đa (Sĩ Đạt Ta), lúc nửa đêm chở Ngài cùng với quan giữ ngựa là Xa Nặc, bỏ cung vàng điện ngọc để đi đến nơi thâm sơn cùng cốc mà tu hành. Sau đó, Ngài bảo ông Xa Nặc dẫn con ngựa Kiền Trắc trở về hoàng thành. Về đến thành, con Kiền Trắc liền bỏ ăn rồi chết.



Căn Ta Ca đỡ bước đi,

Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.

(Kinh Thế Đạo).



CẶP LIỄN TANG

Cặp liễn tang tức là một cặp đối được viết để hai bên bàn thờ tang. Nội dung cặp đối này được viết theo hoàn cảnh người chết. Ví dụ như liễn thờ cha, thờ mẹ, thờ vợ, thờ chồng…



Cặp liễn tang còn câu long ám,

Hạc qui hồi lãnh đạm trần ai.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẮT TAI

Lệnh Nữ có chồng là Tào Văn Thúc, đã mất sớm, nàng sợ mình còn trẻ cha mẹ bắt tái giá, nên đã cắt tai, cắt mũi cho xấu xí để thủ tiết thờ chồng.



Tìm trong vạch mắt cắt tai,

Trăm nghìn chửa được một hai đâu là.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



CÂY CẢ NGỒI TỰA

Do chữ “Đại thụ tướng quân  ” tức là Tướng quân ngồi tựa gốc cây to.

Theo lịch sử nhà Hán đời Quang Võ có quan tướng quân tên là Phùng Dị, hễ đánh được trận về, chư tướng xúm nhau tranh công. Phùng Dị tránh đi ngồi dưới một gốc cây lớn, không thèm kể công mình. Người đời quý trọng đức khiêm nhường của Phùng, nên gọi là Đại Thụ Tướng Quân.

Xem: Phùng Dị.



Kìa ai cây cả nhàn ngồi tựa,

Nếu có công nhiều lọ phải tranh.

(Quốc Âm Thi Tập).



CÂY ĐỨC NỀN NHÂN

Bởi chữ “Đức thụ nhân cơ  ”.

Đức thụ là trồng cây đức, có nghĩa làm việc thiện để gây phước đức, nhân cơ là tạo nền nhân, có nghĩa làm việc lành để đắp nền nhân

Có tiên thì hậu mới hay,

Đã trồng cây đức ắt dày nền nhân.

(Nữ Tú Tài).



CÂY LIỀN CÀNH

Do điển: Vợ Hàn Bằng tên là Hà Thị, là người đàn bà đẹp người đẹp nết, đến đổi Tống Khang Vương thấy rồi mê thích. Nhưng biết Hà Thị là người tiết hạnh, khó mà ép uổng cho được, bèn ra lịnh giết Hàn Bằng. Vậy mà Hà Thị vẫn cương quyết không chịu thất thân với Khang Vương, cắn lưỡi tự tử và để lại một bức thư xin được chôn chung với chồng.

Tống Khang Vương tức giận, chôn hai mộ song song nhưng cách xa nhau. Sau người ta thấy mỗi ngôi mộ mọc lên một cây to, trên thì có cành giao nhau, còn dưới thì rể ăn liền với nhau.

Trong bài Trường hận Ca của Bạch Cư Dị có câu: Tại địa nguyện vi liên lý chi, , nghĩa là dưới đất nguyện làm cây liền cành.

Nghĩa bóng: Vợ chồng gắn bó không rời nhau.

Thiếp xin về kiếp sau này,

Như chim liền cánh, như cây liền cành.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Chim kết cánh, cây liền cành,

Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÂY NGÔ CÀNH BÍCH

Tức cây ngô đồng, một loại cây mùa thu đến thường hay rụng lá. Cành cây ngô đồng là nơi chim phượng hoàng thường hay đậu, vì thế thơ Đỗ Phủ có câu: Bích ngô thê lão phụng hoàng chi  , tức là cành ngô biếc là cành chim phượng hoàng đậu đã già rồi. xem: Ngô đồng.



Nước trong xanh lơ lửng con cá vàng,

Cây ngô cành bích con chim phượng hoàng đậu cao.

(Thơ Tản Đà).



CÂY QUỲNH CÀNH GIAO

Dịch chữ “Quỳnh lâm giao thụ  ”, ý chỉ người đẹp đẽ và hào hoa. Do câu: Vương Diễn như quỳnh lâm giao thụ  , có nghĩa là ông Vương Diễn đẹp như cây ngọc dao ở trong rừng ngọc quỳnh.



Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

(Truyện Kiều).



CÂY THƯƠNG PHÁ LỖ

Cây thương: Một loại binh khí, tức cây giáo. Phá lỗ: Lỗ là giặc mọi, phá lỗ tức là phá bọn giặc mọi.

Cây thương phá lỗ là ngọn giáo chống giặc.



Chí dốc đem về non nước cũ,

ghe phen hoạn nạn,

cây thương phá lỗ chưa lìa;

(Văn Tế Trương Định).



CÂY TRĂM THƯỚC

Cây trăm thước tức cây Bồ đề, ý chỉ sự tu hành.

Trong Kinh Phật có câu: Bồ đề bách xích thụ, liên tọa tứ thời hoa  , , nghĩa là bồ đề cây trăm thước, toà sen hoa bốn mùa.

Chính Thái Tử Sĩ Đạt Ta ngồi thiền định dưới cội cây Bồ Đề này mà thành đạo. Vì thế, chữ cây trăm thước dùng để chỉ sự tu hành.



Sẵn Quan âm các vườn ta,

Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.

(Truyện Kiều).



Cây trăm thước đổi hương tàn,

Treo y bá nạp làm màn phòng the.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÂY TRĂM THƯỚC BẮC THANG BẾN KHỔ

Cây trăm thước: Cây bồ đề, chỉ sự tu hành. Bến khổ: Cũng như biển khổ, chỉ cõi tục.

Cây trăm thước bắc thang bến khổ ý nói sự tu hành như một cái thang đưa người tu vượt qua bể khổ.



Cây trăm thước bắc thang bến khổ,

Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẬY SẮC KHOE TÀI

Cậy sắc khoe tài tức là nói những người thường ỷ vào sắc đẹp, hay khoe khoang tài giỏi của mình.



Em đừng cậy sắc khoe tài,

Khéo thay nồi lủng cũng tay thợ hàn.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CẬY THẾ THỊ HÙNG

Cậy thế: Dựa vào thời thế. Thị hùng 
: Cậy mạnh mà làm dữ.

Cậy thế thị hùng tức là dựa vào thế lực và ỷ vào sức mạnh mà làm việc hung hăn.



Quở rằng: Cậy thế thị hùng,

Ra ngoài văn pháp vào trong dâm tà.

(Nhị Độ Mai).



CẤM THÀNH 

Cấm: Ngăn cấm. Thành: Thành luỹ, bức tường thành bao quanh.

Cấm thành là thành xây bao bọc chung quanh không cho người bên ngoài xâm nhập vào.



Luống làm tiện việc chẳng kiêng,

Bồi lăng nay cũng phục bên cấm thành.

(Hạnh Thục Ca).



CẦM CỜ TƯ VĂN

Tư văn chỉ nhà Nho.

Cầm cờ tư văn là chỉ những người thầy dạy học theo đạo Nho.

Than rằng: Sanh chẳng gặp giờ,

Phải cam ở dưới cầm cờ tư văn.

(Dương Từ Hà Mậu).



CẦM DAO 

Cầm: Tên một thứ đờn. Dao: Tên một thứ ngọc.

Cầm dao tức là cây đờn cầm có khảm ngọc dao. Sách Chu Hy có câu: Dao cầm nhất khúc lai huân phong  , nghĩa là cây đàn dao gảy một khúc gió mát tới.



Cầm giao sẵn dóng dây huân,

Nuôi tươi chậu chậu, cắm xuân cành cành.

(Hoa Tiên Truyện).



CẦM ĐÃ BÉN DÂY

Cầm: Cây đờn cầm. Đã bén dây: Đã quen dây, tức là hợp với cây đàn.

Cầm đã bén dây ý nói đã hợp với đàn, và quen với dây, ví với vợ chồng đã êm xuôi, hoà thuận với nhau.



Xót vì cầm đã bén dây,

Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.

(Truyện Kiều).



CẦM ĐÀI 

Cầm: Cây đàn. Đài: Một ngôi nhà cao, có thể ngồi trông xa được.

Cầm đài là nơi ngồi gảy đàn. Ngày xưa, Tư Mã Tương Như ngồi ở cầm đài đàn để trêu ghẹo Trác Văn Quân, khiến nàng phải trốn theo.

Nghĩa bóng: Đàn hay giỏi.

Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài,

Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.

(Truyện Kiều).



CẦM ĐIỂU 

Cầm: Tiếng gọi chung các giống chim. Điểu: Chỉ loài chim.

Cầm điểu là nói chung các loại chim.



Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,

Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦM ĐUỐC CHƠI ĐÊM

Hay “Cầm đuốc dạo đêm”.

Do chữ “Bỉnh chúc dạ du  ” trong câu thơ cổ: Trú đoản khổ dạ trường, hà tất bỉnh chúc du  , , nghĩa là ngày ngắn, khổ nỗi đêm dài, sao chẳng cầm đuốc đi chơi?

Cầm đuốc dạo đêm có ý muốn nói tiếc thời gian đi quá mau, đêm choán hết phần lớn, chỉ có cách đốt đuốc đi chơi đêm cho đỡ phí thì giờ.

1.- Cầm đuốc chơi đêm:

Cầm đuốc chơi đêm này khách nói,

Tiếng chuông chưa gióng ắt còn ngân.

(Quốc Âm Thi Tập).

2.- Cầm đuốc dạo đêm:

Người xưa cầm đuốc dạo đêm chơi,

Nào có cưu chi cái việc đời,

(Dương Từ Hà Mậu).

CẦM ĐƯỜNG 

Cầm là cây đàn. Đường là ngôi nhà. Cầm đường chỉ nơi làm việc của quan huyện.

Do tích chép từ sách Lã Thị Xuân thu như sau: Học trò của Đức Khổng Phu Tử là Mật Tử Tiện làm Tri huyện Đan Phụ. Thường ngày, nơi huyện đường, ông chỉ đàn hát, vậy mà dân trong hạt đều an cư lạc nghiệp. Sau đó triều đình có phái Vu Mã Tử Kỳ đến thay thế Tử Tiện.

Tử Kỳ đến làm việc suốt cả ngày, không lúc nào rỗi rảnh, như vậy trong hạt mới được yên ổn. Gặp Tử Tiện, Tử Kỳ mới hỏi: Công việc ở huyện tôi phải làm một cách cực lực, dân tình mới được yên ổn, còn ông, tôi thấy chỉ đánh đàn mà thôi, sao mọi việc lại chu tất hết? Tử Tiện mỉm cười đáp: Tôi không làm nhưng điều hành thuộc hạ làm, còn ông tự làm lấy. Ai biết dùng người thì người đó khoẻ, ai không biết dùng người thì tự làm lấy, ắt phải mệt.

Do câu chuyện trên người sau mới gọi nơi làm việc của quan huyện là “Cầm đường”.

Cầm đường ngày tháng 
thung dung,

Tên ngay là tiết, nước trong ấy lòng.

(Nhị Độ Mai).



Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,

Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.

(Truyện Kiều).



CẦM GIAM 

Cầm: Bắt, giữ. Giam: Nhốt vào ngục.

Cầm giam hay giam cầm, tức là trói buộc hay giam giữ người phạm tội lỗi.



Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,

Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.

(Kinh Sám Hối).



CẦM HẠC 

Cầm: cây đàn. Hạc là chim hạc. Cầm hạc nghĩa là một cây đàn và một con chim hạc.

Do tích Triệu Thanh Hiến đời nhà tống được triều đình cho trấn giữ đất Thục. Khi đi phó nhậm, ông không đem theo vợ con hay đầy tớ chi cả, mà chỉ đi một mình cùng với một cây đàn và một con chim hạc.

Nghĩa bóng: Chỉ làm quan phong lưu nhàn hạ.

Của trời trăng gió kho vô tận,

Cầm hạc tiêu dao đất nước nầy.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



CẦM KỲ 

Cầm: Đàn. Kỳ: Đánh cờ.

Cầm kỳ là đánh cờ và đánh đàn là hai thú chơi thích hợp với bực tao nhân mặc khách, dùng để chỉ tình bè bạn.



Chàng dầu nghĩ đến tình xa,

Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ.

(Truyện Kiều).



CẦM KỲ THI HOẠ 

Hay “Cầm kỳ thi tửu  ”.



Cầm: Gảy đàn. Kỳ: Đánh cờ. Thi: Ngâm thơ. Hoạ: Hội hoạ. Tửu: Uống rượu.

Cầm kỳ thi hoạ hay cầm kỳ thi tửu là bốn thú tiêu khiển của người nho phong, tao nhã.

Nghĩa bóng: Chỉ cảnh phong lưu.

1.- Cầm kỳ thi hoạ:



Xưa nay ngươi vốn tính hào,

Cầm kỳ thi hoạ ngón nào cũng chăm.

(Tống Thần Cùng).

2.- Cầm kỳ thi tửu:

Tài hoa quốc, sắc khuynh thành,

Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành trần duyên.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Cầm kỳ thi tửu mọi đường,

Phong lưu phú quý chẳng nhường ai hơn.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CẦM LÀNH

Cầm là cây đàn, chỉ sự hoà thuận. Cầm lành tức cây đàn đã hư, đã bị đứt dây, nay trở lại nguyên vẹn, ví người đàn bà dang dở, hay chồng chết, nay được êm ấm trở lại, hay tục huyền để nối lại dây đàn như xưa.



Dạy rằng: Hương lửa ba sinh,

Dây loan xin nối cầm lành cho ai.

(Truyện Kiều).



CẦM LOAN 

Cây đàn và chim loan.

Chim loan là một loài chim với chim phụng, con trống gọi là phụng, con mái gọi là loan. Sách Ngoại Truyện chép: Xứ Tây Tạng có một loại keo được chế bằng máu con chim loan. Keo chim loan gắn phím đàn rất tốt. Xem: Giao loan  .

Cầm loan là thứ đàn cầm gắn phím bằng keo con chim loan.



CẦM NGƯ 

Chim cá, một giống bay trên không, một loài lặn dưới nước.

Người ta thường dùng từ ngữ này để diễn tả sắc đẹp như câu thành ngữ chim sa cá lặn.

Xem “Chim sa cá lặn”.



Hình mộc thạch vàng kim ố cổ.

Sắc cầm ngư ủ rủ e phong.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CẦM SẮT 

Đàn cầm và đàn sắt là hai loại đàn âm thanh thường hoà hợp nhau, dùng để chỉ đôi vợ chồng thuận hòa với nhau.

Trong Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, cầm sắt hữu chi  , (Vợ chồng hòa hợp nhau như gảy đàn sắt đàn cầm). Người ta thường dùng hai câu sau để chúc tụng đôi vợ chồng thương yêu, hòa hợp: Loan phượng hòa minh, sắt cầm hảo hiệp  , .

Nghĩa bóng: Chỉ vợ chồng hoà hợp.



Chàng dầu nghĩ đến tình xa,

Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ.

(Truyện Kiều).



Võ Công lấy đọc bấy giờ,

Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.

(Lục Vân Tiên).



Đẹp duyên cầm sắt kính yêu,

Uyên ương phu phụ dập dìu đoàn viên.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Thà cho đáng mặt thuyền quyên,

Đừng làm cầm sắt ra duyên bĩ bàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦM TÂM 

Lấy âm thanh tiếng đàn mà bày tỏ tấm lòng.

Do tích đời nhà Hán, có vị văn nhân là Tư Mã Tương Như lấy cầm tâm (Âm thanh của tiếng đàn) mà trêu ghẹo nàng Trác Văn Quân qua khúc “Phượng Cầu Hoàng”. Văn Quân say đắm tiếng đàn, bỏ nhà theo Tương Như.

Cầm tâm một khúc gửi trao,

Cậy lòng dì gió, đưa vào sân cung.

(Thơ Phạm Thái).



CẦM TÔN 

Cây đàn và chén rượu, là hai trong bốn thú ăn chơi của bậc cao nhân mặc khách: Cầm, kỳ, thi, tửu.

Cầm tôn là cây đàn và chén rượu dùng để chỉ thú ăn chơi tao nhã.

Vườn riêng còn thú cầm tôn.

Hoàng Diêu tử Nguỵ vẫn còn chưa phai.

(Hoa Tiên Truyện).



CẦM THI 

Gảy đàn và ngâm thơ.

Cổ thư viết về phong cách tao nhã của vua Thuấn như sau: “Thuấn đàn ngũ huyền chi cầm, ca nam phong chi thi  , ”, nghĩa là Thuấn gảy đàn cầm năm dây và hát bài thơ nam phong.

Nghĩa bóng:Chỉ sự phong lưu.



Cầm thi xiêm áo thảnh thơi.

Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



CẦM THUẤN 

Cầm: Cây đàn cầm. Thuấn: Vua Thuấn, đời Hữu Ngu. Cầm Thuấn là cây đàn cầm của vua Thuấn.

Xưa vua Thuấn chế ra cây đàn cầm năm dây để gảy khúc Nam Phong. Ý nói cảnh thái bình thịnh trị.



Gió nhân vỗ khắp nhuần thiên hạ,

Cầm Thuấn lừng đưa phỉ mọi tình.

(Hồng Đức Quốc Âm).



CẦM THƯ 

Cầm: Cây đàn. Thư: Sách vở.

Cầm thư là đàn và sách, dùng để chỉ sự học hành, hay các Nho sĩ.



Đi không há dễ trở về không,

Cái nợ cầm thư phải trả xong.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Hồ thỉ đã quen tay vũ trụ,

Cầm thư chi lạ mặt quan hà.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Ý bát theo một mối cầm thư,

Chung đỉnh dõi năm đời khanh tướng.

(Trương Lưu Hầu Phú).

CẦM TRĂNG

Tức nguyệt cầm.

Nguyệt cầm, hay hồ cầm là tên một loại đàn tỳ bà. Theo sách Văn hiến thông khảo thì cầm trăng hay cầm nguyệt, và hồ cầm là cùng một loại đàn như nhau.

Xem: Nguyệt cầm.



Hiên sau treo sẵn cầm trăng,

Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.

(Truyện Kiều).



CẨM BÀO 

Cẩm: Gấm. Bào: Áo.

Cẩm bào là áo gấm, một loại áo do vua ban cho các quan lại thời quân chủ và những người thi đổ tiến sĩ trở lên.

Nghĩa bóng: Chỉ áo của các quan.

Thám hoa vào lạy đơn trì,

Cẩm bào phô cật, hoa chi giải đầu.

(Truyện Phan Trần).



Dám đâu đọ khách lầu cao,

Bao giờ đi bạc, cẩm bào mới hay.

(Nữ Tú Tài).



Nghèo hèn đừng đổi lòng thành thật,

Mới đặng khi may mặc cẩm bào.

(Đạo Sử).



CẨM HOÀN 

Cẩm: Gấm. Hoàn: Trở về.

Cẩm hoàn là mặc áo gấm trở về làng, do câu thành ngữ “Ý cẩm hoàn hương  ”.

Thơ Lý Bạch đời nhà Đường có viết: “Công thành ý cẩm hoàn  ”, nghĩa là khi được thành công, mặc áo gấm về làng.

Nghĩa thường: Khi vinh hoa phú quý, trở về làng xưa.

Xem: Áo gấm về làng, hay Ý cẩm hoàn hương.

CẨM LA 

Cẩm: Gấm vóc. La: Lụa là.

Cẩm la là một thứ lụa đẹp như gấm vóc.



Hương xông sực nức mọi bề,

Nhìn xem thế giới khác gì cẩm la.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



CẨM NANG 

Cái túi bằng gấm dùng để chứa mật kế để đến khi gặp những việc rắc rối, khó khăn thì mở ra xem mà có cách đối phó.

Ngày xưa, Khổng Minh sai Triệu Tử Long phò Lưu Bị sang nước Ngô, có trao cho ba cái cẩm nang (Sách Tam Quốc Chí gọi là cẩm nang kỳ kế), dặn khi gặp việc chẳng lành thì mở ra xem, sẽ có kế hay để đối phó. Nhờ vậy mà Triệu Tử Long phò Lưu Bị về nước một cách an lành.

Phải Khổng Minh nhập quỷ xuất thần,

Cho Triệu Tử cẩm nang diệu kế.

(Giang Tả Cầu Hôn).



CẨM TÂM TÚ KHẨU 

Cẩm tâm: Lòng như gấm vóc. Tứ khẩu: Miệng như thêu hoa.

Cẩm tâm tú khẩu là lòng như gấm, miệng như thêu, thành ngữ dùng để ca tụng những lời nói hoa mỹ.



Xem thơ nức nở khen thầm,

Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường.

(Truyện Kiều).



CẨM TÚ 

Cẩm: Gấm. : Thêu.

Cẩm tú là gấm thêu, chữ dùng để ca tụng lời nói hoa mỹ hay văn chương đẹp đẽ. Đồng nghĩa với câu thành ngữ “Cẩm tâm tú khẩu”.

Xem: Cẩm tâm tú khẩu.

Mai sinh là bậc thiên tài,

Câu văn cẩm tú, vẻ người y quan.

(Nhị Độ Mai).



Khen cho cẩm tú sắc tài.

Lạ cho con Tạo lựa người ghê thay!

(Mai Đình Mộng Ký).



Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,

Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Cẩm tú giang san một gánh nâng,

Ðường xưa nẻo cũ đã quen chừng.

(Đạo Sử).



CẨM TRƯỚNG 

Cẩm: Gấm. Trướng: Bức màn.

Cẩm trướng là trướng gấm, chỗ vua ngự, vì nơi đó có treo màn trướng bằng gấm vóc thêu lộng lẫy.



Gương đã lạnh lùng mờ cẩm trướng,

Châu còn thánh thót quẹn la bào.

(Truyện Vương Tường).



Trằn trọc chẳng an cẩm trướng,

Ngửa nghiêng khó nhắp loan phòng.

(Nhạc Hoa Linh).



CẨM VĂN 

Cẩm: Gấm. Văn: Văn chương. Cẩm văn tức là văn chương hay đẹp như là gấm thêu.

Cẩm văn còn là bài văn hay thơ dệt trên gấm, như bài “Chức cẩm hồi văn”.

Xem:Chức cẩm hồi văn.

Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng,

Đạo vị trau giồi bữa bữa no.

(Dương Từ Hà Mậu).



CÂN ĐAI

Cân đai là cái khăn và sợi dây đai.

Ngày xưa người đàn ông để tóc dài, nên khi làm quan, mặc triều phục, đầu phải bịt khăn, lưng phải buộc sợi dây đai. Do vậy, từ “Cân đai” dùng để chỉ quan lại.

Rỡ mình, là vẻ cân đai,

Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.

(Truyện Kiều).



Tử Trung xem hết phân vân,

Cân đai áo mũ rời chân tức thì.

(Nữ Tú Tài).



Đẹp mình với vẻ cân đai,

Công thầy tô điểm từ ngày ấu xuân.

(Kinh Thế Đạo).



Nương chơn chưa biết chơn nào vững,

Níu thử cân đai thấy nặng trì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Sâu dân mọt nước bạo tàn,

Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÂN QUẮC 

Cân: Cái khăn. Quắc: Một loại đồ trang sức trên đầu đàn bà.

Nghĩa bóng: Chỉ người đàn bà, con gái.

Thời Tam Quốc, Tư Mã Ý đánh không lại Khổng Minh, nên truyền đóng cửa thành cố thủ. Mấy lần khêu chiến, Tư Mã Ý đều không đem binh ra đánh. Khổng Minh mới dụng kế, sai người đem qua dinh Ý một gói đồ, trong đó chỉ có chiếc khăn bịt đầu của đàn bà.

Dụng ý của Khổng Minh là làm nhục và có ý chê Tư Mã Ý là đàn bà. Thế mà Tư Mã Ý vẫn cố thủ, khiến Khổng Minh sau đó cũng phải lui binh.



Xưa nay cân quắc mấy người.

(Liệt Sử).



CÂN QUẮC TIÊN SINH 

Ông thầy khăn yếm.

Do câu: Huệ Cơ chấn đạc vi nghiêm truyền, phả xưng cân quắc tiên sinh  , , nghĩa là Huệ Cơ làm nghề cha truyền, đáng gọi là cân quắc tiên sinh.

Bà Tống Thị (Mẹ của Vi Sính) nối truyền sự nghiệp của cha là dạy học. Bà lập giảng đường, kẻ thư sinh theo học ngoài trăm người. Bà treo màn the đỏ, ngồi sau màn để dạy học, được người đời coi là “Cân quắc tiên sinh”.



CÂN THƯỜNG 

Tên một loại cờ mà ngày xưa các vị vua dùng để ghi công tướng sĩ. Trong cân thường người ta có vẽ mặt trăng, mặt trời và giao long.



Thiết vì thủa theo cờ trước gió,

thân chả quản màn sương đệm giá,

những chờ xem cao thấp bức cân thường.

(Trận Vong Tướng Sĩ)



CÂN TRẤT 

Cân: Khăn bịt đầu. Trất: Cây lược.

Ngày xưa người đàn ông còn để tóc, nên vẫn xài khăn và lược. Như vậy, bổn phận của người đàn bà có chồng phải lo khăn lược cho chồng, gọi là nâng khăn sửa lược (Hay nâng khăn sửa túi).

Trong Tả Truyện, lời bà Khương Hậu nói: Dư dĩ cân trất sự tiên quân  , nghĩa là ta từng cầm cái khăn cái lược mà hầu hạ đấng tiên quân. Ý nói làm việc hầu hạ chồng.

Cân trất, nghĩa bóng chỉ bổn phận người đàn bà lo cho chồng.



Gẫm như cân trất duyên này,

Cam công đặt cái khăn này tắc ơ!

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CẦN BỘC 

Rau cần và ánh nắng.

Do sách Liệt Tử nói: Xưa có một người rất nghèo khổ, mùa đông đợi khi mặt trời mọc, ngồi sưởi nắng để được ấm áp, chẳng biết được trong thiên hạ đã có nhà cửa rộng kín, áo hồ lạc và nhung lụa ấm, ông liền bảo vợ: Cái việc nhờ mặt trời được ấm, con người chưa ai biết được, nếu ta lấy đem dâng cho vua, ắt là được trọng thưởng!.

Người nhà giàu trong làng nghe vậy, bèn nói chuyện với ông rằng: Hồi xưa có một người nông dân nước Tống, đem hột rau cần đến khen tốt, khen ngon với viên chức trong làng, các viên chức nếm thử, thì nó thông nơi miệng mà nhiễm nơi bụng. Họ nhăn mặt nạt anh nông dân! Chuyện này cũng giống như chuyện ông đem dâng vua cách sưởi nắng vậy.

Ta thấy tia nắng ấm áp đối với người nghèo khổ, nhưng sẽ làm nóng bức đối với nhà vua, cũng vậy, cùng một thức ăn, đối với người nầy ăn thấy ngon (Có thể do nghèo khổ, thiếu thực phẩm, nên ăn gì cũng ngon),còn người kia thì chê dở (Bởi giàu có). Vì vây, khi muốn tặng gì cho người thì phải khiêm nhường cho là đồ không ngon, không tốt, gọi là cần hiến (Dâng rau cần), hay bộc hiến (Dâng ánh nắng), hay cần bộc.

Mấy nơi làng xóm trải qua,

Tấm lòng cần bộc đều ra dâng thành.

(Hạnh Thục Ca).



CẦN CÂU LỮ

Tức là cần câu của Lữ Vọng, một vị hiền thần ngồi câu trên sông Vị chờ thời vận, sau được Tây Bá Hầu Cơ Xương (Tức Văn Vương) rước về làm Tướng quốc, và trở thành vị khai quốc công thần cho nhà Châu.



Ðợi thời toan mượn cần câu Lữ,

Dựng nghiệp tua chờ mặt lưới Thang.

(Đạo Sử).



CẦN CÙ

Cần cù là chỉ sự chuyên cần, chăm chỉ chịu khó nhọc một cách thường xuyên.



Tròn năm luống phận cần cù,

Không nuôi thê tử không bù thân sanh.

(Ngụ Đời).



CẦN CHUYÊN 

Cần: Siêng năng. Chuyên: Để tâm vào một công việc gì.

Như vậy, cần mẫn siêng năng để lo một việc gì gọi là cần chuyên.



Thờ nghiêm phụ cần chuyên khuya sớm.

Đạo làm con chẳng dám biếng khuây.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



CẦN DÂN 

Cần: Siêng năng. Dân: Nhân dân.

Cần dân là siêng năng về việc nhân dân, việc nước nhà, ý muốn nói những người cầm quyền trị dân phải biết chăm lo đến đời sống của dân chúng, quan tâm đến việc của nhân dân.



Khuyến nông chăm việc cần dân,

Chiếu chăn thương kẻ tù nhân lạnh lùng.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CẦN ÍCH 

Cần: Tha thiết đến một thứ gì. Ích: Lợi ích.

Cần ích là việc cần thiết và ích lợi.



Ngọn rau tấc đất là ân,

Một dòng một giống lo cần ích chung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦN KIỆM 

Cần: Siêng năng. Kiệm: Tằng tiện, không tiêu xài hoang phí.

Cần kiệm có nghĩa là siêng năng cần mẫn và tiện tặn, không phung phí.



Đồng tiền bát gạo mang ra,

Rằng đây "cần kiệm" gọi là làm duyên.

(Gia Huấn Ca).



Người đời cần kiệm 
doanh sinh,

Có nhiều có ít cũng dành cho con.

(Huấn Nữ Ca).



Thờ chồng ta giữ tiết ta,

Chữ cần chữ kiệm nghiệp nhà như xưa.

(Huấn Nữ Ca).



CẦN VƯƠNG 

Cần: Siêng năng. Vương: Vua.

Cần vương là hết lòng siêng năng vì công việc của vua. Vua gặp tai biến, hoạn nạn, kéo quân về giúp vua thì gọi là Cần vương.

Thời nhà Nguyễn ở nước ta, vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết đứng lên chống Pháp, ban hịch “Cần vương” và gửi đi cho các sĩ phu và dân chúng khắp nơi.

Đồn nghe chiếu dụ tưng bừng,

Bay tư các tỉnh lẫy lừng cần vương.

(Hạnh Thục Ca).



Giận Quốc Phó ra lòng bội thượng,

Nên Tây Sơn xuống nghĩa cần vương.

(Hịch Tây Sơn).



Tồn tại tưởng nghìn năm lời ngọc thệ,

Cờ cần vương nên hợp sức khuông phù.

(Khuyên Trung Nghĩa).



Dầu rủi phận nợ thân chẳng vẹn,

Đạo cần vương nêu tiếng thanh cao.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẬN CHÂU CẬN MẶC 

Gần son gần mực, do câu nói của người xưa: “Cận châu giả xích, cận mặc giả hắc” , , nghĩa là gần son thì đỏ, gần mực thì đen.

Do tính của con người thường hay bị tập nhiễm theo xã hội, nên tục ngữ ta cũng có nói: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.

CẬN HIỀN NHƯ DỰA CHI LAN

Cận hiền: Gần kẻ hiền lương. Dựa chi lan: Tựa vào cỏ chi và cỏ lan, hai loại hoa thơm.

Khổng Tử Gia Ngữ có câu: Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất, cửu bất văn kỳ hương, tức dữ chi lan hoá  , , , , nghĩa là cùng ở với người hiền, như vào nhà trồng chi lan, lâu ngày không thấy mùi thơm, đã cùng hoá theo mà không biết.



Cận hiền như thể dựa chi lan,

Chẳng nhiểm mùi hương cũng phẩm hàm.

(Đạo Sử).



CẨN THẬN 

Cẩn: Thận trọng. Thận: Không sơ suất.

Cẩn thận tức là thận trọng không cho sơ suất.

Cổ ngữ có câu: “Cần vi vô giá bửu, thận thị hộ thân phù , , nghĩa là siêng năng là của báu vô giá, cẩn thận là bùa hộ thân. Vì thế, thận trọng trong mọi việc thì chuyện lo buồn không có thể xảy ra.

Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn

Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CẤP NHƯ LUẬT LỊNH 

Cấp như luật lịnh có nghĩa là gấp theo mệnh lịnh, là một câu văn mà ngày xưa thường đặt sau cùng những tờ công văn khẩn cấp của đời nhà Hán.

Những câu chú của các vị đạo gia hay các pháp sư, cuối câu cũng đều có câu: Cấp cấp như luật lịnh.

Tôn sư lại niệm chú linh,

Cấp như luật lịnh âm binh đứng hầu.

(Dương Từ Hà Mậu).



CẬP KÊ 

Cập: Đến. : Cài trâm.

Cập kê là đến tuổi cài trâm. Tục lệ ta ngày xưa con gái đến mười lăm tuổi là làm lễ cài trâm, tức gần đến tuổi lấy chồng.

Kinh Lễ viết: Nữ tử thập hữu ngũ niên nhi kê  , con gái 15 tuổi thì cài trâm.

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

(Truyện Kiều).



CẬP QUA 

Đến kỳ dưa chín, những viên lính thú được thay thế người khác, gọi là cập qua.

Do sách Tả Truyện chép: Liên Xứng và Quản Chí được Tề hầu phái đi canh phòng ở biên giới Quỳ Châu. Hai người thay phiên nhau, hễ tới mùa dưa chín thì người nầy thế người kia, gọi là “cập qua nhi đại , có nghĩa tới mùa dưa thì thay thế cho nhau.

Tóm lại, thay thế cho nhau thì gọi là “Cập qua” hay “Qua đại”



CẤT GIÓ

Tức là cất bước đi nhanh như gió hay bắt đầu đi nhanh như gió, chỉ sự đi mau lẹ.



Kíp truyền sắm sửa lễ công,

Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao.

(Truyện Kiều).



CẤT VẠC

Vạc là cái đỉnh có ba chân, thường đúc bằng đồng, có hình to lớn và rất nặng.

Cất vạc do chữ “Cử đỉnh  ”tức là đưa cao cái đỉnh, dùng để nói người sức mạnh phi thường, có thể cất nổi vạc ngàn cân.

CÂU ẢNH 

Bóng câu ngựa.

Do câu nói của Tống Thái Tổ cho rằng đời người qua nhanh như bóng của ngựa câu trắng chạy vụt qua khe cửa: “Nhân sinh nhất thế gian như bạch câu quá khích  ”.

Xem : “Bạch câu quá khích”.



Trăm năm thấm thoát thân câu ảnh.

(Cổ Thi).



CÂU DẦM

Câu dầm tức là móc mồi buông câu, thả ngâm dầm mồi câu dưới nước, chờ cá cắn câu, ý nói làm việc kéo dài, lê thê.



Một mình thong thả làm ăn,

Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.

(Lục Vân Tiên).



CÂU KINH TIẾNG KỆ

Kinh : Là nền tảng của một triết thuyết hay giáo lý một Tôn giáo. Ví dụ như: Ngũ kinh trong Nho giáo, Đạo Đức kinh trong Lão giáo, Tam Tạng kinh trong Phật giáo và Kinh Thánh của Công giáo.

Kệ : Những bài thơ ngắn hay dài để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một đoạn kinh, hoặc để ca ngợi công đức Phật, hoặc để cầu nguyện, hoặc là một bài dùng để kệ chuông, kệ trống…

Câu kinh tiếng kệ là tiếng kinh và câu kệ trong thời công phu vang lên.



Câu kinh tiếng kệ gọi hồn,

Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÂU KÝ VÃNG

 
: Đã. Vãng : Qua. Ký vãng là việc đã qua.

Câu ký vãng là những câu thơ, câu hát đã qua rồi.



Tỉnh giấc mộng ngâm câu ký vãng,

Trải tám thu ngày tháng như thoi.

(Tự Tình Khúc).



CÂU TÍCH KIM

Câu “Tích kim  ” là chứa vàng, để vàng lại.

Do trong sách Gia Huấn của Tư Mã Ôn Công có nói: Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ; tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng đọc; bất như tích âm đức minh minh chi trung, dĩ vi tử tôn truờng cửu chi kế  , ; , ; , , nghĩa là chứa vàng để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đã giữ được; chứa sách để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đã học được; Cách để lại cho con cháu lâu dài không gì bằng chứa âm đức ở trong chỗ minh minh. Xem: Chứa vàng để lại cho con.

Câu tích kim lời đã đáng lời,

Cơ nan thủ phép Trời đã định.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÂU TIỄN 

Vua nước Việt đời Đông Châu.

Phụ thân của Việt vương Câu Tiễn thường bị vua nước Ngô là Hạp Lư đánh bại. Câu Tiễn rửa nhục cho cha, bằng cách đánh thắng được Ngô Hạp Lư. Con của Hạp Lư là Ngô Phù Sai trả thù cho cha, bắt Câu Tiễn cầm tù ở Thạch Thất để chăn ngựa cho vua Ngô. Nhờ lo lót và giả ngu khờ để nếm phẩn của vua Ngô, nên Phù Sai không nghi ngờ mà tha cho Câu Tiễn về nước.

Nhớ mối thù xưa, Câu Tiễn miệng thường nếm mật đắng, thân thường nằm trên gai (Ngoạ tân thường đảm) để nhắc nhở mối hận ở Cối Kê, mà cố gắng chiêu binh mãi mã, tích thảo đồn lương hầu sau đó đánh thắng được vua Ngô Phù Sai, báo được mối hận.



Câu Tiễn trước nào còn Việt,

Tấn Vương xưa cũng sang Tần.

(Khuyên Trung Nghĩa).



Nền nhân Câu Tiển đà chen bước,

Cửa ải Phù Ta đã bước vào.

(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).



CÂU THƠ TANG TỬ

Tang tử là cây dâu và cây thị.

Do trong Kinh Thi có câu: Duy tang dữ tử tất cung kính chi  , nghĩa là phải cung kính nơi trồng cây dâu cây thị.

Bởi vì cây dâu cây thị do cha mẹ trồng nên phải cung kính.

Câu thơ tang tử dùng để chỉ làng xóm, quê hương, chỗ cha mẹ ở.

Cành mai chếch mác càng thương,

Câu thơ tang tử giữa đường càng đau.

(Tự Tình Khúc).



CẦU ĐẢO 

Cầu: Xin, mong. Đảo: Cúng tế để cầu xin.

Cầu đảo là bày lễ cúng tế để cầu xin các Đấng Thiêng Liêng một điều gì.

Tương truyền, Đức Khổng Tử bị đau nặng, học trò là Tử Lộ xin Thầy bày lễ cầu nguyện để mau được khỏi bệnh. Ngài nói rằng: Khâu chi đảo cửu hỹ  , nghĩa là Khâu này cầu nguyện đã lâu rồi. Ý Ngài muốn nói chung thân Ngài làm điều nhơn nghĩa, như vậy lúc nào Ngài cũng cầu xin rồi vậy. Theo Ngài, nếu ai bất nhân bất nghĩa, làm điều trái đạo, mắc tội với Trời, dù có cầu xin cũng không ích gì: Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo dã  , : Phải tội với Trời còn cầu xin vào đâu được.

Dầu nghiệt chướng số căn quả báo,

Đừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.

(Kinh Tận Độ).



CẦU HOÀNG 

Bởi chữ “Phụng Cầu hoàng  .



Cầu: Tìm kiếm. Hoàng: Chim phượng mái.

Phụng Cầu Hoàng có nghĩa là chim phượng trống tìm chim phượng mái, đó là tên một bản đàn, còn gọi là “Phụng Cầu Kỳ Hoàng”.

Bản đàn này do Tư Mã Tương Như đời nhà Hán, gãy để ghẹo nàng Trác Văn Quân. Trác Văn Quân nghe khúc đàn này mê, bèn theo Tương Như, rồi hai bên lấy nhau.

Duyên này mà đã dở dang,

Còn nên gảy khúc Cầu hoàng nữa sao?

(Quan Âm Thị Kính).



Cầu hoàng tay tựa nên vần,

Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CẦU HỒNG

Bởi chữ “Hồng kiều  ” là cái cầu sắc đỏ giăng như cái mống, tức cái cầu vồng mọc ngang bầu trời.

Người ta thường ví chiếc cầu bắc ngang qua sông như cái cầu vồng vắt ngang bên trời.

Cầu hồng dậm tiếng dầy tợ sấm,

xô bồ dưới nguyệt gót kim liên.

(Tần Cung Nữ).



CẦU LAM

Cầu Lam là một cây cầu bắc ngang sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.

Đời nhà Đường có Bùi Hàng thi hỏng, trở về nhà tình cờ gặp phu nhân Vân Kiều tặng cho bài thơ trong đó cho biết có duyên cùng Vân Anh. Hôm sau, Bùi Hàng bèn đi tìm, ngang qua một cây cầu tên là Lam Kiều, rồi vào một quán gặp nàng Vân Anh. Sau hai người kết duyên với nhau.

Nghĩa bóng: Nơi gặp duyên nợ.

Xem: “Lam Kiều.

Cầu Lam từ tỏ lối tìm,

Nhẫng nay chừng đã đầu thềm nửa sương.

(Hoa Tiên Truyện).



Chày sương chưa nện cầu Lam,

Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?

(Truyện Kiều).



Lỡ lối cũ động đào lạc bước,

Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦU LAM CHƯỞNG NGỌC

Cầu Lam: Tức Lam kiều, nơi Bùi Hàng gặp được Vân Anh. Chưởng ngọc 
: Cầm cây chày ngọc.

Cầu Lam chưởng ngọc tức là nơi Lam kiều, Bùi Hàng lấy chày ngọc giã thuốc trường sanh để được kết duyên cùng nàng Vân Anh.

Xem: Bùi Hàng.

Nào khi đến cầu Lam chưởng ngọc,

Nào khi lo giã thuốc trường sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦU LỢI MUA DANH

Cầu lợi: Tìm cầu lợi lộc. Mua danh: Kiếm chác hư danh. Đồng nghĩa với câu “Mua danh chác lợi”.

Cầu lợi mua danh là nói người chạy theo danh lợi.



Dầu trong cơn cầu lợi 
mua danh,

Cũng chớ khá đua tranh hao kém của.

(Phương Tu Đại Đạo).



CẦU MỴ GIẾT CON

Bởi chữ “Sát tử mỵ quân  ”.

Dịch Nha là người đầu bếp giỏi của vua Tề Hoàn Công đời Chiến Quốc. Vua bảo với Dịch Nha: Các giống điểu thú trùng ngư ta ăn gần đủ mùi, duy chỉ thịt người thì chưa biết vị nó thế nào?

Dịch Nha muốn cầu mỵ với vua, về giết đứa con đầu lòng nên ba tuổi, làm món ăn dâng vua. Tề Hoàn Công ăn ngon, hỏi ra mới biết, cho là Dịch Nha thương mình, có ý tin dùng.

Do vậy, người đời sau mới nói: Sát tử mỵ quân, Tề Dịch Nha chi nhân tâm hề tại?  , ? Nghĩa là giết con mỵ vua, lòng người của tên Tề Dịch Nha ở đâu?

Sau Dịch Nha mưu phản, bỏ vua Tề Hoàn Công ở hầm đá hơn nửa tháng, đói khát mà chết.



Ghét đứa cầu mỵ mà giết con,

Ghét đứa tham sang mà hại vợ.

(Sãi Vãi).



CẦU NẠI HÀ

Bởi chữ “Nại Hà kiều  ”.

Theo Phật giáo và Kinh Sám Hối của đạo Cao Đài, ở cõi Âm phủ có con sông lớn, gọi là Nại Hà, trong ấy có các loại thủy tộc như rắn, cua, kình rất dữ tợn. Trên sông có bắc một cây cầu, gọi là cầu Nại Hà, Tội nhơn đến đó không thể nào qua sông đặng, chỉ những người có đầy đủ phước đức mới đi qua cầu Nại Hà được, còn những kẻ hung dữ đều bị té nhào xuống sông để cho cua kình rỉa thây.

Xem: Nại Hà kiều.



Gặp phải lúc đi đường lỡ bước,

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau.

(Thập Loại Chúng Sinh).



Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,

Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.

(Sám Hối Kinh)



CẦU Ô

Bởi chữ “Ô kiều  ” hay “Thước kiều  ”, tức là cầu do chim ô thước bắc qua sông Ngân Hà để Chức Nữ sang gặp Ngưu Lang trong đêm thất tịch (Mồng bảy tháng bảy). Tương truyền, vào tháng bảy đầu chim ô thước bị trụi cả lông, nên người ta cho rằng vì đội làm cầu cho Chức nữ.



Sầu vừa ngớt, ngớt lại sầu,

Sông Ngân thử bắc lấy cầu ô xem.

(Truyện Phan Trần).



Bao giờ bắc lại cầu ô,

Mà cho ả Chức chàng Ngưu tới gần?

(Bần Nữ Thán).



Nào khi hỏi thăm hang Từ Thức,

Nào khi dò mấy bực cầu ô.

(Nữ Trung Tùng Phận).

CẦU Ô THƯỚC

Cầu do chim ô và chim thước bắc cho Ngưu Lang và Chức Nữ bị Trời đày phải xa cách hai bên sông Ngân, qua lại gặp nhau trong đêm thất tịch (Tức mùng 7 tháng 7

Xem: Ngưu Lang Chức Nữ.

Sông Ngân chưa bắc cầu Ô Thước,

Phận liễu còn e trận gió mưa.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



CẦU PHONG 

Cầu: Xin giúp. Phong: Gió. Cầu phong là cầu xin gió nổi lên. Cầu phong là cầu gió đông.

Do tích Châu Du nhà Ngô hợp tác với Khổng Minh, dùng kế hoả công phá binh Tào Tháo. Nhưng nhằm lúc mùa đông không có gió chướng (Gió hướng đông). Gia Cát Lượng bèn lãnh việc “Cầu gió đông”.

Khổng Minh lên đàn khấn tế vừa xong, thì gió chướng bắt đầu thổi, nhờ vậy Châu Du mới phá được binh Tào Tháo.

Xem: Tế đông phong.



Kíp truyền hiệu lệnh đồn binh,

Đăng đàn bái tướng ra thành cầu phong.

(Lưu Nữ Tướng).



Ai cầu phong! Mà gió tự đâu sang?

Hay mỏi khách văn chương tìm kết bạn.

(Thơ Tản Đà).



CẦU SĨ MẠC CẦU TOÀN 

Cầu kẻ sĩ chớ nên cầu người thật hoàn toàn.

Do câu: Cầu sĩ mạc cầu toàn, vô dĩ nhị noãn khí can thành chi tướng; Dụng nhân như dụng mộc, vô dĩ thốn hủ khí liên bão chi tài  , , , , nghĩa là tìm kẻ sĩ chớ nên cầu người thật hoàn toàn, đừng vì hai cái trứng, bỏ mất tướng can thành; dùng người như dùng mộc, đừng vì một tấc cây mục, mà bỏ mất khúc gỗ cả ôm.

Sử Ký chép: Thầy Tử Tư tiến cử ông Tuân Biến cho chúa Vệ Hầu: Tài nầy được làm tướng ăn lộc năm trăm thặng. Vệ Hầu nói: Ta biết tài làm tướng của ông ấy. Nhưng tên Biến nầy, có lần làm quan Lại, đánh thuế dân, ăn mất của người hai cái trứng gà, cho nên chớ dùng vậy. Thầy Tử Tư tâu: Xét lại, sự cất nhắc người lên làm quan của bậc Thánh nhân, cũng như sự dùng cây gỗ của người thợ mộc, lấy sở trường của nó, bỏ sở đoản của nó, cho nên cây trắc, cây gỗ cả ôm, có mục vài thước, thợ hay chẳng bỏ. Nay chúa công ở vào thời Chiến Quốc, tuyển chọn người vây cánh, mà vì hai quả trứng, bỏ một tướng can thành, việc nầy không nên đồn ra nước láng giềng vậy!



CẦU TỰ 

Cầu: Xin. Tự: Nối dòng. Cầu tự là cầu xin có con để nối dòng.

Người xưa quan niệm: Bất hiếu hữu tam, Vô hậu vi đại  , , tức là có ba điều bất hiếu, không con nối dõi là tội lớn đối với Tổ tông. Vì vậy, vợ chồng không con thường đi các chùa để cầu tự, tức là cầu xin các Đấng phù hộ cho có con để nối dòng.



Nghe rằng già pháp thần linh,

Quyết lòng cầu tự đinh ninh đến chùa.

(Truyện Trinh Thử).



CẦU THĂNG TIÊN

Cầu Thăng Tiên là nơi Trang Khanh, tức Tư Mã Tương Như, lúc còn hàn vi đi vào đất Thục, qua cây cầu ấy có đề vào cột cầu rằng hễ không được ngồi vào xe cao đi bốn ngựa thì không qua lại cầu này.



Lửa Thái Ất đêm soi Lưu Hướng,

Cầu Thăng Tiên ngày tưởng Tràng Khanh.

(Tự Tình Khúc).



CẦU THƯỚC

Bởi chữ “Thước kiều  ”, tức là cầu ô thước, một cái cầu do chim quạ bắc ngang sông Ngân Hà để vợ chồng Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau vào đêm thất tịch, mồng 7 tháng 7 hằng năm.

Xem: Thước kiều.

Trướng loan lạnh lẽo hồn hồ vẩn,

Cầu thước bơ vơ chiếc nhạn bay.

(Truyện Vương Tường).



CẦU XANH

Tức là cầu Lam, một cây cầu bắc ngang sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.

Đời nhà Đường có Bùi Hàng gặp nàng Vân Anh tại quán nước bên cầu Lam, bèn kết thành vợ chồng. Sau Hai người đều thành tiên.

Xem: Lam kiều.



Lưng trời nói những đâu đâu,

Những tơ nào thắm, những cầu nào xanh.

(Hoa Tiên Truyện).



CẨU HỢP 

Cẩu: Làm bừa. Hợp: Tụ hợp.

Cẩu hợp là tụ hợp một cách bừa bãi, tạm bợ. Cẩu hợp còn có nghĩa là đôi trai gái lấy nhau không cưới hỏi, tạm bợ.



Cũng còn có lễ lệ bì,

Chê loài cẩu hợp răn bề dâm bôn.

(Truyện Trinh Thử).



Với người chẳng có lễ văn,

Lấy nhau cẩu hợp, thói gần muông chim.

CẨU VĨ TỤC ĐIÊU 

Cẩu vĩ: Đuôi con chó. Tục điêu: Nối vào lông con điêu, một loài vật ở phương bắc, giống như chuột, lông dài sắc vàng hay đen, da làm áo choàng.

Quan chức được phong quá nhiều, lông con điêu không đủ làm mũ cho quan đội, nên ngạn ngữ thời bấy giờ có câu: Điêu bất túc, cẩu vĩ tục  , nghĩa là lông con điêu không đủ thì lấy đuôi chó để thêm vào.

Nghĩa bóng: Lạm phong quan tước, không xứng đáng.

CO ĐẮP CHUNG MỀN

Đắp chung mền tức anh em nằm ngủ đắp chung một cái mền.

Do điển tích trong Hán Thư chép: Khương Quảng cùng hai em là Trọng Hải, Quí Giang rất nên hòa thuận, cùng thương yêu nhau chí thiết. Tuy mỗi người đều có vợ, nhưng tình cảm anh em không đành ngủ riêng, bèn sắm một cái mền to, khi ngủ cùng chung nhau đắp. Do vậy sách Ấu học có câu: “Khương gia đại bị dĩ đồng miên  ” nghĩa là nhà họ Khương sắm mền rộng để anh em cùng nhau đắp chung.

Thương những thuở huyên đường ôm ấp,

Thương những khi co đắp chung mền.

(Kinh Thế Đạo).



CÓ THÂN KHỔ CHO THÂN

Do câu “Hữu thân hữu khổ  ”.

Theo triết lý của nhà Phật, con người sở dĩ bị khổ là vì mang xác thân. Có thân xác nên con người phải chịu đọa cõi trần, phải vất vả vì miếng ăn, phải đớn đau vì thân bịnh.

Gồng gánh hai vai nặng nợ trần,

Có thân âu hẳn khổ cho thân.

(Đạo Sử).



CỎ BIẾC DÂU XANH

Dịch từ chữ “Yên thảo  ” là cỏ Yên và “Tần tang ” là dâu Tần, lấy ở bài Xuân Tứ của Lý Bạch: Yên thảo như bích ty, Tần tang đê lục chi. Đương quân hoài quy nhật, Thị thiếp đoạn trường thì  , . , , nghĩa là Cỏ Yên như sợi tơ biếc, cành dâu Tần sà thấp xuống, chính là lúc chàng nhớ về mà thiếp cũng nhớ chàng đứt từng đoạn ruột trong lúc ấy.



Trông bến Nam, bãi che mặt nước,

Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CỎ BỒ

Tên một loại cỏ như cỏ lác, ngày xưa người ta dùng bọc bánh xe cho êm, gọi là xe bồ luân. Hoặc có người dùng làm gươm, gọi là bồ kiếm, hoặc dùng làm roi thì gọi là bồ tiên.

Theo Hán Thư: Lộ Ôn Thư, tự là Trường Quân, quê ở Cự Lộc, người đời Hán, nhà rất nghèo thuở nhỏ phải đi chăn dê. Ông có tính ham học, không có tiền mua sách, phải kiếm cỏ bồ về bện thành tấm để chép sách học. Nhờ có chí nên ông đỗ Hiếu liêm, làm quan rất có tiếng tăm, về sau được thăng đến chức Thái thú.

Xem: Ôn Thư.



Nhặt lấy cỏ bồ biên thư mà đọc,

Người Ôn Thư chí học mới cao.

(Gia Huấn Ca).



CỎ SÔNG Ô

Tức là cỏ ở Ô Giang, còn gọi là Ngu mỹ nhân thảo, một loại cỏ mà người đời sau vì thương cho Hạng Võ đã tự tận tại bến Ô Giang, nên lấy tên của người thiếp yêu là nàng Ngu Cơ, đặt tên cho loại cỏ nơi đó.

Bài hành Ngu mỹ nhân thảo có câu: Hương hồn dạ trục kiếm quang phi, thanh huyết hoá vi nguyên thượng thảo  , , nghĩa là đêm đến hương hồn đuổi theo ánh sáng của lưỡi gươm bay, máu tươi hoá thành ngọn cỏ trên thảo nguyên.

Buồm mây khói tỏa năm hồ,

Lăm tăm bờ cỏ sông ô khắp đường.

(Hoa Tiên Truyện).



CỎ THI

Cỏ thi là tên một loại cỏ có thân hình tròn, lá nhỏ dài, có bông. Ngày xưa người ta thường dùng cỏ thi để bói quẻ.



Ứng vào rùa với cỏ thi,

Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường.

(Lục Vân Tiên).



CÕI BA NGHÌN

Bởi chữ “Tam thiên thế giới  ”.

Theo Phật, Tiểu thiên thế giới là gộp lại của một nghìn thế giới, Trung thiên thế giới gồm một nghìn Tiểu thiên thế giới, còn Đại thiên thế giới bao gồm một nghìn Trung thiên thế giới. Mỗi Đại thiên thế giới là một Phật độ, có một vị Phật giáo hoá.

Xem: Tam thiên thế giới.



Khắp 
so trong cõi ba nghìn,

Yên hà riêng nửa, lâm tuyền chia đôi.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



CÕI ÂM

Tức là cõi Âm phủ, nơi trở về của hồn người đã chết. Âm phủ còn được hiểu là nơi cửa ngục để giam cầm vong hồn người có tội.



Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

(Thập Loại Chúng Sinh).



CÕI DƯƠNG

Tức là cõi Dương gian, nơi ở của con người còn sống, chỉ cõi thế gian.



Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

(Thập Loại Chúng Sinh).



CÕI ĐÀO NGUYÊN

Tức chỉ cõi tiên.

Bài “Đào hoa nguyên ký  ” của Đào Tiềm, đời nhà Tấn, kể lại một người quê ở Võ Lăng làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà chèo thuyền đi, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động trồng đầy hoa Đào. Trong động ấy, có một nhóm người đang sinh sống, mà trước đây tổ tiên của họ trốn loạn đời nhà Tần, đến đó ở biệt lập hẳn với người đời bên ngoài động đã từ lâu rồi.

Sau người đánh cá trở lại, tìm những chỗ trước đã đánh dấu, nhưng không tìm được lối vào nữa.

Cõi Đào nguyên chỉ cõi tiên ở.

Xem: Đào Nguyên.



Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,

Cõi Đào nguyên cỡi hạc thừa long.

(Kinh Thế Đạo).



CÕI SUỐI LÀNG MÂY

Cõi suối tức là cõi có ngọn suối vàng, cõi của người chết.

Làng mây là làng ở đám mây, do điển xưa, người dân ở đất Hoa Phong chúc vua Nghiêu rằng: Khi bệ hạ thăng hà, hương hồn sẽ theo đám mây trắng mà về với cõi trời. Do vậy, làng mây cũng chỉ cõi người chết.

Cõi suối làng mây là chỉ cõi trở về của hương hồn người chết.



Tiết cho khi lỡ bước giữa dòng,

kiếp đã về cõi suối làng mây,

nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ.

(Trận Vong Tướng Sĩ)



CÕI TĨNH

Bởi chữ “Tĩnh thổ  ” hay “Tịnh thổ  ” là cõi nước thanh tĩnh, trang nghiêm vi diệu, tức chỉ Phật độ hay Phật quốc.

Như vậy, cõi tĩnh tức là cõi Phật.

Cho hay cõi tĩnh ngày dài,

Mấy giây phút đã sự đời trăm năm.

(Truyện Trinh Thử).



Mảnh riêng sinh những bàng hoàng,

Tuy say cõi tĩnh, chưa tan lòng phàm.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CÕI THỌ

Bởi chữ “Thọ vực  ” là chỉ cõi người sống lâu.

Cõi thọ là chỉ cõi có sự sống lâu dài, hay cõi sống của Chơn linh đắc đạo, tức là chỉ cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Xem: Thọ vực đài xuân.



Biển mê cầu ngọc liên phàm tục,

Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

(Kinh Thế Đạo).



Bên màn đòi lúc trêu hồn phách,

Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.

(Đạo Sử).



CÕI THỌ ĐÀI XUÂN

Do câu thành ngữ “Thọ vực xuân đài  ”, tức là chỉ cõi người sống lâu và cảnh tươi đẹp của thời thái bình.

Cõi thọ đài xuân ý muốn nói là đời thái bình thịnh trị.

Dân vui cõi thọ đài xuân,

Sáu mươi năm lẻ, hưu trưng thái bình.

(Hạnh Thục Ca).



CON ĐEN

Bởi chữ “Lê dân  ”, tức là dân đen. Tục thường nói: Phàm người dân, ai cũng đầu đen máu đỏ.

Kinh Thi có nói rằng: Lạc chỉ quân tử, dân chi phụ mẫu  , , nghĩa là vui vẻ hoà thuận thay người quân tử ấy! thiệt đáng làm cha mẹ cho dân. Như thế người dân người ta mới gọi là con dân, còn “Lê dân” tức là con đen.

Tóm lại, “Con đen” là chỉ dân chúng.



Mập mờ đánh lận con đen,

Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?

(Truyện Kiều).



Tuồng chi hoa thải hương thừa,

Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.

(Truyện Kiều).



CON ĐỎ

Trong Kinh Thư có câu: Nhược bảo xích tử  , tức là thương dân như bảo vệ con đỏ. Vì vậy, ngày xưa người ta coi nhân dân như là “Con đỏ”, tức là đứa con mới sinh còn đỏ hỏn, tâm còn hồn nhiên, vô tội gọi là Xích tử chi tâm  .

Xem: Xích tử.

Nước sông vàng lẻo lẻo dòng xanh;

dân con đỏ hây hây nhà rạng.

(Sãi Vãi).



Cờ Thành Thang sao không thấy

phất, bỏ liều con đỏ chông gai;

(Gia Định Thất Thủ Phú).



Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

(Bình Ngô Đại Cáo).



Mình vợ quan đáng phận mẹ cha,

Phải yêu mến trăm nhà như con đỏ.

(Phương Tu Đại Đạo).



CON GIẶC TÔI LOÀN

Bởi chữ “Loạn thần tặc tử  ”, làm bề tôi thì tạo phản loạn, làm người con thì sinh giặc cướp.

Con giặc tôi loàn là nói người bất hiếu bất trung, chỉ làm hại nhà hại nước.

Xem: Tôi loàn con giặc.



Chớ làm con giặc tôi loàn,

Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.

(Kinh Sám Hối).



CON HỒNG CHÁU LẠC

Con Hồng tức con cháu của họ Hồng Bàng. Họ Hồng Bàng gồm 18 đời vua Hùng Vương, làm vua nước Văn Lang. Hùng Vương là tổ của dân tộc Việt`.

Cháu Lạc tức là con cháu của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra một trăm người con, là tổ tiên của dân tộc Việt.

Do vậy, dân tộc Việt Nam được gọi là con Hồng cháu Lạc. Xem: Con Rồng cháu Tiên.



Con Hồng cháu Lạc bao nhiêu,

Thiếu tài khiếm đức, định triều an bang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CON HƯƠU BÁCH NHỊ

Con hươu: Nói việc nhà Tần mất con hươu, thiên hạ cùng đuổi đi bắt, chỉ ngôi vua, hoặc chỉ thiên hạ.

Bách nhị: Chỉ sức mạnh, do câu “Tần đắc bách nhị yên  ”, tức là nhà Tần được sức mạnh, ví với gian sơn hiểm trở.

Con hươu bách nhị là nói nhà Tần mất, anh hùng trong thiên hạ nổi lên đua đánh như săn một con hưu vậy.

Con hưu bách nhị lạc loài đâu,

ba cỏ ủ ê vườn thượng uyển,

Cái én tam thiên ngơ ngẩn đó,

mây mưa bát ngát đỉnh vu phong.

(Tần Cung Nữ).



CON KIÊU

Đứa con tự thị kiêu ngạo.

Do chữ “Kiêu tử  ” trong Hán Thư chép về việc rợ Hung Nô gửi quốc thư cho vua Hán có câu: Nam hữu đại Hán, bắc hữu cường Hồ. Hồ giả thiên chi kiêu tử dã  , . , nghĩa là phương nam có nhà đại Hán, phương bắc có cường Hồ. Hồ ấy là đứa con kiêu ngạo của trời vậy.

Vì vậy, “Con kiêu” hay “Giặc trời” dùng để chỉ rợ Hồ, hay Hung Nô.

Xem: Thiên kiêu.

Rợ Hồ lộng thói con kiêu,

Ruổi mù bụi ngựa, trẩy theo ải nhàn.

(Hoa Tiên Truyện).



CON NGƯỜI TỐI LINH

Con người: Chỉ loài người. Tối linh: Rất linh.

Con người là loài linh hơn các loài vật là bởi vì: Thứ nhứt là bởi vì con người phải qua muôn nghìn kiếp tiến hóa, từ vật chất, thảo mộc, thú cầm, rồi mới chuyển hóa đến nhơn loại. Thứ nhì là vì con người có ba phần hồn: Sanh hồn, giác hồn, linh hồn, mà loài vật chất thấp nhứt kim thạch, là loài vô tri vô giác, kim thạch tiến lên thảo mộc thì có một hồn là sanh hồn, thảo mộc tiến lên thú cầm thì có được hai hồn là sanh hồn, giác hồn, thú cầm tiến lên con người thì có đủ ba hồn: Sanh hồn, giác hồn và linh hồn.

Con người nhờ Sanh hồn mới có được sự sống, Giác hồn mới có cảm giác, biết đau đớn khổ sở và Linh hồn mới khôn ngoan, biết đạo lý, suy xét đủ điều, nên con người đứng vào hàng phẩm tối linh.

Con người đứng phẩm tối linh,

Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi.

(Kinh Tận Độ).



CON QUỐC QUỐC

Tức là con chim đỗ quyên, còn gọi là đỗ vũ, hay tử quy, là một giống chim có tiếng kêu “quốc quốc” nghe thật buồn thảm, nên cũng được gọi là chim quốc quốc.

Do điển tích Thục Đế bị cướp ngôi và chết trong rừng hoá ra chim, ngày đêm nhớ nước kêu rất não nuột, nên người đời gọi là chim quốc.

Xem: Đỗ quyên.



Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

(Thơ Huyện Thanh Quan).



Con quốc quốc chưa âu đổi bạn,

Máu đỗ quyên đợi mãn kiếp sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CON RỒNG CHÁU TIÊN

Do chữ “Long phụ tiên mẫu  ”, tức là cha rồng mẹ tiên.

Do truyền thuyết vua Lạc Long Quân nước ta là thuộc giống con rồng, lấy bà Âu Cơ là con tiên, đẻ được trăm cái trứng nở ra trăm người con trai, là tổ tiên nòi giống của dân tộc ta, nên dân tộc Việt Nam được gọi là “Con rồng cháu tiên”.

Gươm thư giúp sức gươm gươm hùng,

Điểm tô nghiệp cả con rồng cháu tiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CON TẠO

Bởi chữ “Tạo hoá tiểu nhi  ”, tức là trẻ Tạo hoá, hay con Tạo.

Con Tạo dùng chỉ Tạo hoá với nghĩa cuồng phóng, ý nói hay đặt bày cho người đời nhiều điều oái oăm.

Xem: Tạo hoá tiểu nhi.



Cũng liều nhắm mắt đưa chân,

Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!

(Truyện Kiều).



Ừ là trót đã chịu lời!

Thử xem con Tạo chiều người hay không.

(Hoa Tiên Truyện).



Dù chăng con Tạo khắt khe,

Thì chi cánh điệp còn mê với tình.

(Mai Đình Mộng Ký).



CÔ BỒNG 

: Lẻ loi, một mình. Bồng: Mui thuyền, đò, hoặc chỉ chiếc thuyền, đò.

Cô bồng là chỉ chiếc thuyền hay chiếc đò đi một mình trên sông nước lẻ loi.



Lênh đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngênh thuyền giữa biển đông,

Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ.

(Lục Vân Tiên).



Ngó lên trên khúc sông quanh,

Thấy bên vực thẳm có manh cô bồng.

(Dương Từ Hà Mậu).



CÔ CHÚ 

Có nghĩa là có bao nhiêu đem ra đánh hết một lần để quyết định được thua.

Đời nhà Tống rợ Khiết Đan đem quân vào đánh, Khấu Chuẩn rước vua đến Thiện Châu.

Vương Khâm Nhược mới tâu rằng: Bệ hạ có biết trong các sòng bạc, khi đã bị thua nhiều, còn bao nhiêu tiền trong túi người ta dốc ra hết để đánh một trận cuối cùng gọi là “Cô chú” không? Nay Khấu Chuẩn dùng bệ hạ làm “Cô chú” đó.



Phen này may rủi thử xem,

Đã đành cô chú quyết đem đánh vầy.

(Hạnh Thục Ca).



CÔ ĐĂNG 

: Lẻ loi một nình. Đăng: Ngọn đèn.

Cô đăng là ngọn đèn đơn độc, chỉ người ngồi cô đơn bên cạnh ngọn đèn leo lét, lẻ loi.



Chừ sao chong ngon đèn ngồi,

Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÔ HỒN 

: Lẻ loi, mồ côi. Hồn: Phần tinh thần của con người, sau khi chết rời khỏi thể xác vẫn tồn tại mãi.

Cô hồn là hồn của người chết bay vất vưởng, không nơi nương tựa, không có người cúng kính.



Cho hay thành bại là cơ,

Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!

(Thập Loại Chúng Sinh).



Cô hồn nhờ gửi tha phương,

Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.

(Thập Loại Chúng Sinh).



CÔ LẬU 

: Lẻ loi. Lậu: Quê mùa.

Cô lậu là chỉ nơi ở vắng vẻ, quê mùa.



Đã đủ thế sửa đời tốt xấu,

Mà hổ hang cô lậu tại nơi nào.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÔ MIÊN 

: Lẻ loi, một mình. Miên: Ngủ.

Cô miên tức là ngủ một mình, giấc ngủ cô đơn.



Lạnh lùng thay giấc cô miên,

Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CÔ NHI QUẢ PHỤ 

Cô nhi: Đứa trẻ mồ côi. Quả phụ: Đàn bà chồng chết. Cô nhi quả phụ là chỉ nhưng hạng người đơn độc, lẻ loi như những trẻ mồ côi hay những đàn bà goá.

Con là Ai Đế vụng lầm,

Cô nhi quả phụ khôn cầm giang sơn.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



CÔ PHÒNG 

: Một mình. Phòng: Cái buồng.

Cô phòng là sống trơ trọi một mình trong phòng. Thường người ta hay dùng chữ “Cô phòng” tức “Phòng không chiếc bóng” để nói về người đàn bà vắng chồng.



Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ,

Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,

Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.

(Đạo Sử).



CÔ QUẢ 

Bởi chữ “Cô lậu quả văn  ”, tức là người quê mùa, ít nghe thấy, ít hiểu biết.

Cô quả là một tiếng khiêm xưng của các vị vua chúa và các chư hầu thời xưa.

Nghĩa bóng: Kiến văn ít ỏi.



Nghênh ngang một cõi biên thùy,

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!

(Truyện Kiều).



CÔ THÂN 

: Lẻ loi. Thân: Thân mình.

Cô thân là chỉ kẻ cô độc, trơ trọi một mình, hoặc không có thân thế.



Phú hữu thiên gia bất thoát trần,

Vinh thê ấm tử độ cô thân.

(Đạo Sử).



Dầu có của dạy đừng ỷ sức,

Đừng cậy tiền ép bức kẻ cô thân.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÔ TRÚC 

Tên một nước của ngày xưa, chư hầu nhà Ân, nay thuộc tỉnh Trực Lệ của Trung Quốc. Vua Cô Trúc chính là phụ vương của hai vị hiền sĩ là Bá Di, Thúc Tề.

Sau khi nhà Ân bị mất về nhà Châu, cả hai đều không chịu ăn thóc của nhà Châu và lên núi Thú dương hái rau di mà ăn, rồi chết đói ở đấy.

Mặt đất đùn, này thóc, này rau,

dầu ông Cô Trúc,

Mặt nước chảy, nọ dòng, nọ bến,

mặc chí Sào Do.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



CÔ TRUNG 孤忠

: Lẻ loi, một mình. Trung: Ngay với vua, nước.

Cô trung là tấm lòng trung chỉ một mình, mình biết, một mình, mình hay, chứ người ngoài không ai hay biết lòng mình được.



Cờ sứ vẫy cầm một cán không,

Mười thu nghìn dặm tiết cô trung.

(Tô Công Phụng Sứ).



Cô trung quyết giữ lời thề,

Để hồn di thể đi về cho an.

(Tự Tình Khúc).



CỐ CÙNG 

Yên ổn trong cảnh nghèo.

Sách Luận ngữ có câu: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ  , , nghĩa người quân tử yên ổn trong cảnh nghèo, còn kẻ tiểu nhân gặp nghèo thì tham lạm.

Đồng nghĩa với “An bần”.



Nhớ câu: Quân tử cố cùng,

Đèn trăng, gió quạt, non sông phận đành.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

CỐ QUỐC 

Cố: Xưa cũ. Quốc: Nước.

Người đi xa nước nhà đã lâu, thì gọi về nước mình là cố quốc. Mạnh Tử nói: Sở vị cố quốc giả, phi vô kiều mộc chi vị dã, hữu thế thần chi vị dã  , , , nghĩa là bảo rằng nước cũ, chẳng phải có cây cao, có những bề tôi thế từ đời này qua đời khác mới gọi là nước cũ.



Tấc lòng cố quốc tha hương,

Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.

(Truyện Kiều).



Ngại ngùng thay, lúc phân kỳ,

Người về cố quốc, kẻ đi sa trường.

(Nhị Độ Mai).



CỔ ĐỘ 

Cổ: Xưa, cũ. Độ: Bến nước.

Cổ độ là bến nước hay bến đò ngày xưa.



Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,

Quán thu phong đứng rũ tà huy.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Mặt chinh phu khôn vẽ nét 
gian nan,

Lập loè lửa trơi soi chừng cổ độ.

(Trận Vong Tướng Sĩ).



CỔ HY 

Cổ: Xưa. Hy: Ít.

Bởi chữ “Cổ lai hy  ”, nghĩa là xưa nay ít.

Cổ hy chữ dùng để chỉ người 70 tuổi. Thơ Đỗ Phủ có câu: Nhơn sinh thất thập cổ lai hy  , nghĩa là đời người sống 70 tuổi, xưa nay ít.

Nay tiết mừng ông mới bảy mươi,

Cổ hy chưa dễ mấy lăm người.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



CỔ KHÂU 

Cổ: Xưa, cũ. Khâu: Cái gò mả.

Cổ khâu là cái gò mả đã được chôn từ lâu, gò mả xưa cũ.

Xưa có câu thơ: Hiền ngu thiên tải tri thuỳ thị, mãn nhãn bồng cao thổ nhất khâu  , 滿 , nghĩa là người hiền kẻ ngu ngàn năm trước biết ai hay dở, đầy mặt một nắm đất toàn những lau lách.

Trăm năm còn có gì đâu,

Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì!

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,

Ấy nền Đồng tước, hay lầu Nhạc dương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CỔ LOA 

Cổ Loa là một cái thành hình xoắn ốc, là Kinh đô của An Dương Vương Thục Phán, nhờ pháp thuật của thần Kim Quy giúp xây dựng nên. Sau Kim Quy tặng cho Thúc Phán cái móng chân để làm một cái nỏ thần, giúp giữ yên thành trì.



Ðắp lũy Cổ Loa chưa mấy mặt,

Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên.

(Đạo Sử).



CỔ PHÚC 

Cổ: Vỗ. Phúc: Bụng.

Bởi thành ngữ “Cổ phúc hàm bô  ” là vỗ bụng ngậm cơm.

Cổ phúc ý nói cảnh đất nước thái bình, nhân dân no ấm, vừa đi vừa vỗ bụng ca hát.

Xem: Ngậm cơm vỗ bụng.



Đêm đêm cổ phúc nhi du,

Ngày thì kích nhưỡng khang cù vô ngu.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CỔ TẨU 

Cổ Tẩu nghĩa đen là một ông già mù loà, nhưng đây là một danh hiệu mà người đương thời tặng cho cha của vua Thuấn, lấy cớ ông có mắt như mù, bởi vì ông không phân biệt được người thiện kẻ ác, hiếu thảo hay ngỗ nghịch.

Cổ Tẩu tánh độc ác, nghe theo lời vợ kế có ý hại vua Thuấn. Nhưng Thuấn là con chí hiếu, chẳng bao giờ oán giận cha mẹ. Lòng chí hiếu của vua Thuấn đã cảm hoá được cha và mẹ ghẻ.

Tuổi xanh khuất bóng từ vi,

Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Sãi muốn nói chuyện:

“Vi phụ chỉ ư từ” cho vãi hản,

Sãi lại e ông Cổ Tẩu dứt rằng ngây;

(Sãi Vãi).

CỐC LĂNG 

Cốc: Hang sâu. Lăng: Gò lớn.

Cốc lăng tức là hang sâu biến thành gò lớn. Chỉ sự biến thiên của vạn vật, hay nói sự thịnh suy, thay đổi của các triều đại.

Kinh Thi có câu: Cao ngạn vi cốc, thâm cốc vi lăng  , , nghĩa là bờ cao thành hang sâu, hang hốc thành gò núi.

Xem: Hang sâu núi cả.



Cốc lăng trời khéo đổi thay,

Giận riêng bờ cõi từ nầy thuộc Minh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CỐC SÓC 

Cốc (Cáo): Lễ tế trình cho các Đấng Thần Thánh biết. Sóc: Ngày mồng một hằng tháng.

Theo cổ lễ thì cứ đến ngày mồng một mỗi tháng, vua chư hầu giết dê để tế ở Thái miếu và gọi lễ tế đó là lễ Cốc Sóc.

Luận Ngữ chép: Tử Cống dục khứ Cốc Sóc chi khái dương. Tử viếtTứ dã, nhĩ ái kỳ dương, ngã ái kỳ lễ  . : , , nghĩa là Tử Cống muốn bỏ lệ dâng con dê sống trong lễ cốc sóc. Đức Khổng Tử nói: Này Tứ! Ngươi thương con dê chớ ta thích cuộc lễ.

Lễ Cốc sóc thánh nhân còn bảo,

Tử Cống sao dê sống bỏ đi.

(Lục Súc Tranh Công).



CỐC THÀNH 

Núi Cốc Thành ở phía bắc Tế Thuỷ.

Do tích Trương Lưu Hầu gặp một ông già cho cuốn Thái Công binh pháp ở cầu Hạ Bì, có dặn: Mười ba năm nữa sẽ gặp lại ta nơi tảng đá vàng ở chân núi Cốc Thành. Sau Lưu Hầu có theo Cao Đế đi qua Tế Bắc, thấy một tảng đá màu vàng ở chân núi Cốc Thành thật. Ông kính mến tảng đá và cho lập đền thờ. Khi Lưu Hầu mất, cũng được chôn ngay ở dưới tảng đá ấy.

Dĩ hạ Lưu Hầu từ Hán lộc,

Cốc Thành náu ẩn Xích Tùng chơi.

(Hồng Đức Quốc Âm).



CỐI KÊ

Tên đất, thuộc tỉnh Chiết Giang Trung Quốc, là nơi xuất thân của nhà thơ Vương Hy Chi, cũng là một danh sĩ viết chữ đẹp đời nhà Tấn.

Xưa ông Vương Hy Chi cùng mấy bạn thơ tụ họp ở Lan Đình ngâm thơ uống rượu, có làm bài “Lan đình tập tự”. Xưa ông Vương Hy Chi cùng mấy bạn thơ tụ họp ở Lan Đình thuộc huyện Sơn Âm, đất Cối Kê tỉnh Chiết Giang để ngâm thơ uống rượu, có làm bài “Lan đình tập tự”, được người đời sau truyền tụng là “Thiếp Lan Đình”.

Nức mùi hương long hoa một hội,

Giữa ngày lành hoà khách Cối Kê.

(Tứ Thời Khúc Vịnh).



CỖI XUÂN

Như chữ “Chồi Xuân”.

Theo sách Trang Tử thì cây xuân là một thứ cây sống lâu, cứ tám ngàn năm là một mùa xuân, tám ngàn năm là một mùa thu. Lấy chữ xuân để gọi cha là có ý mong cầu cho cha được sống lâu. Như vậy, cỗi xuân dùng để chỉ người cha đã già.

Xem: Xuân đường.



Cỗi Xuân tuổi hạc càng cao,

Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.

(Truyện Kiều).



CỘI ÁI

Cội: Nguồn gốc. Ái: Yêu thương.

Cội ái cùng một nghĩa với “Nguồn nhân”, là chỉ cái nguồn gốc của sự thương yêu.

Xem: Nguồn nhân.

Linh dược đầy bầu là cội ái,

Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CỘI BÁ CỘI TÙNG

Tùng bá là hai loại cây to, sống lâu năm, luôn luôn xanh tốt, chịu được lạnh, cho nên người ta thường trồng nơi các sân chùa, chỗ tu hành.

Cội bá, cội tùng là chỉ cảnh chùa, nơi tu hành.

Cội bá chờ khi về Cực Lạc,

Nhặt bước đường hoa đến cội tùng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CỘI ĐẠO

Cội: Cái gốc, nguồn gốc. Đạo: Nền Tôn giáo.

Cội Đạo là cái gốc của nền Đạo. Cây có thể sinh nhiều nhánh, nhưng chỉ có một gốc, Đạo có thể có nhiều chi, nhưng duy nhứt chỉ một cội mà thôi.



Có hiệp đem đường nẻo mới thông,

Phân chia cội Ðạo uổng vun trồng.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CỘI NGUỒN

Hay “Cỗi nguồn”.

Cội nguồn là cội cây và nguồn nước, chỉ nguồn gốc của mỗi con người.

Xưa nay, cây có cội, nước có nguồn, con người cũng vậy, cũng từ tổ tiên ông bà mà sinh ra.



Sư rằng: Phúc họa đạo trời,

Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.

(Truyện Kiều).



Vật còn biết mến ngày thong thả,

Mình há đâu quên chỗ cội nguồn.

(Đạo Sử).



CỘI NHÀNH

Cội nhành là gốc và nhánh của cây. Ý muốn nói đầu đuôi gốc ngọn. Đồng nghĩa với ngọn nguồn.

Người xưa thường quan niệm người biết đạo lý, tu hành cần phải biết nguồn gốc hay cội nhành, Nho có câu: “Vật hữu bổn mạt, sự hữu chung thủy, tri sở tiền hậu, tắc cận Đạo hỹ  , , , ” nghĩa là vật có gốc ngọn, việc có trước sau, nếu mình biết được gốc ngọn trước sau thì gần Đạo vậy. Câu này có ý dạy chúng ta phải biết nguồn gốc ơn nghĩa để ta lo đền đáp công ơn ấy.

Xưa con không thấu cội nhành,

Vì đường Đạo bế biệt cành hoa rơi.

(Tán Tụng Công Đức).



CỘI PHÚC

Hay “Cỗi phúc”.



Cội: Nguồn gốc. Phúc: Điều hay, điều tốt, điều phúc đức.

Cội phúc là nguồn gốc điều phúc đức. Người tu hành tạo âm chất làm cái nhân, hay nói cách khác làm cái cội gốc để hưởng cái quả lành về sau.



Có trời thì cũng có ta,

Tu là cội phúc tình là dây oan.

(Truyện Kiều).



Ðường tu ví sớm noi gương rạng,

Cội phúc mai sau hưởng quả lành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CỘI TỬ

Tử tức là cây thị. Cội tử là cội cây thị.

Do trong Kinh Thi có câu: Duy tang dữ tử, tất cung kính chi  , , nghĩa là nơi có cây dâu và cây tử, tất phải cung kính. Bởi vì cây dâu và cây thị này do cha mẹ trồng, nay cha mẹ qua đời, thấy nó thì cung kính và tưởng nhớ đến cha mẹ.

Phép xưa tùng phụ đã rằng,

Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CỘI THUNG

Hay “Cội xuân” là một loại cây theo Trang Tử sống rất lâu, người ta thường ví với ông cha để mong được nhiều tuổi thọ.

Xem: Cỗi xuân.

Cội thung thấy càng cao tuổi hạc,

Nhớ liễu mai chếch mác mà đau.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÔN BẰNG 

Côn: Tên một thứ cá to ở biển. Sách Trang Tử viết: Biển bắc có loại cá tên gọi là Côn. Cá Côn lớn không biết mấy nghìn dặm, hoá thành chim, tên gọi là Bằng. Bằng: Chim đại bàng, một loại chim rất lớn.

Côn bằng dùng để nói những vật to lớn, hay ví với những người có chí lớn.



Cùng vào vâng mệnh năm mây,

Côn bằng phỉ sức, rồng mây phải thì.

(Truyện Phan Trần).



Ruổi dặm dài quyết chí Côn bằng,

Giúp đời trị mừng điềm lân phượng.

(Thập Giới Cô Hồn).



CÔN QUANG 

Côn: Gậy gộc. Quang: Trần trụi.

Côn quang chỉ bọn người thuộc hạng vô lại, đầu trộm đuôi cướp, hay côn đồ, không nơi nương tựa, chuyên cầm gậy gộc để người sai khiến.



Sửa sang buồm gió lèo mây,

Khuyển ưng lại chọn một bầy côn quang.

(Truyện Kiều).



Trời hôm xế bóng tà tà,

Côn quang đâu bỗng gặp ba bốn người.

(Nhị Độ Mai).



CÔN QUYỀN 

Côn: Gậy. Quyền: Nắm tay lại.

Côn quyền là những môn võ đánh bằng côn, gậy hay bằng tay không. Chỉ người có võ nghệ.



Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

(Truyện Kiều).



CÔNG BÌNH 

Công: Không thiên vị. Bình: Bình đẳng, tức đồng đều nhau.

Công bình là nói người có tính ngay thẳng, không thiên vị một bên nào.



Vạn linh đã hiệp Chí Linh,

Hội xong cậy sức công bình Thiêng Liêng.

(Kinh Thế Đạo).



Cho hay Trời Phật chí công bình,

Trước mắt ai ngờ thấy phép linh

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Chánh trực kinh oai loài giả dối,

Công bình vùa sức kẻ chơn thành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Nét trang nghiêm giữ tánh công bình,

Mỗi đều xử phân minh quấy phải.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÔNG CÔ 

Công: Cha chồng. : Mẹ chồng hay mẹ vợ.

Công cô là tiếng dùng để chỉ cha mẹ của chồng hay cha mẹ của vợ.



Công cô rằng: Bảo cho hay,

Trộm hương cắp phấn cũng đầy chan chan.

(Quan Âm Thị Kính).



Đừng có cậy giàu sang chẳng nể,

Không kiêng chồng khi dể công cô.

(Kinh Sám Hối).



Giữ công cô trọn phận dâu con,

Đừng để đến hao mòn thân thể.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÔNG DANH 

Công: Hiệu quả của việc. Danh: Có tiếng tăm.

Công danh là có tiếng tăm do kết quả của sự nghiệp tạo ra.



Áng công danh trăm đường rộn rã,

Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Đường công danh càng nhìn quảng đại,

Nghĩa thầy trò nghĩ lại khó quên.

(Kinh Thế Đạo).



Thương hải tang điền xem lắm lúc,

Công danh phú quý nhắm trò chơi.

(Đạo Sử).



CÔNG DUNG NGÔN ĐỨC 

Công dung ngôn đức là bốn điều hạnh đức, gọi là “Tứ đức  ”của người phụ nữ ngày xưa. Đó là Công, dung, ngôn, đức (Cũng có nghĩa là hạnh).

Xem: Công dung ngôn hạnh.

Rồi ra tập nết tập nghề,

Công dung ngôn đức, bốn bề đều xong.

(Huấn Nữ Ca).



CÔNG DUNG NGÔN HẠNH 

Công: Công việc của phụ nữ. Dung: Diện mạo và vóc dáng. Ngôn: Lời nói. Hạnh (Hay đức): Nết na.

Công dung ngôn hạnh tức là bốn nết hạnh, gọi là “Tứ đức  ” của người phụ nữ ngày xưa.



Cũng hay nữ hạnh nữ công,

Nữ ngôn cũng lịch nữ dung cũng màu.

(Bần Nữ Thán).



CÔNG HẦU 

Hai trong năm tước phẩm quan của triều đình thời phong kiến.

Công hầu dùng để chỉ những người có quan chức lớn trong triều đình gồm có năm tước theo thứ tự như sau: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.

Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,

Khách công hầu ngấp nghé mong sao.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Làm người ở ẩn khôn cầu,

Gió trăng vui thú, công hầu mặc ai.

(Dương Từ Hà Mậu).



Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,

Công hầu vương bá dám đâu hơn.

(Đạo Sử).



CÔNG HẦU KHANH TƯỚNG 

Công hầu là hai trong năm chức quan lớn trong triều đình: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.

Khanh tướng chỉ chung hàng quan lớn nắm quyền hành trong triều đình, giúp vua cai trị nhân dân.

Công hầu khanh tướng chỉ chung các quan lớn trong triều đình thời xưa.



Ai công hầu, ai khanh tướng,

Trong trần ai, ai dễ biết ai?

(Đặng Trần Thường).



Cuộc đời xem tựa chiêm bao,

Công hầu khanh tướng xôn xao trong vòng.

(Nhân Nguyệt Vấn Đáp).



CÔNG KHANH 

Công khanh là “Tam công cửu khanh  ”.

Ngày xưa vào đời nhà Châu ở Trung Quốc, chế độ quan chức có “Tam công cửu khanh”.

Tam công gồm: Thái sư, Thái phó, Thái bảo.

Cửu khanh gồm: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Trung tể, Tư đồ, Tôn bá, Tư mã, Tư khấu, Tư không.

Từ công khanh là tiếng chung dùng để gọi người có chức vị cao.



Mồi phú quí dữ làng xa mã,

Bã vinh hoa lừa gã công khanh.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Chẳng thèm ra áng công khanh,

Mà đem thân thế làm hình dịch chi.

(Quan Âm Thị Kính).



Mấy nơi lệnh tộc công khanh,

Lá hồng xuôi ngược sử xanh dập dìu.

(Lưu Nữ Tướng).



Ðường trào hạ thế hưởng 
tam quan,

Chẳng vị công khanh chỉ hưởng nhàn.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,

Bồng Lai vui Ðạo hưởng an nhàn.

(Đạo Sử).



CÔNG LAO SANH DƯỠNG

Công lao: Chỉ đem hết sức vào công việc. Sanh dưỡng: Sanh thành dưỡng dục.

Công lao sanh dưỡng là nói sự vất vả, đau đớn và cực nhọc của cha mẹ trong việc sanh thành nuôi dưỡng con cái.



Công lao sanh dưỡng nặng nề thay,

Ruộng biển, cao non chẳng sánh tày.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÔNG MÔN 

Ngày xưa chữ công môn dùng để chỉ cửa của nhà vua. Trong Luận ngữ có câu: Nhập công môn cúc cung dã  , nghĩa là vào công môn phải cúi mình khúm núm vậy.

Sau chữ công môn được dùng để chỉ nơi làm việc quan, và hiện nay công môn dùng chỉ cơ quan làm việc.

Gặp việc nói lòng đừng ái ngại,

Giữa công môn phải trái cứ phân lời.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÔNG NGHIỆP 

Công: Nỗi vất vả làm việc. Nghiệp: Sự nghiệp.

Công nghiệp là công lao và sự nghiệp.



Chớ lo dây đỏ vấn chưn,

Lo công nghiệp buổi thanh xuân cho tròn.

(Dương Từ Hà Mậu).



Vả anh công nghiệp lớn dầy,

Trào đình xem tợ chưn tay dạ lòng.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Ðộ chúng cứu đời công nghiệp để,

Thiên ân hưởng trọn khá lo lường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Triệu triệu nam nhi một gánh đời,

Chưa rồi công nghiệp đã mòn hơi.

(Đạo Sử).



CÔNG PHU 

Công: Kết quả sự làm việc. Phu: Một người, làm việc vất vả.

1.- Công phu tức công sức của một người đem ra làm thành tựu sự việc. Công phu còn có nghĩa chỉ khoảng thời gian để hoàn thành một công việc.



Nghề chơi cũng lắm công phu,

Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.

(Truyện Kiều).



Việc lành chẳng khá bỏ qua,

Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.

(Kinh Sám Hối).



Rồi chưa Nhơn đạo đến cầu tu,

Tu ấy nặng nề lắm công phu.

(Đạo Sử).

2.- Công phu còn có nghĩa chỉ khoảng thời gian để hoàn thành một công việc.

Người đời như bóng phù du,

Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng.

(Lục Vân Tiên).

3.- Theo Phật giáo, công phu là một trong Tam công: Công phu, công quả, công trình.

Sớm hôm chuông mõ công phu,

Tụng kinh niệm kệ ở Phù Đồ Sa.

(Dương Từ Hà Mậu).



Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,

Sớm công phu, tối tụng Vãng sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÔNG QUẢ 

Công quả là cái kết quả tốt đẹp được hưởng, khi làm những việc thiện, lành để giúp đỡ cho đời hoặc đạo.

Theo luật tự nhiên, hễ có công thì ắt phải có quả. Người nào giúp đỡ kẻ tàn tật, người nghèo khổ hoặc đến Chùa Thất làm công việc tự nguyện. Đó là công việc mang lại kết quả tốt cho mình, cho người, nên được gọi là công quả.

Dắt hồn đến chốn Âm ty,

Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.

(Kinh Sám Hối).



Muôn đức ngàn lành không sót một

Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,

Nợ trần bước tục phải đua chen.

(Đạo Sử).



CÔNG TOẠI DANH THÀNH 

Công: Kết quả. Toại: Thoả lòng. Danh: Tiếng tăm. Thành: Nên.

Công toại danh thành, đồng nghĩa với thành ngữ “Công thành danh toại”, chỉ công nghiệp được thành tựu, và có tiếng tăm.

Xem: Công thành danh toại.

Những lăm công toại danh thành.

Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.

(Lục Vân Tiên).



CÔNG TÔN SÁCH

Tức là “Công Tôn Hoằng  ”.

Công Tôn Hoằng, tự Quý Tề, đỗ đầu đối sách đời Hán Võ Đế, làm quan đến chức Thừa tướng nhà Hán, sau được phong đến chức Tam Công. Làm quan to trong triều, lại hưởng nhiều bỗng lộc, nhưng Hoằng thường làm ra vẻ nghèo nàn, như quần áo ông mặc toàn bằng vải sồ, vì thế người đương thời cho ông là người thiếu thành thật.

Tài cao hơn nữa Công Tôn Sách,

Sự thịnh còn truyền Nịnh Thích ca.

(Thập Giới Cô Hồn).



CÔNG THÀNH DANH TOẠI 

Công thành: Công phu đã được kết quả. Danh toại: Danh tiếng đã được thỏa lòng.

Công thành danh toại tức là công phu đã được thành tựu, tiếng tăm đã toại nguyện.



Từ rằng: Xưa sách còn khen,

Công thành danh toại, ai bèn chi ai?

(Dương Từ Hà Mậu).



CÔNG THỰ 

Công: Chung. Thự: Nơi làm việc công.

Công thự là phòng làm việc của các quan lại.



Vườn sau trúc thạch sẵn sàng,

Liền công thự đó, là tường Tiền nha.

(Hoa Tiên Truyện).



CÔNG TRÌNH 

Công trình là một trong Tam công của người tu tập: Công phu, công quả, công trình.

Công trình là việc lập hạnh của người tu, bao gồm việc giữ giới luật như ăn chay, giữ Ngũ giới cấm, Tứ đại điều quy, Tân luật, Pháp Chánh Truyền …

Việc lập hạnh yêu cầu người tu phải có hùng tâm, tức có ý chí mạnh mẽ mới chiến thắng nổi những sự ham muốn, thèm khát của thể xác, do thất tình, lục dục xúi giục gây ra.



Trời lo đâu nệ nhọc công trình,

Nhọc sức vì thương đám chúng sanh.

(Đạo Sử).



CỐNG HỒ 

Cống: Dâng biếu. Hồ: Tiếng dùng để chỉ các dân tộc phương bắc Trung Quốc.

Cống Hồ tức là đem phẩm vật hay người đẹp dâng nạp cho bộ tộc Hồ.



Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,

Bởi ngươi Diên Thọ họa đồ gây nên.

(Lục Vân Tiên).



Chiêu Quân chịu giã từ đất Hớn,

Thân cống Hồ ngất ngưởng tha bang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CỐNG SĨ 

Cống: Tiến cử. : Học trò.

Cống sĩ là học trò được tiến cử về triều đình.

Ngày xưa tại Trung quốc, vào thời nhà Châu, có lệ ba năm các chư hầu cống sĩ về triều đình, tức là chọn lựa kẻ sĩ đem về dâng lên cho Thiên Tử.

Tình từ động đến thần lưu,

Chiếu cho cống sĩ bổ châu huyện ngoài.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CỐT CÁCH 骨格

Cốt: Xương. Cách: Hình dáng.

Cốt cách tức chỉ về hình tướng, dáng dấp của một con người.



Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

(Truyện Kiều).



Tóc râu đều bạc phơ phơ,

Hình dung, cốt cách nhởn nhơ ai bì.

(Dương Từ Hà Mậu).



Mày tằm, mắt phụng, môi son,

Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.

(Lục Vân Tiên).



Mai là cốt cách liễu tinh thần,

Thi thiệt hồn mai tuyết ấy trần.

(Đạo Sử).



CỐT NHỤC 

Cốt: Xương. Nhục: Thịt.

Cốt nhục là xương thịt. Xương đỡ lấy thịt, thịt bọc lấy xương, cả hai gắn bó nhau để tạo thành hình thể con người. Ý chỉ tình thâm của ruột thịt.

Nghĩa bóng: Chỉ mối tình hết sức thân thiết nhau, như xương dính với thịt.

Trong sách Lã Thị Xuân Thu có nói cha mẹ đối với con, con đối với cha mẹ là tình thâm cốt nhục.



Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,

Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao?

(Truyện Kiều).



Thương vợ cũng đồng em út vậy,

Một bên cốt nhục nọ tình thâm.

(Đạo Sử).



Phải so đo tình trọng của khinh,

Đừng vị của không nhìn tình cốt nhục.

(Phương Tu Đại Đạo).

CỐT NHỤC ĐỒNG BÀO 

Cốt nhục: Xương và thịt. Chỉ anh em ruột thịt với nhau, tức cùng cha cùng mẹ. Đồng bào: Cùng một bọc sinh ra. Chỉ con cùng một cha một mẹ.

Cốt nhục đồng bào tức chỉ anh em ruột thịt.



Rẽ phân cốt nhục đồng bào,

Cảnh Thiên cõi tục lẽ nào không thương

(Kinh Thế Đạo).



CỐT NHỤC TỬ SINH 

Cốt nhục: Xương thịt. Tử sinh: Sống chết.

Cốt nhục tử sinh có nghĩa là xương đã tàn rồi mà còn sinh ra thịt, người đã chết rồi mà làm sống trở lại, dùng để chỉ việc cứu người sắp chết mà làm cho sống lại, gọi là ơn cứu tử.

Trong Tả Truyện chép lời nói của Tử Phùng: Ngô kiến Thân Thúc phu tử sở vị sinh tử nhi cốt nhục dã  , nghĩa là ta xem Thân Thúc phu tử như là người đã làm sống lại kẻ đã chết, làm ra thịt non ở xương đã rụi. Ý nói đã chết rồi được người cứu sống lại, xương đã tàn rồi được làm cho ra thịt non, tức là nói ơn cứu tử.

Nghĩa bóng: Người có ơn to cứu chết.



Dám nhờ cốt nhục tử sinh

Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau!

(Truyện Kiều).



CỐT NHỤC TƯƠNG TÀN 

Cốt nhục: Xương thịt. Tương tàn: Tàn hại lẫn nhau. Cốt nhục tương tàn là xương thịt hại nhau.

Xương và thịt là hai thứ tạo nên cơ thể con người, cần gắn bó nhau, thế mà cả hai lại đối chọi nhau chẳng khác gì anh em tàn sát lẫn nhau.



Có phen cốt nhục tương tàn,

Ban ngày sao mọc, rỡ ràng hơn đêm.

(Hoài Nam Khúc).



CƠ BÚT 

Cơ bút là dụng cụ dùng để thông công với các Đấng vô hình.

Cơ bút còn có nghĩa là phò cơ chấp bút. Phò cơ là ngồi cầu các Đấng Thiêng liêng giáng điển làm chuyển động ngọc cơ để viết ra chữ. Phò cơ thì cần phải hai vị đồng tử. Còn chấp bút thì chỉ có một vị đồng tử ngồi trước bàn viết, các Đấng Thiêng liêng giáng điển xuống tay cầm bút của vị đồng tử mà viết ra chữ.

Dùng huyền diệu Tiên gia cơ bút,

Lập chơn truyền quy phục ngũ chi.

(Thi Giải).



CƠ CẦU 

Hay “Cơ cừu”.



: Thúng. Cầu (Cừu): Áo cầu. Cơ cầu hay cơ cừu là con cháu theo nghề nghiệp của ông cha để lại.

Kinh Lễ có câu: “Lương cung chi tử tất học vi cơ, lương dạ chi tử tất học vi cầu , , nghĩa là con nhà thợ làm cung giỏi, con không khéo nghề nghiệp bằng cha, nhưng cũng học được cách uốn tre để làm nên vành thúng, con nhà thợ hàn giỏi, tuy không khéo bằng cha, nhưng cũng chắp vá loài da để làm nên áo cầu.

Cơ cầu chỉ con cháu nối nghiệp cha ông.

1.- Cơ cầu:



Hay ra lại rạng cơ cầu

Hèn ra sơn thuỷ tiêu sầu cũng khoan.

(Tự Tình Khúc).



Huống chi nối nghiệp cơ cầu

Máu mô thịt nấy chớ hầu đổi thay.

(Huấn Nữ Ca).

2.- Cơ cừu:

Mai ngày đến lúc trưởng thành,

Cơ cừu dễ rạng tiền trình hơn xưa.

(Quan Âm Thị Kính).



Hay ra lại rạng cơ cừu,

Hèn ra sơn thuỷ tiêu sầu cũng khoan.

(Tự Tình Khúc).



CƠ DUYÊN 

: Bởi từ đây phát động. Duyên: Mối liên lạc.

Cơ duyên tức là vì có cái nhân nên phát động mà gặp quả như thế.

Theo Phật, những người có căn cơ tốt mới phát động để có cái duyên gặp được giáo pháp Phật.

Còn nhiều ân ái với nhau,

Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?

(Truyện Kiều).



Cơ duyên ngẫm lại mà suy,

Trời Nam nào có xa gì cõi Tâỵ

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CƠ ĐỒ 

: Nền móng. Đồ: Mưu tính.

Muốn lập một sự nghiệp, trước hết phải mưu tính xây dựng từ nền móng cho vững chắc.

Cơ đồ chỉ những việc mà mình toan tính, xây dựng từ nền móng trước cho vững chắc.

Có tu đức thì thiên hạ mới trị yên,

Có tu nhân thì cơ đồ mới củng cố.

(Sãi Vãi).



Cơ đồ chưa kịp mở mang,

Non Tần sông Việt chia đàng hợp tan.

(Cai Vàng Tân Truyện).



Tiếc thay một gánh cơ đồ,

Xa thơ khuất dấu bóng cờ bặt tâm.

(Ngụ Đời).



Trai lớn khôn tứ hải ngũ hồ,

Vai gánh nặng cơ đồ công tổ phụ.

(Phương Tu Đại Đạo).



CƠ HÀN 

: Đói. Hàn: Lạnh, rét.

Cơ hàn là đói và lạnh, dùng để chỉ những nỗi gian nan khổ cực ở đời.



Xưa nay mấy kẻ hồng nhan,

Gan vàng dạ ngọc cơ hàn được đâu.

(Truyện Trinh Thử).



Ra tay cứu kẻ cơ hàn,

Cho không, bán rẻ, tính toan mọi dường.

(Huấn Nữ Ca).



Chồng thì triều nội 
cao sang,

Vợ thì canh cửi cơ hàn tấm thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Khi hồn lìa khỏi trần gian,

Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.

(Kinh Sám Hối).



CƠ HUYỂN DIỆU

Bởi chữ “Thiên cơ huyền diệu   là máy Trời huyền diệu.

Cơ huyền diệu là nói Thiên cơ huyền diệu, hay nói một cách khác máy trời mầu nhiệm.

Cơ huyền diệu Đạo cao minh chánh,

Hiển phép mầu ma lánh quỉ kiêng.

(Xưng Tụng Công Đức).



CƠ MẦU

Bởi chữ “Thiên cơ mầu nhiệm”.

Cơ mầu hay “Cơ mầu nhiệm” đồng nghĩa với cơ huyền diệu, ý chỉ máy trời mầu nhiệm.

Dù nhẫn chê khen, dù miệng thế,

Cơ mầu Tạo hóa mặc tự nhiên.

(Bạch Vân Thi Thập).



CƠ NGHIỆP 

: Nền móng. Nghiệp: Sự nghiệp.

Cơ nghiệp là chỉ của cải tài sản tạo nên làm nền móng. Cơ nghiệp của một nước tức là đất đai bờ cõi và tài nguyên của nước đó.



Tưởng Tiên hoàng lệ nhỏ chứa chan,

Thương cơ nghiệp ngừng sa nước mắt.

(Nhạc Hoa Linh).



Nối Tông Tổ biết bao nghĩa trọng,

Cơ nghiệp còn lưu mộng tang du.

(Kinh Thế Đạo).



Non sông chẳng đổi theo lời nói,

Cơ nghiệp dầu thay bởi sức làm.

(Đạo Sử).



CƠ PHU 

: Thịt. Phu: Da.

Cơ phu đồng nghĩa với bì phu, chỉ về da và thịt.



Quản bao kẻ mang cái giàm danh,

áo giới lân trùm dưới cơ phu,

mõi gối quỳ mòn sân tướng phủ.

(Tài Tử Đa Cùng Phú).



CƠ SANH HOÁ

: Máy móc. Sanh hoá: Sanh và biến hoá.

Cơ sanh hoá là bộ máy sinh hóa, chỉ bộ máy sinh hóa của Trời, sinh thành, biến hóa ra vạn vật.



Cơ sanh hóa Càn Khôn đào tạo,

Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên.

(Kinh Thế Đạo).



CƠ TỰ 

: Nền móng. Tự: Mối dây.

Cơ tự tức là cái khởi đầu của một công việc gì.



Nghìn năm cơ tự mới xây,

Lên ngôi hoàng đế đặt bầy trăm quan.

(Quốc Sử Diễn ca).



CƠ THIỀN 

: Máy móc. Thiền: Tập trung vào thanh tĩnh.

Cơ thiền là cái then máy nhà Phật, tức chỉ lẽ huyền diệu nhiệm mầu của đạo lý Phật.



Cái gương nhân sự chiền chiền,

Liệu thân này với cơ thiền phải nao.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CƠ TRỬU 

Cái thúng, cái chổi, hai loại đồ dùng của người đàn bà nội trợ.

Do tích: Lữ Trúc Bình, người huyện Đơn Phụ, giỏi xem tướng, thấy tướng của Lưu Quý tấm tắc khen rằng: Ta xem tướng nhiều người lắm rồi, nhưng không thấy ai như tướng của Quý. Ta có đứa con gái liễu nhược, xin về làm “cơ trửu” (Thúng chổi) cho gia đình Lưu Quý vậy.

Từ đó về sau, hai chữ “Cơ trửu” dùng như lời nói tự khiêm của nhà gái.



Ví may mắn như duyên ai cơ trửu,

giăng bích y chi chút bụi nào rơi.

(Tần Cung Nữ).



CỜ ĐÀO

Từ câu thành ngữ “ Áo vải cờ đào”. ý nói người bình dân phất cờ khởi nghĩa, dựng nên nghiệp lớn.

Cờ đào là thứ cờ bằng lụa màu hồng đào, chỉ việc khởi binh, dấy nghiệp.

Xem: Áo vải cờ đào.



Trận mây theo ngọn cờ đào,

Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.

(Quốc Sử Diễn Ca).

CỜ MAO

Bỡi chữ “Mao tiết  ” là cờ mao, một vật dùng để tượng trưng cho quân quyền, gồm một cây cán đầu uốn cong, có chín đốt, đầu cán cột một sợi dây bỏ thòng xuống, có kết những chùm lông bằng tơ. Trên lá cờ có đề bốn chữ “Mao trừ loạn tặc  ”.

Cờ mao cắm vào một cái giá. Trong những buổi lễ quan trọng, người ta thường đem cờ mao theo để thay thế cho sự hiện diện của nhà vua, hoặc ban lịnh thay vua đặng quyền chinh phạt.

Xem: Mao việt.



Mây tràn cung quế ba canh nguyệt,

Gió thốc cờ mao mấy dặm trời.

(Truyện Vương Tường).



Tánh trung can đó chưa nên mặt,

Vì thuở cờ Mao chẳng phải hồi.

(Đạo Sử).



CỜ TIẾT TÔ LANG

Tô Lang tức là Tô Võ, người đời Hán Võ Đế, được cử đi sứ sang Hung Nô, bị Hung Nô bắt giữ, cho đi chăn dê ở Bắc Hải mười chín năm. Khi về nước, Tô Võ vẫn còn giữ được cán cờ tiết, đó là cây cờ hiệu của người đi sứ.



Làm cây cờ tiết Tô Lang,

Đất Nô đày đoạ trải đàng gian nan.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



CỜ TRƯƠNG BA

Nước cờ giỏi nổi tiếng của Trương Ba.

Tương truyền xưa kia Trương Ba là người cao cờ, khi chết hồn nhập vào xác người bán thịt, khiến anh chàng bán thịt không am tường về cờ thế mà lại giỏi về đánh cờ, cho nên ngày xưa mới có câu: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”.

Khi lựa vận, khi so tơ,

Khi bầu Lý Bạch khi cờ Trương Ba.

(Bần Nữ Thán).



CỠI HẠC

Bởi chữ “Khoá hạc  ” nghĩa là cỡi hạc.

Hạc là một loài chim có chân cao, cổ dài, da đỏ, lông trắng. Hạc là loại chim sống lâu, có thể sống ngoài ngàn năm. Theo Hàn thi ngoại truyện, thì loại hạc vàng có thể bay rất xa, mỗi lần cất cánh thì có thể bay hàng muôn dặm, vì thế những linh hạc được các vị Thần Tiên dùng để cỡi hay kéo xe vân du trong các cõi giới.

Cỡi hạc còn dùng để nói người chết đi vĩnh viễn.



Nói rồi cỡi hạc bay đi,

Họ Hà chưa hỏi việc chi đành rành.

(Dương Từ Hà Mậu).



Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,

Cõi Đào nguyên cỡi hạc thừa long.

(Kinh Thế Đạo).



CỠI PHỤNG NGỪA LOAN

Phụng loan chỉ hai vợ chồng. Phụng là chim trống chỉ người chồng, loan là chim mái chỉ người vợ, ngừa là một tiếng cổ có nghĩa là bỏ.

Cỡi phụng ngừa loan là cỡi chim phụng bay đi, bỏ chim loan ở lại, ý muốn nói người chồng ham mê bóng sắc người đàn bà khác, phụ bạc vợ con.

Nghĩa bóng: Chồng phụ bạc vợ.



Hỡi người cỡi phụng ngừa loan,

Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao?

(Nữ Trung Tùng Phận).



CƠM GIỎ NƯỚC BẦU

Bởi chữ “Đan tự biều ẩm  ”, tức là giỏ cơm bầu nước.

Nhan Uyên học trò giỏi Đức Khổng Tử là người chỉ thích sống cuộc đời giản dị, không sợ khổ cực. Một giỏ cơm, một bầu nước cũng đủ làm cho Nhan Hồi vui lòng rồi. Ông đã được Đức Khổng Tử khen: Hiền tai! Hồi dã, nhất đan tự, nhất biều ẩm, tại lậu hạng, nhân bất kham kỳ ưu, Hồi dã bất cải kỳ lạc. Hiền tai! Hồi dã  ! . , , , , . ! , nghĩa là hiền thay Nhan Hồi! Một giỏ cơm, một bầu nước, ở nơi ngõ hẹp, người ta không chịu nổi cảnh nghèo hèn mà lo buồn, còn Nhan Hồi không thay đổi điều vui của mình. Hiền thay, Nhan Hồi!

Nghĩa bóng: Chỉ cảnh nghèo của Nhan Uyên.

Xem:Giỏ cơm bầu nước.

Lôi thôi cơm giỏ nước bầu,

Những loài yến tước biết đâu chí hồng.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



Sắm sanh cơm giỏ nước bầu,

Chẳng nề quý tiện khó giàu hèn ngu.

(Hương Sơn Hành Trình).



CƠM PHIẾU MẪU

Cơm của bà Phiếu mẫu đem cho Hàn Tín ăn.

Sử Ký viết: Hàn Tín lúc còn hàn vi đi câu cá dưới thành, có lần bị đói, trong số những người đập vải (Phiếu mẫu), có một bà thấy Tín đói, cho ăn suốt mấy mươi ngày. Sau Tín được phong Sở Vương, mời bà phiếu mẫu đến tặng nghìn vàng.

Áo Trọng Do bạc thếch,

giãi xuân thu cho được sắc cần lao

Cơm Phiếu mẫu hầm sì,

đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.

(Tài Tử Đa Cùng Phú).

Nghĩa Hoài Âm lòng hỡi tạc đây,

Cơm Phiếu mẫu ơn còn ghi đó.

(Nhạc Hoa Linh).



CÙ LAO 

: Siêng năng nhọc nhằn. Lao: Khó nhọc.

Cù lao có nghĩa là siêng năng khó nhọc để nuôi dưỡng con cái.

Kinh Thi có câu: Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực  , . , , nghĩa là thương thay cha mẹ, công sinh ra ta khó nhọc dường nào! muốn báo ân sâu, trời cao chẳng dứt.

Xem: Cù lao chín chữ.



Duyên hội ngộ, đức cù lao,

Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?

(Truyện Kiều).



Than rằng: Đội đức cù lao,

Bể sâu mấy trượng, trời cao mấy trùng.

(Truyện Phan Trần).



Cù lao đội đức cao dày,

Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.

(Gia Huấn Ca).



Ơn cúc dục cù lao mang nặng,

Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.

(Kinh Thế Đạo).



Phải nhớ hiếu đúc mồi loài ô thước,

Đặng đền bồi cho được nghĩa cù lao.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÙ LAO CÚC DỤC 

Cù lao: Siêng năng chịu nhọc nhằn. Cúc dục: Nuôi nấng, dạy dỗ.

Cù lao cúc dục nói ân nghĩa to lớn của cha mẹ có công sinh thành dưỡng dục con cái.

Xem: Cửu tự cù lao.

Cù lao cúc dục là ân

Biết đâu phước tội mà hờn mà vui.

(Huấn Nữ Ca).



CÙ LAO CHÍN CHỮ

Do thành ngữ Hán “Cửu tự cù lao  ”, nghĩa là cù lao chín chữ. Đó cũng là chín điều khổ nhọc của cha mẹ: 1.- Sinh: Đẻ con. 2.- Cúc: Nâng niu. 3.- Phủ: Vuốt ve. 4.- Xúc: Cho bú. 5.- Trưởng: Nuôi cho lớn. 6.- Dục: Dạy dỗ. 7.- Cố: Trông nôm. 8.- Phục: Săn sóc dạy dỗ. 9.- Phúc: Che đỡ.

Xem: “Cửu tự cù lao”.

Cù lao chín chữ ơn chưa trả,

Nhũ bộ ba năm nghĩa chảng bồi.

(Thơ Thiên Vân).



CÙ MỘC 

Một loại cây gốc lớn, cành lá xum xuê, có thể là nơi sống gửi của dây bìm, dây sắn.

Chữ do trong Kinh Thi: Nam hữu cù mộc, cát luỹ luỵ chi , , nghĩa là phương nam có cây cù mộc, dây sắn dây bìm leo vào đó. Thiên Kinh Thi nầy ví các phi tần, cung nữ cảm đức bà Hậu phi, vợ vua Văn Vương, không ghen tương, mà lại che chở cho bọn ấy, tựa như sắn bìm nương vào cù mộc.

Nghĩa rộng:Vợ lớn hiền đức che chỡ vợ bé.



Ngán thay cái én ba nghìn,

Một cây cù mộc biết chen cành nào.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Đức lành cù mộc,

ròng ròng đạo rệt cương thường.

Thơ ngợi chung tư,

dặc dặc phúc thêm tỏ dẫn.

(Cung Trung Bảo Huấn).



CỦ CỦ VÕ PHU 

Củ củ: Mạnh mẽ. Võ phu: Kẻ không có mưu lược, chỉ có sức mạnh.

Kinh Thi có câu: Túc túc thố la, kích chi đinh đinh. Củ củ võ phu, công hầu can thành  , . , , nghĩa là chỉnh sửa lưới bắt thỏ, đóng cọc đinh đinh. Hùng dũng võ phu, công hầu bảo vệ thành trì. Bài thi có ý khen những người mạnh mẽ giăng lưới bắt thỏ, cũng được dùng làm quan, đến chức công hầu.



Lưới thỏ giăng,

sãi muốn cho củ củ võ phu;

Gót lân xéo,

sãi muốn cho chơn chơn công tử.

(Sãi Vãi).



CỦ TẬP 

Củ: Kết hợp. Tập: Nhóm họp lại.

Củ tập có nghĩa là cùng nhau nhóm họp lại.



Cùng nhau phụng sắc triệu binh,

Thổ hào củ tập vào kinh hộ tùy.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CỦA KHÔNG PHẢI NGHĨA

Dịch từ chữ “Vật phi nghĩa  ”.

Của không phải nghĩa là của không chính đáng, hay của phi nghĩa.

Sách Cảnh Hành chép rằng: Nhân phi hiền bất giao, vật phi nghĩa bất thủ  , : Người không hiền thì đừng làm bạn, vật không phải nghĩa thì không nên giữ.



Lương tâm thường xét cho rành,

Của không phải nghĩa chớ sanh lòng tà.

(Kinh Sám Hối).



CỦA ÔNG CÔNG BÀ

Của ông công bà ý muốn nói tài sản trong gia đình, chồng có công làm ra của cải vật chất, vợ có công gìn giữ, hai công ấy đều bằng nhau, vì vậy tục ngữ mới có câu “Của chồng công vợ”.

Xem: Chồng của vợ công.

Hễ là vào đạo vợ chồng,

Hư nên đều có của ông công bà.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÚC DỤC 

Cúc: Nuôi dưỡng. Dục: Nuôi dạy.

Cúc dục là nuôi nấng dạy dỗ. Nói ơn đùm bọc nuôi dạy của cha mẹ.

Xem: Cù lao cúc dục.

Bú mớm đã quen ơn cúc dục,

Viếng thăm từng thủa thuộc thần hôn.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Nhìn thung đường đền ơn cúc dục,

Nhớ công sanh giữ chút hình hài.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Đừng học đòi lũ dại học khôn,

Phân thương ghét quên ơn cúc dục.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÚC DỤC CÙ LAO 

Cúc dục: Bồng bế nuôi nấng, chỉ công ơn của cha mẹ đối với con cái. Cù lao: Cù là siêng năng, lao là khó nhọc, ý nói công cha mẹ nuôi dưỡng con cái khó khăn nhọc nhằn.

Cúc dục cù lao chỉ ơn đùm bọc, dưỡng nuôi của cha mẹ đối với con cái.



Ơn cúc dục cù lao mang nặng,

Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.

(Kinh Thế Đạo).



CÚC UYÊN MINH

Uyên Minh là tên tự của Đào Tiềm. Khi còn làm quan tại huyện Bành Trạch, Đào Tiềm không chịu uốn lưng vì miếng ăn, nên chẳng bao lâu, ông bèn xin về quê ở ẩn, làm bài “Quy khứ lai từ” để tỏ chí mình, có câu: Tam kính tựu hoang tùng cúc do tồn  , , nghĩa là hãy còn ba đường tùng cúc đã bị bỏ hoang ở nơi quê hương.

Do vậy, Cúc Uyên Minh dùng để chỉ việc nhàn cư ẩn dật, hay cáo quan về làng.

Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ,

Tay còn lọ hái cúc Uyên Minh.

(Quốc Âm Thi Tập).



CÚI LÒN LƯNG CONG 

Vì lòn cúi mà phải lưng cong.

Nghĩa bóng: Vì danh lợi mà phải chịu luồng cúi.

Do điển Đào Tiềm tự Nguyên Lương khi làm huyện lệnh Bành Trạch, trên quận có sai viên Đốc Bưu (Một chức lại nhỏ đi thâu thuế) đến huyện, nha lại trình với ông nên chỉnh áo mão ra tiếp đón, ông than: Ta vì Đấu gạo mà phải khom lưng ư? Rồi trả áo mão cho triều đình mà về vườn, viết bài “Quy khứ lai từ” rất nổi tiếng.



Cửa công huyện mãn nha còn,

Dạ thưa lưỡi mỏi, cúi lòn lưng cong.

(Ngụ Đời).



CỦI ĐẬU NẤU ĐẬU

Bởi chữ “Cơ đậu tương tiễn  ”, tức là cành cây đậu nấu trái đậu, hay nói cách khác “Củi đậu nấu đậu”, chẳng khác gì anh em không thương yêu nhau mà còn muốn hại nhau như câu chuyện sau được trích từ sách Thế Thuyết: Tào Phi, con của Tào Tháo, muốn hại em ruột của mình là Tào Thực, biểu trong bảy bước phải làm một bài thi, không làm xong, sẽ bị xử tử. Tào Thực liền ngâm rằng: Chử đậu nhiên đậu ki, Đậu tại phủ trung khấp. Bổn thị đồng căn sanh, Tương tiễn hà thái cấp!  , . , . Nghĩa là: Nấu đậu chụm cây đậu, Hạt đậu trong nồi khóc, Vốn cùng một gốc sanh, Đốt nhau chi quá gấp?!

Tào Phi xem xong bài thi, rất nên cảm động, bèn tha cho em mình là Tào Thực.

CỦI QUẾ GẠO CHÂU

Bởi chữ “Mễ châu tân quế  ”. tức là củi hiếm như cành quế, gạo đắt như châu ngọc.

Quốc Sách chép: Tân như quế, thực như ngọc, ngôn tân mễ chi đằng quý  , , , tức là củi như quế, đồ ăn như ngọc, nói sự quá mắc của củi gạo.

Tô Tần đến nước Sở ba ngày, mới ra mắt vua Tần, rồi lật đật giã từ đi. Vua nói: Sao chẳng ở lại ít hôm nữa? Tô Tần đáp: Nước Sở món ăn quý như ngọc, củi quý như quế!

Nghĩa bóng: Ý chỉ vật giá đắt đỏ.

Lọ là củi quế gạo châu,

Ấy khoai là bạc, ấy rau là vàng.

(Hoài Nam Khúc).



Củi quế gạo châu

kham khổ nằm chưng trường ốc,

Song huỳnh án tuyết,

dùi mài mến nghiệp thi thư.

(Thập Giới Cô Hồn).

Chốn Trường an thời củi quế gạo châu,

lấy gì ngọt thảo bùi thơm,

đường bách lý những ghi lời Tử Lộ.

(Tự Thuật Ký).



Nạn củi quế gạo châu,

Thiên sầu Ðịa thảm ...

(Ngụ Đời).



CUNG A 

Tức cung A phòng, tên một cung điện do Tần Thuỷ Hoàng Đế cho xây dựng tại Hàm Dương. Cung này cực kỳ xa hoa tráng lệ, rộng lớn, dài hơn 100 thước, rộng 50 thước, lâu đài liên tiếp, cứ năm bước một cái lầu, mười bước một cái các, có thể chứa cả mười ngàn người. Cung nữ đông đến ba bốn nghìn người.

Sau Cung A bị Hạng Võ đốt, lửa cháy đến ba tháng mới tắt.

Sương tỏa cung A,

Mây lồng đồn Bá.

(Tần Cung Nữ).



CUNG ÂM 

Cung: Thứ bậc âm thanh được phân chia trên cây đàn. Âm: Tiếng, âm thanh.

Cung âm là cung bậc của âm nhạc, ý chỉ sự đàn ca xướng hát, vui chơi trác táng.

Tiếng hát lời ca tạo nên những cung âm du dương, thanh từ dâm dật, khiến cho con người bị rung cảm, lung lạc lòng ham muốn, lần hồi sinh ra mê đắm. Từ say mê đưa đến nghiệp thức, nghiệp thức lôi kéo con người vào vòng cảm thụ rồi dẫn đến mê luyến xác thân, là mầm của luân hồi sinh tử

Phong trần quen thú cung âm,

Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô.

(Kinh Tận Độ).



CUNG CẦM

Cung: Thứ bậc âm thanh được phân chia trên cây đàn. Cầm: Cây đàn.

Cung cầm là tiếng đàn, chỉ về âm nhạc, mà nhạc thì phải hoà nên cung cầm được ví với tình yêu giữa trai gái hoặc vợ chồng hoà thuận yên vui.



Tưởng lúc cung cầm khi cuộc rượu,

Trăng thề soi bóng vẹn mười phân.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



Nên toan đập nát cung cầm,

Vô duyên đành phận, sống làm chi đây?

(Nữ Trung Tùng Phận).



Ta than lỗi bậc cung cầm,

Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CUNG DÂU

Do chữ: “Tang hồ  ”, tức là cung bằng gỗ dâu.

Cung dâu được dùng để chỉ người con trai có chí ở bốn phương, tung hoành giữa trời đất.

Xem: Cung dâu tên cỏ.



Tới tuần hội cả đua nhau,

Bút nghiên phỉ chí, cung dâu bằng nguyền.

(Truyện Phan Trần).

CUNG DÂU TÊN CỎ

Bởi thành ngữ Hán “Tang hồ bồng thỉ  ” là cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng

Ngày xưa, khi sinh được con trai, người ta thường lấy cung gỗ dâu, tên cỏ bồng để bắn ra bốn phương và trên dưới, ngụ ý nói đứa trẻ sau này có chí tung hoành ở bốn phương trời đất.

Xem: Tên cỏ cung dâu.



Xem dường cuồng khấu biên đình,

Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CUNG ĐẰNG

Bởi chữ “Đằng Vương Các  ” tức gác Đằng.

Cung Đằng như chữ gác Đằng là một cái gác được xây tại Hàng Châu, do Đằng Vương Lý nguyên Anh đã xây dựng, lấy hàm tước của vua phong để đặt tên gác.

Xem: Gác Đằng.



Bây giờ mượn gió cung Đằng,

Vì duyên đưa mối xích thằng lại đây.

(Sơ Kính Tân Trang).



CUNG ĐÌNH 

Cung: Cung điện, nơi vua ở. Đình: Sân.

Cung đình là chỉ nơi nhà vua ở.



Mây phủ tán, liễu che mành,

Nước non Thiên trúc, cung đình Bồng lai.

(Truyện Phan Trần).



Bài đề rằng: Uổng Tử Thành,

Ở trong rực rỡ cung đình nghiêm trang.

(Dương Từ Hà Mậu).



CUNG HÀN

Tức cung Quảng Hàn, một cái cung do vua Đường Minh Hoàng du nguyệt điện, thấy có biển đề nơi cung trăng: “Quảng Hàn thanh hư chi phủ  ” nghĩa là một cái phủ rộng lạnh và hư không.

Xem: Quảng Hàn.

Tấc mây đâu bợn cung Hàn,

Trăng hoa phải sự nên bàn mà chơi.

(Hoa Tiên Truyện).



CUNG HẰNG 

Cung: Cung điện. Hằng: Hằng Nga.

Do tích Hậu Nghệ xin thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng nga lấy trộm, bay lên và thành tiên trên cung trăng.

Cung Hằng là cung của Hằng Nga, dùng để chỉ mặt trăng.

CUNG KIẾM 

Cung: Cây cung. Kiếm: Cây gươm.

Cung kiếm là cây cung và cây kiếm, dùng để chỉ những người võ sĩ, hay các quan võ.



Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,

Khách công hầu ngấp nghé mong sao.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CUNG LẠNH

Bởi chữ “Lãnh cung  ”, một cái cung lạnh lẽo, không người đến đó, dùng để giam lỏng các phi tần phạm tội, hoặc bị vua ghét bỏ.

Do tích Trần Hoàng Hậu là vợ vua Hiếu Vũ Hoàng Đế có lỗi, nên bị vua đày ra cung Trường Môn. Sau bà nhờ Tư Mã Tương Như làm bài “Trường môn phú”, cảm được lòng nhà vua, do đó được tha trở về nội cung và được vua yêu như cũ.

Tưởng nơi cung lạnh ngòi ngang,

Phú Tương Như dễ mấy vàng chuộc nên.

(Hoa Tiên Truyện).



CUNG MÂY

Một cung nằm trên mây, tức là cung trăng hay cung nguyệt.

Nghĩa bóng: Chỉ mặt trăng.

Tháng tròn như gửi cung mây,

Trần trần một phận ấp cây đã liều!

(Truyện Kiều).



CUNG NGA 

Cung: Nơi vua ở. Nga: Người con gái đẹp.

Cung nga đồng nghĩa với cung nữ, chỉ những người con gái đẹp ở trong cung vua.



Cung nga thể nữ 
theo sau,

Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy.

(Truyện Kiều).



CUNG NGỌC

Tức là Ngọc cung , nơi cung điện làm bằng ngọc, chỉ cung Tiên hay cõi Tiên.

Theo giáo lý Cao Đài, cung Ngọc là cung Bạch Ngọc, tức Bạch Ngọc Kinh, nơi ngự của Thượng Đế.

Lần vào cung Ngọc Diệt Hình,

Khai Kinh Vô tự đặng nhìn quả duyên.

(Kinh Tận Độ).

Nơi cung Ngọc học thông Đạo cả,

Chốn Hư vô Tạo Hóa tìm cơ.

(Kinh Thế Đạo).



Chàng dầu cung Ngọc an ngôi,

Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.

(Kinh Thế Đạo).



CUNG NGUYỆT

Bởi chữ “Nguyệt cung  ”.

Cung nguyệt tức là cung trăng, nơi ở của Hằng Nga, chỉ mặt trăng. Ngoài ra “Cung nguyệt” còn dùng để chỉ nơi ở của người con gái đẹp.

1.- Chỉ mặt trăng:



Xuống khe rồng, lên đảnh hạc,

Mơ màng cung Nguyệt bóng Hằng Nga.

(Tuý Sơn Vân Mộng).

2.- Chỉ nơi ở của người con gái đẹp:

Chàng vui cung nguyệt trao duyên,

Thiếp sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CUNG NGHÊ

Cung Nghê tức là cung có khúc “Nghê thường vũ y  ”, chỉ Cung trăng.

Do sách Đường Dật Sử chép: La Công Viễn đưa vua Đường Minh Hoàng lên chơi Nguyệt điện. Vua thấy cung nữ đều mặc áo nghê thường nhảy múa giữa sân điện. Đó là khúc “Nghê thường Vũ Y”.

Xem: Nghê thường.



Mắt phượng đã say miền ngọc thỏ,

Cung Nghê nỡ phụ khúc cầm loan.

(Hằng Nga, Khuyết Danh).



CUNG PHI 

Cung: Nơi vua ở. Phi: Các bà vợ của vua.

Cung phi là chức thứ hai, sau Hoàng hậu là vợ chính của vua. Trong nội cung có nhiều chức: Hoàng hậu, Phi, Tần, Tiệp dư, Tài nhân, Mỹ nhân và Cung nữ..



Tay nguyệt lão khờ sao có một,

Bỗng tơ tình vướng gót Cung phi.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CUNG PHỤNG 

Cung: Kính cẩn. Phụng: Hầu hạ, chăm sóc.

Cung phụng là hầu hạ và chăm sóc mọi thứ cần thiết cho những người trên như ông bà cha mẹ.



Gởi Tổ Phụ anh (chị) hiền cung phụng,

Gởi sắp em còn sống nơi đời.

(Kinh Thế Đạo).



Cha mẹ chồng tuy gọi tiếng rằng,

Phải cung phụng cũng bằng ruột thịt.

(Phương Tu Đại Đạo).



CUNG QUÁN GIAI

Tây Thi được vua Ngô Phù Sai say mê đắm đuối, cho nên nhà vua truyền cho xây dựng một cái cung đẹp đẽ, trang hoàng những vật quý giá ở tại núi Linh Nham, dành cho Tây Thi làm chỗ vui chơi, gọi là Quán Giai Cung , tức là cung của người đẹp nhất.



Cung Quán Giai, lang hưởng điệp,

Tây Thi chỉn ấy thế loàn;

Thang đậu khấu, quê ôn nhu,

Triệu Thị thật là nước họa.

(Cung Trung Bảo Huấn).



CUNG QUẢNG

Hay “Cung Quảng Hàn” ( ).

Do tích Đường Minh Hoàng, một đêm rằm tháng tám nhờ một vị đạo sĩ tên Thần Tiên Chủ dùng phép đưa lên chơi trên cung trăng, thấy có một tấm biển treo “Quảng Hàn Cung  ” và “Thanh Hư Phủ  ”, rồi lại được xem tiên nữ mặc đủ sắc áo múa hát dưới gốc cây quế.

Nghĩa bóng: Chỉ mặt trăng. Xem: Quảng Hàn.

1.- Cung Quảng:

Thân sao nhiều nỗi bất bằng,

Liều như Cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!

(Truyện Kiều).



Bởi Cung Quảng bóng Hằng nhấp nhóa,

Bởi đền Ngô nghe gã Tây Thi.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Cung Quảng Hàn:

Một bầu nồng ba nghìn thế giới,

Cung Quảng Hàn bóng mới loè ra.

(Hoàng Sĩ Khải)



CUNG QUẾ

Cung: Cung điện. Quế: Cây quế, một loại cây thân và cành có mùi thơm.

Cung quế hay Quế cung là tiếng dùng để chỉ mặt trăng. Theo tích Đường Minh Hoàng du nguyệt điện thì nơi cung trăng có một cây quế rất to, nên Cung quế cũng dùng để chỉ mặt trăng.

Xưa Hán Võ Đế có xây một cái cung gọi là Quế Cung cho nàng Trương Lệ Hoa ở. Cửa cung tròn như mặt trăng. Sân sau dựng một bức tường vôi, tô phấn trắng, giữa sân trồng một cây quế, có ý xây dựng theo như lời tục truyền trên cung trăng.

Chàng dầu cung quế xuyên dương,

Thiếp xin hai chữ tao khương cho bằng.

(Lục Vân Tiên).



Mây tràn cung quế ba canh nguyệt,

Gió thốc cờ mao mấy dặm trời.

(Truyện Vương Tường).



Tuần trăng, trăng đã đứng đầu,

Tròn xoay cung quế một màu long lanh.

(Thơ Bà Nhàn Khanh).



Gương loan phảng phất hồn cung quế,

Giấc bướm mơ màng khách trướng sa.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

(Thập Loại Chúng Sinh).



CUNG TÀNG 

Bởi câu “Điểu tận cung tàng  ” tức là chim hết dẹp cung tên.

Cung tàng ý muốn nói dùng người trong giai đoạn, xong việc rồi bỏ.

Phạm Lãi giúp Việt Vương Câu Tiễn phục thù, diệt được nước Ngô, được phong là Thượng tướng quân. Phạm Lãi biết tính Câu Tiễn khi hoạn nạn thì có nhau, nhưng khi yên vui thì khó lòng mà an hưởng, vì vậy ông bèn bỏ sang nước Tề, gửi cho Văn Chủng một bức thư có câu: Điểu tận lương cung tàng, giảo thố tử tẩu cẩu phanh  , , nghĩa là chim hết thì cung ná bỏ xó, thỏ khôn đã chết thì chó săn bị nấu.



Hơn nữa Ngũ hồ ai có cấm,

Cung tàng lầu thẩn tiếc thay cho.

(Hồng Đức Quốc Âm)



CUNG TIỄN 

Cung: Cây cung. Tiễn: Cây tên.

Cung tiễn tức là cây cung và mũi tên.



Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,

Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CUNG THIỀM

Cung: Cung điện. Thiềm: con thiềm thừ.

Sách Ấu Học có nói trong mặt trăng có con thiềm thừ, một loại với cóc, lưng đen, sống ba ngàn tuổi, đầu có sừng thịt, dưới cổ có tám chữ son đỏ.

Cung thiềm nghĩa bóng chỉ mặt trăng.

Xem: Thiềm cung.



Kêu sương tiếng nhạn lay thềm,

Mảnh thư đưa đến cung thiềm được không?

(Hoa Tiên Truyện).



Cung Thiềm gắng bước cho mau,

Thoát ba Thần phẩm đứng Tam Thiên.

(Kinh Tận Độ).



Nào khi đổ mây mưa đảnh Giáp,

Nào khi lo ấm áp cung thiềm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Đừng đứng dựa sông Tương nhắn khách,

Đừng trông trăng hỏi ngạch cung thiềm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CUNG THƯƠNG 

Cung thương là hai âm trong năm âm của nhạc Trung Quốc thời xưa, gồm: Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ. Cung thương cũng là hai âm chính của nhạc: Âm Cung là quân, tiếng nghe trầm và chậm, âm thương là thần, tiếng nghe cao và nhanh.



Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

(Truyện Kiều).



So dần dây vũ, dây văn,

Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.

(Truyện Kiều).



CUNG XANH

Bởi chữ “Thanh cung  ” tức cung điện sơn màu xanh

Sách Thần Dị Kinh chép: Ở ngoài biển Đông Hải, núi Đông Minh có một cung điện vách tường bằng đá xanh, ngoài cửa có tấm bảng bằng bạc đề: Thiên địa trưởng nam chi cung  , tức là cung con trai trưởng của trời đất.

Nhân đó người ta gọi nơi ở của Thái tử là Đông cung (Cung ở Đông Hải), hoặc “Thanh cung ” hay cung xanh.



Cung xanh đang tuổi ấu xung,

Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương.

(Ai Tư Vãn).



Màn kinh giúp sức cung xanh,

Công mông dưỡng đã đành lòng uỷ thác.

(Văn Tế Võ Tánh).



CÚNG DƯỜNG

Dịch từ chữ “Cúng dưỡng ” tức là cúng cho nhà chùa.

Cúng dường nghĩa là đem lễ vật vào chùa để cúng Phật và giúp cho chư tăng ni.

Tương, dưa, rau, muối, cơm chay,

Công phu uổng phí xưa nay cúng dường.

(Dương Từ Hà Mậu).



CÙNG ĐỒ 

Cùng: Hết, dứt. Đồ: Con đường. Hết đường, không thể đi tới nữa.

Nghĩa bóng: Khốn khổ cùng cực, không biết cách giải quyết cách nào.



Lỡ làng gặp bước cùng đồ

(Thơ Cổ).



CÙNG TƯ 

Do chữ trong sách Luận Ngữ: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ  , , nghĩa là người quân tử giữ vững lúc cùng, kẻ tiểu nhân lúc cùng thì làm bậy.

Cùng tư ý muốn nói lúc cùng thì làm bậy.

Túng đường mong quyết chí cùng tư,

E phép nước chưa nên gan sừng sỏ.

(Hàn Nho Phong Vị Phú).



CÙNG THÔNG 

Cùng: Chỉ lúc bế tắc. Thông: Chỉ lúc hiển đạt.

Cùng thông là nói lúc bế tắc lúc hanh thông. Nghĩa rộng: Lúc khổ cực, lúc thảnh thơi.



Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,

Lớp cùng thông như đúc buồng gan.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Cùng thông dù mặc có trời,

Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



Chờ gặp cố nhân lời dám hỏi,

Hỏi ra cho biết vận cùng thông?

(Đạo Sử).



CỦNG CỐ 

Củng là bền chặt. Cố là vững chắc.

Muốn xây dựng việc gì cho bền và vững chắc, gọi là củng cố. Ví dụ: Củng cố địa vị  , nghĩa là tạo địa vị bền vững.

Có tu đức thì thiên hạ mới trị yên,

Có tu nhân thì cơ đồ mới củng cố.

(Sãi Vãi).



CUỐC NGUYỆT CÀY MÂY

Bởi chữ “Canh vân điếu nguyệt  ” tức là cày ruộng trong mây núi, câu cá dưới ánh trăng.

Cuốc nguyệt cày mây dùng để nói cảnh thơ mộng, thanh nhàn và sinh hoạt thanh cao của người ẩn sĩ.

Xem: Cày mây câu nguyệt.



Thanh thần dưỡng tính hôm mai,

Cầm trong cuốc nguyệt, bãi ngoài cày mây.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



CUỘC BỂ DÂU

Bể dâu do câu “Thương hải biến vi tang điền  ”, tức là biển xanh hoá ra ruộng dâu.

Cuộc bể dâu ý muốn nói cuộc đời thay đổi.

Xem: Thương hải tang điền.



Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trong thấy mà đau đớn lòng.

(Truyện Kiều).



Thắm thoát đời qua cuộc bể dâu

Ham vui chỉ chác cuộc mua sầu

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CUỘC TRĂM NĂM

Trăm năm, lấy ý nghĩa từ câu “Bách niên giai lão  ” là nói vợ chồng cùng sống với nhau đến trăm tuổi già.

Cuộc trăm năm ý chỉ cuộc sống vợ chồng đến trăm tuổi già.

Đạo chồng vợ cũng là đạo trượng,

Cuộc trăm năm cực sướng gởi thân nhau.

(Phương Tu Đại Đạo).



CUỒNG KHẤU 

Cuồng: Kẻ ngông cuồng. Khấu: Giặc cướp.

Cuồng khấu là bọn giặc cướp tàn ác hung tợn.



Xem dường cuồng khấu biên đình,

Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CUỒNG PHONG 

Cuồng: Mạnh mẽ. Phong: Gió.

Gió thổi mạnh, có sức cuốn xoáy dữ dội làm gãy đổ cây cối, gọi là cuồng phong.



Cánh hồng quen với cuồng phong,

Nước non thế giới vẫy vùng tinh trăng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CƯ KỲ 

Chứa sẵn của lạ.

Do câu “Kỳ hoá khả cư  ”, nghĩa là nhân lúc người ta chưa phát hiện mà chọn trước, mong sau được nhờ cậy, của quý có thể để dành đó được.

Đời Xuân Thu, Triệu bắt được Dị Nhân làm con tin mà đối đãi không tốt. Sau Lã Bất Vi mới mua chuộc được Dị Nhân và nói: Thử kỳ hoá khả cư dã  , tức là món hàng lạ nầy có thể cất chờ giá cao vậy.



Khắp người viễn khách cư kỳ,

Tây dương chung cảng, Cao ly riêng hàng.

(Nhị Độ Mai).



CỬ ÁN NGANG MÀY

Bởi câu “Cử án tề mi  ” tức là nâng bát thức ăn ngang mày.

Mạnh Quang, người đàn bà khéo thờ chồng là Lương Hồng, mỗi bữa cơm, nàng bưng mâm ngang mày để tỏ ý cung kính.

Xem: Lương Hồng Mạnh Quang.



Mặt từ ví chẳng ngại ngùng,

Xắn tay cử án xin dâng ngang mày.

(Tây Sương).



CỰ MÔN 

Tên một ngôi sao xấu.

Theo số tử vi, năm nào có sao Cự môn chiếu mạng thì năm đó sẽ gặp nhiều tai nạn.

Ngỡ đà qua nạn Cự môn,

Ai hay Thái tuế hãy còn theo đây,

(Quan Âm Thị Kính).



CỰ PHÚ 

Cự: To lớn. Phú: Giàu có.

Cự phú là nhà giàu có lớn. Như chữ đại phú.



Mình dầu trọng nghiệp nhà cự phú,

Nhờ vợ hiền chí thú mới nên.

(Phương Tu Đại Đạo).



CỬA BỒ ĐỀ

Bồ đề do Phạn ngữ “Bodhi”, dịch nghĩa là tỉnh thức, giác ngộ.

Cửa Bồ đề là cửa vào sự tỉnh thức, sự giác ngộ tức là cửa chùa, cửa Phật.

Cùng nhau nương cửa Bồ đề,

Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.

(Truyện Kiều).



CỬA BỤT

Chữ Bụt do âm chữ Buddha đọc ra, có nghĩa là giác ngộ, người tỉnh thức, tức là chỉ đức Phật.

Cửa Bụt có nghĩa là cửa Phật, cửa chùa.

Sư rằng: Cửa Bụt thênh thênh,

Tòng quyền hãy tạm gởi mình ở đây.

(Nhị Độ Mai).



CỬA CÔNG

Bởi chữ “Công môn  ” tức cửa vào công đường, nơi làm việc của các quan.

Như vậy, cửa công tức là chỉ nơi làm việc của quan lại thời xưa.

Rõ ràng của dẫn 
tay trao,

Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công.

(Truyện Kiều).



Cửa công huyện mãn nha còn,

Dạ thưa lưỡi mõi, cúi lòn lưng cong.

(Ngụ Đời).



Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,

Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Rủi để bước cửa công là khó,

Phần nhiều xem dễ khó tại nơi bà.

(Phương Tu Đại Đạo).



CỬA GIÀ

Chữ Già tức Già lam  , từ gọi chung cảnh chùa, chùa chiền, nơi tu học hay thiền định.

“Cửa Già” hay “Cửa Già lam” được dùng để chỉ chùa chiền, Phật tự.

Gió quang mây tạnh thảnh thơi,

Có người đàn việt lên chơi cửa Già.

(Truyện Kiều).



Có khi ướm nguyệt chào hoa,

Lầu son phảng phất cửa Già gió trăng.

(Truyện Phan Trần).



CỬA HẤP GÀ TIỄN PHU

Chẻ cửa làm củi để hấp gà làm tiệc tiễn chồng.

Do tích vợ Bá Lý Hề là nàng Đỗ Thị, người hiền đức, thà ở nhà chịu cực khổ, khuyên chồng đi lập công danh. Nhà nghèo, chỉ có một con gà, lại không củi phải lấy tấm cửa gỗ chẻ làm củi để nấu gà làm tiệc tiễn chồng đi tìm công danh.

Xem: Bá Lý Hề.



Áo trâu đắp đông sương lạnh lẽo,

Cửa hấp gà mở nẻo tiễn phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CỬA HẦU

Bởi chữ “Hầu môn  ”, tức là cửa của các bậc vương hầu, như ta nói cửa quan quyền.

Do điển Thôi Giao đời Đường bán một người hầu thiếp vào nhà một vị vương hầu. Sau đó ông hết sức thương nhớ mà thăm không được, mới làm hai câu thơ: Hầu môn nhất nhập thâm như hải, Tùng thử tiêu lang thị lộ nhân  , , nghĩa là một khi vào cửa hầu thì sâu như bể, mà từ nay chàng ta như khách qua đường.

Xem: Hầu môn.



Vả nơi rốn bể cửa hầu,

Ra vào vì chút thẳm sâu ngại ngùng.

(Hoa Tiên Truyện).



CỬA KHÔNG

Do chữ “Không môn  ” chỉ cửa Phật

Cửa không là từ gọi chung Phật Giáo, bởi vì Phật chủ trương “Vạn pháp giai không  ”, tức là muôn sự vật đều không có tự thể riêng biệt, không có tự tánh, không có tính chất thường tại và bất biến. Vì vậy, người đời gọi Phật Giáo là “Không môn” hay Cửa không.

Xem: Không môn.



Khách rằng: Trong hội Vô già,

Cửa không, ngàn giác đấy là từ bi.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Mát mẽ cửa không trăng gió sẵn,

Dẫu chưa nên Phật, cũng nên Tiên.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



Một tiếng U Minh gióng cửa không,

Phồn hoa giục tỉnh giấc đương nồng.

(Đạo Sử).



Đau đớn thế nắn ra tượng Phật,

Lánh khổ nên vụ tất cửa không.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Linh đinh bể khổ dật dờ,

Xin cho thiếp gởi thân nhờ cửa không.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CỬA KHỔNG SÂN TRÌNH

Hay “Cửa Khổng Trình”.



Khổng: Chỉ Đức Khổng Tử. Trình: Chỉ Trình Di.

Cửa Khổng sân Trình có nghĩa là cửa và sân của Khổng Phu Tử và thầy Trình Di, dùng để chỉ chỗ dạy học trò, hay dạy đạo lý của Nho gia.

Xem: Khổng Tử và sân Trình.

1.- Cửa Khổng sân Trình:



Sớm khuya cửa Khổng sân Trình,

Dốc lòng nấu sử sôi kinh chớ rời.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



Ngày tháng mến vui nơi cửa Khổng,

Sa sương chớ ngại đứng sân Trình.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).

2.- Cửa Khổng Trình:

Ðưa chân đến cửa Khổng Trình xưa,

Nét hạnh muốn nên phải gắng ngừa.

(Đạo Sử).



CỬA KHỔNG LÀNG NHAN

Cửa Khổng: Do chữ “Khổng môn”, chỉ về Nho giáo. Làng Nhan: Tức Nhan Hồi, cũng chỉ về đạo Nho.

Cửa Khổng làng Nhan ý nói đạo lý của Khổng Tử và Nhan Hồi, tức chỉ về Nho giáo.

Ải Tần non Thục đường nham hiểm,

Cửa Khổng làng Nhan đạo khó khăn.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



CỬA MẬN ĐÀO

Mận đào do chữ “Đào lý công môn  ” chữ dùng để chỉ các ông quan có tài năng.

Do tích Địch Nhân Kiệt đời nhà Đường, có tiến cử lên vua 30 người, đều là những bậc hiền tài. Người đương thời khen: Thiên hạ đào lý tận tại công môn  , nghĩa là đào lý trong thiên hạ hầu hết ở tại cửa nhà Ngài mà ra.

Cửa mận đào, Cửa mận, Cửa mận tường đào đều được dùng để chỉ nhà quan, nơi quyền quý hay chốn quan trường.

Xem: Sân đào lý.



Vả con người cửa mận đào,

Việc gì mà khéo tìm vào non sâu.

(Truyện Phan Trần).



Ngoài cửa mận đào là khách đỗ,

Trong nhà cam quít ấy tôi mình.

(Quốc Âm Thi Tập).



CỬA MẬN TƯỜNG ĐÀO

Lấy ý từ chữ “Đào lý công môn  ” là cửa đào, mận, chỉ chung nơi hội họp của những người tài ba lỗi lạc.

Do tích Địch Nhân Kiệt đời nhà Đường tiến cử lên vua đều là những người tài năng, nên người đương thời khen: Thiên hạ đào lý tận tại công môn nghĩa là người hiền tài trong thiên hạ đều ở tại nhà Ngài.

Xem: Cửa mận đào.



Nhà thông đường trúc lòng hằng mến,

Cửa mận tường đào chân ngại chen.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



CỬA NGÔ

Bởi chữ “Ngô môn  ”, chỉ danh tướng nước Tề là Ngô Khởi, một anh hùng hào kiệt đời Xuân Thu.

Lý Bạch có câu: Yên Nam tráng sĩ Ngô môn hào, Thái Sợn nhứt trịch khinh hồng mao  , , nghĩa là đất Yên Nam có kẻ tráng sĩ thuộc dòng hào kiệt họ Ngô (Tức Ngô Khởi), ném non Thái nhẹ như lông chim hồng.

Xem Ngô Khởi.



Cửa Ngô cung kiếm giữ lề,

Trạng đầu may cũng cắm về cửa viên.

(Hoa Tiên Truyện).

CỬA PHẠM

Bởi chữ “Phạm môn  ”.

Phạm do từ Phạn ngữ là “Brahma”có nghĩa là thanh tịnh, Phật.

Phạm môn là cửa thanh tịnh hay cửa Phật, cũng có nghĩa là cửa chùa.



Tiếng u minh tía lia gợi thảm,

Giọng kình khua cửa phạm dập dồn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Cửa Phạm dầu xưa xem lạ nẻo,

Ðường Tiên từ đấy hết ngăn rào.

(Đạo Sử).



Gia nghiệp đã an con cái đủ,

Khá tua cửa Phạm đến cầu duyên.

(Đạo Sử).



CỬA QUYỀN

Bởi chữ “Quyền môn  ”, là cửa quyền dùng để chỉ nơi làm việc của các quan lại. Chốn quyền môn chỉ giới quan lại cầm quyền cai trị dân chúng.



Đâu đâu hoà chẳng đua thanh,

Cửa quyền tía đỏ lều tranh ỷ là.

(Hoài Nam Khúc).



Dầu hoạn lộ chưa vừa sở nguyện,

Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân.

(Kinh Thế Đạo).



Chồng ví đặng cửa quyền nắm phép,

Phàm chăn dân phải ép giữ nghiêm hình.

(Phương Tu Đại Đạo).



CỬA RỒNG

Bởi chữ “Long môn  ” là cửa rồng.

Do điển Lý Ưng đời nhà Hán có tiếng là người tài hoa lỗi lạc, những kẻ sĩ được đến nhà chơi, đều coi như là được tới cửa rồng.

Đợi ngày khác đi trình lý đối,

May hôm nay được tới cửa rồng.

(Thơ Lãng Nhân).



CỬA SỔ NGỰA QUA

Do chữ “Bạch câu quá khích  ” nghĩa là bóng ngựa trắng chạy qua kẻ hở.

Cửa sổ ngựa qua là một thành ngữ dùng để chỉ thời gian trôi qua mau.

Xem: Bạch câu.



Cũng như cửa sổ ngựa qua,

Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền?

(Lục Vân Tiên).



CỬA TỊNH

Cửa tịnh là cửa yên tịnh (Yên tĩnh), chỉ cửa chùa, hay chỗ ở của người tu hành.



Phất trần đưa sẵn bền tay níu,

Cửa tịnh đã đành phận náu nương.

(Đạo Sử).



CỬA TUYẾT

Đồng nghĩa với “Sân tuyết”, dùng để chỉ nhà của Trình Di, tức là trường học của Nho gia (Cửa Trình).

Bởi tích hai người học trò của Trình Di đến thăm, thấy ông ngồi nghĩ ngợi, đôi mắt lim nhim, nên không dám động, đứng yên chờ. Đến khi Trình Di mở mắt thì tuyết bên ngoài cửa đóng dày một thước.

Xem: Cửa Trình.



Đường mây hội mặt làng văn vật,

Cửa tuyết dan tay bạn sử kinh.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



Vưng theo sở lượng của Thiên Công,

Cửa tuyết chen chơn lánh khỏi vòng.

(Đạo Sử).



CỬA THÁNH MIẾU

Thánh miếu là miếu thờ Đức Khổng Tử và các vị Thánh hiền của Nho giáo.

Cửa Thánh miếu là chỉ giới Nho sĩ, tức là giới trí thức khoa bảng thời xưa.

Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,

Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.

(Nữ Trung Tùng Phận).

CỬA THIỀN

Do chữ “Thiền môn  ”. Thiền do tiếng Phạn là Thiền na chỉ sự thanh tĩnh. Môn: Cửa.

Cửa thiền là tiếng nhà Phật dùng để chỉ nơi chùa chiền, am tự.

Xem: Thiền môn.



Cửa thiền then nhặt, lưới mau,

Nói lời trước mặt, rời châu vắng người.

(Truyện Kiều).



Lắm phen ứng cử, đăng khoa,

Thi văn chẳng đỗ, lòn ra cửa thiền.

(Dương Từ Hà Mậu).



CỬA THƯỜNG BỎ NGỎ

Do nghĩa của câu: “Gia vô bế hộ  ”, tức là nhà không đóng cửa.

Cửa thường bỏ ngỏ là nói đời thái bình thịnh trị, nhân dân sung túc, người không tham lam, xã hội không có trộm đạo, nên nhà không đóng cửa.

Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,

Đêm năm canh an giấc ngáy pho pho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.

(Hàn Nho Phong Vị Phú).



CỬA TRÌNH

Bởi chữ “Trình môn  ”, tức cửa họ Trình.

Trình Di hiệu là Y Xuyên, một bực danh Nho đời Tống bên Tàu, học trò là Du Thù và Dương Thì mới đến học, thấy Trình Di lim nhim mắt ngồi im, hai người cứ đứng chờ không dám động. Khi Trình biết đến thì ngoài cửa tuyết dày đến ba thước. Nhân sự tích này, người ta dùng chữ “Trình môn lập tuyết” để ví với người học trò theo thầy chăm học.

Thông minh sẵn có tư trời,

Còn khi đồng ấu mải vui cửa Trình.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



Cửa Trình dầu đói nên no Ðạo,

Ðáy biển lòng người khó nổi soi.

(Đạo Sử).



CỬA VÕ

Hay “Cửa Vũ”.

Bởi chữ “Võ môn  ” là một cái cửa do vua Võ đào để trị thuỷ, nên gọi là Võ môn. Hằng năm vào tháng 7, mưa đổ xuống, cá gáy sắp thành hàng, nhảy lên núi cao. Con nào nhảy được hoá thành rồng.

Cửa Võ được người ta dùng để chỉ nơi thi cử hay việc thi đỗ đạt.

Xem: Võ môn.

Công danh ai chẳng ước mơ,

Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua.

(Lục Vân Tiên).



Kim ngư đeo ấn ở mình,

Cá trông cửa Vũ rồng giành hạt châu.

(Tư Dung Vãn).



CỨC KINH 

Cức: Gai nhọn. Kinh: Cây gai.

Cức kinh là gai chông, dùng để chỉ sự hiểm trở, hoặc chiến tranh, loạn lạc.



Thừa cơ lò lửa mũi lông,

Cức kinh lớp lớp, bụi hồng lưng lưng.

(Hoa Tiên Truyện).



CỰC LẠC 

Hay “Cự Lạc Thế Giới  ”, là một thế giới hết sức vui sướng.

Theo Kinh Di Đà của Phật, Cực Lạc Thế Giới hay Cực Lạc Quốc là một nước của A Di Đà Phật, ở về phương tây, nên còn gọi là Tây Phương Cực Lạc, nơi đó không có những điều khổ mà chúng sanh phải chịu, chỉ toàn những điều vui sướng mà thôi.

Miền Cực Lạc xe mây vùn vụt,

duyên hảo cầu sao bỗng dở dang.

(Văn Tế Quang Trung).



Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,

Tầm không môn đặng đợi Như Lai.

(Kinh Thế Đạo).



Hay nàng đặng nhập miền Cực Lạc,

Đoái tưởng người chưa thoát trầm luân.

(Kinh Thế Đạo).



Nhuộm áo nâu sồng về Cực Lạc,

Trau gươm trí huệ phủi đai cân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Tính niên rồi lại tủi thầm,

Con đường Cực Lạc biết tầm sao ra.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CƯỜI SƯƠNG CỢT TUYẾT

Sương tuyết chỉ mùa đông lạnh giá.

Cười sương cợt tuyết là cười đùa trêu cợt với nhau trong đêm đông lạnh lẽo nơi nệm thuý chăn loan.

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt,

Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CƯỠI RỒNG

1.- Bởi chữ “Thừa long  ” là Cưỡi rồng, chỉ sự chọn lựa được người chồng quý.

Sở Quốc Tiền Hiền Truyện chép: Hai người con gái của Thái uý Hoàng Yên gả cho Hoàng Hiến và Lý Ứng, là hai danh sĩ đời Hậu Hán, người đương thời gọi hai cô gái ấy đã cưỡi rồng, tức lấy được người chồng xứng đáng.

Xem: Thừa long.



Trai anh hùng, gái thuyền nguyên,

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.

(Truyện Kiều).



Cưỡi rồng ta đã bằng nguyền,

Ứng điềm hùng huỷ vầy đoàn gái trai.

(Truyện Trinh Thử).



Tôi đà phận đẹp cưỡi rồng,

Muốn cho nàng cũng chữ đồng vinh hoa.

(Nữ Tú Tài).

2.- Ngoài ra, chữ “Cưỡi rồng” còn có nghĩa chỉ vua chết, sau này chỉ chung người chết.

Dấu cưỡi rồng còn nhớ đức tiên quân,

Lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ?

(Hịch Tây Sơn).



CƯƠNG TỈNH PHONG THANH 

Cương: Bờ cõi. Tỉnh: Giếng nước, đây chỉ làng xóm. Phong: Phong tục, thói nếp. Thanh: Tức là 
thanh danh, tiếng tăm.

Cương tỉnh phong thanh nghĩa là thói nếp tiếng tăm ở chỗ làng xóm.



Vả trong cương tỉnh 
phong thanh,

Giang sơn một giải triều đình tri danh.

(Truyện Trinh Thử).



CƯƠNG TOẢ 

Cương là sợi dây giàm buộc ngựa. Toả là cái khoá mồm ngựa.

Ngựa là vật hay chứng, nên sợi dây giàm hay khoá miệng bắt buộc ngựa phải theo người cỡi, không thể tự do rong ruổi được.

Nghĩa bóng: Dùng để chỉ bị ràng buộc.

Sách có câu: “Danh cương lợi toả  ”, có nghĩa danh lợi ràng buộc con người.

Xem: Danh cương lợi toả.



Ngoài vòng cương toả chân cao thấp,

Trong túi yên hà mặc tỉnh say.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Cương tỏa đương thời đã giải vây

Đừng mơ căn nghiệt một đời này

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Trời Nam vừa thọ ánh dương quang,

Cương tỏa tiêu tan thấy cảnh nhàn

(Đạo Sử).



CƯƠNG THƯỜNG 

Hay “Cang thường”.

Do câu: “Tam cương ngũ thường  ”.

Cương là sợi dây lớn ở cái lưới, chỉ điều cốt yếu. Thường là đức tính thông thường, quen thuộc của con người.

Tam cương là ba giềng mối giữa vua tôi, cha con, vợ chồng.

Ngũ thường gồm nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

1.- Cương thường:

Quở rằng: Ai nhủ người mà?

Đặt bày phong nguyệt, dèm pha cương thường.

(Hoa Tiên Truyện).



Đem thân đối với cương thường.

Tạ lòng người cũ treo gương dưới đời.

(Nhị Độ Mai).



Nhà năm ba gánh cương thường,

Phận ai nấy giữ, trọn giường thời thôi.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

2.- Cang thường:

Nên lo cho đặng mối cang thường,

Thường bữa trau giồi cái tánh cương.

(Đạo Sử).



Sửa sang cho vẹn đạo cang thường,

Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.

(Đạo Sử).



Đã biết nhau nên đạo cang thường,

Đã thương khá bền thương đừng đổi dạ.

(Phương Tu Đại Đạo).



CƯƠNG TRỰC 

Hay “Cang trực”.



Cương: Cứng cỏi. Trực: Ngay thẳng.

Cương trực là cứng cỏi và ngay thẳng, tức là người có tinh thần dám giữ và nói thẳng ý kiến theo lẽ phải của mình trong bất cứ trường hợp nào.



Cang trực lòng trong cũng đáng khen,

Tuy vân nghèo khó đức không hèn.

(Đạo Sử).



CƯỚP SÁO BẮT THÙ

Lấy nghĩa từ câu “Đoạt sáo cầm Hồ  ”.

Do tích Trần Quang Khải cướp giáo giặc ở bến Chương Dương và bắt rợ Hồ ở cửa Hàm Tử.

Tương truyền khi Trần Quang Khải vào thành Thăng Long, mở tiệc khao quân thì khẩu chiếm bài thơ sau: Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử giang san.

Xem: Chương Dương.

Chương Dương cướp sáo giặc,

Hàm Tử bắt quân thù,

Thái bình tua gắng sức,

Non nước ấy nghìn thu.

(Thơ dịch Trần Trọng Kim).



CƯU CHUYẾT 

Chim cưu vụng về. Chim cưu không làm tổ, đợi chim khác làm tổ rồi đến ở.

Cầm Thư có viết: Cưu chuyết nhi an , tức là chim cưu tuy vụng về nhưng vẫn sống yên ổn, vì sống nhờ tổ các con chim khác.

Cưu chuyết có ý chỉ lời tự khiêm vụng về.



CƯU CƯ 

Chim cưu (Tu hú) vụng về không làm được tổ, chỉ đến giành tổ con chim thước (Chim khách).

Kinh Thi có câu: Duy thước hữu sào, duy cưu cư chi  , , chim thước có tổ, chim cưu đến ở.

Nghĩa bóng: Người ở đậu, hoặc chiếm đất người gọi là cưu cư thước sào (Chim cưu ở tổ chim thước).



CƯU THƯỚC 

Cưu thước tức là chim thư cưu, một loài chim luôn luôn sống từng đôi với nhau.

Xem: Quan thư.

Kìa cá giỡn vẩn vơ đáy nước,

Nọ kết đôi cưu thước ven trời.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CỨU KHỔN PHÙ NGUY 

Cứu: Giúp đỡ. Khổn: Hết sức khó khăn. Phù: Dìu dắt. Nguy: hiểm nguy.

Cứu khổn phù nguy là cứu giúp kẻ khó khăn, phù trợ người nguy hiểm.



CỨU THẾ ĐỘ NHÂN 

Cứu thế: Cứu đời. Độ nhân: Giúp người.

Cứu thế độ nhân tức là cứu đời giúp người. Đồng nghĩa với câu “Cứu nhân độ thế”.



Ham phương cứu thế độ nhân,

Giải mê khách tục, cõi trần lánh xa.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CỬU ĐỈNH 

Vua Võ nhà Hạ cho đúc chín cái đỉnh (Vạc) để chỉ chín Châu trong nước, sau các triều đại khác xem cửu đỉnh như quốc bảo, nên còn gọi là cửu bảo , dùng để tượng trưng cho quyền lực của vua trong toàn đất nước.

Ở Việt Nam, đời vua Minh Mạng có cho đúc chín cái đỉnh đặt trước Thế miếu.

CỬU HẠN 

Cửu : Lâu ngày. Hạn: Khô hạn, không mưa.

Cửu hạn là nắng đã lâu ngày, không mưa. Nên khi trời có mưa thì người ta gọi cửu hạn phùng cam võ  , nghĩa là nắng lâu lại gặp mưa ngọt.

Nghĩa bóng: Khổ lâu ngày gặp sướng.

Xem: Cửu hạn phùng cam võ.



Giấc chiêm bao những đêm xưa,

Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CỬU HẠN PHÙNG CAM VÕ 

Cửu hạn: Trời nắng hạn lâu. Phùng cam võ: Gặp cơn mưa ngọt.

Trời hạn hán lâu ngày, không mưa, thiếu nước. Nên khi trời bỗng có mưa thì người ta gọi là “Cửu hạn phùng cam võ, nghĩa là Hạn lâu ngày gặp mưa ngọt.



Cửu hạn phùng cam võ,

Tha hương ngộ cố tri.

(Nhạc Hoa Linh).



CỬU HOÀN 

Cửu: Chín. Hoàn: Vòng quanh.

Cửu hoàn là chín cõi trong khắp trái đất, như chữ “Hoàn cầu”, chỉ cả thế giới.



Dưới thiều quang thấp thoáng bóng Nam san,

Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ.

(Thơ Cao Bá Quát).



CỬU LƯU 

Chín học phái lớn đời Xuân Thu, Chiến Quốc.

Ngày xưa ở Trung Quốc các triết gia chia ra làm chín học phái: Nho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tạp gia, Tung hoành gia và Nông gia.

Trong đám Cửu lưu đều nói tổ,

Bên đường Tam giáo cũng xưng thầy.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Bày cửu lưu cứ giữ nghề xưa,

thầm tủi vô cô chịu cực.

(Văn Tế Nghĩa Sĩ).



CỬU NGŨ 

Theo Dịch lý, số Cửu đại diện cho hào dương. Hào dương ở ngôi thứ năm trong sáu hào của mỗi quẻ, gọi là cửu ngũ.

Quẻ Càn ở kinh Dịch có sáu hào dương, hào ở ngôi thứ năm (Tức hào Cửu ngũ) có lời: Long phi tại thiên, lợi kiến đại nhân , nghĩa là rồng bay ở trời, lợi về sự thấy người lớn.

Quẻ Càn tượng cho vua, hào cửu ngũ tượng cho ngôi vua.



Đem ấn rồng nạp tới long môn,

Cho Tạ thị đăng quang cửu ngũ,

(Nhạc Hoa Linh).



CỬU NGUYÊN 

Cửu: Chín. Nguyên: Nguồn suối.

Cửu nguyên, cũng như Cửu tuyền là Chín suối, chỉ cõi Địa ngục hay Âm phủ.



Minh dương đôi ngả chắc rồi,

Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên!

(Truyện Kiều).



Thương thay trung nghĩa như ai,

Sa cơ một phút ra người cửu nguyên

(Nhị Độ Mai).



Xót ai thui thủi phương trời,

Hồng nhan khi đã ra người cửu nguyên.

(Nhị Độ Mai).



CỬU NHƯ 

Trong “Thiên bảo” của Kinh Thi có nói về 9 lời chúc gọi là “Cửu như” sau: 1- Như sơn: Giống như núi. 2- Như phụ: Giống như gò. 3- Như cương: Giống như bờ cõi. 4- Như lăng: Giống như gò nhỏ. 5- Như xuyên chi phương chí: Giống sông chảy đi khắp nơi. 6- Như nguyệt chi hằng: Sáng như mặt trăng. 7- Như nhật chi thăng: Lên như mặt trời. 8- Như Nam sơn chi thọ: Thọ như Nam sơn. 9- Như tùng bá chi mậu: Xanh tươi như tùng bá.



Phúc lành chúc chữ cửu như.

Của tin mấy quyển đồ thư dâng vào.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CỬU PHẨM LIÊN HOA 

Cửu phẩm liên hoa là chín phẩm hoa sen.

Người tu pháp môn Tịnh độ tuỳ theo tịnh nghiệp nhiều ít được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Chúng sanh ở cõi Tịnh độ này được hoá sanh từ hoa sen. Về ở một trong chín bậc hoa sen cao thấp khác nhau, chia làm ba cấp: Thượng, trung, hạ và mỗi cấp lại chia làm ba bậc: Cao, vừa, thấp, cộng chung chín bậc, gọi là “Cửu phẩm liên hoa”

Cửu phẩm liên hoa tu đạt vị,

Bát hồn nhạc khí tấu huân Thiên.

(Thơ Huệ Phong).



CỬU PHẨM THẦN TIÊN 

Cửu phẩm: Chín phẩm cấp. Thần Tiên: Chỉ chung các Đấng từ Thần, Thánh, Tiên , Phật.

Cửu Phẩm Thần Tiên là chín bậc phẩm từ Thần đến Tiên, trong đó gồm ba bậc Thần, ba bậc Thánh, và ba bậc Tiên được kể như sau: Địa Thần, Nhơn Thần, Thiên Thần, Địa Thánh, Nhơn Thánh, Thiên Thánh, Địa Tiên, Nhơn Tiên, Thiên Tiên.



Dưới phân chín cấp nối liền,

Tượng trưng Cửu Phẩm Thần Tiên Thánh hình.

(Thi Giải).



Cửu Phẩm Thần Tiên quy Thánh thể,

Tam Tài Thiên địa hợp nhơn sinh.

(Thơ Huệ Phong).



CỬU TIÊU 

Cửu: Chín. Tiêu: Bầu trời, mây xanh.

Cửu tiêu chín tầng mây cao hay chín tầng trời.

Theo kinh sách đạo Tiên, Cửu tiêu gồm: Thần tiêu  Thanh tiêu  Bích tiêu  Linh tiêu  Đan tiêu  Cảnh tiêu Ngân tiêu  Tử tiêu  Vân tiêu  .

Tô Thức có câu: Tự cố anh trần do vị trạc, cửu tiêu chung nhật tiển minh hồng  , , nghĩa là tự nhìn lại bụi trần nơi dải mũ còn chưa giặt sạch, trông chín tầng cao thẳm mà cả ngày nhớ tiếng chim hồng bay.



Đại địa dày Nam Nhạc khoẻ,

Cửu tiêu thẳm Bắc thần cao.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



CỬU TUYỀN 

Cửu: Chín. Tuyền: Suối.

Cửu tuyền là “Chín suối”, chỉ cõi Âm phủ.

Người xưa có quan niệm rằng ở dưới suối vàng hay Âm phủ có chín ngọn suối màu vàng, nên mới gọi là “Cửu tuyền” hay “Chín suối”.

Xem: Hoàng tuyền.



Trên tam đảo dưới cửu tuyền,

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.

(Truyện Kiều).



Rày vua gả thiếp về Phiên,

Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.

(Lục Vân Tiên).



Đưa tay vịn phép diệu huyền,

Ngọc Hư lập vị Cửu tuyền lánh chơn.

(Kinh Tận Độ).



Thiệt thòi cam phận thuyền quyên,

Chứa chan giọt lệ Cửu tuyền cuộn trôi.

(Kinh Thế Đạo).



Hiền lành là phước dẫn nguồn Tiên,

Chưa đặng trọn chưng khách Cửu tuyền.

(Đạo Sử).



CỬU TỰ CÙ LAO 

Cù lao chín chữ, tức là chín điều khổ cực mà cha mẹ sanh thành dưỡng dục cho con cái.

Chín công việc đó là: 1.- Sinh: Đẻ con. 2.- Cúc: Nâng đỡ. 3.- Phủ: Vuốt ve. 4.- Xúc: Cho bú. 5.- Trưởng: Nuôi cho lớn. 6.- Dục: Dạy dỗ. 7.- Cố: Trông nôm. 8.- Phục: Săn sóc dạy dỗ. 9.- Phúc: Che đỡ.

Thương thay cửu tự cù lao,

Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.

(Lục Vân Tiên).



Cửu tự cù lao hà đắc báo,

Tư thời hoài niệm đoạn can trường.

(Nhạc Hoa Linh).



CỬU THIÊN 

Tức là “Cửu Thiên Huyền Nữ  ” là vị Nữ Tiên đời thượng cổ nước Trung Quốc.

Tương truyền rằng khi vua Hoàng Đế đánh với Xy Vưu, bà Cửu Thiên Huyền Nữ dạy binh pháp cho. Ngày nay còn truyền rằng những sách lục nhâm, độn giáp là do Huyền Nữ truyền thụ.

Theo Cao Đài, Cửu Thiên Huyền Nữ hay Cửu Thiên Nương Nương tức là Đức Phật Mẫu Diêu Trì Cung. Chính bài thài Đức Phật Mẫu có khoán thủ bốn chữ “Cửu Thiên Huyền Nữ” như sau: Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên, Thiên thiên cửu phẩm đắc cao huyền. Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ, Nữ hảo thiện căn đoạt cửu thiên  , . , , nghĩa là thọ sắc lịnh Thượng Đế giáng trần kiếp thứ chín vào thời vua Hiên Viên Huỳnh Đế, Nơi cõi Thiên, cửu phẩm Thần Tiên đều cao siêu, huyền diệu. Nơi cõi Hư vô, Đức Phật Mẫu dùng huyền diệu tạo ra cõi trần và các nữ Thần Tiên, Người nữ nào có thiện căn thì đoạt được phẩm vị trong cửu trùng thiên.



Chống nạnh sơ đồ Đấng Cửu Thiên,

Ba ngôi Thánh Tổ tiếp ban truyền.

(Thơ Huệ Phong).



CỬU TRÙNG 

Cửu: Chín. Trùng: Lớp.

Cửu trùng là chữ dùng để chỉ chỗ vua ngự, nơi đó thâm nghiêm qua chín lớp cửa mới đến nơi được.

Sở Từ có câu: Quân môn hề cửu trùng  , tức là cửa vua ở chín từng.

Lại có người cho rằng: Phẩm cấp triều đình có chín bậc, đứng theo thềm điện trước sân chầu, bên trên chín bậc ấy là ngôi vua, nên người ta gọi vua là Cửu trùng.



Đóa lê ngon mắt cửu trùng,

Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Lạy rồi ren rén tâu lên,

Chúc câu vạn tuế, dâng lên cửu trùng.

(Nhị Độ Mai).



Anh thì làm một bản văn,

Để tôi tâu với Thánh quân cửu trùng.

(Nữ Tú Tài).



Tờ oan tỏ hết bao lời,

Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng?

(Tự Tình Khúc).



CH

CHẢ PHƯỢNG NEM LÂN

Chim phượng và kỳ lân là hai con vật rất nên quý hiếm, thuộc hàng tứ linh: Long, Lân, quy, phượng. Vì vậy, người ta thường mượn phượng, lân để chỉ những vật quý báu.

Chả phượng nem lân ý muốn nói những thức ăn trân quý, sang trọng.

Chẳng kỳ chả phượng nem lân,

Mâm trơn bát sạch, quỉ thần đâu xa.

(Huấn Nữ Ca).



CHÁY MÀY

Bởi chữ “Nhiên my chi hoả  ” tức là lửa cháy lông mày, nói những việc sắp xảy đến rất gần.

Cháy mày chỉ chuyện khẩn cấp, gắp rút như lửa cháy lông mày.

Chừa khi đến đổi cháy mày,

Vội chi mà bỏ chốn này đi đâu.

(Truyện Trinh Thử).



CHÁY THÀNH VẠ LÂY

Do câu “Thành môn thất hoả, ương cập trì ngư  , ” nghĩa là cửa thành lửa cháy, cá trong ao bị vạ lây. Bởi vì muốn tưới tắt cửa thành, phải múc cạn nước ao. Vì thế, cá ao phải khô chết.

Sách Lã Thị Xuân Thu chép: Tư mã Hoàn có một hạt châu rất quý. Trong khi bị tội, ông bỏ chạy trốn, vua cho người chạy theo hỏi hạt châu, thì ông cho biết ném xuống ao cá rồi. Vì vậy, người ta tát cạn ao cá để tìm hạt châu. Hạt châu tìm chẳng thấy, nhưng cá bị khô nước mà chết lây.

Mong ra động đạt đế đình,

Lại lo những sự cháy thành vạ lây.

(Truyện Phan Trần).



CHÀY ĐÂM THUỐC

Tức nói cây chày ngọc dùng để giã thuốc huyền sương ở Lam Kiều.

Do điển Bùi Hàng muốn cưới nàng Vân Anh, bà lão chủ quán ở Lam Kiều thách phải tìm một cây chày ngọc để giã thuốc. Bùi Hàng tìm được nên bà lão gả nàng Vân Anh cho, sau hai người đều lên tiên.

Xem: Chày sương.



Cô tiên thách mực chày đâm thuốc,

Lộng Ngọc xin làm bạn thổi tiêu.

(Hồng Đức Quốc Âm).

CHÀY KÌNH

Chày kình là cây chày dọng đại hồng chung có chạm hình con cá kình.

Lời chú bài phú của Ban Cố có chép: Trong biển có một loại cá, gọi là cá kình rất lớn, bờ gần biển có một loại thú gọi là bồ lao. Con bồ lao rất sợ cá kình. Mỗi lần cá kình lội vào bờ để đánh bồ lao thì bồ lao kêu rống to lên. Cho nên người xưa muốn đúc chuông lớn kêu to, thì đúc hình con bồ lao trên chóp chuông, và chạm cá kình nơi chày dọng chuông. Khi chày kình dọng vào chuông bồ lao thì chuông kêu to lên.

Thoảng bên tai một tiếng chày kình,

Khách tang hải giựt mình trong giấc mộng.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



Chày kình tiểu để suông không đấm,

Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo

(Thơ Hồ Xuân Hương).



Chày kình một tiếng Nam Mô Phật,

Mỏ cái đôi hồi rị tố ra.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



Chày kình gióng tỉnh giấc Vu san,

Mái tóc kim sinh nữa trắng vàng.

(Thơ Tôn Thọ Tường).



CHÀY KÌNH NỆN SƯƠNG

Chày kình là cây chày có chạm cá kình, các chùa dùng để dọng chuông. Nện sương là đánh chuông vào lúc sương rơi.

Các ngôi chùa thường công phu vào sáng sớm hoặc chiều tối, nên tiếng chuông chùa thường vang lên trong cảnh sương rơi, đó là chày kình nện sương.

Chim cúng quả, cá 
nghe kinh,

Then hoa cài nguyệt, chày kình nện sương.

(Hương Sơn Hành Trình).



CHÀY SƯƠNG

Tức là chày ngọc giã thuốc huyền sương, một loại thuốc tiên được chép trong điển “Cầu Lam”.

Bùi Hàng đến Lam Kiều, xin cưới người con gái của bà chủ quán nước tên là Vân Anh. Bà chủ quán hiện có cái cối bằng ngọc, muốn Bùi Hàng kiếm một cái chày cũng bằng ngọc đem đến giã thuốc thì bà sẽ gả nàng con gái cho.

Bùi Hàng may mắn tìm được chày ngọc, nên sau mới cưới được nàng Vân Anh.Do vậy, chày sương chỉ sự nên duyên.

Xem: Lam Kiều.

Chày sương chưa nện cầu Lam,

Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?

(Truyện Kiều).



CHÀNG CHU

Hay “Chàng Châu”.

Tức chàng Châu Mãi Thần, người đời Hán, nhà nghèo nhưng rất chăm học, vừa gánh củi đi bán,vừa mang theo sách để học. Vợ chê nghèo, bỏ ông để đi lấy chồng khác.

Sau Châu Mãi Thần được người tiến cử lên vua Hán Võ Đế, vua phong làm quan to, người vợ muốn trở lại, nhưng Mãi Thần bảo người vợ cũ đổ tô nước xuống đất nếu hốt lại đầy như cũ thì ông cho nàng về.

Xem: Châu Mãi Thần.

Con thuyền trúc lân la trước gió,

khúc Thương Lang đưa gánh củi chàng Chu.

(Tụng Tây Hồ Phú).



CHÀNG DÙ LỘNG THIẾP ĐAI CÂN

Ngày xưa, các sĩ tử thi đậu, triều đình bổ cho làm quan. Để làm rỡ ràng tông môn, vua ban cho chồng thì dù lộng, vợ thì đai cân để vinh quy bái tổ. Ý nói chồng được vinh hiển thì vợ cũng vẻ vang.



Lo lắng chung cùng lo lập nghiệp,

Lo chàng dù lộng thiếp đai cân.

(Đạo Sử).



CHÀNG HOẰNG

Tức là Công Tôn Hoằng, tự là Quý Tề, người đời Hán, nhà nghèo, rất chăm học, không có tiền mua sách, thường phải chép vào mảnh tre để học. Đến đời Hán Võ Đế, thi đỗ đầu, được bổ Bác sĩ, rồi thăng đến Thừa tướng và được phong tước Hầu.



Chàng Hoằng không sách biết sao,

Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.

(Gia Huấn Ca).



CHÀNG HỒ

Tức chàng Đổng Hồ.

Đổng Hồ là một vị sử quan nước Tấn đời Xuân Thu. Vua Tấn Linh Công bị Triệu Xuyên giết, trong lúc Triệu Thuẩn cầm quyền chính trong nước lại chạy trốn định qua nước khác, nhưng vừa qua khỏi thành thì nghe tin vua chết, bèn trở về triều. Đổng Hồ bèn chép vào sử: Triệu Thuẩn giết vua. Thuẩn xin Đổng Hồ sửa lại, Đổng Hồ không chịu, Thuẩn dùng quyền lực cưỡng bức, Đổng Hồ nói: Giết tôi thì được nhưng sửa bút tôi không được. Khổng Tử khen Đổng Hồ là một sử gia giỏi. Xem: Đổng Hồ.

Mượn thế đặng toan phương giác thế,

Cũng như nương viết của chàng Hồ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CHÀNG KHUÔNG

Tức Khuông Hành, một người học trò rất chăm học, nhà nghèo không tiền mua dầu đốt đèn, phải khoét thủng lỗ vách để áng sáng nhà hàng xóm chiếu sang mà đọc sách. Về sau, Khuông Hành trở nên người có tiếng tăm lớn.



Cần nghiệt nho khi tạc bích tụ huỳnh,

Thuở trước chàng Khuông, chàng Vũ.

(Hàn Nho Phong Vị Phú).



CHÀNG MÃO THIẾP CÂN

Tức chồng làm quan, mặc áo mão triều đình, thì vợ cũng được đội khăn, ý nói khi chồng vinh hiển thì vợ cũng vẻ vang, tức là vợ chồng cùng chung hưởng.



Vinh thì chàng mão thiếp cân,

Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHÀNG NGƯU

Hay chàng ngâu, tức là một người chăn trâu trên thiên đình, gọi là Ngưu Lang, kết duyên với người con gái dệt vải, gọi là Chức nữ. Hai người bị đày ở hai bên sông Ngân Hà, mỗi năm nhờ chim quạ bắc cầu, mới gặp nhau vào đêm thất tịch.

Xem: Ngưu lang, Chức nữ.

Bao giờ bắc lại cầu ô,

Mà cho ả Chức chàng Ngưu tới gần?

(Bần Nữ Thán).



CHÀNG PHAN

Tức Phan Nhạc, là người đời Tấn, tự An Nhơn. Lúc tuổi trẻ ông có dung mạo xinh đẹp, tài học cao siêu, văn chương diễm lệ. Ông thường hay cầm đàn ra đường ở Lạc Dương, phụ nữ vây quanh trêu ghẹo hay theo ném hoa quả vào ông.

Chàng Phan là muốn nói người có hình dáng hào hoa, tuấn tú.

Xem: Phan Lang.



Kể điều tài mạo cũng ngoan,

Gã Tào kiếp trước, chàng Phan phen này.

(Quan Âm Thị Kính).



CHÀNG SIÊU

Tức Ban Siêu, người đời Đông Hớn, tự là Trọng Thăng, nhà rất nghèo, nhưng có chí lớn, thường đi viết mướn lấy tiền ăn học và nuôi mẹ già, không màng khó nhọc. Sau Ban Siêu đầu quân đánh giặc ở miền Tây Vực, thu phục hơn năm mươi nước nhỏ, được phong làm Định Viễn Hầu.

Xem: Ban Siêu.

Phận trai già cõi chiến trường,

Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CHÀNG TIÊU

Tức là “Tiêu Lang  ”.

Tiêu Lang có một người vợ tên là Lục Châu bị người ta bắt đem dâng cho Quách Tử Nghi. Từ đó Tiêu Lang thấy vợ mình thì cứ thản nhiên như khách đi qua đường, không để ý đến.

Sau này, cũng có một người tên Thôi Giao, có người thiếp đem bán cho Liên Soái. Sau khi bán xong, Giao nhớ nàng mới làm bài thơ, trong đó lấy điển “Tiêu Lang” để làm hai câu thơ: Hầu môn nhất nhập thâm như hải, Tùng thử Tiêu Lang thị lộ nhân  , , nghĩa là Hầu môn vào đó sâu như biển, chàng Tiêu từ đấy khách qua đường.

Liên Soái xem được bài thơ này liền tha cho người thiếp trở về với Thôi Giao.

Có điều chi nữa mà ngờ,

Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu!

(Truyện Kiều).



CHĂN CÙ

Chăn cù là cái chăn (Mền), làm bằng lông con cù, một loại lông dùng để làm chăn, mền, vào mùa đông giá rét đắp rất ấm.



Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,

Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CHĂN CHIẾU LẠNH LÙNG

Chăn chiếu là những vật trong phòng ngủ của đôi vợ chồng, dùng để lót nằm và đắp ấm. Thế mà “Chăn chiếu lạnh lùng” là ý nói vợ chồng xa nhau, để người ở lại bị lạnh lùng.



Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.

Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHĂN DÂN

Do chữ Hán “Mục dân  ”.

Người xưa quan niệm rằng vua, quan cai trị dân chúng chẳng khác gì mục đồng chăn nuôi gia súc.

Do vậy người ta thường dùng chữ chăn dân nghĩa là chăn dắt dân chúng để chỉ việc cai trị nhân dân.



Cho hay muôn nước đều nhờ,

Đạo ông Khổng Tử làm bờ chăn dân.

(Dương Từ Hà Mậu).



Kiều công lên chức Thái khanh,

Chỉ sai ra quận Đông Thành chăn dân.

(Lục Vân Tiên).



Dầu hoạn lộ chưa vừa sở nguyện,

Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân.

(Kinh Thế Đạo).



Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,

Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.

(Ngụ Đời).



Vợ không tham nhũng kim tiền,

Chồng lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Chồng ví đặng cửa quyền nắm phép,

Phàm chăn dân phải ép giữ nghiêm hình.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHĂN DÊ

Do tích Tô Võ đời Hán Võ Đế bị chúa Hung Nô ép hàng phục, nhưng Tô Võ không chịu. Chúa Hung Nô giận, bắt Tô Võ bỏ vô hang ba ngày không cho ăn uống. Song Tô Võ nhờ uống nước giọt sương trên ngù cờ thấm giọng, nên không chết. Chúa Hung Nô cho Tô Võ là thần, không dám hại, chỉ đày ra ải bắc chăn dê, chờ chừng nào dê đực đẻ mới cho về xứ.

Mười chín năm sau, chừng Hung Nô giải hòa với nhà Hán, Tô Võ mới được tha về.

Ngồi đêm đông,

thương người nằm giá khóc măng;

Lên ải Bắc,

thương kẻ chăn dê uống tuyết.

(Sãi Vãi).



CHĂN GỐI

Trong văn chương người ta thường dùng chữ “Chăn gối”, tức là cái chăn, cái gối, để chỉ tình yêu hoà hợp và việc ân ái giữa vợ chồng.



Chưa chăn gối cũng vợ chồng,

Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?

(Truyện Kiều).



Tôi nhớ xưa tích cũ,

có hai chàng Dương Lễ, Lưu Bình,

bạn đồng song đèn sách học hành,

ba thu lẻ kể cùng chăn gối.

(Lưu Bình Diễn Ca).



Máu ghen chăn gối dẫy tràn,

Hình mai ủ dột, sắc càng héo don.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHĂN LOAN

Từ câu “Chăn loan gối phượng”.

Chăn làm bằng lông chim loan, hoặc có thêu hình chim loan, đồ vật trong phòng của đôi vợ chồng, chữ thường dùng để ví với tình yêu khắng khít, bền chặt của đôi vợ chồng.

Xem: Chăn loan gối phượng.



Từ kết tóc sớm trao giây tú mạc,

Ba thu vừa mới ấm chăn loan.

Vì cắt râu nên nỗi sóng Ngân hà,

Một khắc nào ngờ tan dịp thước.

(Quan Âm Thị Kính).



Kẻo tôi vò võ môn phòng,

Lẽ loi gối phượng lạnh lùng chăn loan.

(Hoa Tiên Truyện).



CHĂN LOAN GỐI PHƯỢNG

Chăn loan gối phượng là tiếng dùng để chỉ chăn, gối của đôi vợ chồng trẻ. Loan là chim mái, phượng là chim trống, cho nên chăn được thêu hình chim loan, gối thêu hình chim phượng để ví với vợ chồng hoà thuận, khắn khít nhau.



Chăn loan gối phượng sẵn sàng,

Màn đào rủ dọc, lầu hường trải ngang.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Ngồi trong cửa sổ chạm rồng,

Chăn loan gối phụng không chồng ra chi.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CHĂN TRÂU TREO SÁCH

Bởi chữ “Ngưu giác quải thư  ” tức là treo sách trên sừng trâu.

Do tích: Lý Mật đời nhà Đường, nhà nghèo khó, phải đi chăn trâu. Nhưng ông là người siêng học, hằng ngày túi sách treo trên sừng trâu, đuổi ra đồng, vừa chăn trâu vừa đọc sách. Sau đỗ đạt, lập nên sự nghiệp.

Xem: Lý Sinh.



Lý Sinh chẳng quản công phu,

Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.

(Gia Huấn Ca).



CHẲNG CHỊU LỘC CHÂU

Chẳng chịu thọ tài lộc, và không hưởng bất kỳ một sản vật gì của triều đại nhà Châu.

Điển tích nói về Bá Di, Thúc Tề, hai người con của vua Cô Trúc, vì can ngăn Võ Vương đừng đánh vua Trụ không được. Sau Võ Vương lập nên nhà Châu, hai anh em không ăn cơm gạo nhà Châu, bỏ lên núi Thú Dương hái rau vi mà nuôi sống. Có người gặp, chê rằng: Không ăn thóc nhà Châu, đi ăn rau để sống. Vậy chớ ngọn rau tấc đất không phải của nhà Châu là gì? Bá Di, Thúc Tề nghe được câu chuyện đó, bèn nhịn đói mà chết.

Xem: Di Tề.



Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu,

Ăn thể ăn đi chịu thảm sầu.

(Đạo Sử).



CHẲNG ĐỘI TRỜI CHUNG

Bởi chữ “Bất cộng đái thiên  ” tức không đội chung một bầu trời.

Hai bên vì hận thù nhau ghê gớm, quyết không sống chung dưới bầu trời.

Nghĩa bóng: Chỉ sự thù hận.



Kẻ thời theo cơ đích chạy sang miền khách địa,

hăm hở mài nanh giũa vuốt,

chỉ non tây thề chẳng đội trời chung.

(Trận Vong Tướng Sĩ).



CHẲNG LƯỢM CỦA RƠI

Bởi câu “Lộ bất thập di  ”, tức là của rơi rớt giữa đường không có ai lượm, chỉ đời thái bình thịnh trị, dân chúng được sung túc, không tham lam.

Do truyện Khổng Tử khi giết chết tên gian thần Thiếu Chính Mão, giúp vua Định Công nước Lỗ sửa sang việc trị nước. Được ba tháng, thì phong tục biến đổi, nhà không đóng cửa, đường không ai lượm của rơi

Gia vô bế hộ, lộ bất thập di 
, .

Chợ chưa ra giá bán;

đường chẳng lượm của rơi.

(Sãi Vãi).



CHẮP CÁNH LIỀN CÀNH

Do câu “Tỷ dực liên chi  ”, tức là chim chắp cánh, cây liền cành, dùng để chỉ vợ chồng không rời xa nhau.

Trong Trường Hận Ca, Đỗ Phủ có câu: Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi  , , nghĩa là trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành.

Xem: Tỷ dực liên chi.



Trong khi chắp cánh liền cành,

Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.

(Truyện Kiều).



Những lăm chắp cánh liền cành,

Đã mềm tóc uốn, lại quanh tơ vò.

(Hoa Tiên Truyện).



CHÂM THẦN 

Tập Kê Chích ghi: Tiết Cơ tài chế, nhã hiệu Châm thần  , , tức là nàng Tiết Cơ may cắt, gọi thanh nhã là tay Châm thần (Kim thần).

Nàng Tiết Cơ là người đẹp của Nguỵ Văn Đế, tên là Tiết Linh Vân. Đêm tiến vào cung, đổi tên là Dạ Lai, có tài về nghề kim chỉ, thêu thùa, đêm tối không cần đèn lửa, may cắt rất mau, nên nàng được ban cho hiệu là “Châm thần”.

CHẬM SÁT 

Chậm: Tên một loại chim độc, thích ăn rắn. Dưới tổ chim chậm, cây cỏ không mọc được. Dùng lông chim chậm khuấy vào rượu uống thì chết ngay. Sát: Giết.

Chậm sát tức là giết bằng thuốc độc.



Ngôi thiêng sao xứng tài thường.

Trần Công chậm sát để nhường long phi.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHÂN CHÚA 

Chân: Thật. Chúa: Chủ, vua chúa.

Chân chúa là vị vua chơn chánh, tức là vị vua anh minh, hợp với lòng mong mỏi của nhân dân.

Cũng có thể hiểu vị vua thuộc dòng chính.

Bao giờ chân chúa ra đời,

Quốc gia hưng thịnh, nơi nơi thanh bình.

(Ca Dao).



Thái bình trăm họ nhìn chơn Chúa,

Thạnh trị ba châu trổ trí Thần.

(Đạo Sử).



CHÂN ĐẠO 

Hay “Chơn Đạo”.

Chân Đạo hay chơn Đạo là một nền Đạo có giáo pháp chơn thật, nên còn gọi là chơn pháp. Người tu theo mối Chơn Đạo nầy thì khỏi đi lầm vào tà Đạo, và cố tâm nhất định sẽ đắc Đạo.

Nay con phước gặp nền Chơn Ðạo,

Ngọc tốt bền trau sắc rạng ngời.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Hữu duyên độ thấu nguồn Chơn đạo,

Tu niệm khuyên bền chí chớ lay.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CHÂN ĐẾ 

Hay “Chơn đế”.

Chơn: Đúng đắn. Đế: Sự thật, chân lý. Cái gì thật có, không hạn cuộc trong không gian và thời gian, tức một sự kiện hiển nhiên.

Chơn đế là lời dạy đúng đắn, chính xác, chỉ chơn lý đạo Phậthay tổng quát hơn là giáo lý đạo Phật.



Hứng trời xuân, 
vui tham chơn đế,

Dựa thiền song dắng kệ 
coi kinh,

(Hứa Sử Tân Truyện).



CHÂN HÀI TRỞ GÓT

Bởi chữ “Đảo lý xuất nghinh  ” tức là đi ngược giầy ra đón tiếp, chỉ sự niềm nở, mừng vui.

Do tích: Thái Ung, tự là Bá Hài, đời Đông Hán là người có danh vọng trong triều đình, nhà lúc nào cũng đông tân khách. Một hôm có người bạn là Vương Xán đến chơi, Thái Ung vội vàng mang ngược giầy ra tiếp đón. Ý nói cử chỉ ân cần, niềm nở, vội vàng ra tiếp đón khách quý.

Tử Trung thoắt thấy ngọc nhan,

Chân hài trở gót miệng khoan khoan chào.

(Nữ Tú Tài).



CHÂN LẠP

Một nước thời xưa ở về phía nam tỉnh Bình Thuận, chia làm hai bộ: Phía giáp biển, gọi là Thuỷ Chân Lạp, tức là Nam kỳ Việt Nam; phía tiếp núi gọi là Lục Chân Lạp, tức là nước Cao Miên.



Châu dân đều thấm ân cao,

Chiêm thành, Chân lạp cũng vào hiệu cung.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHÂN LÂN

Bởi chữ “Lân chỉ  ” trong thiên “Lân chi chỉ  ”, thuộc phần Chu nam của Kinh Thi, nói về con cháu vua Văn Vương đều được giáo hoá tốt, chỉ dòng dỏi quý phái, hay chỉ sự nối dòng.

Xem: Gót lân.

Ngán thay cánh phượng chân lân,

Đến phong trần cũng phong trần biết sao.

(Truyện Phan Trần).



CHÂN LE CHÂN VỊT

Do chân chim le le dài, chân con vịt ngắn, nên chữ “Chân le chân vịt” dùng để nói chân thấp chân cao hay nói chạy ngược chạy xuôi, chỉ sự vất vả, khổ cực.



Pha phôi chẳng quản nhọc nhằn,

Chân le chân vịt nào phân đêm ngày.

(Truyện Trinh Thử).



Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn,

Chân le chân vịt nào phần khoan thai.

(Gia Huấn Ca).



CHÂN LINH 

Hay “Chơn linh”.

Chơn linh tức là chơn hồn hay linh hồn. Chơn linh là một điểm Linh quang từ khối Đại Linh quang của Thượng Đế chiết ra. Thể này Thiêng liêng linh diệu trong con người, nó vốn vô vi, bất tiêu bất diệt, nên khi chết, nếu chơn linh nhẹ nhàng sẽ trở về cõi Hằng Sống, nếu nặng nề ô trược sẽ ở lại cõi Âm quang.

Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm,

Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.

(Kinh Tận Độ).



Mơn lòng cho thuận tấm Chơn linh,

Quyết đoán đừng theo thói thế tình.

(Đạo Sử).



Chơn linh đẹp đẽ mỹ miều,

Xuất dương sớm đã đến triều Ngọc Hư.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHÂN MÂY

Chân mây là chỉ nơi chân trời xa xôi.

Cổ Thi có câu: Tương khứ vạn dư lý, các tại thiên nhất nhai  , , nghĩa là cách nhau hơn muôn dặm, mỗi người ở mỗi nơi chân trời.

Tính rằng mặt nước chân mây,

Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?

(Truyện Kiều).



Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,

Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CHÂN NHÂN 

Theo Trang Tử những người hết sức thành thật thì gọi là “Chân nhân”. Theo Đạo giáo, chân nhân là những người đã đạt quả vị, nghĩa là thành tiên.

Nghĩa thông thường, chân nhân tức là người hiền.

Lương giang trời mở chân nhân,

Vua Lê Thái tổ ứng tuần mới ra.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHÂN NHƯ 

Chân: Chân thật, rõ ràng, không phải là hư vọng. Như:Thể tánh bình đẳng, không phân biệt thật tướng của vạn pháp, luôn luôn như thế, không bao giờ biến đổi.

Chân như trạng thái chân thật của vạn hữu trong vũ trụ, không sinh không diệt.



Chân như vốn chịu tính thiên nhiên,

Niệm niệm hôm mai đạo thánh truyền.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



CHÂN PHÁP 

Hay “Chơn pháp”.



Chơn (chân): Thực, không giả dối, không hư ảo, chân chính, ngay thực. Pháp: Pháp luật, lễ giáo, đạo lý, phép nhiệm mầu.

Chơn pháp là Giáo pháp chơn chánh, ngay thực, bất di, bất dịch.



Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,

Tùng theo Chơn pháp độ lần chúng sanh.

(Kinh Thế Đạo).



CHÂN QUÂN 

Hay “Chơn quân”.

Chơn quân đồng nghĩa với Chơn chúa là vị vua chân chính, hợp với lòng mong mỏi của dân chúng. Hoặc vị vua thuộc dòng chính, đáng được nối ngôi.

Ăn nằm nín nẳm đợi Chơn Quân,

Ta quyết sẽ cho kẻ hạ trần.

(Đạo Sử).



CHÂN THÀNH 

Hay “Chơn thành”.



Chân: Hay chơn là thật, chẳng dối trá. Thành: Thành thật, thành tâm.

Chân thành (Chơn thành) là thật sự thành tâm, không giả dối.



Chánh trực kinh oai loài giả dối,

Công bình vừa sức kẻ chơn thành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Tiên Phật nơi mình đâu phải khó,

Khó do chẳng trọn tấm chơn thành.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Dầu lầm lỡ phận anh ở sái,

Cứ chơn thành đừng ngại thọ tội hình.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHÂN THẦN 

Hay “Chơn thần”.

Chơn thần hay Đệ nhị xác thân. Theo Thánh giáo đây là một xác thân Thiêng liêng do Phật Mẫu dùng nguơn khí tạo thành. Thể này thuộc khí chất, bán hữu hình, vì nó có thể thấy đặng, mà cũng không có thể thấy đặng. Khi ra khỏi xác phàm, thì chơn thần lấy hình xác phàm như khuôn in rập.

Khi còn sống, chơn thần không thể xuất ra đặng vì bị xác phàm níu kéo, chỉ bậc chân tu mới có thể xuất chơn thần đặng.



Chịu ô trược Chơn thần nặng trịu,

Mảnh hình hài biếng hiểu lương tâm,

(Kinh Tận Độ).



CHÂN TRỜI

Do chữ “Thiên nhai  ” dùng để chỉ nơi xa xôi nhứt ở chơn trời. Đồng nghĩa với chân mây.

Xem:Góc bể chân trời.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

(Truyện Kiều).



Ra đi vừa rạng chân trời,

Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.

(Lục Vân Tiên).



CHÂN TRUYỀN 

Hay “Chơn truyền”.



Chân: Thật. Truyền: Chuyển đi, trao cho.

Chân truyền hay Chơn truyền tức giáo pháp chơn thật được kế truyền lại về sau.



Học sao cho hết chân truyền,

Tu sao cho hết tinh huyền thì tu.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Hễ là thủy động ba hôn,

Giang thanh nguyệt chiếu tông môn chơn truyền.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Nhập Thánh thể dò đường cựu vị,

Noi Chơn truyền khử quỉ trừ ma.

(Kinh Tận Độ).



Ðảnh Việt chờ qua cơn bão tố,

Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CHÂN VẠC

Đỉnh là cái vạc, một loại đồ dùng ngày xưa có ba chân đúc bằng kim loại dùng để làm vật báu truyền quốc, hoặc dùng để nấu nướng.

Thế nước bị chia ba như đời Tam Quốc, người ta gọi là thế “Chân vạc”.

1.- Chỉ vật báu truyền quốc.



Cứu Hoa Linh thoát khỏi lưới hồng,

Sau ngõ đặng phò an chân vạc.

(Nhạc Hoa Linh).

2.- Chỉ thế nước chia ba.

Lửa lò Viêm Hán gần bay,

Thế chia chân vạc, nào hay cơ trời.

(Quốc Sử Diễn Ca).

CHẤN HƯNG 

Chấn: kéo lên. Hưng: Nổi dậy.

Chấn hưng là những cái gì đang còn yếu đuối, suy sụp làm cho mạnh mẽ, thịnh vượng lên.



Xem dường cuồng khấu biên đình,

Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHẨN BẦN 

Chẩn: Cứu giúp. Bần: Người nghèo.

Chẩn bần là cứu giúp tiền bạc, vật thực hay thuốc men cho người nghèo khó.



Sổ tiêu ba gả rõ ràng,

Chẩn bần, thí nước, đắp đàng thiện duyên.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,

Người đau thí thuốc, Thánh, Thần phước ban.

(Kinh Sám Hối).



CHẨN MỄ 

Chẩn: Cứu giúp. Mễ: Gạo thóc.

Chẩn mễ là đem lúa gạo để cứu giúp cho người nghèo khó, người thiếu đói.



Khéo là bày việc trêu ngươi,

Cầm cơ chẩn mễ, cướp mồi tiểu di .

(Nhị Độ Mai).



CHẨN TẾ 

Chẩn tế có nghĩa là cứu giúp người.

Ngoài ra chẩn tế còn có nghĩa là lễ cúng để cứu vớt linh hồn người chết đang bị chìm đắm cõi địa ngục.

Ghe phen cúng vái làm chay,

Liền ngồi chẩn tế đặt bày việc ra.

(Dương Từ Hà Mậu).



Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,

Của có chi bát cháo nén nhang.

(Thập Loại Chúng Sinh).



CHẨN THẢI 

Chẩn: Cứu giúp. Thải: Cho vay.

Chẩn thải là đem tiền bạc và vật chất phát chẩn (tức là cứu giúp) hay cho người vay.



Thóc kho, của nước thiếu chi,

Xin cho chẩn thải theo y lệ thường.

(Nhị Độ Mai).



CHẤP CÁNH LIỀN CÀNH

Dịch từ câu “Tỷ dực liên chi ”, tức là chim liền cánh, cây liền cành.

Do điển lấy trong bài “Trường Hận Ca” của Đỗ Phủ có câu: Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi  , , nghĩa là ở trên trời thì làm con chim liền cánh, ở dưới đất thì làm cây liền cành.

Trong khi chấp cánh liền cành,

Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên!

(Truyện Kiều).



CHẤP CHÁNH

Hay “Chấp chính  ”.



Chấp: Cầm giữ. Chánh: Nói công việc cai trị.

Chấp chánh là giữ việc chính trị, tức nắm quyền hành trong tay để điều hành việc cai trị.



Tóm quyền thế một tay chấp chánh,

Bắt chồng hầu như lính hầu quan.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHẤP KINH 

Chấp: nắm giữ. Kinh: Đạo thường (Xem chữ kinh quyền). Chấp kinh có hai nghĩa:

- Cắp sách theo thầy thọ nghĩa.

- Cầm giữ mối đạo thường, tức là hành động trong lúc bình thường.

Chấp kinh nếu chẳng tòng quyền,

Sợ chi muôn một chu tuyền làm sao?

(Nhị Độ Mai).



Thôi thôi anh đã lầm rồi,

Chấp kinh dường ấy ra hơi trần trần.

(Hoa Tiên Truyện).



CHẤP KHA 

Chấp: nắm giữ. Kha: Cây búa, cây rìu.

Chấp kha là nắm cán búa hay cán rìu, dùng để chỉ việc làm mai mối.

Do trong Kinh Thi có câu: Chặt cây thế nào, không búa không được. Lấy vợ thế nào, không mối không xong.

Xem: Phạt kha.



Chấp kha xin hãy giúp điều,

Hoạ là nên chốn Lam kiều đây chăng?

(Tây Sương).



CHẤP NHẤT 

Chấp: Nắm chặt. Nhứt: Một.

Chấp nhất tức là chỉ chấp khư khư có một điều, không chịu thay đổi ý kiến. Dùng để chỉ sự cố chấp.



Làm người chấp nhất sao đành,

Hễ là lịch sự có kinh có quyền.

(Lục Vân Tiên).



CHẤP TRƯỚC 

Chấp: Giữ vững. Trước: Dính gắn vào.

Chấp trước là bám chặt vào sự vật không chịu buông thả. Bệnh lớn của con người là bệnh cố chấp, chấp càng nặng thì khổ càng nhiều. Con người chấp theo cái thấy, cái hiểu biết của mình. Nếu người khác thấy khác cái thấy biết của mình thì sinh thù ghét. Vì vậy, con người do chấp trước mà sinh ra tham ái, sân hận, khổ đau.



Con đà học đạo từ bi,

Chẳng nên chấp trước thị phi vào lòng.

(Hứa Sử Tân Truyện).



CHẤT NHƯỢC LIỄU BỒ

Chất nhược: Chất mềm yếu. Liễu bồ: Dương liễu và cỏ bồ, hai loại cây có thể chất yếu ớt, nên người ta thường ví với người phụ nữ yếu đuối.

Chất nhược liễu bồ chỉ thân phận người đàn bà chân yếu tay mềm.



Đừng cậy thế làm chồng lấn lướt,

Chẳng đoái thương chất nhược liễu bồ.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHẤT PHÁC 

Chất: Thật thà. Phác: Thành thật.

Chất phác là người có tính thật thà, mộc mạc.



Thói quen chất phác ít oi,

Nào từng biến hóa, những vui yên lành.

(Hạnh Thục Ca).



Dạy con giữ tấm lòng chất phác,

Có chánh tâm không lạc bước đời.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHÂU BÁU BẠNG GIÀ

Lấy nghĩa từ câu “Lão bạng sinh châu  ” tức là con trai già sinh ra ngọc báu.

Châu báu bạng già ý muốn nói là người già sinh con quý, chỉ điềm tốt lành.

Hiếm hoi châu báu bạng già,

Tuyết là phẩm cách mai là thiên hương.

(Phương Hoa).



CHÂU CẤP 

Châu: Giúp đỡ. Cấp: Cho.

Trong Kinh Thi có câu: Mỹ nhân bất châu  , nghĩa là không người nào là không giúp đỡ.

Châu cấp là đem tiền bạc, hay vật dụng ra để giúp đỡ người được đầy đủ..

Áo cơm no ấm hằng ngày,

Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.

(Kinh Sám Hối).



CHÂU CÔNG 

Hay “Chu Công”.

Tên là Châu Công Đán, con của vua Văn Vương đời nhà Châu, em của vua Võ Vương và chú của Thành Vương. Khi vua Thành Vương lên ngôi còn rất nhỏ tuổi, châu Công Đán làm nhiếp chính, điều hành mọi việc trong nước.

Châu Công là người chế ra lễ nhạc, về quan hôn tang tế, truyền cho đến bây giờ.

Quản Thúc là em của Châu Công muốn làm phản, gièm pha với vua là Châu Công muốn cướp ngôi, rồi nổi lên làm loạn. Châu Công đem quân đi đánh dẹp, một lòng vì vua vì nước.

1.- Châu Công:



Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,

Ở thôn quê lam lụ làm ăn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Châu Công đưa nghiệp nối 
Nho phong,

Thánh đức còn nêu trí hoán phòng.

(Đạo Sử).

2.- Chu Công:

Anh em lo khắp trong ngoài,

Có gan Y Doãn có tài Chu Công.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



CHÂU CÔNG CẨN 

Hay “Chu Công Cẩn”.

Một tướng tài của nước Ngô đời Tam Quốc, họ Châu tên Du, tự là Công Cẩn. Châu Công Cẩn lập kế dùng hoả công đánh thắng một trận lớn binh Tào Tháo ở sông Xích Bích.

Châu Công Cẩn có tài kiêm văn võ, nhiều mưu lược, nhưng lại chết sớm.

Xem: Châu Du.

Ai về nhắn với Châu Công Cẩn,

Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.

(Thơ Tôn Thọ Tường).



CHÂU CHẤU CHỐNG XE

Đây là câu trong ca dao, ý nói: Châu chấu là loài vật bé nhỏ không thể nào đương cự lại chiếc xe to lớn, có nghĩa nhỏ không chọi được to.



Nực cười châu chấu chống xe,

Những ngờ chấu ngã, ai dè xe nghiêng.

(Hoài Nam Khúc).



CHÂU DỊ 

Châu Dị, hiệu Ngạn Hòa, quê ở Tiền Đường, Ngô quận. Thuở hàn vi, nhà rất nghèo, phải đi làm nghề viết thuê cho người, sau ông được làm quan đến chức Thị trung triều Lương Vũ Đế.



Tô lang nằm lỗ giá ăn sương ruột sầu rười rượi;

Châu Dị thấy hột cơm bám má lòng tiếc ngùi ngùi

(Thập Giới Cô Hồn).



CHÂU DỊCH 

Hay “Chu Dịch”.

Tên một quyển sách triết học đầu tiên của Trung quốc, do ba vị Thánh nhân lần lượt làm ra:

- Vua Phục Hy đặt ra các quẻ Dịch.

- Vua Văn Vương đặt ra các hệ từ, làm thành các quẻ Dịch.

- Khổng Tử san định lại và viết thập ký để giải thích ý nghĩa.

Xem: Dịch Lễ.

Nha tiêm tiếng động án Chu Dịch,

Thạch đỉnh hương tàn khói thuỷ trầm.

(Quốc Âm Thi Tập).



Ngày nhàn mở quyển xem Chu Dịch,

Đêm vắng tìm mai bạn Lão Bô.

(Quốc Âm Thi Tập).



CHÂU DU 

Hay “Chu Du”.

Châu Du tự là Công Cẩn, người nước Ngô thời Tam Quốc. Châu Du là người đa mưu túc trí nhưng vẫn thua kế Khổng Minh nên rất tức giận, bày mưu với Tôn Quyền vờ mượn tiếng lấy Tây Xuyên, kỳ thật là sang lấy Kinh Châu. Khổng Minh biết phá mưu kế Châu Du. Du tức khí ngã người xuống ngựa mà chết.

Xem: Châu Công Cẩn.



Định Công thấy chiếu tỏ tường,

Chí Châu Du bỗng suối vàng xa chơi.

(Lưu Nữ Tướng).



CHÂU HẬU 

Hay “Chu Hậu”.

Hoàng hậu của nhà Châu, vợ vua Võ Vương.

Châu Hậu là con của Thái Công Vọng, một vị mệnh phụ giúp nhiều công việc cho nhà vua để ổn định trong nội cung.



Dỡ roi ngựa nức danh Châu Hậu,

lấy ai đủ thập thần trị quốc,

mà thấy nho rằng trợ Kiệt nên tin.

(Tần Cung Nữ)



CHÂU KHÓC

Hay “Chu khóc”.

Tức là ông Dương Châu khóc. Dương Châu là một triết gia đời Chiến Quốc, chủ trương thuyết vị ngã.

Sách Liệt Tử chép: Người láng giềng của Dương Châu mất dê, phải nhờ nhiều người đi tìm. Dương Châu hỏi: Mất một con dê sao phải cần nhiều người đi tìm thế? Đáp: Vì có nhiều đường rẽ. Khi họ trở về, Dương Châu hỏi: Tìm được dê chưa? Đáp: Mất rồi! Hỏi: Sao lại mất? Đáp: Nhiều đường rẽ nữa, không biết dê đi ngã nào. Dương tự nhiên thay đổi sắc mặt, cả ngày không nói, không cười. Câu chuyện ngụ ngôn này có ý muốn nói: Gốc thì đồng, mà ngọn thì khác, vì vậy người đời cần thận trọng để khỏi bị nhầm.



Đường đi ba ngã người Châu khóc;

Tơ trắng hai màu gã Địch than,

(Dương Từ Hà Mậu).



CHÂU LANG 

Hay “Chu Lang”.

Tức Châu Du, tự là Công Cẩn, một tướng tài của nước Ngô đời Tam Quốc. Châu Công Cẩn phối hợp với Khổng Minh dùng kế hoả công đánh thắng binh Tào Tháo ở sông Xích Bích.

Châu Công Cẩn có tài kiêm văn võ, nhiều mưu lược, nhưng lại chết sớm.

Xem: Châu Du.

Băng nghiêm thuyền dựa vịnh sông,

Đón muôn tên Ngụy nộp cùng Châu Lang.

(Ngọa Long Cương Vãn).



Thử thị Đà Giang phi Xích Bích,

Dã vô Gia Cát dữ Chu Lang!

(Thơ Tản Đà).



CHÂU LỆ 

Hay lệ châu, chỉ nước mắt long lanh như hạt trai ngọc rơi.

Trong văn chương, người ta thường ví nước mắt như hạt châu do điển: Giao nhân đến cuối năm về thủy phủ để chầu vua. Lúc từ biệt gia đình, họ khóc rất thảm thiết, mà khóc bao nhiêu thì nước mắt hóa thành những hạt châu bấy nhiêu.

Xem: Châu sa.



Mặc ai châu lệ hai hàng,

Gác tình nhi nữ xem thường như không.

(Nhị Độ Mai).



CHÂU LIÊM 

Châu: Ngọc. Liêm: Bức rèm.

Châu liêm tức là rèm kết bằng hạt trai ngọc.

Trong Tấn Thư có câu: Huyền châu liêm ư chính diện  , nghĩa là treo tấm rèm châu ở trước chính diện.

Trong liêu ba bức châu liêm,

Rồng leo cột vẽ, lân tiềm vách tô.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



CHÂU LIÊN 

Châu: Cây to. Liên: Dính liền với nhau.

Châu liên là thân cây liền với rễ, vì vậy khi chặt một cây, người ta phải đào những rễ dính liền với thân cây đó.

Nghĩa bóng; Một người làm tội liên lụy đến những người khác.

Sinh con gặp đứa vô lương,

Châu liên sao nỡ quên đường quân thân?

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHÂU LUỴ

Châu: Hạt trai. Luỵ, cũng như lệ, chỉ nước mắt.

Châu luỵ là giọt nước mắt long lanh như hạt châu. Trong văn chương, nước mắt thường được ví với hạt châu. Xem: Châu lệ



Minh nghe Tiên nói động tình,

Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.

(Lục Vân Tiên).



CHÂU MÃI THẦN 

Hán Sử chép: Châu Mãi Thần là người đời hán, quê ở Cối Kê, thuở hàn vi vừa đi học vừa đốn củi đổi gạo ăn. Hằng ngày khi giữ trâu, ông thường treo sách trên sừng trâu và ngồi lưng trâu đọc sách.

Xem: Ngưu giác quải thư.

Lớn lên cưới vợ, ông vẫn còn đi học một cách nhọc nhằn. Vợ ông thấy đời ông khó thành đạt, bèn bỏ ông đi.

Về sau, Mãi Thần làm quan Thái thú huyện Cối Kê, vợ xin trở lại sống chung. Mãi Thần lấy một bát nước đầy đổ xuống đất, bảo người vợ hốt, chừng nào đầy bát, Mãi Thần mới cho về. Vợ Mãi Thần hối hận, buồn bực, tự vận mà chết.

Vai gánh củi học thời luôn miệng,

Châu Mãi Thần nên tiếng danh Nho.

(Gia Huấn Ca).



Mãi Thần kia mới là gan,

Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.

(Gia Huấn Ca).



CHÂU MỤC 

Châu: Một khu vực hành chính ngày xưa gồm khoảng hơn hai ngàn rưỡi gia đình. Mục: Chăn dắt.

Châu mục là vị quan coi một châu, thường thì lớn hơn quận.



Dưới màn có Phục Đăng Chi,

Cướp quyền châu mục, lộng uy triều đình.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHÂU NAM HẢI 

Châu là hạt ngọc trai. Châu Nam hải tức hạt ngọc trai ở bể Nam.

Do điển nàng Mỵ Châu khi xưa là con vua nước Thục, vì quá tin người chồng là Trọng Thuỷ mà làm mất nước, bị vua cha chém chết ở bờ bể Nam (Nam Hải). Tương truyền máu của Mỵ Châu trôi chảy xuống bể, những con trai ăn vào thành ra có ngọc, cho nên vùng Nam hải có nhiều ngọc trai.

Xem: Trọng Thuỷ Mỵ Châu.



Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thuý Ái,

Sông Tiền Đường, cỏ áy bến Ô Giang!

(Thơ Tản Đà).



CHÂU NHà

Châu nhã tức muốn nói thiên Đại nhã ở Kinh Thi, trong đó có nhiều bài thi nói về công việc của đời nhà Châu, một thời của thái bình và thịnh trị.



Lời ca ngợi tưởng ngồi trong Châu nhã,

Điệu ngâm nga nghe đứng giữa Nghiêu cù.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



CHÂU PHÊ 

Lời phán quyết viết bằng chữ son.

Ngày xưa trong chế độ quân chủ, nhà vua thường dùng son để phê duyệt mọi vấn đề trong triều đình, nên sự phán quyết của vua gọi là “Châu phê”.

Sở Vương nghe tấu thuận tình,

Châu phê dạy sứ ra dinh Đông Thành.

(Lục Vân Tiên)



Lấy đàn đưa trạng hồi hương,

Châu phê tức khắc, dẫn đường trạng lên.

(Tây Sương).



CHÂU QUYỂN 

Quyển thi chép bằng chữ son.

Ngày xưa trong chế độ khoa cử, để phòng việc quan trường chấm thi biết được nét chữ của thí sinh, những người phụ trách lấy son sao lại quyển thi, rồi giao cho giám khảo chấm.

Quyển thi của thí sinh viết bằng mực nên gọi là mặc quyển, còn sao chép bằng son để giám khảo chấm bài thì gọi là “Châu quyển”.



CHÂU SA

Giọt châu hay châu sa đều chỉ giọt nước mắt rơi xuống long lanh như hạt ngọc.

Do tích: Xưa có loài giao long hóa thành người, gọi là giao nhân , sống trên thế gian lấy vợ, lấy chồng và buôn bán với loài người. Nhưng đến cuối năm lại phải về thủy phủ để chầu vua. Lúc từ biệt gia đình, họ khóc rất thảm thiết, mà khóc bao nhiêu thì nước mắt hóa thành những hạt châu bấy nhiêu. Nên có câu: “Sái giao nhân chi châu lệ  ”, nghĩa là người giao nhân khóc, nước mắt sa xuống thành hạt châu.



Lòng đâu sẵn mối thương tâm,

Thoát nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

(Truyện Kiều).



Lại càng ủ dột nét hoa,

Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.

(Truyện Kiều).



CHÂU THÁI TỶ 

Hay “Châu Thái Tự”.

Châu Thái Tỷ là vợ vua Văn Vương nhà Châu, mẹ vua Võ Vương, người nước Sằn. Vua lo việc triều chính, bà coi sóc việc nội cung. Đức hạnh của bà lan khắp mọi nơi, Kinh Thi đã từng ca tụng bà Thái Tỷ.

Kìa như Châu Thái Tỷ,

Kinh còn khen đức hạnh rạng khuê môn

(Sãi Vãi).



CHÂU THÀNH 

Hay “Chu Thành”.

Tức là Thành Vương nhà Châu, con của vua Võ Vương. Lúc Thành Vương còn nhỏ, việc nước đều giao cho Châu Công giữ chức Trủng Tể trông coi. Thời ấy luật pháp không dùng hình phạt, người đời ca tụng là thời thái bình thịnh trị.

Vừa đời ngang với Chu Thành,

Bốn phương biển lặng, trời thanh một mầu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHÂU THỌ XƯƠNG

Châu Thọ Xương, người Tống, là con của người vợ thứ. Năm ông vừa lên 7 tuổi, người vợ cả đuổi mẹ ông đi. Về sau ông được làm quan nghĩ đến công sinh thành tác tạo của mẹ đang sống lưu lạc khổ sở, ông cảm thấy chua xót trong lòng. Ông liền xin từ quan chức để đi tìm mẹ đẻ. Trước khi đi, ông thề rằng: Nếu không tìm được mẹ chết cũng đành Tìm kiếm khắp nơi, may đến đất Đồng Châu mẹ con lại được trùng phùng. Tuy xa cách nhau đến năm mươi năm, mẫu tử được đoàn viên, ông lấy làm vui mừng. Ông liền rước mẹ về ở chung và phụng dưỡng tận tình.



Châu Thọ Xương làm quan Tống đại,

Mẹ sinh ra bảy tuổi lìa lòng,

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



CHÂU TRẦN 

Châu Trần là hai họ đời đời kết hôn với nhau.

Do trong sách Tàu viết: Châu Trần nhị tính, thế thế hôn nhân, nhân danh Châu Trần Thôn  , . , nghĩa là họ Châu họ Trần đời đời lấy nhau, về sau nhân đó mà gọi thôn Châu Trần. Đây là nói hai bên lấy nhau xứng đáng.

Mụ càng xua đuổi cho liền,

Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu, Trần.

(Truyện Kiều).



Như không phải kiếp Châu, Trần.

Thì xin một trận phong vân cũng nhờ.

(Quan Âm Thị Kính).



Rằng: Em muốn kết Châu, Trần,

Cậy anh gánh vác, đỡ đần cho nên.

(Nữ Tú Tài).



CHÂU VỀ HIỆP PHỐ

Hạt ngọc trai ở đất Hiệp Phố trở về.

Do điển: Con trai (Ngọc trai) ở đất Hiệp Phố, thuộc Giao Chỉ bỏ đi xứ khác, bởi quan cai trị lúc đó hà khắc, bắt dân đi mò ngọc trai, khiến dân tình khổ sở. Đến sau, Mạnh Thường làm Thái thú, là người nhơn đức, lo cho dân lành, nên ngọc trai lại trở về nhiều như cũ.

Xem: Hiệp Phố châu hoàn.



Thìn dạ chờ châu về hiệp phố,

Nơi mình sự nghiệp mới tan tành.

(Đạo Sử).



Châu về hiệp phố dễ ai hay,

Có đức tiếc cho chẳng có tài.

(Đạo Sử).



CHẬU VÀNG

Do chữ “Kim âu  ”, tức là cái chậu bằng vàng, dùng để ví với việc lâu dài, bền vững.

Thơ nhà Tống có câu: Quốc gia toàn thịnh tự kim âu  , nghĩa là nước nhà thịnh vượng hoàn toàn tựa như chiếc âu bằng vàng.

Xem: Âu vàng.



CHÉM RẮN ĐUỔI HƯƠU

Ý nói đem binh đi đánh kẻ giặc cướp, bạo tàn.

Do điển vua Hán Cao Tổ khi đem binh đi đánh phá nhà bạo Tần, giữa đường gặp con rắn màu trắng cản đường. Cao Tổ rút gươm chém đứt làm hai khúc. Rắn trắng là điềm ứng chỉ vào nhà Tần.

Đuổi hươu cũng chỉ vào nhà Tần vì thời đó thiên hạ thường dùng chữ “Tần lộc” để gọi nhà Tần.

Xem: Đuổi hươu.

Một mối xa thơ đồ xộ,

há để ai chém rắn đuổi hươu;

(Văn Tế Nghĩa Sĩ).



CHÉM VỢ CẦU VINH

Bởi câu “Sát thê cầu tương  ” tức giết vợ để cầu làm tướng.

Sử Ký chép: Ngô Khởi làm quan nước Lỗ. Khi Tề đánh Lỗ, Lỗ Hầu muốn phong Ngô Khởi làm tướng, nhưng vợ Ngô Khởi lại là Công chúa nước Tề, vua Lỗ nghi ngờ, không dám dùng Khởi. Biết vậy, Ngô Khởi bèn tự giết vợ mình chứng tỏ lòng vô tư, không theo Tề để cầu xin Lỗ Hầu phong làm tướng.

Chém vợ để cầu vinh thuở trước,

Ngô Khởi còn gian ngược chi danh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHÉN CÚC

Chén cúc do chữ “Cúc tửu  ” là chén rượu cất bằng hoa cúc, một loại rượu quý, thơm ngon dành cho bậc văn nhân tài tử hay hạng khách hào hoa phong nhã thưởng thức.



Tàng tàng chén cúc dở say,

Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.

(Truyện Kiều).



Quến rủ đôi ba thầy tụng,

Rập rền tiếng quyển rập tiếng tiêu,

Trù trì năm bảy ông sư,

Thù tạc ché thung đưa chén cúc.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



CHÉN ĐỒNG

Đồng là do chữ “Đồng tâm  ” tức là cùng một lòng với nhau.

Chén đồng là chén rượu thề nguyền suốt đời một dạ một lòng cùng nhau. Chén đồng được dùng để ví sự hoà hợp thương yêu giữa đôi trai gái hay vợ chồng.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

(Truyện Kiều).



CHÉN HÀ

Bởi chữ “Hà bôi  ” tức là chén đựng rượu sắc đỏ màu ráng trời chiều.

Chén hà là một loại chén ngày xưa dùng để uống rượu, được làm bằng ngọc có màu sắc chiếu như ráng mặt trời chiều, gọi là “Hà bôi”.

Trong văn chương, người ta thường dùng chén hà để rót rượu quỳnh tương (Rượu quý).



Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa,

Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Chén hà sánh giọng quỳnh tương,

Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.

(Truyện Kiều).



CHÉN KHUYÊN

Chén khuyên là chén rượu mời lúc tiễn biệt để khuyên nhau.

Đường Thi có câu: Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, Tây xuất Dương quan vô cố nhân  , 西 , nghĩa là Khuyên anh uống cạn chén rượu này, khi ra khỏi cửa Dương Quan ở phía tây, thì không có ai là người cũ để mời uống rượu nữa.

Vài tuần chưa cạn chén khuyên.

Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe.

(Truyện Kiều).



CHÉN MỒI

Chén rượu chạm khắc bằng da đồi mồi.



Động phòng dìu dặt chén mồi,

Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa.

(Truyện Kiều).



Nhìn lâu ngợp mắt làng chài,

Mâm vàng chồng chất, chén mồi đầy vơi.

(Nhị Độ Mai).



CHÉN NGUYỆT

Chén rượu dưới bóng trăng.

Chén nguyệt dùng để chỉ những bậc tao nhân mặc khách, hay văn nhân tài tử ngồi uống rượu đêm trăng để thưởng thức ánh nguyệt.

Tưởng người chén nguyệt thề bồi,

Phòng hương trộm tưởng đã người nào thôi!

(Hoa Tiên Truyện).



CHÉN QUAN HÀ

Quan hà chỉ người đi xa phải qua sông, qua cửa ải. Chén quan hà tức là chén rượu tiễn biệt người đi xa cách sông cách núi.



Tiễn đưa một chén quan hà,

Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.

(Truyện Kiều).

CHÉN QUỲNH

1.- Chén đựng rượu quỳnh tương, là một loại rượu ngon và quý. Đường thi có câu: Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sinh  漿 , nghĩa là uống một chén rượu quỳnh tương thì sinh trăm điều nhớ nhung.



Người xuống ngựa, khách dừng chèo,

Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.

(Tỳ Bà Hành).

2.- Chén làm bằng ngọc quỳnh, một loại ngọc đẹp và quý.

Tiếng đàn tiếng địch tưng bừng,

Câu thơ câu phú lại dâng chén quỳnh.

(Gia Huấn Ca).



CHÉN RƯỢU HỒNG MÔN

Hạng Võ đóng quân tại đất Hồng Môn cách Bá Thượng là nơi đóng quân của Bái Công bốn mươi dặm. Hạng Võ nghe lời Phạm Tăng, định đem quân tiêu diệt Bái Công. Bái Công hoảng sợ đến Hồng Môn yết kiến để tạ lỗi Hạng Vương.

Phạm Tăng, lập kế sai Hạng Trang múa gươm giúp vui trong bữa tiệc, nhân đó lừa dịp giết chết Bái Công, nhưng trong lúc đó có viên hổ tướng của Bái Công là Phàn Khoái mang gươm đi vào, khiến Hạng Trang không dám giết Bái Công nữa. Nhờ thế Bái Công thoát chết.

Xem: Hồng Môn tiệc.



Bát canh Quảng Võ ơn còn nhớ,

Chén rượu Hồng Môn lệ khó ngăn.

(Thơ Tôn Thọ Tường).



CHÉN TẠC CHÉN THÙ

Thù 
: Chủ rót rượu mời khách. Tạc : Khách mời lại chủ. Thù tạc là mời qua mời lại.

Chén thù chén tạc là chén mời đi chén mời lại, chỉ sự giao tiếp qua lại với nhau một cách thân mật.



Vợ chồng chén tạc chén thù,

Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.

(Truyện Kiều).



CHÉN XUÂN

Chén xuân có nghĩa là chén rượu. Chữ xuân được hiểu như là rượu trong câu: Ngọc hồ mãi xuân  , nghĩa là hồ ngọc mua rượu.

Chén xuân còn có nghĩa chén thưởng xuân.

Đủ điều trung khúc ân cần,

Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.

(Truyện Kiều).



CHÈO BÁCH

Gỗ bách là một loại gỗ rất cứng, chịu đựng dưới nước lâu, nên ngày xưa, người ta thường dùng loại gỗ này để làm thuyền và chèo.

Như vậy, chèo bách là cây chèo làm bằng gỗ bách.

Sẵn dòng chèo bách một cây,

Đò thong một chiếc, đỡ ngày hôm mai.

(Dương Từ Hà Mậu).



CHÈO PHÓ

Chèo Phó tức là ví ông Phó Duyệt, một vị Tể tướng giỏi đời nhà Thương, có tài giúp vua trị nước như một cây chèo đưa con thuyền qua sông lớn đầy sóng gió. Vua Cao Tông nhà thương khi mời được Phó Duyệt, bèn nói với ông rằng: Nhược tế cự xuyên dụng nhữ tác chu tiếp  , có nghĩa nếu muốn qua sông lớn thì ta dùng nhà người như một cây chèo.



Gió thanh hây hẩy gác vàng,

Thảnh thơi chèo Phó, nhẹ nhàng gánh Y.

(Hoa Tiên Truyện).



CHÈO QUẾ

Bởi câu “Quế trạo lan tương  漿” tức là mái chèo bằng câyquế, cây lan.

Chèo quế mái chè bằng cây quế

Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,

Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.

(Ai Tư Vãn).



Cảm thương cây bãi đèn chài,

Gió đưa chèo quế trăng soi chén vàng.

(Thơ Học Canh).



Thinh thinh một chiếc thuyền lan,

noi dòng Xích Bích,

Nhẹ nhẹ đôi con chèo quế,

dực bến Thương Lang.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



CHÉP NHIỀU THƠ VẠN ĐẠI TRUYỀN RA

Ghi chép và san định nhiều kinh sách để truyền ra muôn đời sau.

Đây nói về Đức Khổng Tử, Ngài soạn ra sáu bộ kinh, đời sau gọi Lục kinh. Sau khi Ngài mất rồi, những sách của Ngài bị mất mát theo và nhứt là bị đời nhà Tần đốt đi nên bị mất nhiều. Sau này hậu Nho góp nhặt và phụ họa vào thành ra Ngũ kinh : Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.

Ngoài ra, học trò của Ngài và người đời sau còn viết để lại nhiều sách khác, trong đó có Tứ thư: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử…

Sau khi Đức Khổng Tử mất, một số môn sinh của Ngài như Tăng Sâm, Tử Hạ, Tử Trương, Trọng Cung…theo gót Ngài mở trường dạy học, do đó mà tư tưởng trong lục kinh lần lần truyền bá và đi sâu vào tâm hồn của dân chúng, trong số đệ tử đó có Tăng Sâm, là người có công đem cái lý nhứt quán của Ngài viết trong quyển Đại Học để vạch ra mục đích của Khổng giáo.

Còn một số môn sinh khác ra làm quan để thi hành đạo của thầy và chủ trương lấy đức trị dân thành một lý tưởng chính trị, gọi là nhân trị hay vương đạo.

Một số môn đệ khác ghi chép lại những lời đàm đạo, hay dạy khuyên của Khổng Tử để truyền lại cho học trò hay con cháu. Rồi sau này có người gom những lời châm ngôn đó lại thành bộ Luận ngữ.

Kể từ khi Đức Khổng Tử mất, bốn trăm năm sau Sử gia nhà Hán là Tư Mã Thiên đã xuy tụng công đức Ngài như sau: Các quân vương, hiền nhân trong thiên hạ không phải là ít, còn sống thì vinh quang, chết rồi là hết. Duy có Khổng Tử là người áo vải, tới nay đã trên mười đời, vẫn được các Nho gia tôn sùng. Ở Trung Quốc, từ bậc thiên tử vương hầu trở xuống, hễ bàn tới lục nghệ đều lấy Ngài làm tiêu chuẩn. Ngài thật là bậc Chí Thánh.

Xem: Khổng Thánh.

Ghi các sách ngàn lời để lại.

Chép nhiều thơ vạn đại truyền ra.

(Xưng Tụng Công Đức).



CHẾ KHOA 

Trong thời kỳ khoa cử ngày xưa, mỗi khi cần tuyển chọn người tài giúp nước, nhà vua đứng ra mở một khoa thi đặc biệt, chính do vua ra đề và chấm bài, khoa thi đó gọi là “Chế khoa”.



Chế khoa gặp hội trường văn.

Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.

(Truyện Kiều).



CHẾ NGHỆ 

Trong nền khoa cử ngày xưa có môn chế nghệ, tức là viết một bài kinh nghĩa.

Tiếng gọi về lối kinh nghĩa hay tinh nghĩa một lối văn có tám vế quen gọi là văn bát cổ ngày xưa dùng để thi cử.

Chàng vâng lĩnh bút đề bài,

Viết xong chế nghệ một bài nạp đi.

(Nhị Độ Mai).



CHẾT ĐẮM TRÊN CẠN

Bởi chữ “Lục trầm  ”. Lục là trên cạn, trầm là chìm đắm.

Do lời của Trang Tử: Không them đi chung với đường đời gọi là “Chết đắm trên cạn”. Ý muốn nói không hạp với tình đời.

Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,

Chết đuối người trên cạn mà chơi.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CHI LAN 

Cỏ chi cỏ lan, hai loại cỏ có hoa rất thơm, hương hoà hợp nhau, thường được ví với người có tài năng đức hạnh, người quân tử.

Nghĩa bóng: Chỉ anh em bạn tốt.

Chi lan thơm cũng một hơi,

Chớ chê bỉ thử, mờ lời keo sơn.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Chi lan xum họp một nhà,

Anh xưng Thiên Sách, em là Tấn Vương.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Chi lan tự hữu có mùi hương,

Phải thế tay ai hết gọi thường.

(Đạo Sử).



CHI LAN CHI NGHỊ 

Chi lan: Hai loài cỏ có hoa thơm, chỉ tình bạn. Nghị: Tình bè bạn chơi với nhau.

Chi lan chi nghị là tình giao hữu bạn bè thơm tho như chi lan, ý nói tình nghĩa bạn bè tốt.



Ấy là thương cổ 
chi giao,

Chi lan chi nghị, thế nào biết không.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CHI LAN LẪN HOA THƯỜNG

Chi lan là loại cỏ thơm mà mọc trong rừng trong hang hay lẫn trong đám hoa thường thì người ta làm sao biết đến được.

Nghĩa bóng: Chỉ người quân tử chưa gặp thời, còn lẫn trong đám dân thường.

Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,

Chẳng để mũi gần chẳng biết hương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CHI LAN NGỌC THỤ 

Cây ngọc và cỏ chi cỏ lan.

Ông Tạ Yến đời nhà Tấn, nhà có con em tài đức và làm quan rất nhiều, nên người đương thời cho rằng: Tử đệ như chi lan ngọc thụ.

Sách Tạ Huyền viết: Như chi lan ngọc thụ dục sử kỳ sinh ư đình giai nhĩ  使 , nghĩa là như chi lan ngọc thụ ai cũng muốn mọc ở sân và thềm…

Nghĩa bóng: Dùng để ví con em tài giỏi, hiền đức.

CHI THẤT 

Nhà trồng cỏ chi lan.

Khổng Tử Gia Ngữ có câu: Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất, cửu bất văn kỳ hương, tức dữ chi lan hoá. Dữ ác nhân cư, như nhập bào ngư chi tứ, cửu bất văn kỳ xú, tức dữ chi câu hoá  , , , . , , , , nghĩa là cùng ở với người thiện, như vào nhà trồng chi lan, lâu ngày không thấy mùi thơm, đã cùng hoá theo mà không biết.Cùng ở với người ác, như vào tiệm bán cá, lâu ngày không biết thúi, vì đã hoá theo mà không biết.

Nghĩa bóng: Bạn bè ảnh hưởng tốt xấu lẫn nhau.



Cạn lời Lưu mới thưa rằng:

Từ vào chi thất xem bằng Long môn.

(Hoa Tiên Truyện).



CHI VIÊN 

Chi viên là tên một khu vườn của đức Phật. Ngày xưa Tu Đạt Đa trưởng giả muốn sửa một nơi tinh xá (nhà tinh khiết) để đức Phật ở, xét chỉ có vườn của Chi Đà Thái tử rộng 80 khoảng, nhiều cây sầm uất, bèn nói với Thái tử, Thái tử bảo đem vàng giải khắp vườn sẽ cho. Tưởng là nói đùa, không ngờ trưởng giả làm thực, rồi dựng thành tinh xá thỉnh đức Phật đến ở, gồm 1300 khu. Vì là vườn của Chi Đà Thái tử nên mới gọi là Chi viên .



Chi viên nỡ hẹp hòi sao,

Mở đường phương tiện chút nào được chăng?

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CHÍ BẤT TẠI ÔN BÃO 

Chí không phải ở chỗ ăn no mặc ấm.

Vương Tăng thi đậu Tam nguyên, bạn bè đến chúc mừng và nói rằng: Một đời anh ăn mặc không bao giờ hết. Ông cau mày mà nói rằng: Chí mình không phải ở chỗ ăn no mặc ấm.

Về sau, Vương Tăng là vị danh thần có khí tiết thanh cao, hiền đức.



CHÍ BỒNG TANG

Hay “Bồng tang chí  ” là chí hướng theo cung dâu tên cỏ, tức chí vẫy vùng.

Ngày xưa có tục lệ khi sanh ra con trai thì thường lấy cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng bắn bốn phương và trên dưới để cầu cho đứa con sau nầy lớn lên có chí hướng cung tên, vẫy vùng, ngang dọc bốn bể hầu lập công danh, sự nghiệp hiển hách.

Chí bồng tang là có chí vẫy vùng ngang dọc.



Đàng thay phỉ chí bồng tang,

Đặt cho Tất Chánh rõ ràng là tên.

(Truyện Phan Trần).



CHÍ CAO 

Chí: Điều mà trong lòng muốn hướng đến. Cao: Vượt hơn người.

Chí cao là nói kẻ có chí hướng hơn người khác.



Cho hay thục nữ chí cao,

Phải người tối mận sớm đào như ai?

(Truyện Kiều).



CHÍ CÔNG 

Chí: Rất. Công: Công bình.

Chí công tức rất công bình. Trời là đấng công bình tuyệt đối, cho nên Đấng Chí Công được dùng để chỉ ông trời.



Đuốc vương giả chí công là thế,

Chẳng soi cho đến khóe âm nhai.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Thượng Hoàng sánh đức Chí Công,

Mặc phò lê thứ khỏi vòng lao lung.

(Kinh Thế Đạo).



CHÍ HỒNG

Chí con chim hồng, ví với người anh hùng có chí lớn, mưu việc cao xa.

Sử Ký chép: Trần Thiệp thời hàn vi đi cày thuê cho người, lúc ngồi nghỉ, nói với các bạn cày rằng: Nếu được phú quý không bao giờ quên nhau. Những người cày khác cười mà nói: Nếu còn cày thuê thì làm sao giàu sang được? Trần Thiệp thở dài nói: Ta hồ, yến tước an tri hồng hộc chi chí tai  , !, nghĩa là than ôi, loài chim én chim sẻ sao biết được chí chim hồng chim hộc.

Chẳng yêu nhau chớ rẽ nhau,

Những loài yến tước hay đâu chí hồng.

(Truyện Phan Trần).



Gió mây hãy gắn chí hồng,

Tấm lòng cho bõ trông mong những ngày.

(Hoa Tiên Truyện)



CHÍ KÌNH

Kình là một loài cá lớn, bơi lội tung hoành khắp biển khơi.

Chí kình tức là chí hướng to lớn như cá kình, thích vẫy vùng, ngang dọc bốn phương.

Lan bằng cố nghĩa còn khơi diễn,

Vùng vẫy xin cho phỉ chí kình.

(Lưu Nữ Tướng).



CHÍ LINH 

Chí: Rất. Linh: Thiêng liêng.

Chí linh là rất thiêng liêng.

Cũng như “Chí Tôn  ”, “Chí Công  ”, chữ “Chí Linh” là một từ riêng trong Tôn giáo dùng để chỉ Đấng rất tôn kính. Trong đạo Cao Đài dùng để chỉ Đức Thượng Đế.

Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,

Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.

(Kinh Tận Độ).



Đem mình nương bóng Chí Linh,

Định tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.

(Kinh Tận Độ).



Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,

Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Để tâm dưới ánh Chí linh,

Soi tường chơn lý chỉ rành chánh văn.

(Kinh Thế Đạo).



CHÍ NAM NHI

Bởi chữ “Nam nhi chí  ” tức là chí làm trai.

Theo người xưa, khi sinh con trai mộng ước người cha là mong con sau này có một cái chí lớn, đó là phải sống một cuộc đời ngang dọc, vẫy vùng, làm nên sự nghiệp hiển hách để lưu danh thiên cổ.

Chí nam nhi dầu đặng lẫy lừng,

Cũng nhờ cậy dưới chân nâng bởi vợ.

(Phương Tu Đại Đạo).



Ba giềng với năm hằng khá đoán,

Hư nên đừng xao lãng chí nam nhi.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHÍ SĨ 

Chí: Chí khí. : Người học thức.

Chí sĩ là một kẻ sĩ có tiết tháo,chí khí hơn người.



Gánh quân thân ai đã mỏi vai rồi,

kẻ chí sĩ làm thinh đi chẳng dứt;

(Phản Tụng Tây Hồ).



CHÍ TÔN 

Chí: Rất. Tôn: Lớn hay tôn quý.

1.- Chí tôn là người lớn nhứt hay tôn quý nhứt trong một nước, đó là vị thiên tử hay vua.



Trên trướng gấm chí tôn vòi vọi,

Những khi nào gần gũi quân vương.

(Cung Oán Ngâm Khúc).

2.- Theo Đạo Cao Đài, bậc đáng tôn kính nhất trong cõi Thiêng liêng là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, nên Ngài được vạn linh xưng tụng là Đấng Chí Tôn.

Chí Tôn xá tội giải oan,

Thánh, Thần Tiên, Phật cứu nàn độ căn.

(Kinh Thế Đạo).



Luật điều Cổ Phật không chừa tội,

Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CHÍ THÁNH 

Chí: Rất, hết sức. Thánh: Bậc học thức và đạo đức hơn người.

Chí Thánh là bậc Thánh hết sức cao. Ngày xưa người ta tôn đức Khổng Tử là bậc Chí Thánh.



Đem mình nương bóng Chí Linh,

Định tâm Chí Thánh mới gìn ngôi xưa.

(Kinh Tận Độ).



Biết coi thế giới như nhà,

Sống nên Chí Thánh, thác là Thần Tiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHÍ THÀNH 

Hết lòng thành thật.

Trong việc xử thế của con người điều trước tiên phải có lòng chí thành. Chí thành là thể hiện sự hết sức thành thật của chính cá nhân mình đối với mọi người trong xã hội.

Mạnh Tử nói về đức Chí thành như sau: Thành giả, thiên chi đạo dã, tư thành giả, nhân chi đạo dã. Chí thành nhi bất động giả, vị chi hữu dã; bất thành vị hữu năng động giả dã  , , , , , , Nghĩa là thành thực là cái Đạo của Trời, luyện tập để nên thành thực là cái Đạo của người. Hễ chí thành mà không cảm được thiên hạ, thì chưa hề có; không thành thực thì chẳng cảm động được ai cả.



Nguyện lời nói biến hình bác ái,

Nguyện chí thành sửa máy tà gian.

(Kinh Thế Đạo).



Xin Từ Phụ ra ơn cứu độ,

Tăng huyền linh giác ngộ chí thành.

(Kinh Thế Đạo).



Ðức tánh khen con có chí thành,

Lần đường Ðạo chẳng chút cầu danh.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CHÌ DẦN DẠ

Chì dần dạ là chỉ sự đau đớn trong lòng, cũng như cục chì đập vào dạ, ý muốn nói cõi lòng tan nát.



Nghe trẻ khóc như chì dần dạ,

Thấy con đau như đá đập đầu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHỈ BÓNG

Do điển tích: Thiếu phụ Nam Xương.

Người thiếu phụ là Võ thị Thiết, ở quận Nam Xương, tỉnh Hà Nam nước ta, có chồng là Trương Sinh. Gặp phải thời loạn lạc, Trương Sinh phải tòng quân nhập ngũ, trong khi nàng Thiết đã có thai gần đến ngày sinh nở.

Đến khi chàng Trương ca khúc khải hoàn trở lại quê hương thì đứa con tên Đản vừa mới biết nói. Đản bảo Trương Sinh không phải là cha nó, vì cha nó về trong lúc ban đêm, thường theo bên mẹ nó.

Vốn là người hay nóng giận, lại ghen tương, không hỏi cặn kẻ, Trương Sinh chửi mắng vợ và đuổi đi. Nàng Thiết quá tuyệt vọng, bèn nhảy xuống sông Hoàng Giang thuộc huyện Nam Xương tự tử.

Đêm đến, trong cảnh phòng không chiếc bóng, chàng đốt đèn lên, chợt đứa con liền nói: Cha Đản đã về. Từ đó, chàng mới biết vợ ở nhà chỉ bóng dạy con gọi là cha, thì than ôi! Nàng đã ra đi trở thành người thiên cổ.



Dỗ con chỉ bóng giải sầu,

Rằng khuya đèn thắp cha hầu về thăm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHỈ CAM 

Chỉ: Mùi vị ngon. Cam: Ngọt.

Chỉ cam là mùi vị ngon ngọt. Ý nói thức ăn ngọt bùi dùng để phụng dưỡng cho cha mẹ.



Cửa viên hầu hạ thiếu người,

Chỉ cam vậy phải vâng lời hiếu thân.

(Lưu Nữ Tướng).



CHỈ DẠ THÔNG GIA

Bởi trong tục lệ hôn nhân ngày xưa, gọi là “Chỉ phúc giao hôn  ”, tức là chỉ bụng dạ (Có thai) để kết làm thông gia với nhau.

Tục ngày xưa hai gia đình thân nghĩa nhau và cả hai bên đều có thai, ước với nhau rằng: Nếu một bên sinh con trai, một bên sinh con gái, thì sẽ gả cho nhau làm vợ chồng. tục đó gọi là chỉ phúc giao hôn, tức là chỉ dạ (Thai) kết làm thông gia.

Trỏ thề trên thẳm dưới khơi,

Cùng nhau chỉ dạ định lời thông gia.

(Truyện Phan Trần).



CHỈ DẮT TƠ TRAO

Nhờ tơ chỉ dẫn dắt mà nên duyên vợ chồng.

Lấy tích Trương Gia Trinh đời Đường có năm người con gái, muốn gả một người cho Đặng Nguyên Chẩn. Ông bảo năm người con ở trong màn thêu, cầm mỗi người một sợi chỉ khác nhau, rồi bảo Nguyên Chẩn đứng ngoài màn chọn một sợi. Chẩn chọn sợi dây màu hồng, quả được cô gái đẹp mà Chẩn đã để ý.

Cánh hồng hãy gắng bay cao,

Tự nhiên chỉ dắt tơ trao lọ là!

(Hoa Tiên Truyện).



CHỈ GIÁO 

Chỉ: Dùng ngón tay để chỉ. Giáo: Dạy bảo.

Chỉ giáo tức là bày vẻ ra để chỉ dạy người.



Dù trong lẽ dại đường khôn,

Dám xin chỉ giáo tôi con được nhờ.

(Truyện Trê Cóc).



CHỈ HỒNG

Do chữ “Xích thằng  ”, là sợi tơ đỏ, chỉ việc xe duyên vợ chồng.

Tích trong Đường thư chép: Một hôm, Vi Cố gặp ông Lão ngồi dưới trăng xem sách và bên cạnh có đặt một túi chỉ hồng. Vi cố hỏi sách gì, thì ông lão nói đó là Hôn Thư, là sổ những người phải lấy nhau, hỏi chỉ để làm gì thì ông đáp ấy là chỉ hồng dùng để xe duyên cho đôi vợ chồng.

Xem: Xích thằng.



Dù khi lá thắm chỉ hồng,

Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

(Truyện Kiều).



Hôm xưa Tướng phủ mời vào,

Khoe con má phấn, ướm trao chỉ hồng.

(Nhị Độ Mai).



CHỈ LỘC  鹿

Chỉ nai (Hươu).

Do điển tích: Triệu Cao đời nhà Tần chuyên quyền, muốn dò xét người không theo phe mình, bèn lập kế dâng con nai lên Tần Nhị Thế và bảo rằng ngựa. Vua Nhị Thế nói rằng: Khanh lầm rồi, con nai chứ đâu phải là ngựa. Vua bèn hỏi các quan, có người theo Triệu Cao bảo là ngựa, có người cho là nai. Sau đó, Triệu Cao tìm cách hại lần những người nói theo Tần Nhị Thế.

Con lộc kia nào có phép toàn đâu,

ông ngồi mã thượng hãy rình theo,

còn quen thói nịnh tà mà chỉ lộc;

(Phản Tụng Tây Hồ).



CHỈ NON THỀ BỂ

Thoát ý từ câu “Hải thệ sơn minh  ” tức là thề non hẹn biển.

Ngày xưa, mỗi khi trai gái thề nguyền về nhân duyên, thường bày bàn hương án giữa trời, chỉ núi và bể mà thề hẹn với nhau.

Xem: Thệ hải minh sơn.



Cùng nhau căn vặn đến điều,

Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.

(Truyện Kiều).



CHỈ NÚI THỀ SÔNG

Do nghĩa từ câu “Thệ hải minh sơn  ”.

Chỉ núi thề sông là nói trai gái mượn sông và núi chứng minh cho tấm lòng để thề nguyền với nhau

Xem: Chỉ non thề biển.



Lời nguyền chỉ núi thề sông,

Tiếng là da mở, nghĩa cùng thịt xương.

(Quan Âm Thị Kính).



CHỈ PHÚC LIÊN NHÂN 

Chỉ bụng kết sui gia.

Sách Hán thư viết: Tình phù ý khế, Hán quân chỉ phúc liên nhân  , , nghĩa là tình phù ý hiệp, vua nhà Hán chỉ bụng kết sui gia.

Giả Phục cùng đánh với giặc Ngũ Hiệu, quân bị phá vỡ, Phục bị thương nặng. Vua Hán Quang Võ tiếc một danh tướng, nên nói rằng: Thật đáng tiếc, mất vị tướng tài của trẫm! Trẫm nghe nói vợ của khanh có thai, nếu sinh con gái, con trai trẫm sẽ cưới, nếu sinh con trai, thì trẫm sẽ gả con gái cho. Khanh không nên bận lòng lo lắng vợ con vậy. Giả Phục lần lần được lành bịnh trở lại.



CHỈ TẤN TƠ TẦN

Chỉ tơ tức là sợi chỉ cọng tơ, dùng để nói việc kết đôi lứa. Tấn Tần là hai nước thời Xuân Thu, đời đời kết làm thông gia với nhau.

Chỉ Tấn tơ Tần ý nói về nhân duyên đẹp lứa, thông gia khắn khít.

Đổi trao chỉ Tấn tơ Tần,

Họ Phan thì quạt họ Trần thì trâm.

(Truyện Phan Trần).



Ước trao chỉ Tấn tơ Tần,

Sắc cầm hảo hợp, lựa vần Quan thư.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CHỈ THẮM

Như chữ “Chỉ hồng” từ nghĩa “Xích thằng  ”, tức là sợi tơ đỏ thắm.

Do tích Vi Cố gặp Nguyệt Lão ngồi dưới trăng xem sách và bên cạnh có đặt một túi chỉ thắm. Vi Cố hỏi sách gì, thì ông lão nói là sổ ghi những người có duyên nợ với nhau, hỏi chỉ thắm dùng để làm gì thì ông ấy đáp là chỉ dùng để xe duyên cho đôi vợ chồng.

Chỉ thắm để nói có duyên vợ chồng.

Xem: Chỉ hồng.

Máy duyên nghĩ đã vào khuôn,

Toan này chỉ thắm cho tròn tuổi xanh.

(Hoa Tiên Truyện).



Trêu ngươi chi bấy trăng già,

Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành!

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CHỊ HẰNG

Bởi chữ “Hằng Nga  ”.

Tục truyền Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ. Khi Hậu Nghệ xin được thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga trộm uống, bay lên cung trăng, biến thành vị tiên nữ rất đẹp và trẻ mãi không già.

Chị Hằng tức là chỉ người con gái đẹp, hoặc chỉ mặt trăng.



Vả trong thềm quế cung trăng,

Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong.

(Truyện Kiều).



Khác gì ả Chức, chị Hằng,

Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CHIA CƠM CẮN MUỐI

Tức là hột cơm chia sớt, hột muối cắn nhường, ý nói anh em hay vợ chồng sống chung thương yêu nhau, phải biết nhường cơm chia muối cho nhau.



Tình chung bền giữ một đời,

Chia cơm cắn muối không dời lòng thương.

(Nữ Trung Tùng Phận).

CHÍCH BẠN LÌA ĐÔI

Chích bạn: Lẻ bạn. Lìa đôi: Đôi bạn phải lìa nhau.

Chích bạn lìa đôi ý nói hai người đang sum họp, vui vẻ, giờ thì lẻ bạn, cô độc một mình.



Càng đeo đẳng nỗi phiền nỗi thảm,

Càng thương thân chích bạn lìa đôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHIẾC BÁCH

Chiếc thuyền bằng gỗ bách.

Do Kinh Thi có câu: Phiếm bỉ bách chu tại bỉ trung hà  , , nghĩa là chiếc thuyền gỗ bách trôi nổi giữ dòng sông kia.

Chiếc bách dùng để chỉ thân phận người đàn bà linh đinh như chiếc thuyền gỗ bách nổi trôi trên mặt nước.



Sự mình kể hết tiêu hao,

Đã đành chiếc bách sóng đào lênh đênh.

(Hoa Tiên Truyện).



Nàng rằng chiếc bách sóng đào

Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!

(Truyện Kiều).



Chiếc bách dập dồn dòng Bích Thủy,

Phồn hoa mờ mệt giấc Huỳnh Lương.

(Đạo Sử).



CHIẾC DÉP VỀ TÂY

Hay “Chiếc dép nương gió”.

Do tích Đạt Ma (Dharma) Tổ Sư, sau khi đến Kiến Khang, vào tu chùa Thiếu Lâm ở núi Tung Sơn. Tương truyền, khi ông đã viên tịch rồi (Năm 529), nhưng về sau lại có người gặp được ông quải một chiếc dép đi về phía Tây.

Lại có thuyết cho rằng, có người Tống Vân đi sứ qua Tây Vực, dọc đường gặp Đạt Ma ngồi trên một chiếc dép vượt ngoài khơi. Tống Vân về thuật lại với vua Lương Võ Đế. Vua ra lịnh quật mồ của Đạt Ma, thấy di thể chỉ mang có một chiếc dép.

1.- Chiếc dép về tây:

Đạt Ma chiếc dép về Tây,

Chúa Lương mất nước, biết thầy đâu ôi!

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

2.- Chiếc dép nương gió:

Vui tiếng chuông giục khách lui thuyền;

vui chiếc dép trương buồm nương gió.

(Sãi Vãi).



CHIÊM BAO THẤY NGUYỆT SA

Nằm mộng thấy mặt trăng rơi xuống mình là điềm sanh con quý.

Do điển trong Sưu Thần Ký chép: Vợ Tôn Kiên là Ngô phu nhân nằm mơ thấy mặt trăng sa vào lòng, sau có thai rồi sinh ra Tôn Sách. Điềm sinh con quý.

Liễu Thơ là vợ họ Hà,

Chiêm bao nằm thấy nguyệt sa trên mình.

(Dương Từ Hà Mậu).



CHIÊM THÀNH 

Một quốc gia ngày xưa ở về đất Trung Việt của ta hiện nay. Khu Liên là người đầu tiên nổi lên xưng vương, đặt quốc hiệu là Lâm Ấp. Sau bị quan Thái thú Trương Chu đánh đuổi, dời đô về Chiêm Bà, rồi đổi quốc hiệu là Chiêm Thành, lấy thành Đồ Bàn làm Kinh Đô.



Châu dân đều thấm ân cao,

Chiêm thành, Chân lạp cũng vào hiệu cung.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Uy thanh xa động biên ngu,

Chiêm thành Chế Mộ dâng đồ thổ nghi.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHIÊN CẦU 

Chiên cầu tức nón chiên áo cầu.

Nón chiên là nón dệt bằng lông chiên, áo cầu là áo bằng da cừu, ý nói về văn hoá, tập tục của các bộ tộc du mục phía bắc Trung Quốc.

Chiên cầu ý nói văn minh lễ nghĩa của dân tộc đã bị thay đổi.



Sáng chi theo thói chiên cầu,

Dọc ngang chẳng đoái trên đầu có ai.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



CHIẾN BÀO 

Chiến: Đánh giặc với nhau. Bào: Chiếc áo.

Áo của quân lính ngày xưa mặc để đánh trận, có kết vảy thép như vảy cá để đỡ tên đạn. Cũng gọi là nhung y hay Giáp y.



Giã nhà đeo bức chiến bào,

Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CHIẾN CÔNG 

Chiến: Đánh nhau. Công: Công lao.

Chiến công là có công đi đánh thắng giặc. Công lao nầy còn được gọi là võ công.



Chiến công đều Phấn nghĩa binh,

Chỉn dùng những phúc tâm mình mà thôi.

(Hạnh Thục Ca).



CHIẾN ĐỊA 

Hay trận địa là chỉ nơi mà hai bên dàn trận đánh nhau tại đó.

Ngày xưa, khi có chiến tranh, hai bên thường chọn một khu đất để làm bãi chiến trường, tức là nơi hai bên đánh trận với nhau, gọi là chiến địa.

Xưa nay chiến địa dường bao,

Nội không muôn dặm, xiết bao dãi dầu.

(Chinh Phụ ngâm Khúc).



Lâm sa trường công phá giới biên,

Đáo chiến địa tồi phong hãm nhuệ.

(Nhạc Hoa Linh).



CHIẾN QUỐC 

Tên một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, cuối đời Xuân Thu, trước đời Tần, tức là từ Châu Uy Liệt Vương thứ 23 cho đến Tần Thuỷ Hoàng. Đời Chiến Quốc có bảy nước mạnh: Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ và Tần gọi là thất hùng, đánh nhau từ năm 403 đến 221 trước kỷ nguyên.



Thà như Quỷ Cốc tiên sinh,

Gặp thời Chiến Quốc thanh danh chẳng sờn.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



CHIẾN TRƯỜNG 

Hay “Chiến tràng”.



Chiến: Đánh nhau. Trường: Khoảng đất rộng.

Chiến trường đồng nghĩa với chiến địa, chỉ nơi hai bên đánh giặc với nhau.



Năm năm trời bể ngang tàng,

Đem mình đi bỏ chiến trường như không.

(Truyện Kiều).



Đầu voi phất ngọn cờ vàng,

Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Buồn thay cảnh cũ chiến trường,

Cô hồn quạ cúng, tên vàng bám rêu.

(Thơ Học Canh).



Phút bỗng đem thân bỏ chiến tràng,

Ba quân xơ xác ngọn cờ hàng.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



CHIÊNG VÀNG

Bởi chữ “Đồng chinh  ” tức là cái chiêng, một loại nhạc cụ bằng đồng màu vàng, chỉ mặt trời.

Chiêng vàng là mặt trời như cái chiêng trông từ xa chiếu sáng rực rỡ. Nhà thơ Chu Mạnh Trinh đã gọi mặt trời là “Chiêng” trong câu: Đường về chiêng đã gác chênh chênh.

Chiêng vàng đã gác non đoài,

Trống thu quân mới về nơi đất mình.

(Lưu Nữ Tướng).



Chiêng vàng gác bóng non tê,

Dừng chèo ướm hỏi lối vào chùa trong.

(Hương Sơn Nhật Trình).



CHIẾT LIỄU 

Bẻ cành liễu.

Theo sách Tam Phụ Hoàng Đồ, Bá kiều là một cây cầu nằm về hướng đông của Trường An. Đời hán, khi tiễn bạn tới cầu Bá Kiều, người ta thường bẻ một cành liễu để tặng bạn làm cây roi ngựa. Cầu này về sau thành tên cầu “Chiết liễu”.

Nghĩa bóng: Tiễn đưa, tống biệt nhau.

Xem: Bẻ liễu.

Tràng đình ngảnh lại xa xa,

Khỏi cầu chiết liễu ai là cố nhân?

(Tự Tình Khúc).



CHIẾT MAI PHÙNG DỊCH SỨ  使

Bẻ cành mai gặp tin thơ.

Tấn Thư chép: Ông Lục Khải cùng Phạm Diệp là bạn chí thân đã xa nhau, tình cờ gặp Tạ Phù là dịch sứ đến Trường An trao công văn, Lục Khải qua sông Lũng Đầu, bẻ một cành mai và làm một bài thơ tứ tuyệt để gửi cho Phạm Diệp như sau đây: Chiết mai phùng dịch sứ, Ký dữ Lũng Đầu nhân. Giang Nam vô sở hữu, Liêu tặng nhứt chi xuân  使,  . , . Tạm dịch: Bẻ mai gặp khách đem thư, Gởi người tri kỷ Lũng Đầu dặm xa. Giang nam nhớ chẳng nhiều hoa, Hân hoan kính tặng món quà đầu xuân.

CHIẾT XUNG 

Chiết: Bẻ gãy. Xung: Đụng chạm nhau. Chiếc xung có nghĩa là cự địch.

Bởi câu “Chiết xung tôn trở  ” là chỉ trong khoảng chén rượu mà dẹp được giặc.

Sách Án Tử Xuân Thu có chép: Tôn trở chi gian, chiết xung thiên lý chi ngoại  , nghĩa là không ra khỏi khoảng chén rượu mà dẹp được giặc ngoài muôn dặm. Ý muốn nói không cần đánh giặc cũng có thể dẹp loạn được.

Xem: Tôn trở.



Tiếc thay muôn dặm thành dài,

Cô quân nên nỗi thiệt tài chiết xung.

(Quốc Sử Diễn Ca)



Kìa ai tôn trở chiết xung,

Mã công tên Thực anh hùng kém chi.

(Quốc Sử Diễn Ca)



CHIÊU AN 

Chiêu an tức là kêu gọi bọn giặc cướp bãi binh, hàng phục để đất nước được yên ổn.

Kê Lặc Biên chép: Đời Tống Kiến Viêm thường hay chiêu an giặc cướp, nên sau đó ngoài dân gian có câu hát: Dục đắc quan, sát nhân phóng hỏa thọ chiêu an  , , nghĩa là muốn được làm quan thì giết người đốt nhà rồi để triều đình chiêu an.

Đóng quân làm chước chiêu an,

Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.

(Truyện Kiều).



Chiêu an ra sức phủ phê,

Chiêm dân vâng giáo trở về làm tôi.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



Thương sinh bốn bể chiêu an,

Hoàng cực chín lần áo rủ.

(Cung Trung Bảo Huấn).



CHIÊU HIỀN 

Chiêu: Vẫy, kêu gọi. Hiền: Người có tài năng và hiền đức.

Ngày xưa, những vị vua chuộng người có tài năng thường đăng bảng kết nạp hiền tài, thâu dụng danh sĩ để giúp vua trị nước, đó gọi là chiêu hiền hay nạp sĩ.



Ngỡ là chuông vua Hạ Võ chiêu hiền;

ngỡ là đạc đức Trọng Ni thiết giáo

(Sãi Vãi).



CHIÊU HỒN 

Chiêu: Kêu gọi. Hồn: Vong hồn, hồn người chết.

Chiêu hồn là dùng pháp thuật mà kêu gọi người chết trở về. theo nhà Phật, chiêu hồn là kêu gọi hồn người chết về để thiết lễ cúng tế.



Chiêu hồn thiết vị lễ thường,

Giải oan lập một đàn tràng bên sông.

(Truyện Kiều).



CHIÊU PHỦ 

Chiêu: Kêu gọi. Phủ: Phủ dụ, tức là vỗ về.

Chiêu phủ là dẹp yên giặc loạn rồi kêu gọi đến để vỗ về, an ủi.



Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,

Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.

(Truyện Kiều).



CHIÊU QUÂN 

Chiêu Quân là một cung nhân đời Hán, họ Vương tên Tường.

Quân Hung Nô đem binh sang uy hiếp, vua Hán muốn hoà, mới định tìm một cung nhân gả cho Hung Nô. Khi chọn người, cung nữ rất nhiều, vua không biết chọn ai, nên bảo Mao Diên Thọ vẽ tất cả cung nữ đem cho vua xem. Chiêu Quân không đút lót cho Mao Diên Thọ nên bị vẽ rất xấu. Vì vậy, vua mới chọn Chiêu Quân đem gả cho Hung Nô.

Khi Chiêu Quân ra lạy từ biệt, vua mới hay nàng là một cung nữ rất đẹp. Lúc thuyền qua ải cống sang Hồ, Chiêu Quân buồn thảm, ngồi gãy đàn để tỏ nỗi lòng thương chúa và nhớ nhà.



Quá quan này khúc Chiêu Quân,

Nữa phần luyến chúa nữa phần tư gia.

(Truyện Kiều).



Ban cho áo mũ Chiêu Quân,

Đảng công vâng mệnh đưa chân cõi ngoài.

(Nhị Độ Mai).



Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,

Bởi ngươi Diên Thọ họa đồ gây nên.

(Lục Vân Tiên).



Chiêu Quân chịu giã từ đất Hớn,

Thân cống Hồ ngất ngưởng tha bang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Ham Chiêu Quân trọn nghĩa phụ thần,

Hơn giúp Hớn Tôn Phu Nhân gươm cật ngựa.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHIẾU ÁN 

Chiếu án là chiếu theo bản án.

Khi quan xét xử hoặc toà án tuyên án cho một bị cáo thì phải căn cứ theo bản án, gọi là chiếu án.

Phép công chiếu án luận vào,

Có hai đường ấy, muốn sao mặc tình.

(Truyện Kiều).



CHIẾU CHĂN

Tức chiếu và mền.

Chiếu chăn còn dùng để nói tình nghĩa vợ chồng thắm thiết, vì cùng nằm chung chiếu, cùng đắp chung mền.

Khuyến nông chăm việc cần dân,

Chiếu chăn thương kẻ tù nhân lạnh lùng.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Dầu một đêm cũng nghĩa chiếu chăn,

Huống chi bạn khó khăn bao nỡ phụ.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHIẾU CHỈ 

Chiếu chỉ là tờ giấy ghi chép mệnh lệnh của nhà vua ban xuống cho triều thần và dân chúng.



Bèn sai chiếu chỉ đi mời,

Tôi bèn vưng mạng đến nơi điện ngoài.

(Trọng Tương Vấn Hớn).



Chàng vâng bái tạ vua cha,

Tay cầm chiếu chỉ vào tòa mỗi khi.

(Tây Sương).



CHIẾU DANH 

Chiếu: Dựa theo. Danh: Danh sách, tên họ.

Chiếu danh là dựa theo danh sách hay dựa theo tên họ đã ghi chép.



Mấy người phụ bạc xưa kia,

Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.

(Truyện Kiều).



CHIẾU DU

Chiếu du là một loại chiếu làm bằng cỏ lác u du, một thứ cỏ rất trơn và mịn.

Chiếu du là một loại chiếu đẹp và bền tốt.

Chiếu du trơn như mỡ;

thuốc lá ướp hoa ngâu.

(Sãi Vãi).



CHIẾU HOA

Chiếu hoa là loại chiếu được dệt hoa văn đẹp đẽ, dành cho những nhà giàu sang phú quý lót ván hay trải giường nằm.



Người đài nước, kẻ lò than,

Kẻ lồng đệm thuý, người dàn chiếu hoa.

(Hoa Tiên Truyện)



CHIẾU PHƯỢNG 

Hay “Chiếu phụng”.



Chiếu: Tờ giấy ghi chép các mệnh lệnh của vua. Phụng: Chim phượng hoàng. Chiếu phụng hay chiếu phượng chỉ chiếu chỉ của nhà vua.

Xưa Thạch Quý Long đời Hậu Triệu dùng giấy ngũ sắc viết lời chiếu, đặt ở mỏ con chim phượng làm bằng gỗ mà đọc.



Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẻ,

Vó câu nghìn dặm tuyết xông pha.

(Thơ Trần Trùng Quang).



CHIẾU RỒNG

Ngày xưa, chữ “Long” hay “Rồng” thuờng được dùng để chỉ nhà vua, như chữ long nhan, long sàng hay mặt rồng…

Vì vậy, chiếu rồng là chiếu chỉ của nhà vua ban ra.

Chiếu rồng vâng mệnh,

Thành phượng rời chân.

(Tiễn Chồng Đánh Giặc).



Dám thân qua dưới trướng,

Nay có sứ triều trung.

Lịnh ban hạ chiếu rồng,

Đã gần nơi ải hổ.

(Nhạc Hoa Linh).



CHIẾU TÂY

Bởi chữ “Tây tịch 西 ” là ngồi ở hướng tây, chỉ ông thầy dậy học. Do tích vua Hán Minh Đế tôn Hoàng Vinh làm bậc thầy, nên bảo Vinh ngồi hướng tây, quay mặt hướng đông. Vì vậy, chữ chiếu tây (Tây tịch) được dùng để gọi ông thầy dạy học.



Dĩnh lang mượn chuyện học hành,

Chiếu tây tạm thỉnh tiên sinh đến ngồi.

(Ngọc Kiều Lê).



CHIM BẰNG

Chim bằng còn gọi đại bàng, một loài chim to lớn mà trong sách Nam Hoa Kinh, Trang Tử đã viết: Bắc Minh hữu ngư, kỳ danh vi côn, bất tri kỷ thiên lý dã, hoá vi điểu kỳ danh vi bằng  , , , , nghĩa là bể bắc có con cá tên là cá côn lớn không biết là mấy nghìn dặm, hóa làm con chim, tên là chim bằng, lưng như núi Thái sơn, cánh như đám mây rủ trên trời.

Chim bằng ví với người mang chí lớn.

Gió hỡi gió, phong trần ta đã chán,

Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong.

(Thơ Tản Đà).



CHIM KẾT CÁNH

Ý nói vợ chồng khắn khít, gắn bó không rời nhau.

Do điển “Tỵ dực điểu  ”, tức là một loài chim chỉ có một bên cánh, nên lúc nào con trống và con mái phải kết cánh lại thì mới bay được, gọi là chim kết cánh. Xem: Chim liền cánh.

Chim kết cánh, cây liền cành,

Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHIM KHÔN ĐẬU CÂY LÀNH

Tục ngữ có câu “Chim khôn chọn cây lành mà đậu”, ý nói tôi hiền tìm chúa Thánh mà thờ, hoặc người khôn tìm đất lành mà sống.



Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,

Người thiện phải ngừa đức háo sanh.

(Đạo Sử).



CHIM LIỀN CÁNH

Chim liền cánh bởi chữ “Tỷ dực điểu  ” là loài chim bay cánh liền nhau, chỉ tình nghĩa gắn bó giữa vợ chồng. Trong bài Trường Hận Ca của Đỗ Phủ có câu: Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu  , nghĩa là trên trời nguyện làm chim liền cánh.

Xem: Tỷ dực.

Thiếp xin về kiếp sau này,

Như chim liền cánh, như cây liền cành.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CHIM LỒNG

Tức chim bị bẫy đem nhốt vào lồng, khó thoát ra được. Ca dao có câu: “Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra”.

Chim lồng dùng để ví thân phận người bị giam giữ, ràng buộc.

Thoắt trông nàng đã biết tình,

Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.

(Truyện Kiều).



Những nghĩ chim lồng chắp cánh bay,

Hoạ khi vận rủi có hồi may.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



CHIM NHẶT VOI CÀY

Bởi chữ “Tượng canh điểu vân  ” nghĩa là voi cày ruộng, chim nhặt cỏ.

Do tích Cổ Tẩu sai Thuấn một mình cày ruộng ở núi Lịch Sơn thì voi về cày ruộng, chim về nhặt cỏ. Sách có câu: Đội đội canh điền tượng,phân phân vân thảo cầm  , , nghĩa là đàn voi về cày ruộng, hàng bầy chim về nhặt cỏ.

Mấy phen non Lịch pha phôi,

Cỏ, chim về nhặt, ruộng, voi về cày.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



CHIM VIỆT NGỰA HỒ

Do câu: Hồ mã tê bắc phong, Việt điểu sào nam chi  , , tức là ngựa Hồ hý gió bắc, chim Việt đậu cành nam.

Chim Việt do điển tích từ sử nước ta, đời vua Hùng Vương đem sang Tàu cống sứ một con bạch trĩ. Chim bạch trĩ này tìm cây ngô đồng ở hướng nam mới chịu đậu.

Ngựa Hồ do điển tích sau: Rợ Hồ phía bắc, đem con ngựa hay dâng cho vua Hán Võ Đế. Vua nhà Hán sai người chăm sóc ngựa một cách đặc biệt, nhưng con ngựa buồn bã, ít ăn, đến khi gió bấc thổi thì ngựa hý một cách buồn thảm.



Tình riêng chim Việt ngựa Hồ,

Chuyên vần báu ngọc các đồ sạch không.

(Quốc sử Diễn Ca).



Chim Việt ngựa Hồ ngơ ngáo đó,

Hươu Tần yến Tạ lạc loài mô?

(Hoài Nam Khúc).



CHIM XANH

Chim có lông màu xanh.

Do chữ “Thanh điểu  ”, trích từ câu chuyện của Hán Võ Đế ra chơi vườn ngạn uyển, có hai con chim xanh bay đến. Đông Phương Sóc thấy vậy mới tâu rằng: Đây là sứ giả của bà Tây Vương Mẫu, đến báo tin để đón rước. Nhà vua liền cho sửa soạn, vừa xong thì quả nhiên có Tây Vương Mẫu đến thật.

Chim xanh dùng để chỉ sứ giả hay người mai mối

Nghĩa bóng: Thông tin.

Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.

(Truyện Kiều).



Thôi thì vườn khoá then cài,

Lấp dòng lá thắm, ngăn loài chim xanh.

(Bần Nữ Thán).



Nhiều trai gái duyên hài lỡ dở,

Tại chim xanh dụng mở mối đường.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHÌM CÁ RƠI NHÀN

Do câu “Trầm ngư lạc nhạn  ” để ca tụng phụ nữ đẹp đến nổi cá thấy phải chìm sâu dưới đáy nước, nhạn thấy phải rơi xuống.

Xem: Lạc nhạn trầm ngư.

Mặn mà chìm cá rơi nhàn,

Nguyệt ghen gương khép, hoa hờn thắm thay.

(Hoa Tiên Truyện).



CHÍN BỆ

Bởi chữ “Cửu bệ  ” hay “Cửu trùng  ” là chín cấp đến ngai vua ngự.

Như vậy, chín bệ là nơi vua ngồi được xây trong chín lần cửa thâm nghiêm, và ngự trên chín bậc thềm cao. Chín bệ dùng để chỉ vua hay ngôi vua.

Trên chín bệ mặt trời gang tấc,

Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Nên thiền khi trước lập công danh,

Chín bệ xem qua chẳng trí quân.

(Đạo Sử).



Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,

Chín bệ ngày nay quỉ nhảy đầm.

(Đạo Sử).



Còn chi hai chữ thái bình.

Ngửa nghiêng chín bệ, gập ghình ba châu.

(Ngụ Đời).



CHÍN CÕI THIÊN ĐƯỜNG

Tức là chín cõi trời, hay chín phương trời.

Xem: Chín phương trời.

Theo sách “Dương Từ Hà Mậu”, chín cõi Thiên đường gồm: Thanh thiên, Xích thiên, Bạch thiên, Hắc Thiên, Trung thiên, Hạo thiên, Khung thiên, Thương thiên, Huyền Thiên.



Cho hay chín cõi thiên đường,

Ngôi thần, ngôi thánh, phô trương đã rành.

(Dương Từ Hà Mậu).



CHÍN CHỮ

Bởi chữ “Cửu tự  ” là chín chữ, nói công lao khó nhọc của cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái.

Chín chữ tức là chín công việc khổ nhọc mà cha mẹ, đó là: 1.- Sinh: Đẻ con. 2.- Cúc: Nâng đỡ. 3.- Phủ: Vuốt ve. 4.- Xúc: Cho bú. 5.- Trưởng: Nuôi cho lớn. 6.- Dục: Dạy dỗ. 7.- Cố: Trông nôm. 8.- Phục: Săn sóc dạy dỗ. 9.- Phúc: Che đỡ.

Xem: Chín chữ cù lao.



Nhớ ơn chín chữ cao sâu,

Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.

(Truyện Kiều).



Đem mình mà trả nghĩa người,

Để công chín chữ thiệt thòi về sau.

(Hoa Tiên Truyện).



CHÍN CHỮ CÙ LAO

Bởi chữ “Cửu tự cù lao  ” là chín điều khổ nhọc của cha mẹ.(Xem chín chữ).

Kinh Thi có câu: Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực  , , , . , , nghĩa là cha sinh ta, mẹ nuôi ta, thương thay cha mẹ, công sinh ra ta khó nhọc dường nào! muốn báo ân sâu, trời cao chẳng dứt.

Sinh rằng: Chín chữ cù lao,

Bề sâu mấy trượng trời cao mấy trùng.

(Nhị Độ Mai).



Thương thay chín chữ cù lao,

Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.

(Lục Vân Tiên).



Nhớ câu chín chữ cù lao,

Công ơn cha mẹ no nao đặng đền.

(Dương Từ Hà Mậu).



CHÍN KHÚC

Dịch nghĩa từ chữ “Cửu hồi trường  ” tức là chín khúc ruột, dùng để chỉ sự ưu tư, khổ sở khiến lòng quặn đau, như thắt thành nhiều khúc ruột.

Tư Mã Thiên có câu: Trường nhất nhật nhi cửu hồi  , nghĩa là một ngày lòng đau quặn chín khúc ruột.

Khi tựa gối khi cúi đầu,

Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.

(Truyện Kiều).



Lòng chàng chín khúc tiêu hao,

Hạt châu lai láng, thấm bào như dong.

(Quan Âm Thị Kính).



Ruột tầm chín khúc vò tơ,

Biết lòng chàng có đợi chờ ta chăng?

(Thanh Hoá Quan Phong).



Truân chuyên đã bấy nhiêu lần,

Nỗi oan chín khúc ruột dần chạnh đau.

(Đạo Sử).



CHÍN PHƯƠNG TRỜI

Theo Lã Thị Xuân Thu, chín phương trời gồm: Quân thiên (Chính giữa), Thương thiên (Hướng đông), Viêm thiên (Hướng nam), Huyền thiên (Hướng bắc) Biến thiên (Đông bắc), Dương thiên (Đông nam), U thiên (Tây bắc), Chu thiên (Tây nam).

Chín phương trời theo triết lý đạo Cao Đài là “Cửu Trùng Thiên  ” tức là chín tầng trời.

Mười phương Phật chín phương Trời,

Chưa hay đến sự dưới trời oan ru?

(Quan Âm Thị Kính).



CHÍN SUỐI

Chín ngọn suối màu vàng ở dưới Âm phủ.

Do chữ “Cửu tuyền  ” là chín ngọn suối ở dưới mặt đất, dùng để chỉ chỗ ở của người chết, hay Âm phủ. Chín suối còn được gọi là “Suối vàng” hay “Hoàng tuyền”.

Thơ Nguyễn Vũ có câu: Minh minh Cửu tuyền thất, man man trường Dạ đài  , , nghĩa là mờ mịt nơi chín suối, ấm áp chốn Dạ đài.

Xem: Cửu tuyền.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

(Truyện Kiều).



Con dù chín suối cũng thơm,

Bấy lâu công đức đã cam phụ người.

(Nhị Độ Mai).



Đã đành chín suối chơi mây,

Danh thần tiết liệt xưa nay cùng truyền.

(Hạnh Thục Ca).



Làm vinh nghĩ chẳng thẹn non sông,

Chín suối ông cha nhẫng tủi thầm.

(Đạo Sử).

CHÍN TẦNG

Bởi chữ “Cửu trùng  ” là chín tầng cửa thâm nghiêm hay chín bậc thềm cao vọi, chỉ thiên tử hoặc chỗ vua ngự.

Xem: Chín trùng.

Chín tầng gươm báu 
trao tay,

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CHÍN TRỜI

Bởi chữ “Cửu thiên  ”.

Chín trời (Chín tầng trời) tức là chín phương trời hay Cửu Trùng thiên.

Xem: Chín phương trời.



Dạy rằng: Chờ hết 
canh tam,

Chín trời đi khắp, rồi đam trở về.

(Dương Từ Hà Mậu).



Chín Trời, mười Đất, đi thông,

Tìm ra mối đạo, trong lòng mới an.

(Dương Từ Hà Mậu).



Thương thay hai gã 
gian nan,

Chín trời đã khắp, phải toan lẽ gì?

(Dương Từ Hà Mậu).



CHÍN TRÙNG

1.- Từ chữ “Cửu trùng  ” để chỉ chín tầng cửa thâm nghiêm nơi vua ngự hay chín bậc thềm cao vọi chỗ ngôi vua.

Chín trùng có nghĩa là thiên tử hoặc chỉ nơi vua ngự. Xem: Cửu trùng.

Chín trùng chăm chắm ngôi hoàng cực,

Năm phúc hay hay dưới thứ dân.

(Hồng Đức Quốc Âm).

2.- Đối với đạo Cao Đài, “Chín trùng” do chữ “Cửu Trùng Thiên ” còn có nghĩa là chín tầng trời, chỉ cõi Thiên.

Lã chã đôi hàng luỵ ngọc,

Chín trùng trở lại Tiên đô.

(Tuý Sơn Vân Mộng).



CHÍN VẠC

Bởi chữ “Cửu đỉnh  ” là chín cái vạc.

Đời nhà Hạ, Vua Võ cho đúc chín cái đỉnh (Hay vạc) để tượng trưng cho chín Châu trong nước. Đời sau các triều đại khác lấy đỉnh, vạc làm quốc bảo, nên còn gọi là cửu bảo để thể hiện quyền lực của vua trong toàn cõi đất nước.

Xem: Cửu đỉnh.



Hán gia chín vạc phù trì,

Suy thời lại thịnh, nguy thời lại an.

(Ngoạ Long Cương Vãn).



Giữa trời chúa thánh nối ngôi càn,

Chín vạc ấy nên vững Thái bàn.

(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ).



Nay mừng:

Vận mở tam dương,

tộ yên chín vạc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



CHÍN VẠN BẰNG TRÌNH

Chín vạn: Chín muôn. Bằng Trình 
: Đường bay của chim bằng.

Chín vạn bằng trình là nói đường bay của chim bằng hay chim đại bàng hơn chín vạn dặm, chỉ kẻ anh hùng có chí khí lớn lao, hay chỉ con đường tương lai rộng lớn.

Sách Trang Tử viết: Có một loại chim, lưng như núi Thái sơn, cánh lớn như mây trời, có thể bay một lần đến chín vạn dặm.

Xem: Bằng trình.



Chừng trong chín vạn bằng trình,

Chẳng qua án tuyết song huỳnh mấy năm.

(Tây Sương).



CHINH YÊN 

Hay “Chinh an”.

Chinh yên tức là cái yên ngựa của người chiến sĩ, dùng để chỉ sự chiến tranh.

Ngoài ra, chinh yên còn dùng để diễn tả người lính chiến đi xa nhà.



Hồng quần nhẹ bước chinh yên,

Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Dặm hồng bụi cuốn chinh an,

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.

(Truyện Kiều).



CHINH CHIẾN 

Đánh giặc.

Theo Mạnh Tử, chinh giả, thượng phạt hạ dã  , , nghĩa là chinh là nước lớn đem quân đánh phạt nước nhỏ, tức là nước nhỏ có tội, nước lớn đem quân đến đánh để trị tội.

Chinh chiến đi đánh giặc để trừng phạt nước có tội. Hiện nay, chinh chiến có nghĩa là giặc giả.

Đường thi có câu: Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi  , nghĩa là xưa nay đi chinh chiến mấy ai trở về.

Những người chinh chiến bấy lâu,

Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CHINH PHU 

Chinh: Đêm quân đi đánh. Phu: Người.

Chinh phu là người đàn ông đi đánh giặc phương xa, hoặc người đi xa.



Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,

Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHINH PHỤ 

Chinh: Đem quân đi đánh. Phụ: Người vợ.

Chinh phụ là người đàn bà có chồng đi đánh giặc ở phương xa, tức là người vợ lính.



Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,

Chàng há từng học lũ Vương Tôn.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Chinh phụ trước treo nên quí giá,

Áng văn làm nhuệ khí cầu vinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHINH TIỄU 

Chinh: Đem quân đi đánh. Tiễu: Dẹp trừ giặc giã.

Chinh tiễu tức là đem binh đi đánh dẹp giặc chòm, giặc phiến loạn.



Vừa mừng cá nhảy đợt ba,

Lại thêm chinh tiễu sa đà hành biên.

(Hoa Tiên Truyện).



CHÍNH CHUYÊN 

Chính: Ngay thẳng., trái với tà. Chuyên: Quyết lòng theo một người hay chủ tâm vào một việc.

Chính chuyên là chỉ người đàn bà ngay thẳng hiền thục, giữ một lòng một dạ với chồng, và chỉ chuyên chú lo cho chồng con mà thôi.



Thủa tại gia phải tòng phụ giáo,

Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên.

(Gia Huấn Ca).



Chính chuyên chết cũng ra ma,

Lẳng lơ chết cũng chôn ra ngoài đồng.

(Ca Dao).



CHÍNH ĐẠI QUANG MINH 

Hay “Chánh đại quang minh”.



Chính đại: Thật ngay thẳng. Quang minh: Sáng.

Chính đại quang minh tức là làm bất cứ điều gì cũng phải rõ ràng, sáng sủa, không được mờ ám.

Người chính đại quang minh là người làm điều gì cũng rõ ràng, trong sáng, không làm điều mờ ám.

Đứng ngồi chính đại quang minh,

Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.

(Gia Huấn Ca).



CHÍNH ĐẠO 

Hay “Chánh đạo”.



Chính: Ngay thẳng. Đạo: Đạo lý.

Chính đạo tức là cái đạo lý theo đúng chính nghĩa.

Sách Trung Dung cho rằng: Trung giả thiên hạ chi chính đạo  , nghĩa là trung là chính đạo trong thiên hạ.

Cầm chính đạo để tịch tà cự bí.

Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



CHÍNH HÀ

Hay “Hà chính ”.



Chính: Chính trị. : Hà khắc, khắc nghiệt với nhân dân.

Chính hà tức là áp dụng nền chính trị khắc nghiệt đối với dân, người ta gọi đó là chính sách hà khắc.

Đức Khổng Tử cho rằng: Hà chính mảnh ư hổ  , tức là chính sách hà khắc mạnh còn hơn cọp.

Xiết bao phú trọng, chính hà,

Sinh dân sầu khổ ai là xót chăng?

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHÍNH HÌNH 

Hay “Chánh hình”.



Chính: Ngay thẳng. Hình: Luật pháp để trừng trị người có tội.

Chính hình là hình phạt đúng, thích hợp. Như chữ chính pháp, còn dùng để chỉ án xử tử.



Kịp truyền đao phủ chính hình.

(Thơ Cổ)


CHÍNH KHÍ 

Hay “Chánh khí”.



Chính: Ngay thẳng. Khí: Sự phát hiện ra bên ngoài của tinh thần.

Chính khí là cái khí tiết ngay thẳng của người trung liệt, nghĩa tiết.

Người xưa cho rằng người anh hùng, có tiết nghĩa thường thọ hạo nhiên chi khí, là cái khí lớn lao, mạnh mẽ có trong trời đất.

Chí non sông giã với cô thành,

Chén tân khổ nhắp ngon mùi chính khí.

(Văn Tế Võ Tánh).



Khí hạo nhiên chí đại chí cương,

So chính khí đã đầy trong trời đất.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



CHÍNH PHÁP 

Hay “Chánh pháp”.



Chính: Ngay thẳng. Pháp: Luật pháp.

Chính pháp là chữ dùng để chỉ việc xử án đúng theo luật pháp, như tử hình một người nào thì gọi là chính pháp.

Theo Tôn giáo, chánh pháp còn có nghĩa là Giáo pháp chơn chánh. Kinh Pháp Cú có câu: Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp với chánh pháp.

Truyền đem chính pháp thị tào,

Lư công xin để buộc vào có tang.

(Nhị Độ Mai).



CHÍNH PHONG 

Hay “Chánh phong”.



Chính: Ngay thẳng,. Phong: Thói tục.

Chính phong là thói tục đúng đắn, ngay thẳng, tức là phong tục tốt đẹp.

Chính phong còn là tên một thiên trong Kinh Thi với nội dung là ca tụng đức tốt của phụ nữ.

Cũng ban nhất phẩm như nhau,

Khuê môn cho rệt mối đầu chính phong.

(Hoa Tiên Tuyện).



CHÍNH TÀ 

Hay “Chánh tà”.

Hai con đường mà người tu phải chọn lựa, để trau giồi đức tánh mà tiến hoá.

Chánh là ngay thẳng, chơn thật, đúng đắn, hợp với luân lý đạo đức. Tà là cong queo, tà vạy, không hợp với luân thường đạo lý. Chánh tà luôn luôn lúc nào cũng xung khắc nhau, đối chọi nhau. Nhưng vì luật đối đải nơi thế gian hễ có chánh tự nhiên có tà, có thiện là phải có ác, cũng như có ngày thì phải có đêm.



Người tu hành muốn phân biệt được tà chánh thì phải có trí huệ. Trí huệ là cây đuốc soi rọi cho người tu lần đi theo con đường chơn chánh, bằng phẳng và ngắn nhứt.

Thế gian đàm luận 
chan chan,

Mấy ai cho chắc tỏ phân chánh tà.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Việc chi cũng có chánh tà,

Làm điều phải nghĩa lánh xa vạy vò.

(Kinh Sám Hối).



Huệ quang chiếu thấu chánh tà,

Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh.

(Kinh Tận Độ).



Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà,

Chánh tà hai lẽ đoán sao ra.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Chánh tà con đủ thấy con đường,

Biết ý rằng Thầy để dạ thương.

(Đạo Sử).



Học đặng định chánh tà giả thiệt,

Học cho thông đặc biệt hư nên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHÍNH TÂM 

Hay “Chánh tâm”.

Trau giồi đức hạnh để lòng được ngay thẳng đó gọi là chính tâm.

Theo sách Đại học, chính tâm là một trong tám điều: Cách vật, Trí tri, Thành ý, Chính tâm, Tu thân, Tề gia, Trị quốc, và Bình thiên hạ.



Học trò giữ chính tâm làm trước,

Với tu tề bình trị đều yên.

(Gia Huấn Ca).



CHÍNH THẤT 

Hay “Chánh thất”, tức là vợ chánh thức, vợ lớn.

Ngày xưa “Phòng” hay “Thất”chính là nơi dành cho người vợ đích (Vợ lớn) nắm quyền trong nhà. Vì vậy, chánh thất là tiếng dùng để chỉ người vợ cả.

Ăn lương hàm chánh thất.

(Thơ Trần Tế Xương).



CHÍNH THÊ 

Hay “Chánh thê”.

Chánh thê là người vợ chánh thức, tức vợ lớn, còn vợ nhỏ gọi là thứ thê hay thứ thiếp.

Xem: Chính thất.



Con coi phận mẹ mỏng mành,

Chánh thê nay lại sánh mình thứ thê.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHÍNH THỐNG 

Hay “Chánh thống”.

Dòng dõi chính hay một môn phái chính gọi là chính thống. Như dòng chính của nhà vua phải là con của Hoàng hậu (Vợ chính), đứa con đó gọi là dòng chính thống.

Hồng Bàng để mối đến nay,

Kể trong chính thống từ đây là đầu.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHÍNH TRỰC 

Hay “Chánh trực”.

Chánh trực có nghĩa là ngay thẳng

May duyên gặp đặng vợ hiền,

Thanh liêm chánh trực giữ bền lòng son.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHỈNH NGHI 

Chỉnh: Sử sang. Nghi: Lễ phép, nghi dung.

Chỉnh nghi là sửa sang hình dung và lễ nghi bên ngoài cho được tề chỉnh.



Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,

Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.

(Truyện Kiều).



CHÓ ĐIẾM MÈO ĐÀNG

Điếm đàng nói chung những hạng người có tính gian giảo, lừa gạt thiên hạ.

Chó điếm mèo đàng dùng để ví những hạng người đứng đường, dùng mọi mánh khoé kể cả lừa đảo, giành giựt để kiếm tiền, kiếm lợi.

Này là bạn chẳng kén trang,

Những người chó điếm mèo đàng cũng chơi.

(Huấn Nữ Ca).



CHÓ GÀ TỀ KHÁCH

Chó gà Tề khách là chỉ những môn khách của Mạnh Thường Quân người nước Tề đã từng giả tiếng chó sủa, gà gáy để quân lính mở cổng thành mà cứu thoát Mạnh Thường Quân khỏi bị hãm hại trong chuyến đi sứ sang nước Tần.



Rồng phụng Kinh Châu còn mắc núp,

Chó gà Tề khách chớ nên khoe.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



CHỌC TRỜI KHUẤY NƯỚC

Chọc trời khuấy nước là một thành ngữ chỉ người có tính ngang tàng, vùng vẫy và làm náo động khắp mọi nơi không sợ quyền uy, thế lực.



Chọc trời khuấy nước mặc dầu,

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?

(Truyện Kiều).



CHÒM ONG LŨ KIẾN

Bởi chữ “Phong nghị  ” là ong và kiến, dùng để chỉ bọn giặc chòm, giặc đóm.

Chòm ong lũ kiến chỉ bọn giặc cỏ cướp phá quấy rối nhân dân.

Xem: Lũ kiến chòm ong.



Song nhờ chế biến khéo dùng,

Chòm ong, lũ kiến đều cùng quét thanh.

(Hạnh Thục Ca).



CHỌN ĐÁ THỬ VÀNG

Đá vàng là hai loại vật chất cứng, chắc nên người ta thường dùng để ví với lòng kiên trinh, trung thành giữa tình vợ chồng và bè bạn.

Chọn đá thử vàng tức chọn lựa những loại đá cứng vàng thiệt, ý muốn nói kén chọn người tốt, người tri kỷ, người tâm đầu ý hợp.

Chút riêng chọn đá thử vàng,

Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?

(Truyện Kiều).



CHONG ĐÈN NẤU SỬ

Đời nhà Tống có người học trò tên là Phạm Thuần Nhơn, tự là Nghiêu Phu, con của Phạm Trọng Yêm, rất siêng năng học hành, suốt ngày không rời quyển sách, đêm đến lại chong đèn trong mùng mà học, lâu ngày nóc mùng đóng khói.

Sau ông được thành danh và chiếc mùng đóng khói được lấy làm gương cho con cháu.

CHỒI HUYÊN CỖI GỐC THUNG GIÀ

Chồi huyên tức là cỏ huyên, chỉ người mẹ. Chồi huyên cỗi ý nói mẹ đã cỗi.

Gốc thung, hay gốc xuân, dùng để chỉ người cha. Gốc thung già là nói ông cha đã già.

Chị nhờ em gánh hiếu trung,

Chồi huyên gần cỗigốc thung gần già.

(Nhị Độ Mai).



CHỒI QUẾ

Chồi quế có nhiều nghĩa:

1.- Dùng để chỉ người con.

Hẹp hòi đặng chút nữ sinh,

Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn.

(Lục Vân Tiên).

2.- Dùng để chỉ người tài danh, đỗ đạt cao. Do tích năm người con của Đậu Võ Quân lần lượt đỗ đạt cao, nên người đương thời gọi là Yên Sơn ngũ quế.

CHỐN ĐOẠ ĐÀY

Bỡi chữ “Đoạ cảnh  ” là nơi bị đọa.

Chốn đọa đày dùng để chỉ cõi trần gian của con người, vì nơi này là cõi thấp kém, tối tăm, chứa nhiều tội lỗi, ô trược và khổ não...Cõi đọa đày là nơi để trừng phạt các bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi bị đọa xuống để lập công chuộc tội.

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy: “Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả phải mất cả Chơn linh là luân hồi”.



Có thân giữa chốn đọa đày,

Đếm ba vạn sáu ngàn ngày khó khăn.

(Kinh Thế Đạo).



CHỐN QUYỀN MÔN

Quyền môn là cửa quyền, chỉ nơi làm việc của quan lại.

Chốn quyền môn ý nói giới quan lại cầm quyền cai trị nhân dân.

Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,

Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHỐN THẠCH BÀN

Thạch bàn là phiến đá lớn như cái mâm, ở Bàn Khê trên sông Vị, Lữ Vọng ngồi câu cá khi chưa gặp thời phải sống ẩn dật.

Nghĩa bóng: Chỉ nơi ẩn dật.

Xem: Lữ Vọng.



Ngắm chơi đã trải miền thôn dã,

Hóng mát từng vui chốn thạch bàn.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



CHỒNG CỦA VỢ CÔNG

Bởi câu tục ngữ “Của chồng công vợ”.

Tức là trong một gia đình, tài sản vật chất là của chồng, vợ về đóng góp công lao và gìn giữ, hai công ấy đều bằng nhau, nên người ta nói chồng của vợ công.

Xem: Của ông công bà.



Nắm chặt trăm năm một chữ đồng,

Hễ chồng thì của vợ thì công.

(Đạo Sử).



Dầu nghèo hèn chồng của vợ công,

Hiệp sức tát biển đông cũng cạn.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHỒNG LOAN VỢ PHƯỢNG

Loan là chim trống, phượng là chim mái. Loan phượng thường được người xưa dùng để ví đôi vợ chồng xứng đôi vừa lứa và cũng là lời chúc tụng hoà hợp của đôi trai gái như “Loan phượng hoà minh  ” là chim loan chim phượng hót hoà hợp với nhau.

Chồng loan vợ phượng ý nói sự đẹp đôi.

Cũng mặc ai chỉ Tấn tơ Tần,

cứ giữ lấy mình vàng giá ngọc.

Cho đáng kẻ chồng loan vợ phượng,

lọ là phải chào khách bán rao.

(Mẹ ơi! Con muốn lấy chồng).



CHỜ THỎ ẤP CÂY

Bởi chữ “Bão chu đãi thố  ” tức là ôm cây đợi thỏ.

Do câu chuyện: Có một người nước Tống tình cờ bắt được một con thỏ va đầu vào gốc cây mà chết. Ông đem về nhà làm thịt ăn. Từ đó ông không chịu làm việc chi nữa, suốt ngày chỉ đứng gốc cây để chờ thỏ va đầu chết.

Chuyện ngụ ý chê người khờ dại, không thực tế.



Muốn toan chờ thỏ ấp cây,

Lại lo từ mẫu chầy ngày ỷ lư.

(Song Tinh Bất Dạ).



CHỚP NHOÁNG

Chớp nhoáng là luồng sấm chớp, tức một đường ánh sáng lóe lên do sấm sét tạo thành, dùng để chỉ một khoảng thời gian rất ngắn, như “Lẹ chớp nhoáng”.



Việc sanh tử như đường chớp nháng,

Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.

(Kinh Sám Hối).



CHU Y 

Hay “Châu y” là áo màu đỏ.

Do điển Âu Dương Tu đời nhà Tống, làm quan chấm trường, thường thấy một thần nhân mặc áo màu đỏ đứng cạnh bên, hễ mỗi khi người ấy gật đầu một cái, tất trong quyển có câu văn hay.

Dễ chừng bắt chước Chu y đó,

Quyển có câu thần vậy gật ngay.

(Học Trò Ngủ Gật, Khuyết Danh).



CHU TOÀN 

Hay “Châu toàn”. Chu: Khắp. Toàn: Trọn vẹn.

Chu toàn là làm trọn vẹn hết mọi điều, không thiếu sót chỗ nào.

Chu toàn đã ngoại mười năm,

Bè trung chống vững, lòng căm chớ hòng.

(Nhị Độ Mai).



CHU THÁP 

Bởi câu “Đồng chu cộng tháp  ” nghĩa là cùng chung giường và cùng trên một chiếc thuyền.

Chu tháp ý muốn nói tình bạn bè thân thiết.

Chiêm bao đâu thấy nhã tiền,

Ấy duyên chu tháp hay duyên sắt cầm.

(Ngọc Kiều Lê).



CHỦ PHỤ 

Chủ: Người làm chủ. Phụ: Đàn bà.

Chủ phụ là người đàn bà làm chủ, quyết định mọi việc trong nhà, tức người vợ chính trong gia đình.



Trọn đời đẹp mặt phu nhân,

Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều,

(Gia Huấn Ca).



CHỦ TÂN 

Chủ: Người làm chủ. Tân: Khách khứa.

Chủ tân tức là chủ nhà và khách.



Phùng công ra đón rước liền,

Chủ tân một hội, hàn huyên mấy lời.

(Nhị Độ Mai).



CHỦ TRƯƠNG 

Chủ trương tức là có chủ ý bày ra một điều gì. Nghĩa thông thường là lo lắng, sắp xếp mọi công việc.



Vả trong thềm quế cung trăng,

Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong.

(Truyện Kiều).



CHUA CAY

Bởi chữ “Tân toan  ”, tức là vị cay và chua, dùng để chỉ cảnh gian nan, vất vả.



Nỗi chàng kể đã chua cay,

Nỗi nàng nào biết đến rày những sao.

(Hoa Tiên Truyện).



Biết đâu là hỏng biết đâu nên,

Cảnh vẫn chua cay chí vẫn bền.

(Thơ Huỳnh Thúc Kháng).



Kiến thân viếng sớm thăm hôm,

Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Chua cay đã chịu lắm mùi đời,

Bán thế gỡ chưa khỏi vận thời.

(Đạo Sử).



CHÚA ĐÔNG

Bởi chữ “Đông quân  ”, tên một vị thần coi về mùa xuân. Chúa Đông cũng như nói chúa xuân.

Xem: Chúa xuân.

Chợt trông mấp máy miệng đào,

Mặt hoa hớn hở dường chào chúa Đông.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CHÚA SỞ

Tức nói vua Sở là Tương Vương đi chơi ở đầm Vân Mộng, gần núi Vu Sơn, chiêm bao thấy một người con gái đẹp đến hầu vua và tự xưng Vu Sơn Thần nữ, có nhiệm vụ sáng làm mây, tối làm mưa. Sau vua lập đền thờ ở dưới chân núi Dương Đài.

Chúa Sở chỉ việc trai gáigặp gỡ hoan lạc.

Dương đài đành sẵn mưa mây,

Mà xem chúa Sở vui vầy giấc tiên.

(Hoa Tiên Truyện).



CHÚA THÁNH TÔI HIỀN

Đồng nghĩa với thành ngữ “Minh quân lương tể  ” tức là vua sáng tôi hiền.

Chúa thánh tôi hiền là vị vua có đức độ, sáng suốt như bực thánh., kẻ bề tôi thì tài giỏi, hiền đức.

Giúp chồng trọn ân cần nhiếp chánh,

Mới nên trang chúa thánh tôi hiền.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHÚA XUÂN

Chúa xuân dùng để chỉ vị thần chủ tể mùa xuân. Theo ngũ hành thì mùa xuân thuộc mộc, hướng đông, nên chúa xuân còn gọi là “Đông quân  ”, “Đông hoàng  ”, hay “Chúa đông”. Tức là tên vị Thần mặt trời và thần mùa xuân.

1.- Chúa xuân dùng để chỉ vua hay người chồng:

Muôn hồng nghìn tía đua tươi,

Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Đã cam chịu bạc với tình,

Chúa xuân để tội một mình cho hoa!

(Truyện Kiều).

2.- Chỉ người làm chủ mùa xuân:

Ba xuân đã gặp thuở thời vận,

Bốn bể đều mừng một chúa xuân.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Tin xuân đến ngọn cây đào,

Báo cho hoa biết ra chào chúa xuân.

(Thơ Tản Đà).



CHÙA BÀ ĐANH

Bà Đanh là một vị Công chúa nhà Lý đã lập ra chùa ở làng Thuỵ Chương, nên gọi là chùa Bà Đanh. Tương truyền chùa Bà Đanh thiêng lắm, ít người dám đến đây, nên chùa rất vắng vẻ, đìu hiu.



Dấu Bố Cái rêu đầy nền miếu,

Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



Còn duyên kẻ đón người đưa,

Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh.

(Truyện Trinh Thử).



CHÙA HƯƠNG

Tức là chùa Hương Tích ở phủ Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông, Bắc Việt.

Phong cảnh của chùa Hương có núi non u tịch, lối vào khuất khúc, qua khe đến núi, qua núi đến chùa, qua chùa đến động, thật là một cảnh trí thiên nhiên đẹp đẽ.

Xem: Hương Sơn.



Hôm nay đi chùa Hương,

Hoa cỏ mờ hơi sương.

(Thơ Nguyễn Nhược Pháp).

CHÙA MÂY

Bởi chữ “Vân am  ”, tức là một cái am được dựng nơi hẻo lánh, tĩnh mịch, cách biệt với người đời.

Chùa mây dùng để chỉ ngôi chùa nhỏ

Xem: Am vân.



Còn am tự, còn chùa mây,

Mà chàng đâu vắng, chốn nầy lặng trang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHÙA RÁCH PHẬT VÀNG

Chùa rách Phật vàng có nghĩa là ngôi chùa rách nát nghèo nàn mà trong đó thờ cốt Phật bằng vàng, chỉ việc nhân tài được sinh trong cảnh nghèo khó.



Trực rằng: Chùa rách phật vàng,

Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.

(Lục Vân Tiên).



CHUẨN DOÃN 

Chuẩn: Đồng ý theo việc gì. Doãn: Bằng lòng.

Chuẩn doãn là đồng ý bằng việc gì. Thường chữ chuẩn doãn dùng để nói vua bằng lòng chấp nhận.



Lãm qua chuẩn doãn lời tâu,

Cờ sai gươm hộp mặc dầu tiện nghi.

(Hoa Tiên Truyện).



CHUẨN THẰNG 

Chẩn: Đo mặt phẳng. Thằng: Dây thẳng.

Chuẩn thằng là hai dụng cụ dùng để đo, nên có nghĩa phép tắc, hay mẫu mực để mọi người noi theo.



Chuẩn thằng quy củ nhờ phương cách,

Kỹ nghệ thợ thầy giữ bổn nguyên.

(Thơ Huệ Phong).



CHÚC DONG 

Hay “Chúc Dung”.

Tên của một vị thần ở Phương nam, hành hoả thuộc cung ly, giữ mùa hạ.

Bính đinh hoả, hoả thì vượng ở mùa hạ, màu của mùa Hạ đỏ, cho nên vua mùa hạ còn gọi là Xích Đế.



Mãng vui bàng bạc quyến xuân phong,

Rờ rỡ lần sang lệnh Chúc Dong.

(Hồng Đức Quốc Âm).



CHUỲ BÁC LÃNG SA

Tức là cây chuỳ của Trương Lương thích khách Tần Thuỷ Hoàng tại Bác Lãng Sa.

Ông cha năm đời của Trương Lương làm tướng nước Hàn, nên khi Tần Thuỷ Hoàng chiếm cả sáu nước, Trương Lương mưu trả thù cho Hàn, bèn mai phục ở Bác Lãng Sa dùng chuỳ đập vào xe để giết Tần Thuỷ Hoàng, nhưng không thành công.

Xem: Đánh xa Tần Hoàng.



Làm cây chuỳ Bác Lãng Sa,

Trương Lương vì chúa đánh xa Tần Hoàng.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



CHUYÊN HÚC 

Chuyên Húc là tên một vị vua thời Thượng cổ của Trung Hoa. Ông là cháu vua Hoàng Đế lên ngôi lúc 20 tuổi, làm vua được 78 năm. Vua Chuyên Húc được xếp trong hàng ngũ đế.



CHUYÊN QUYỀN 

Chuyên: Riêng về một phương diện. Quyền: Có quyền làm một điều gì.

Chuyên quyền là riêng một mình nắm giữ quyền hành, không cho ai dự vào.



Trần Thừa là Thái Thượng hoàng,

Chuyên quyền thính đoán, gồm đường kinh luân.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Chuyên quyền từ đấy bỏ tuồng xưa,

Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.

(Đạo Sử).



CHUYỂN DAO 轉搖

Chuyển: Dời đi. Dao: Lay động.

Chuyển dao tức là làm cho rung động, lay chuyển. Theo nghĩa rộng là làm cho xiêu lòng, thay lòng đổi dạ.



Mặc ai ong bướm xôn xao,

Mười phần cũng chẳng chuyển dao một phần.

(Truyện Trinh Thử).



CHUYỂN LUÂN

Bởi chữ “Luân chuyên  ” là bánh xe quay.

Chuyển luân là sự luân hồi chuyển kiếp, tiếp nối không ngừng nghỉ, như bánh xe quay tròn.

Chuyển luân định phẩm cao thăng,

Hư vô Bát quái trị thần qui nguyên.

(Phật Mẫu Chơn Kinh).



Chuyển luân thế sự đưa kinh Thánh,

Trừ diệt tà gian múa bút Thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,

Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CHUYỂN THÂN TÁI THẾ 

Chuyển thân: Chuyển kiếp đầu thai một thân xác mới. Tái thế: Đến thế gian một lần nữa.

Chuyển thân tái thế là chuyển kiếp qua một xác thân mới để đầu thai xuống cõi thế gian một lần nữa.



Luân hồi thưởng phạt rất mầu,

Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.

(Kinh Sám Hối).



Chuyển thân trở lại trần gian,

Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.

(Kinh Sám Hối).



CHUNG CHIẾU CHUNG GIƯỜNG

Bởi chữ “Đồng tịch đồng sàng  ”, tức chỉ vợ chồng sống với nhau, cùng nằm chung một chiếc chiếu, chung một chiếc giường.

Nghĩa bóng: Chỉ vợ chồng.

Cùng nhau chung chiếu chung giường,

Tử Trung, Nguỵ Soạn hai chàng xưa nay.

(Nữ Tú Tài).



CHUNG ĐỈNH 

Chung: Cái chuông. Đỉnh: Cái vạc.

Ngày xưa, nhà quyền quý có nhiều thực khách, nên khi ăn thường nấu thức ăn bằng cái đỉnh, tức là vạc và đánh chuông để gọi khách. Nên có câu “Chung minh đỉnh thực chi gia  ”.

Nghĩa bóng: Chỉ nhà sang trọng.

Nhà chung đỉnh, cửa đai cân,

Vinh phong sắc Quận phu nhân cho nàng.

(Truyện Phan Trần).



Dưới trướng nức mùi chung đỉnh,

sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh.

(Trận Vong Tướng Sĩ).



CHUNG GỐI

Chung gối cũng như chữ “Chung chăn gối”, dùng để nói tình yêu hoà hợp của đôi vợ chồng.



Người vào chung gối loan phòng,

Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài.

(Truyện Kiều).



CHUNG KỲ 

Hay Chung Tử Kỳ, là người ở đời Xuân Thu, có tài nghe âm nhạc. Một hôm nghe Bá Nha ngồi gãy đàn, lòng đang tưởng trên núi, thì Tử Kỳ khen: Tiếng đàn chót vót như núi cao. Lúc Bá Nha đánh đàn lại nghĩ dưới sông, thì Tử Kỳ lại khen: Tiếng đàn cuồn cuộn như nước chảy.

Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha đập bỏ cây đàn và cho rằng trong thiên hạ không còn ai nghe được tiếng đàn (Tri âm) của ông ta nữa.

Rằng nghe nổi tiếng cầm đài,

Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.

(Truyện Kiều).



Lăng vân ngâm ngợi chờ mong,

Chung Kỳ đã gặp, thẹn lòng nữ chi.

(Thơ Lãng Nhân).



CHUNG QUỲ 

Tên một con quỷ do vua phong.

Đường Minh Hoàng ngủ mộng thấy một bầy quỷ nhỏ đến xâm hại. Nhưng lát sau, nhờ một con quỷ lớn, từ trên trời rơi xuống, ăn thịt hết bầy quỷ nhỏ. Vua Đường ngạc nhiên hỏi thì quỷ cho biết tên là Chung Quỳ, trước đây là người đã từng đi thi làm quan, nhưng không đỗ, nên giận đập đầu vào thềm điện. Vua nghe nói thương tình ban áo bào. Chung Quỳ mang ơn vua, nguyện trừ loại quỷ.

Sau đó, Đường Minh Hoàng sai vẽ hình Chung Quỳ để trấn áp quỷ.



Chung Quỳ khéo tác nên hình,

(Hoàng Sĩ Khải).



CHUNG TÌNH 

Chung: Đúc lại. Tình: Tình cảm, tình yêu giữa nam nữ hoặc tình vợ chồng yêu thương nhau.

Chung tình là tình yêu chung đúc vào một người, không xao lãng.



Duyên kia có phụ chi tình,

Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai?

(Truyện Kiều).



Chung tình trước một ai đâu,

Càng dan díu lắm, càng âu yếm nhiều.

(Hoa Tiên Truyện).



Đã cùng gánh chung tình hòa ái,

Tua đúc cơm, sửa dải làm duyên.

(Kinh Thế Đạo).



CHUNG TƯ 

Tên một loài sâu có cánh (giọt sành), đẻ ra một lần rất nhiều con.

Chung tư cũng là tên bài Kinh Thi trong phần Chu Nam: Chung tư vũ, tập tập hề, nghi nhĩ tử tôn, trập trập hề  , , , , nghĩa là Giọt sành tự tập thành bầy, con cháu mày đông đúc.

Nghĩa bóng: Chỉ việc có nhiều con cháu.



Chí lăm nuôi đặng vuông tròn,

Chung tư trập trập, nhà còn phúc ghi.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Tính rằng khuyên dỗ lấy nàng,

Đỡ khi chim cá, tiện đường chung tư.

(Truyện Trinh Thử).



Đức lành cù mộc,

ròng ròng đạo rệt cương thường.

Thơ ngợi chung tư,

dặc dặc phúc thêm tỏ dẫn.

(Cung Trung Bảo Huấn).



CHUNG TƯ LÂN CHỈ 

Tức là tên hai thiên trong Kinh Thi, để nói về người vợ vua sinh ra được nhiều con để nối dòng quý phái.



Điềm sớm ứng Chung tư, Lân chỉ,

Phái Lam thêm diễn thiên hoàng.

(Văn Tế Quang Trung).



CHUNG THIÊN 

Chung: Tột, rốt. Thiên: Ngày.

Chung thiên là rốt hết ngày, trọn hết ngày, hay nói cách khác là suốt đời.



Sinh rằng hiếu phục vừa xong,

Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên.

(Truyện Kiều).



CHUNG THUỶ 

Chung: Lúc cuối cùng. Thuỷ: Buổi đầu tiên.

Chung thuỷ là có đầu có đuôi, tức là giữ gìn tình cảm với nhau, từ buổi đầu tiên cho đến phút cuối cùng.



Chị em chung thủy một lòng,

Sau thầy trước bạn, chớ hòng phụ ai.

(Huấn Nữ Ca).



Tình chung thủy ví dầu nồng mặn,

Lại nhờ ai lên thẳng mối tơ.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHÚNG SANH 

Chúng: Đông đúc, nhiều người. Sinh: Sự sống.

Chúng sanh là từ dùng để chỉ người và vật có mạng sống.

Theo Phật, có sáu loài chúng sanh là Trời, người, A tu la, súc sinh, quỷ đói và địa ngục.

Sư còn lân mẫn chúng sanh.

Xin thương với tấm lòng thành với nao.

(Truyện Phan Trần).

Ðưa tượng Bạch My ra hiển hiện,

Chúng sanh xúm lại gọi Chơn linh.

(Thiên Thai Kiến Diện).



CHỦNG ĐẬU 

Trồng đậu.

Sách Minh Tâm Bửu Giám có câu: Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu  , . , , nghĩa là trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.

Nghĩa bóng: Làm điều dữ thì gặp điều dữ, làm điều lành thì gặp điều lành.



CHỦNG NGỌC 

Hay chưởng ngọc: Trồng ngọc.

Do tích trong Sưu Thần Ký. Ngày xưa Dương Ung là người con hiếu, mẹ chết làm nhà bên mộ để giữ. Tại nơi ở là vùng đất cao, không có nước, Ung bền đặt một lu nước trước nhà để người qua đường uống.

Một ngày kia, có người sau khi uống nước xong tặng cho Dương Ung một số hạt, dặn đem trồng, sau có thể thành ngọc.

Sau Dương Ung xin cưới người con gái họ Từ làm vợ, bà mẹ vợ đòi một đôi bạch bích. Dương Ung đến chỗ trồng ngọc đào lên thì được những viên ngọc bích trắng rực rỡ. Nhờ vậy, Dương Ung mới cưới được người vợ hiền.

CHUỖI BỒ ĐỀ

Hay “Chuỗi hột bồ đề”.

Hột bồ đề là hột cây bồ đề, một loại cây to cao, lá hình trứng, trái tròn vỏ cứng. Loại cây này mọc rất nhiều bên xứ Ấn Độ. Chính dưới gốc cây ấy, Đức Thích Ca Mâu Ni đã thành chánh quả sau khi ngồi thiền định suốt 49 ngày đêm.

Người tu theo Phật dùng hột bồ đề kết lại thành xâu, 108 hột, gọi là “Chuỗi bồ đề”. Người ta lần từng hột chuỗi để niệm danh Phật.

1.- Chuỗi bồ đề:

Trông gương trí tuệ lau lòng tục,

Lần chuỗi bồ đề dứt trái duyên.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



Nước Ma Ha rửa hờn nhi nữ,

Chuỗi Bồ Đề gìn giữ hồng nhan.

(Nữ Trung Tùng Phận).

2.- Chuỗi hột bồ đề:

Dựa màu thuyền bát nhã;

Lần chuỗi hột bồ đề.

(Sãi Vãi).



CHUỖI HỘT

Chuỗi là một sợi dây có xâu hột trai, hột ngọc hay hột cây bồ đề.

Chuỗi hột bồ đề dành cho người Phật tử niệm Phật, cứ niệm một danh hiệu Phật thì lần một hột. Việc lần chuỗi giúp cho người lần chuỗi được định tâm.

Chuỗi bồ đề.



Miệng nam mô danh lợi không cầu,

Nương chuỗi hột vinh hoa mặc thế.

(Nhạc Hoa Linh).



CHUÔNG HẠ VÕ CHIÊU HIỀN

Ngày xưa vua Hạ Võ rất chuộng bậc hiền tài để giúp ông trị nước. Vì vậy, trước điện vua có đặt năm món nhạc khí: Chuông, trống, khánh (Bằng đá), mõ, Đào (Trống nhỏ), và truyền ra cho dân biết: Nếu muốn tiếp kiến vua để bàn việc nhơn nghĩa dọng chuông, nói về đạo đức thì đánh trống, đem chuyện ưu tư mà kể với vua thì đánh khánh đá, kể chuyện oan ức thì đánh trống đào. Vua đều cho vào giáp mặt tất cả, không ai có quyền ngăn trở.



Ngỡ là chuông vua Hạ Võ chiêu hiền;

Ngỡ là đạc đức Trọng Ni thiết giáo.

(Sãi Vãi).



CHUÔNG KÌNH

Lời chú bài phú của Ban Cố có ghi: Ở biển có cá kình rất lớn, và gần bờ biển có một loại thú gọi là bồ lao rất sợ con cá kình. Mỗi lần cá kình lội vào bờ để đánh bồ lao thì bồ lao kêu rống to lên. Cho nên người xưa đúc hồng chuông thường hay đúc hình con bồ lao trên chóp chuông, và chạm cá kình nơi chày dọng chuông. Khi chày kình dọng vào chuông bồ lao thì chuông kêu to lên. Do vậy, người ta thường gọi chung chuông và chày là “Chuông kình”.

Xem: Chày kình.

Có khi ngồi suốt năm canh,

Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Lòng sầu đã rửa ít nhiều,

Sớm gõ mõ cá tối khêu chuông kình.

(Truyện Phan Trần).



CHUÔNG MÕ KỀ SON PHẤN

Chuông mõ: Những vật dùng cho người tu. Son phấn: Đồ trang sức của phụ nữ.

Chuông mõ kề son phấn ý muốn nói người phụ nữ dẹp hết son phấn để chuyên tâm gõ mõ tụng kinh, tu hành niệm Phật.



Để chuông mõ dựa kề son phấn,

Chất nhơn tình chồng cận kệ kinh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHUÔNG VẠC

Bởi chữ “Chung đỉnh  ”là cái chuông và cái vạc. Nhà giàu có quyền quý thời xưa đánh chuông báo giờ ăn, bày vạc đựng thức ăn.

Do vậy, chuông vạc dùng để chỉ nhà giàu sang quyền quý.

Xem: Chung đỉnh.



Khảm kể ruộng nương danh trưởng giả,

Bữa ăn chuông vạc lộc công khanh.

(Hồng Đức Quốc Âm).



CHUÔNG VẠN NGỰA NGHÌN

Bởi câu “Vạn chung thiên tứ  ” tức là muôn chung lúa, nghìn cỗ xe.

Chuông vạn ngựa nghìn dùng để chỉ những nhà quan quyền, sang trọng.

Nào ai bể dặn non nguyền,

Lòng nào chuông vạn, ngựa nghìn với ai,

(Hoa Tiên Truyện).



CHUỘT XÃ

Bởi chữ “Xã thử  ” tức là chuột ở nền xã.

Chuột đào hang ở nền xã tức là nơi để tế thần đất. Muốn bắt chuột, người ta không dám đào nền, vì sợ sập nền xã, ý muốn nói kẻ tiểu nhân cậy quyền thế, không ai dám đụng tới.

Anh hùng trong nước khoe tài,

Nơi nơi chuột xã nơi nơi cáo thành.

(Thiên Nam Ngữ Lục)



CHƯ HẦU 

Chư: Các. Hầu: Tước hầu, một trong năm tước quan ngày xưa: Công, hầu, bá, tử nam.

Chư hầu là vua và giới quý tộc của các nước trong thời đại phong kiến, tức là các nước nhỏ gọi chư hầu phụ thuộc một nước lớn là thiên tử.



Điệp đi các nước chư hầu,

Cho các thế tử về chầu kén duyên.

(Tây Sương).



Ngoài tuy giữ lễ chư hầu,

Trong theo hiệu đế làm đầu nước ta.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHƯ TỬ 

Chư: Các bậc. Tử: Thầy.

Chư tử là những vị hiền triết, có học vấn và đạo đức của thời Xuân Thu.

Chư tử là tiếng gọi chung các học giả danh tiếng của Trung Quốc vào thời Xuân Thu, như Khổng Tử, Tăng Tử, Liệt Tử , Trang Tử…

Xem cho đến Bách gia Chư Tử,

Bảy mươi pho kinh sử đều thông.

(Gia Huấn Ca).



Cuốc cùn ước tháo vườn Chư Tử,

Thuyền mọn khôn đua biển Lục Kinh.

(Thơ Nguyễn Trãi).



CHỬ CỮU KẾT GIAO 

Kết bạn nơi cối chày.

Đời Hậu Hán, có người tên là Công Sa Mục đến học ở nhà Thái Học. Gia cảnh rất nghèo, không có gạo ăn, phải đi giã gạo thuê cho Ngô Hữu. Ngô Hữu hỏi về thầy của Sa Mục, mới biết là người học rộng, bèn kết giao với Sa Mục ngay trong lúc hai người còn ở cạnh cối chày.

Nghĩa bóng: Bạn bè kết giao chẳng kể sang hèn.



CHỬ ĐẬU 

Hay “Chử đậu nhiên ky  ”, tức là nấu đậu chụm cây đậu.



Chử đậu: Nấu đậu. Nhiên ky: Chụm cây đậu.

Sách Thế Thuyết chép: Tào Phi, con của Tào Tháo, muốn hại em ruột của mình là Tào Thực, biểu trong bảy bước phải làm một bài thi, không làm xong, sẽ bị xử tử. Tào Thực liền ngâm rằng: Chử đậu nhiên đậu ki, Đậu tại phủ trung khấp. Bổn thị đồng căn sanh, Tương tiễn hà thái cấp!  , . , . Nghĩa là: Nấu đậu chụm cây đậu, Hạt đậu trong nồi khóc, Vốn cùng một gốc sanh, Đốt nhau chi quá gấp?!

Tào Phi xem xong bài thi, rất nên cảm động, bèn tha cho em mình là Tào Thực.

Chớ chớ phen lê khi chử đậu,

Anh em thảo thuận phúc nhà lành.

(Hồng Đức Quốc Âm).



CHỬ ĐỒNG 

Tức “Chử đồng tử 

Chử đồng là người đồng tử ở bãi sông.

Truyện Dã sử chép về đời Hùng Vương nước ta, có nàng Công chúa Tiên Dung đi chơi bãi sông, nhân trời nắng gắt, bèn giăng màn để tắm. Tưởng rằng nơi vắng vẻ, nào dè nước làm trôi cát, lộ ra một vị đồng tử, trước đó vì sợ phải vùi mình xuống bãi cát trốn.

Công chúa cho rằng đây cũng là thiên duyên xui khiến, nhân đó kết là phu phụ. Người ta chẳng biết chàng tên chi, gọi là Chử đồng tử (Đứa trẻ ở bãi sông).

Chử đồng ẩn chốn bình sa,

Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Lơ thơ dầu ông Lã thả cần,

Trần trụi mặc Chử đồng ngâm nước.

(Ngã Ba Hạc Phú).



CHỮ DẠ

Chữ dạ đồng nghĩa với một dạ, ghi dạ, để dạ, hay một dạ một lòng, tức là nói ghi tạc trong dạ, khắc sâu vào lòng.



Nay đà làm lễ hỏi tên,

Keo sơn chữ dạ cho bền ngày sau.

(Dương Từ Hà Mậu)



CHỮ ĐỒNG

Chữ Đồng tức là “Dải đồng” do câu “Đồng tâm kết  ” hay “Đồng tâm đái  ”, là một sợi dây thắt lưng có hai dải lụa buộc lại với nhau, ngày xưa dùng để ghi chép lời thề ước. Sau thường dùng để nói hai vợ chồng kết hợp cùng một lòng với nhau



Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

(Truyện Kiều).



Dải kia lầm giắt chữ đồng.

Tủi duyên ấy, để nỡ lòng sâm thương.

(Quan Âm Thị Kính)



Lời cha mẹ nghĩa vợ chồng,

Nhân duyên chưa ghép, chữ đồng đã in.

(Nhị Độ Mai).



Nắm chặt trăm năm một chữ đồng,

Hễ chồng thì của vợ thì công.

(Đạo Sử).



Nào là hương đượm lửa nồng,

Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CHỮ GẤM

Bởi chữ “Cẩm tự  ”, tức là chữ dệt bằng gấm.

Điển đời Tấn, Đậu Thao đi lính thú miền sa mạc, không thư tín về nhà. Vợ là nàng Tô Huệ nhớ nhung chồng bèn dệt một bài thơ hồi văn bằng chữ gấm rất tài tình, dâng lên vua để xin cho chồng về. Bức chữ gấm ấy được gọi là “Chức cẩm hồi văn”.

Xem: Chức cẩm hồi văn.



Ðề chữ gấm, phong thôi lại mở,

Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CHỮ TÀI LIỀN CHỮ TAI

Hay “Chữ tài cận chữ tai”.

Chữ tài, chữ tai đồng âm với nhau, nên nói chữ tài chữ tai một vần. Ngoài ra nó còn có nghĩa người tài giỏi thường gặp tai ương hoạn nạn.

1.- Chữ tài liền chữ tai.



Có tài mà cậy chi tài,

Chữ tài liền với chữ tai một vần.

(Truyện Kiều).

2.- Chữ tài cận chữ tai:

Đừng lòng kiêu hãnh cậy mình tài,

Nên nhớ chữ tài cận chữ tai.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CHỮ TÒNG

Hay “Chữ tùng”.

Bởi chữ “Tam tòng  ” là ba điều phải theo.

Đạo lý ngày xưa của người phụ nữ là phải giữ Tam tòng và Tứ đức. Tam tòng là tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử  , , , nghĩa là ở nhà theo cha mẹ, có chồng theo chồng, chồng chết theo con.



Phận bồ từ vẹn chữ tòng,

Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.

(Truyện Kiều).



Quyết liều mong vẹn chữ tòng,

Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.

(Ai Tư Vãn).



Thân ai đành trọn chữ tòng,

Suối vàng tươi mát, má hồng lây thơm.

(Nhị Độ Mai).



CHỮ TUỲ

Bởi chữ “Phu xướng phụ tuỳ  ” là chồng xướng vợ theo. Ý nói tình nghĩa vợ chồng hoà hợp cùng nhau theo khuôn phép.



Chữ tuỳ là phận đàn bà,

Nhu mì để dạ chua ngoa gác ngoài.

(Gia Huấn Ca).



CHƯA THƯƠNG ĐÃ GHÉT

Tức là nói sự thương ghét vô chừng, lúc thương lúc ghét. Do tích trong sách Hàn Phi Tử chép: Vua nước Vệ rất yêu quan Đại phu là Di Tử Hà. Có một lần mẹ Tử Hà đau nặng, ông nghe tin vội vàng lấy xe của vua đi. Vua nghe được, khen rằng: Di Tử Hà thật là đứa con hiếu, vì lo mẹ bịnh mà quên tội lấy xe vua đi. Một lần khác, Tử Hà cùng đi dạo vườn với vua, bẻ một quả đào ăn, thấy ngon ngọt, phần còn lại trao cho vua ăn. Vua khen: Tử hà yêu ta thật, Đồ ngon biết nhường cho ta ăn.

Về sau, nhà vua hết yêu Di Tử Hà nữa, khi ông phạm lỗi, vua nói: Tử Hà là người không trọng ta, dám tự ý lấy xe ta đi, và khinh ta cho ta ăn quả đào thừa. Cuối cùng bắt Tử Hà trị tội.

Nữa miếng đào chưa thương đã ghét,

Cả Long Dương ai xét cho chừ.

(Hoài Nam Ca Khúc).



CHỨA ĐỨC BỀN VỮNG

Người ta sống ở đời thường có quan niệm tạo ra sự nghiệp để di truyền lại cho con cháu, trong đó bao gồm sự nghiệp tinh thần và vật chất. Nhưng theo ông Tư Mã Ôn Công, những vật chất như vàng bạc, sản vật con cháu chưa ắt giữ được, sách vở con cháu chưa chắc chịu đọc, chẳng bằng để lại tinh thần như tạo âm đức, đó là việc bền vững nhất cho con cháu. Ông nói: tích âm đức minh minh chi trung, dĩ vi tử tôn truờng cửu chi kế  , ; nghĩa là cách để lại cho con cháu lâu dài không gì bằng chứa âm đức ở trong chỗ minh minh.



Chứa đức kia bền vững không ngằn,

Con cháu hưởng lâu bằng Trời Đất.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHỨA ĐỨC MUÔN NĂM HƯỞNG

Ý nói tích chứa phước đức để lại cho con cháu thì hưởng cả muôn năm cũng vẫn còn. Đây là câu nói của Tư Mã Ôn Công.

Xem: Chứa đức bền vững.

Vựa vàng chưa ắt để cho con,

Chứa đức muôn năm hưởng cũng còn.

(Đạo Sử).



CHỨA SÁCH CHO CON SAU HỌC

Làm cha mẹ mong cho con thông minh học giỏi, nên có nhiều người ky cóp kiếm thật nhiều tiền để mua sắm những sách quý hầu để lại cho con cháu đọc. Nhưng theo Gia Huấn của Tư Mã Ôn Công viết: tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng đọc  , , nghĩa là chứa sách để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đã chịu đọc.



Chứa sách để cho con sau học,

Chưa chắc con biết đọc cùng chăng.

(Phương Tu Đại Đạo).

CHỨA VÀNG ĐỂ LẠI CHO CON

Thói thường, các bậc làm cha mẹ không nệ gian lao khổ cực, thậm chí chẳng ngại việc thủ đoạn, phi pháp, cố làm lụn để kiếm được nhiều vàng bạc, hầu lưu lại cho con cháu về sau. Ngược lại, ông Tư Mã Ôn Công nói: Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ  , , nghĩa là chứa vàng để lại cho con cháu, con cháu chưa ắt đã giữ được. Theo ông, chưa ắt giữ được là không giữ được bền vững, chỉ có để lại âm đức mới là vĩnh viễn cho con mà thôi.

Xem: Câu tích kim.

Chứa vàng nhiều để lại cho con,

Con chưa ắt giữ còn bền lộc.

(Phương Tu Đại Đạo).



CHỨC NỮ 

Chức: Dệt vải. Nữ: Người con gái, cũng là một vì sao trong Nhị thập bát tú (Hai mươi tám vì sao).

Do chuyện Thần thoại sau: Chức nữ là một vị tiên nữ theo hầu Đức Thượng Đế. Thượng Đế thương tình mới gả nàng cho Khiên ngưu, một chàng chăn trâu ở trên trời.

Chức nữ có chồng rồi sinh ra biếng nhác, không làm tròn bổn phận, nên Thượng Đế bắt tội, không cho vợ chồng sống chung mà chia cắt hai bên sông Ngân hà. Cứ mỗi năm vào đêm mùng 7 tháng 7 (Thất tịch) mới cho gặp nhau một lần. Đêm đó, quạ đội cầu bắc qua sông Ngân cho Ngưu Nữ gặp nhau.

Xem: Cầu Ô.



Hữu tình chi bấy Ngưu lang,

Tấm lòng Chức nữ vì chàng mà nghiêng.

(Lục Vân Tiên).



Chức nữ tảo tùng giai tế giá,

Hằng nga bất nại bảo phu miên.

(Thơ Tản Đà).



Chức Nữ khóc thầm biệt Ngưu Lang,

Trăng soi thêm chạnh lá gan vàng.

(Đạo Sử).



CHỨC TY PHẬN TIỂU 職卑分小

Chức ty: Chức thấp. Phận tiểu: Phận mọn.

Chức ty phận tiểu là nói quan lại chức thì thấp kém, phận thì nhỏ nhoi.



Chức ti phận tiểu tầm thường,

Chẳng hay thượng hiến, sao tường duyên do.

(Nhị Độ Mai).



CHỨC TRỌNG QUYỀN CAO

Bởi câu “Trọng chức cao quyền  ” tức là người làm quan nắm chức vụ trọng yếu và có uy quyền to lớn.



Sao bằng chức trọng quyền cao,

Công danh ai dứt lối nào cho qua?

(Truyện Kiều).



Thưa rằng: Chức trọng quyền cao,

Triều quan quá nửa ra vào làm tôi.

(Nhị Độ Mai).



CHƯNG LÊ XUẤT THÊ 

Chưng lê không chín, để vợ.

Sách Gia Ngữ viết: Thầy Tăng Sâm thờ mẹ rất chí hiếu, vợ chưng trái lê không chín đem dâng cho mẹ, ông biết được làm tờ xuất “để vợ”. Người đời sau cho rằng: Chưng lê xuất thê, Tăng Tử thiện toàn hiếu đạo  , , nghĩa là chưng lê sống, để vợ, thầy Tăng Tử khéo giữ tròn hiếu đạo.

CHƯNG THƯỜNG 

Chưng: Lễ tế mùa đông. Thường: Lễ tế mùa thu.

Chưng thường là tên hai cuộc tế lễ vào mùa đông và mùa thu. Nghĩa rộng: Chỉ việc tế lễ nói chung.



Miếu đường còn dấu chưng thường,

Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.

(Ai Tư Vãn).



Lộc nặng thơm tho hương khói,

Nơi miếu đường nào khuyết lễ chưng thường.

(Văn Tế Vua Quang Trung).



Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

(Thập Loại Chúng Sinh).



CHỨNG LÂM 

Chứng: Nhận thức một việc gì. Lâm: Trên cao nhìn xuống.

Chứng lâm là đứng trên cao nhìn xuống để chứng minh một việc gì, tức người trên chứng cho kẻ dưới.



Đeo đai trót một tiếng đà,

Đài linh hổ có trăng già chứng lâm.

(Hoa Tiên Truyện).



CHỨNG MINH 

Chứng kiến để biết rõ ràng một việc gì do mình tự làm sáng tỏ hoặc người khác soi tỏ cho mình.



Chứng minh có đất, có Trời,

Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?

(Truyện Kiều).



Tam quy ngũ giới chứng minh,

Xem câu nhân quả niệm kinh Di Đà.

(Truyện Phan Trần).



Xin tha họa gởi tai rơi,

Hồn linh nhờ có ơn Trời chứng minh.

(Kinh Thế Đạo).



CHỨNG QUẢ 

Theo Phật giáo, người cầu đạo tu hành lâu ngày bỗng giác ngộ lý nhiệm mầu của Phật, gọi là chứng quả.



Ắt là chứng quả hiện tiền,

Thong dong muôn kiếp, vẹn đền bốn ân.

(Hứa Sử Tân Truyện).



CHỨNG TÁ 

Chứng: Làm bằng cớ. : Ở bên để giúp đỡ.

Chứng tá là người hiểu biết mọi sự việc đứng ra làm chứng.



Bảo nhau tìm chốn kêu oan.

Giắt theo chứng tá, một đoàn ngư nhân.

(Nhị Độ Mai).



CHỨNG TRI 

Chứng: Bằng cớ. Tri: Biết.

Chứng tri là biết rõ sự việc chứng minh cho, tức đem bằng cớ đưa để cho người ta biết sự việc có thật.



Nguyện cùng trời đất chứng tri,

Khai huyệt táng mẹ gần kề mả cha.

(Thạch Sanh).



Dù ai phụ bạc cùng nhau,

Đã thần ba thước trên đầu chứng tri.

(Quan Âm Thị Kính).



CHỬNG NỊCH 

Chửng: Cứu vớt. Nịch: Chìm đắm.

Chửng nịch là vớt người chết đuối. Nghĩa bóng “Chửng nịch” là cứu giúp người đang bị chìm đắm trong cảnh khổ sở lầm than.



Than rằng thiên hạ phân vân,

Lấy ai chửng nịch cứu phần dân ta.

(Hoài Nam Khúc).



CHƯỞI CHÓ MẮNG MÈO

Bởi chữ “Chỉ kê mạ khuyển  ” tức là chỉ gà mắng chó.

Đồng nghĩa với câu tục ngữ của ta: “Chửi chó mắng mèo”, ý muốn nói giận một đàng chưởi một nẻo.

Nghĩa bóng: Chửi bóng chửi gió.



Chớ nên chửi chó mắng mèo,

Trâu đen trâu bạc ra điều chẳng hay.

(Huấn Nữ Ca).



CHƯƠNG ĐÀI 

1.- Chương đài là tên một cung thất ở huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây, được xây dựng từ đời nhà Tần. Chương đài dùng để chỉ chung các cung thất, chỉ nơi giàu sang quyền quý.



Kẻ chốn Chương đài người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

(Thơ Huyện Thanh Quan)

2.- Chương đài hay “Chương đài liễu  ” là tên một con đường ở Trường An.

Đời nhà Đường, Hàng Hoành lấy một kỹ nữ tên Liễu ở đường Chương Đài. Sau Hàng Hoành đi xa, Liễu ở nhà bị tướng Phiên cướp mất, mãi ba năm sau Hàng Hoành với Liễu mới tái hiệp.

Lúc cách biệt Hàng Hoành có viết cho Liễu một bức thư trong ấy có câu: Chương đài liễu! Chương đài liễu!, tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thuỳ, giả ưng phan chiết tha nhân thủ!  ! ! ? 使 , , nghĩa là Liễu Chương Đài! Liễu Chương Đài! Ngày trước xanh xanh nay có còn không? Cho dù cành dài còn buông rủ như cũ thì hẳn tay người khác bẻ mất rồi. Sau Liễu Thị xem xong bèn trả lời: Dương liễu chi phương phi tiết, khả hận niên niên tặng ly biệt. Nhất diệp tuỳ phong hốt báo thu, túng sử quân lai khải kham chiết  , . , 使 , nghĩa là cành dương liễu đang lúc tốt tươi, đáng hận năm năm tặng ly biệt. Lá rơi theo gió báo thu sang, nếu anh có đến thì cũng không bẻ được.

Về sau nhờ Hứa Tuấn tìm cách đưa Liễu về sum họp với Hàng Hoành.



Hay là nhờ chốn Chương đài,

Xạ lan mùi cũ hán hài thói xưa.

(Truyện Phan Trần).



CHƯƠNG DƯƠNG 

Hay Chương Dương độ là tên một vùng thuộc huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông.

Nơi ấy vào năm Ất Dậu, 1385, danh tướng Trần Quang Khải, con thứ ba của vua Trần Thái Tông đánh đuổi quân lần thứ nhứt, để mở đường cho việc khắc phục thành Thăng Long khỏi tay bọn giặc Nguyên.

Tương truyền, khi đem binh vào thành Thăng Long, mở tiệc khao quân, ông đã ngâm một bài thơ tứ tuyệt như sau: Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Thái bình nghi nỗ lực, Vạn cổ thử Giang san  , . , . Dịch nôm: Chương dương cướp sáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy nghìn thu (Trần Trọng Kim dịch).



Chương dương một trận phong đào,

Kìa ai cướp giáo, ra vào có công?

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHƯƠNG HOÀNG 

Chương: Rực rỡ. Hoàng: Sáng chói.

Chương hoàng tức là rực rỡ sáng chói.



Quý Ly mới đổi họ Hồ,

Quốc danh là hiệu Đại Ngu chương hoàng.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CHƯƠNG PHỦ 

Chương phủ là một loại mũ của các sĩ phu đời nhà Thương thường đội.

Các Nho sĩ khi chưa đỗ Cử nhân cũng đội mũ Chương phủ hay còn gọi là Nho quan .

Có một người:

Khổ dạng trâm anh, nết na chương phủ.

(Tài Tử Đa Cùng Phú).



Sắc chương phủ hãy lờ mờ dấu cũ,

Ngọn kim phong lay lá rụng chồi khô.

(Phản Tụng Tây Hồ).

 

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...