Thursday, September 17, 2020

Điển tích - C

 

C

CA CANH TẠC 

Tức là bài ca nói về cày ruộng và đào giếng. Chỉ cảnh tự do, thiên hạ thái bình.

Do bài “Khang cù”, một bài hát của nhân dân trong thời Nghiêu Thuấn: Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực, nghĩa là đào giếng lấy nước uống, cày ruộng trồng trọt lấy mà ăn.

Xem: Tạc canh.



Dưới cũng vui vỗ bụng trời Nghiêu,

xướng ca canh tạc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



CA NGÂM 

Ca: Hát. Ngâm: Đọc có giọng lên xuống và kéo dài ra.

Ca ngâm là ca hát và ngâm thơ.



Thông minh vốn sẵn tư trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.

(Truyện Kiều).



CA SA 

Hay “Cà sa”.

Dịch âm từ tiếng Phạn Kasaya, một loại y phục của tăng sĩ Phật giáo, áo ca sa. Còn gọi là Pháp y, Giải thoát y, Phước điền y hay Điều phục y.

Các sư theo Nam Tông mặc áo ca sa màu vàng nhạt hoặc thẩm. Còn các sư Bắc Tông thường mặc áo màu nâu hoặc đen nhạt.

Áo ca sa cũng có loại do nhiều mảnh vải hình chữ nhựt kết lại với nhau thành chiếc áo như những thủa ruộng, nên còn gọi là bá nạp y, hay cát tiệt y (Áo cắt vụn).

Áo xanh đổi lấy cà sa,

Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.

(Truyện Kiều).



Đã lồng ba tấm cà sa,

Nhưng người tiên vẫn trông ra khác phàm.

(Quan Âm Thị Kính).



Thiếu bê son bình sái,

Thiếu tích trượng ca sa.

(Sãi Vãi).

CA THANH THẢO

Hay “Thanh thảo ca  ” tức là bài hát cỏ xanh. Trong Tam Quốc chí chép: Lúc Đổng Trác sắp bị giết, có mấy đứa trẻ chăn trâu hát rằng: Thiên lý thảo hà thanh thanh  , nghĩa là cỏ nghìn dặm sao xanh xanh?



Mảnh áo tơi cày lớp xớp trong mưa,

ca thanh thảo quyến đàn trâu gã Nịnh.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



CÁ AO CHÁY THÀNH

Bởi câu “Thành môn thất hoả , họa cập trì ngư  , ”, nghĩa là lửa cháy cửa thành vạ lây đến cá dưới ao. Do hai điển tích:

1-.Cá trong ao.

Sách Lã Thị Xuân Thu chép: Tống Hoằng Tư Mã bị tội bỏ trốn đi, mang theo một hạt châu rất quý, vua cho người chạy theo hỏi hạt châu đâu rồi thì ông cho biết là ném xuống ao. Vua cho người tát cạn ao để tìm hạt châu. Hạt châu tìm chẳng thấy, nhưng cá bị khô nước mà chết.

2-.“Ương cập trì ngư” hoặc “Hoạ cập trì ngư”.

Ương cập: Tai hoạ dẫn đến. Trì ngư: Cá trong ao.

Sách Quảng Văn chép: Ngày xưa có người tên là Trì Trọng Ngư, gọi tắt là Trì Ngư, ở gần cửa thành. Khi thành bị hoả hoạn, làm cho Trì Ngư bị chết thiêu, nên ngạn ngữ Trung Hoa mới có câu: Cửa thành lửa cháy, hoạ đến cả Trì Ngư.

Hoặc có thể hiểu theo nghĩa: Thành bị hoả thiêu, người ta múc nước ao để chữa lửa, khiến nước bị cạn, cá trong ao vì thế phải chết theo.

Cá ao lệ nữa cháy thành,

Cũng nhiều cấp phải lánh mình cho hay.

(Truyện Trinh Thử).



Cá ao luỵ bởi lửa thành,

Mảng tìm vượn Sở hoạ banh cây rừng.

(Thơ Tương An Quận Vương).



CÁ CHẬU CHIM LỒNG

Cá chậu chim lồng tức là cá bị nhốt trong chậu, chim bị giam vào lồng, chỉ người bị giam giữ hay bị ràng buộc, không được thông thả.

Ca dao ta có câu: “Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra”.

Một đời được mấy anh hùng,

Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi!

(Truyện Kiều).



Hãm lương, Hồ những để rông,

Chắc rằng cá chậu chim lồng vội đâu.

(Hoa Tiên Truyện).



Mạnh yếu há ngồi cam chịu vậy,

Hay chi cá chậu với chim lồng.

(Đạo Sử).



CÁ CHẬU GÀ CHUỒNG.

Đồng nghĩa với “Cá chậu chim lồng”. Ý muốn nói người bị ràng buộc, thân bị giam giữ mất tự do, như cá rộng ở chậu, gà nhốt trong chuồng.

Xem: Cá chậu chim lồng.

Dân như cá chậu gà chuồng,

Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.

(Đạo Sử).



CÁ CHÌM NHẠN SA

Theo Trang Tử, hai nàng Vương Tường và Lệ Cơ có một nhan sắc tuyệt trần, đến đổi nhạn thấy sắc đẹp đó cũng phải bay cao, cá thấy thì lặn sâu dưới nước.

Người ta dùng chữ “Cá chìm nhạn sa” để ca tụng sắc đẹp của phụ nữ.

Xem: Trầm ngư lạc nhạn.



Mỉa chiều nét ngọc làn hoa,

Cá chìm mặt nước, nhạn sa lưng trời.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CÁ ĐI NHẠN LẠI

Cá nhạn do chữ “Ngư thư nhạn tín  ”, dùng để chỉ mối manh tin tức.

Cá kia chung chậu hơi quen ý nói vợ chồng chung sống, cùng chiếu cùng giường lâu ngày quen hơi.

Cá đi nhạn lại tin bay,

Đủ năm lễ đã đến ngày thừa long.

(Quan Âm Thị Kính).



CÁ KIA CHUNG CHẬU HƠI QUEN

Lấy ý từ câu ca dao “Chim quyên hái trái nhãn lồng, thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi”.

Cá kia chung chậu ví như vợ chồng chung sống, cùng chiếu cùng giường lâu ngày quen hơi.

Cá kia chung chậu hơi quen,

Ái ân đầm thấm bởi bền nghĩa nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÁ KÌNH LẶNG TĂM

Cá kình: Một loài cá hung tợn, chỉ bọn giặc cướp. Lặng tăm: Lặng lẽ tăm hơi.

Cá kình lặng tăm ý nói hết giặc giã, không còn bọn cướp giựt.



Cá kình im lặng tăm hơi,

Duyền Ngân rửa mác non Đoài treo cung.

(Truyện Phan Trần).


CÁ LẶN NHẠN SA

Như câu “Cá chìm nhạn sa” dùng để chỉ phụ nữ có một nhan sắc tuyệt trần, đến đổi cá thấy sắc đẹp đó thì lặn sâu dưới nước, chim nhạn thấy phải sa xuống.

Nghĩa bóng: Ca tụng sắc đẹp.

Xem: Cá chìm nhạn sa.



Chìm đáy nước  lờ đờ lặn,

Lững da trời nhạn ngẩn ngơ sa.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CÁ LỘI DIỀU BAY

Bởi chữ trong Kinh Thi: “Ngư dược diên phi  ” tức là cá nhảy diều bay, dùng để chỉ sự thoả thích của loài chim trời cá nước để nói về sự tự do của người và muôn vật.



Chốn chiểu đài xem cá lội diều bay,

Thấu sĩ lộ nơi thông nơi trệ.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



CÁ NƯỚC

Bởi chữ “Ngư thuỷ  ”. Cá và nước được ví vợ chồng yêu thương nhau, vua tôi tin cậy nhau.

1.- Vợ chồng yêu thương:

Kinh Thi có câu: Hạo hạo giả thuỷ, dục dục giả ngư, nghĩa là mênh mang kìa nước, nhởn nhơ kìa cá. Ý nói nhơn duyên vợ chồng tương đắc cùng nhau.



Những mong cá nước sum vầy,

Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Ví dù đây cũng như ai,

Ép tình cá nước phải nài nẫm chi.

(Truyện Trinh Thử).

2.- Vua tôi tương đắc:

Do điển: Khi Lưu Bị cùng Khổng Minh thân mật, thì Quan Công cùng Trương Phi không bằng lòng. Lưu Bị nói: Cô đắc Khổng Minh do ngư chi đắc thuỷ, nghĩa là ta có Khổng Minh như cá gặp nước.

Nghĩa bóng: Vua tôi tin cậy nhau.

Xem: Ngư thuỷ.



Chúa tôi cá nước duyên lành,

Ba giềng đạo cả nỡ đành phủi tay.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Bao giờ cá nước gặp duyên,

Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay.

(Lục Vân Tiên).



CÁ NƯỚC DUYÊN ƯA

Do câu “Ngư thuỷ duyên hài  cá nước có duyên hoà hợp nhau.

Cá nước duyên ưa ý nói vợ chồng đẹp duyên với nhau. Xem: Cá nước.

Cười rằng: Cá nước duyên ưa,

Nhớ lời nói những bao giờ hay không?

(Truyện Kiều).



CÁ NHẢY NHẠN SA

Cá nhảy nhạn sa là thành ngữ dùng để ca tụng sắc đẹp của người phụ nữ đến nổi cá dưới nước thấy phải nhảy lên, chim nhạn bay thấy phải sa xuống.

Đồng nghĩa với Cá lặn nhạn sa.

Cá nhảy nhạn sa mừng mặt phấn,

Đào phai liễu ủ thẹn quần hồng.

(Truyện Vương Tường).



Chiều cá nhảy vẻ nhạn sa,

Mặt long lanh nguyệt tóc rà rà mây.

(Sơ Kính Tân Trang).



CÁ NHẢY RỒNG BAY

Cá nhảy: Hằng năm vào tháng 7, mưa đổ xuống, cá sắp thành hàng nơi Võ môn, nhảy lên núi cao. Con nào nhảy được, tức là thi đỗ, được hoá thành rồng. Rồng bay: Rồng bay lên, chỉ sự mưa thuận gió hoà.

Cá nhảy rồng bay là một thành ngữ chỉ về sự đạt được sự mong ước.



Trải qua thủy tú, sơn kỳ,

Phỉ lòng cá nhảy, gặp thì rồng bay.

(Lục Vân Tiên).



CÁ VƯỢT VÕ MÔN

Võ môn tức là cửa Võ, một cái cửa do vua Võ đào để trị thuỷ. Hằng năm vào tháng 7, mưa đổ xuống, cá gáy sắp thành hàng, nhảy lên núi cao.

Cá vượt Võ môn tức cá vượt khỏi cửa Võ, được hoá thành rồng, ý chỉ sự thi đỗ.

Một phen cá vượt Võ môn,

Ba chàng cùng chiếm Khôi nguyên, Tú tài.

(Nữ Tú Tài).



Phận gái lấy được chồng khôn,

Xem bằng cá vượt Võ môn hoá rồng.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CÁC ĐẰNG 

Hay Đằng vương Các là cái toà lâu đài của Đằng Vương Lý Nguyên Anh, con của Đường Cao Tổ Lý Uyên, làm Thứ sử Hàng Châu. Đây là một công trình kiến trúc nổi tiếng đẹp đẽ, xây dựng bên cửa sông Chương Giang, quận Nam Xương, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.

Xem “Đằng Vương Các”.

Ngẫm cơ ghềnh Thái, các Đằng,

Hay đâu là chẳng xích thằng sẵn xe.

(Hoa Tiên Truyện).



Các Đằng nhờ gió đưa duyên,

Song hai gã ấy tài hiền ngang nhau.

(Nữ Tú Tài).



Thương nhé hồng nhan nguyền khéo lỗi,

Các Đằng nhờ gió những ai vay?

(Truyện Vương Tường).



May duyên gặp hội Long vân,

Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi đưa.

(Kinh Thế Đạo).



CÁC HẠ 

Dưới lầu các.

Ngày xưa hàng phẩm tam công mới có lầu các, nên người thấp kém không dám tiếp xúc thẳng, mà chỉ nói ở dưới gác. Vì thế, trong văn thư gọi những bậc nầy, người ta thường dùng tiếng “Các hạ” để tôn xưng.

Ngày nay tiếng “các hạ” được dùng phổ biến hơn để tôn kính đối với người trên của mình.



Hoang mang tiếp túc tùy tòng,

Khẩn cấp tất lai các hạ.

(Nhạc Hoa Linh).



CÁC LÂN 

Các lân là cái lầu cao trên đó có chạm hình con Kỳ lân, do vua Hán Tuyên Ðế lập nên để thờ 11 vị Khai quốc Công Thần của nhà Hán. Ðây là đài vinh quang của kẻ bề tôi, còn đối với người tu thì “Các lân” ý nói là nơi đắc đạo.

Xem: Gác lân.

Ví xưa biết chút đường tu niệm,

Thì chắc nay đà ngự các lân.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Sang như Tần Thỉ lúc đương hưng,

Chừng quá ba đời hết các lân.

(Đạo Sử).



CÁC LÊ 

Gậy lê nơi lầu các.

Do tích Lưu Hướng đời Hán là vị quan coi về văn thư ở gác Thiên Lộc. Hằng đêm đều thấy một ông lão đầu bạc, tay cầm gậy bằng gỗ lê, đầu gậy sáng rực hào quang. Ông lão cho Lưu Hướng biết ông ấy là sao Thái Ất. Chính vì vậy, sau nầy từ “Các lê” được dùng để chỉ nơi đọc sách.

Bút son vâng mệnh đan đình,

Các lê lần giở sử xanh muôn đời.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CÁCH CỰU ĐỈNH TÂN 

Bỏ cũ dựng mới.

Cách cựu là đổi mới. Đỉnh là một vật được đúc bằng kim loại dùng để nấu thức ăn cho các nhà quý hiển, cũng có nghĩa là làm cho mới. Vì thế, đỉnh tân là làm cho mới.

Đồng nghĩa với “Cách cố thành tân  ”, hoặc “Cách cố đỉnh tân  ”, nghĩa là thay cũ để đổi thành mới.



Sau toan cách cựu đỉnh tân,

Lại vầy lại hợp cho nhuần sớm khuya.

(Truyện Trinh Thử).



CÁCH GIÁNG 

Cách: Bãi bỏ. Giáng: Rơi xuống.

Cách giáng là tiếng dùng để chỉ những quan lại lỗi lầm bị hạ chức, không cho giữ chức vụ cũ nữa.



Này là chồng lỡ công danh,

Nghe hơi cách giáng đã sanh phụ phàng.

(Huấn Nữ Ca).



CÁCH MẠNG 

Hay “Cách mệnh”.

Ngày xưa vua chịu mệnh nơi Trời, nên thay đổi một vị vua khác được gọi là cách mạng.

Ngày nay chữ cách mạng được dùng với nghĩa rộng rãi hơn là thay đổi cái tệ thành cái tốt.

Ví dụ: Cách mạng kinh tế, cách mạng giáo dục, cách mạng văn học…

Liệu đứng dậy mở cờ cách mạng,

Thoát khỏi vòng nô lệ bấy nay.

May ra sống được là hay,

Chẳng may thác cũng là tay anh hùng.

(Thơ Lê Văn Huân).



CÁCH QUYỀN HỒI DÂN 

Cách quyền: Bãi bỏ quyền hành. Hồi dân: Trở về với thường dân.

Cách quyền hồi dân là bị bãi bỏ quyền hành, tức là cách chức về làm thường dân.



Trần Đông Sơ với Lạc Thiên,

Vạ lây cũng phải cách quyền hồi dân.

(Nhị Độ Mai).



CÁCH TRỞ 

Bị ngăn cách.

Do sự xa cách nhau và do việc gì hoặc vật gì ngăn cản không thể gần gũi nhau được gọi là cách trở.

Gạt châu mới kể sự tình,

Nỗi quê cách trở, nỗi mình truân chuyên.

(Truyện Phan Trần).



CÁCH VẬT TRÍ TRI 

Cách vật: Tìm hiểu sự vật. Trí Tri: Đến sự biết.

Cách vật trí tri nghĩa là lấy cái lẽ sâu xa của sự vật mà suy ra cái trí thức cùng cực thì thấu đáo được tất cả.

Theo sách Đại Học, có cách vật mới trí tri, có trí tri mới thành ý, có thành ý mới chánh tâm…

Xem chữ Cách trí.



Nhiều bề cách vật trí tri

Tiếng muông chim lại hay suy nên lời.

(Truyện Trinh Thử).

Học cho cách vật trí tri,

Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng thông.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Mình phải người cách vật trí tri,

Nhớ tình nghĩa trong khi lựa rể.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÁI QUAY

Hay bánh xe quay là cái máy quây của Tạo hoá. Phật cho rằng chúng sanh ở trong thế giới, từ lúc sinh ra đến nay cứ bị quay vòng trong Lục đạo, hết kiếp này đến kiếp khác, như cái bánh xe quay mãi chẳng thôi. Đó gọi là Luân hồi sinh tử. Chỉ có kẻ tu hành đắc Đạo mới thoát khỏi luân hồi được.



Cái quay búng sẵn lên trời,

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CÁI QUAN 

Bởi câu “Cái quan luận định  ” nghĩa là con người sau khi đậy nắp quan tài rồi thì mới biết được hay dỡ, tốt xấu của họ.

Truyện Lưu Nghị trong Tấn Thư có viết: Đại trượng phu cái quan sự phương định  , nghĩa là kẻ đại trượng phu đến khi đậy nắp quan tài mới biết sự nghiệp đến đâu.

Cái quan chỉ sự đánh giá con người sau khi chết.



Tuổi này rày đã cam tâm,

Cái quan ngày khác cười thầm cũng vui.

(Ngọc Kiều Lê).



CÁI THẾ 

Cái: Che trùm. Thế: Đời.

Cái thế là tài năng hơn hẳn mọi người trong cõi thế gian, tức là suốt trong cõi đời không ai địch nổi. Do điển Hạng Võ có tiếng sức mạnh và võ nghệ cao cường hơn thiên hạ, không ai đương cự nổi, nên sách có câu: Lực bạt sơn hề, khí cái thế  , , nghĩa là sức nhổ núi hề, khí trùm đời.



Anh hùng cái thế phút đâu lở làng.

(Lục Vân Tiên).



Văn chương cái thế mãn đời còn,

Ðức hạnh vững bền sánh nước non.

(Đạo Sử).



CÀI TRÂM SỬA ÁO

Hay “Cài trâm sửa trấp”.

Cài trâm sửa áo hoặc “Cài trâm sửa trấp” đồng nghĩa với câu “Nâng khăn sửa túi”, tức là lo khăn lược, mũ áo cho chồng, ý chỉ bổn phận của người đàn bà thời xưa, lo lắng, săn sóc cho chồng.

Xem: Nâng khăn sửa túi.

1.- Cài trâm sửa áo:

Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,

Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông.

(Thơ Phan Văn Trị).

2.- Cài trâm sửa trấp:

Dầu cài trâm sửa trấp cũng nên xem,

Suy từ việc dạy thêm từ tiếng.

(Phương Tu Đại Đạo).


CẢI KIM

Hạt cải, cây kim.

Không phải chỉ có những vật đồng loại mới có sự tương cảm, mà cũng có những sự tương cảm của các vật khác loại, như hổ phách hút hạt cải, từ thạch dẫn kim loại.

Cải kim dùng để chỉ sự hoà hợp tìm đến với nhau, như tình duyên, tình vợ chồng.



Cũng là phận cải duyên kim,

Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao.

(Truyện Kiều).



Ai hay xem nghĩa hơn mình,

Nỗi mình bèo bọt tan tành cải kim.

(Hoa Tiên Truyện).



Cải kim đã vẹn mảnh gương thề,

Chẳng biết trọng mình để chúng chê.

(Đạo Sử).



CẢI NGUYÊN 

Sửa lại nguyên niên.

Ngày xưa khi một vị vua lên ngôi bèn đặt niên hiệu mới cho mình gọi là nguyên niên.

Nếu vị vua sau kế thừa vua trước thì lấy năm sau của năm lên ngôi làm nguyên niên, không còn ghi niên hiệu của vua trước nữa, nên gọi là cải nguyên.

Ví dụ: Minh Mệnh lên ngôi năm Kỹ Mão thì lấy năm Canh Thìn là Minh Mệnh nguyên niên.

Vua Lê Thánh Tông lúc lên ngôi lấy hiệu là Quang Thiện, cai trị một thời gian rồi ông cải nguyên vào năm Canh Dần (1478), gọi là Hồng Đức nguyên niên.



Vạn Xuân mới đặt quốc danh,

Cải nguyên Thiên Đức, đô thành Long biên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Trường yên đầu dựng đô thành.

Cải nguyên là hiệu Thái bình từ đây.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CẢI NHẬM 

Cải: Thay đổi, sửa đổi. Nhậm: Gánh vác.

Cải nhậm là thay đổi để nhận lãnh một chức vụ khác, hay đổi đi làm việc nơi khác.



Kim thì cải nhậm Nam Bình,

Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu Dương.

(Truyện Kiều).



CẢI TIẾT BIẾN NGHÌ

Bởi chữ “Cải tiết biến nghĩa  ”.

Cải tiết biến nghì tức là thay đổi lòng trinh tiết, biến cải điều lễ nghĩa, ý nói thay lòng đổi dạ bỏ quên điều nhân nghĩa.

Chàng sao chưa tát sông mê,

Xui ai cải tiết biến nghì sao đang.

(Truyện Trinh Thử).



CẢI TÒNG MẪU TÍNH 

Cải tòng: Sửa đổi theo. Mẫu tính: Họ của mẹ.

Cải tòng mẫu tính là thay đổi theo họ mẹ.

Thời xưa, những người trong họ vua phạm tội nặng đều phải cải qua họ mẹ, ngụ ý rằng người của họ vua không làm bậy.

Truyền thu chức tước mạo bào,

Cải tòng mẫu tính ải Lao lưu hình.

(Hạnh Thục Ca).



CẢI TỬ HOÀN SANH 

Hay “Cải tử huờn sanh”.

Người sắp chết mà được cứu sống trở lại.

Có hai nghĩa đen và nghĩa bóng.

Nghĩa đen: Anh ấy bị bệnh sắp chết, nhờ thuốc mà anh ấy được cải tử hoàn sanh.

Nghĩa bóng: Anh ấy nhờ ông thầy giáo hoá mà được cải tử hoàn sanh, nếu không thân sẽ bị tù tội.



Phép thiêng cải tử hoàn sanh,

Ở hiền may gặp lại lành đến đây.

(Nhị Độ Mai).



Nếu ai làm đặng chí thành,

Phật Trời cải tử huờn sanh, khó gì.

(Hứa Sử Tân Truyện).



CAY CHUA

Bởi chữ “Tân toan  ” là vị cay và vị chua.

Cay chua đồng nghĩa với chữ “Cay đắng”, dùng để chỉ sự gian nan, vất vả, hay khổ cực.

Xem: Cay đắng.



Hạnh tu đã chịu lắm cay chua,

Ðạo thế cho xong mới đến chùa.

(Đạo Sử).



CAY ĐẮNG

Bởi chữ “Tân khổ  ” là vị cay, vị đắng.

Vị cay, vị đắng là hai trong ngũ vị ăn vào khó khăn, gây khổ sở cho người chưa quen dùng, nên người ta thường dùng hai vị “Cay đắng” để chỉ sự khổ sở, gian nan hay vất vả.

Xem: Tân khổ.



Mùi tục lụy đường kia cay đắng,

Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Tình kiều tử, dạ phần hương,

Dù cay đắng cũng phận thường nghĩ sao.

(Hoa Tiên Truyện).



Cay đắng lần soi gương trí huệ,

Chia phui chờ trải lối tang thương.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Thường ngày cay đắng phải âu lo,

Ðộ dẫn nhằm nơi phải gắng dò.

(Đạo Sử).



CÀY ĂN ĐÀO UỐNG

Bởi chữ “Canh thực tạc ẩm  ”, nghĩa là cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống, nói sống đời tự do, tự làm tự ăn trong cảnh thái bình thịnh trị.

Xem: Tạc tỉnh canh điền.

Cày ăn đào uống yên đòi phận,

Sự thế chẳng hay đã Hán Tần.

(Quốc Âm Thi Tập).



CÀY MÂY CÂU NGUYỆT

Bởi chữ “Canh vân điếu nguyệt  ” tức là cày ruộng trong mây núi, câu dưới trăng.

Cày mây câu nguyệt dùng để nói cảnh thơ mộng, nhàn nhã, sinh hoạt thanh cao của người ẩn dật.

Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi,

Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu.

(Lục Vân Tiên)



CÀY MÂY CUỐC NGUYỆT

Lấy ý từ chữ “Canh vân điếu nguyệt  ” tức là cày ruộng trong mây núi, câu dưới trăng.

Cày mây cuốc nguyệt dùng để nói cảnh sống thanh cao của người ẩn dật.

Xem: Cày mây câu nguyệt.



Thương vua Nghiêu áo vải quần gai;

Thương vua Thuấn cày mây cuốc nguyệt.

(Sãi Vãi).



Cày mây cuốc nguyệt gánh yên hà,

Nào của nào chăng phải của ta.

(Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm).



Cày mây cuốc nguyệt chờ Thang Võ,

Rằng biết cho dân chịu buộc ràng.

(Đạo Sử).



CÀY MƯA CUỐC GIÓ

Cày mưa: Cày dưới mưa. Cuốc gió: Cuốc trong gió. Cày mưa cuốc gió nghĩa là cày cuốc dưới cơn mưa gió, ý chỉ sự nhọc nhằn, vất vả của người nông dân.

Lại bàn đến việc nông dân,

Cày mưa cuốc gió chuyên cần công phu.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CAM ĐƯỜNG 

Tên một loại cây, còn gọi là đường lê.

Theo Kinh Thi: Ông Thiệu Bá là một vị quan đời nhà Chu, rất liêm cần, nhà cất dưới cây cam đường. Ông tuần hành các nước ở phương nam để phủ dụ và ban bố chính sách nhơn trị của vua Văn Vương, nên sau nầy người ta cảm ơn đức của Thiệu Bá thường hay quý cây đường lê và lấy làm tên của một thiên Kinh Thi để ca tụng ông. Thơ rằng: Tế phế cam đường, vật tiễn vật phạt, Thiệu Bá sở bạt  , . , nghĩa là rườm rà cây cam đường chớ cắt chớ chặt, nơi Thiệu Bá nghỉ ngơi.

Tấc lòng xem bẵng mẹ cha,

Đọc ca mạch tuệ ngâm thơ cam đường.

(Nhị Độ Mai).



Cam đường bóng ngã tà tà,

Gió xuân quyến gót mưa hòa dặm khơi.

(Truyện Trinh Thử).



CAM KHỔ 

Cam: Tự nguyện. Khổ: Cực nhọc, vất vả.

Cam khổ tức là tự nguyện chịu sự nhọc nhằn, lo lắng, vất vả.



Chém tre ngã gỗ trên ngàn,

Uống ăn cam khổ phàn nàn cùng ai.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CAM LA 

Cam La là người nước Tần, từ nhỏ rất thông minh, làm môn hạ của Lữ Bất Vi.

Lữ Bất Vi muốn giúp nước Yên, nên sai Trương Đường sang làm tướng. Trương Đường không chịu đi, Lữ Bất Vi phải nhờ Cam La thuyết phục, nên Trương Đường mới nhận lời.

Vua Tần biết Cam La là người tuổi trẻ tài cao nên ban cho năm mươi cổ xe, một trăm người theo hầu để đi sứ sang nước Triệu.

Cam La khuyên Triệu nên liên kết với Tần bằng cách cắt năm thành chia cho Tần để Tần tuyệt giao với Yên. Triệu nghe lời, dâng năm thành cho Tần. Vua Tần triệu Trương Đường về nước, không giúp cho nước Yên nữa.

Triệu biết Tần tuyệt giao với Yên, nên đem quân qua đánh nước nầy, lấy được ba mươi thành, chia cho Tần mười một, còn giữ lấy mười chín thành.

Nhờ công lao lớn, vua Tần mới phong cho Cam La là Thượng Khanh, là một vị quan trẻ nhất bấy giờ. Chẳng may, Cam La lại mất sớm.

Cam La sớm gặp cũng xinh,

Muộn mà Khương Tử cũng vinh một đời.

(Lục Vân Tiên).



Cam La trước trẻ đã công hầu,

Bảy chục Khương Công nhẫn nhấp câu.

(Đạo Sử).



Cam La sớm phận đã nên quan,

Mình thiệt thòi thôi cứ việc làng.

(Đạo Sử).



CAM LAI 

Do chữ “Khổ tận cam lai  ”, nghĩa là hết đắng đến ngọt, ý muốn nói hết đời hết khổ đến sướng.

Nghĩa bóng: Hết suy tới thịnh.

Tẻ vui bởi tại lòng này,

Hay là khổ tận đến ngày cam lai?

(Truyện Kiều).

CAM LỘ 

Hay nước “Cam lồ”.

Tức Cam lộ thủy , là nước sương ngọt, còn gọi là nước nhành dương, bởi vì nước Cam lộ là một thứ nước thiêng liêng được đựng trong cái Tịnh bình của Phật Quan Âm, và dùng nhành dương liễu nhúng vào nước Cam lộ rải vào người hay vật để trừ oan khiên, tiêu nghiệp chướng hay tiêu tai giải nạn.

1.- Cam lộ:



Khá từ bỏ xa dòng bể khổ,

Diệt trần tình Cam lộ tẩy nhơ.

(Kinh Thế Đạo).



Sông Tương đổ ngọc làm Cam lộ,

Ðảnh giáp trao châu cất Phụng lầu.

(Thiên Thai Kiến Diện).

2.- Cam lồ:

Am tự đóng chặt gài bước tục,

Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Mượn nước Cam lồ lau tục trái,

Ðường Tiên nẻo Phật sớm đưa chơn.

(Đạo Sử).



CAM TUYỀN 

Hay Cam Toàn là tên một cái ly cung đời nhà Tần, được xây dựng trên núi Cam Tuyền, tỉnh Thiểm Tây, gần Trường An hai trăm dặm.

Cung Cam tuyền lấy núi là tên, nó còn được gọi là Vân Dương Cung, hay Lâm Quang Cung.

Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CAM VŨ TÙNG XA 

Bị hạn lâu ngày bỗng nhiên theo sau xe mưa lớn đổ xuống. Do tích: Tổng Trấn Từ Châu là Bách Lý Trung, một vị quan liêm chánh, có đức tính tốt. Trong hạt của ông bị hạn rất lâu ngày, dân tình khốn đốn, ông thương xót, ngồi xe đi phủ dụ. Nơi nào Lý Trung đi ngang qua liền có trận mưa lớn đổ xuống. Dân cảm ơn đức cho ông là vị quan tốt.

Nghĩa bóng: Chỉ vị quan có tài đức.

CAN CHI 

Theo lịch số Đông phương, năm tháng ngày giờ đều do mười can, gọi mười Thiên Can (Thập Thiên Can) hiệp với mười hai chi, gọi là Thập Nhị Địa Chi.

Thập Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỹ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Thập Nhi Chi gồm có: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.



Can chi đều ở trong tay.

Đã thông trời đất, lại hay việc người.

(Lục Vân Tiên).



CAN QUA 

Can là cái mộc, một loại binh khí làm bằng da để che thân. Qua là cây giáo hay cây mác.

Ngày xưa nơi nào có các loại binh khí như can qua là nơi đó có loạn lạc, giặc giả. Vì thế, hai chữ can qua được dùng để chỉ chiến tranh.

Dấn mình trong đám can qua.

Vào sinh ra tử họa là thấy nhau

(Truyện Kiều).



Xảy nghe quân ó vang dầy,

Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.

(Lục Vân Tiên).



Song ta vốn đã hàn vi,

Lại sinh ra gặp phải thì can qua.

(Gia Huấn Ca).



Thiên Tào Thánh ngự an ngôi,

Cầu cho dân chúng khỏi hồi can qua.

(Kinh Thế Đạo).



Tấn giả vô mưu an bá tánh,

Nể phu nan thoát nạn can qua.

(Đạo Sử).



CAN THÀNH 

Can là cái mộc dùng để đỡ binh khí, thành là thành quách để ngăn giữ quân giặc. Can thành có nghĩa là chống giữ.

Kinh Thi có câu: Củ củ vũ phu, công hầu can thành  , nghĩa là kẻ dũng sĩ uy vũ, làm cái mộc, cái thành cho bậc công hầu.

Can thành dùng để chỉ người có tài chống giặc, giữ nước.



Nghe rằng nước Tấn chinh đông,

Cầu người võ sĩ ra công can thành.

(Dương Từ Hà Mậu).



CAN TƯƠNG 

Tên một cây bảo kiếm, cũng là tên một ông thợ rèn cây bảo kiếm ấy.

Nước Ngô có một thợ rèn, tên là Can Tương, có người vợ tên là Mạc Gia. Can Tương muốn rèn một cặp kiếm báu có công năng chém sắt như chém bùn. Ông rèn một loại sắt cứng, nấu mãi mà không chảy, ông bèn dùng tóc và móng tay của vợ là Mạc Gia, sắt liền chảy ra, rèn thành một cặp âm dương bảo kiếm. Cây dương lấy tên là Can Tương, cây âm lấy tên là Mạc Gia.

Trong lang miếu ra tài lương đống,

Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Ai muốn đem gươm báu Can tương,

chôn nơi ngoài ải.

(Văn Tế Trương Định).



CAN TRƯỜNG 

Hay “Can tràng”.

Can trường là gan ruột, dùng để chỉ những người có khí phách anh hùng hoặc những tâm sự thầm kín từ trong gan ruột.

Chút riêng chọn đá thử vàng,

Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?

(Truyện Kiều).



Can trường sắt đá chẳng sờn,

Dấu thơm ghi để nước non sau này.

(Thơ Học Canh).



CÀN KHÔN 

Tên hai quẻ trong Bát Quái.

Càn là dương, tượng cho trời hay người cha; khôn là âm, tượng cho đất hay người mẹ. Càn khôn dùng để chỉ Âm dương, trời đất hay cha mẹ.

Người quân tử, khách hồng nhan,

Càn khôn còn rộng, tạo đoan còn dài.

(Truyện Phan Trần).



Chưởng quyền cực lạc phân ngôi vị ,

Quản xuất càn khôn định cõi bờ.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Hạc reo bay khắp dạo cùng,

Càn Khôn Thế Giái cũng chung một bầu.

(Đạo Sử).



CÀN KHÔN PHÚ TẢI 

Càn khôn: Trời đất, cha mẹ. Phú Tải: Che chỡ, chỉ ơn bảo dưỡng.

Càn khôn phú tải là trời đất hay cha mẹ che chỡ. Nghĩa bóng: Chỉ ơn bảo dưỡng của trời đất hay cha mẹ.



Lăm đền “Mộc bổn thuỷ nguyên,

Dốc báo “Càn khôn phú tải

(Sãi Vãi).



CẠN DÒNG LÁ THẮM

Cạn dòng nước nơi ngự câu khiến lá thắm không trôi đi được, ý nói bặt tin tức nhau.

Do tích Vưu Hựu đời Đường, nhặt được chiếc lá nơi ngự câu có đề bài thơ. Vu Hựu cũng đề thơ vào một chiếc lá thả xuống ngòi trôi vào cung. Cung nữ họ Hàn nhặt được. Sau tình cờ Vu Hựu lấy được cung nữ họ Hàn, cùng đem chiếc lá có thơ đề, vẫn giữ cho nhau xem, mới biết rằng nhân duyên hai người do chiếc lá kia làm mối.

Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.

(Truyện Kiều).



CANH ĐIỀN 

Canh điền là cày ruộng, do bài “Khang Cù” có câu: Canh điền nhi thực, tạc tỉnh nhi ẩm  , nghĩa là cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống. Ý nói đời thái bình an lạc, sống tự tại an nhàn, nên tự cày ruộng mà ăn, tự đào giếng mà uống.

Xem: Tạc canh.

Ruộng nhiều quê tổ năm ba thủa,

Tạc tỉnh canh điền tự tại nhàn

(Quốc Âm Thi Tập).



Công Thần Nông hóa dân buổi trước,

Dạy khôn ngoan học chước canh điền.

(Kinh Thế Đạo).



CANH GÀ

Người xưa chia ban đêm làm năm canh, nên canh năm là trời sắp sáng.

Canh gà là tiếng dùng để chỉ khoảng thời gian về cuối nửa đêm đến gần sáng, khi gà vừa gáy báo sang canh. Xem: Canh lụn, canh tàn.

Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ xương.

(Ca Dao).



Say sưa đòi thú lân la,

Giang thành đã gióng canh gà sang tư.

(Mai Đình Mộng Ký).



CANH LỤN

Một đêm chia làm năm canh. Canh lụn, tức là canh sắp tàn dần, ý nói đêm sắp hết, gần sáng.

Xem: Canh tàn.

Nào khi tựa bên màn canh lụn,

Nào khi ngồi ngó bóng Hằng nga.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CANH SẰN 

Sằn là Hữu Sằn, một địa danh ngày xưa, nơi làm ruộng của ông Y Doãn, ngày nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Sau ông Y Doãn được vua Thành Thang mời ra giúp, dựng nên nghiệp nhà Thương.

Canh sằn chỉ việc ẩn dật của bậc hiền tài.

Sách Mạnh Tử có viết: Y Doãn canh ư Hữu Sằn chi dã  , nghĩa là Ông Y Doãn cày ruộng ở đất Hữu Sằn.



Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,

Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



CANH TẠC 

Cũng như chữ “Canh điền  ”, nói đến dân chúng hát bài “Khang Cù” để ca tụng đời thái bình tự làm ruộng mà ăn, tự đào giếng mà uống.

Xem: Canh điền.

Trên lọ phải vén quần vua Tống,

ra sức anh uy;

Dưới cũng vui vỗ bụng trời nghiêu,

dắng ca canh tạc.

(Ngã Ba Hạc Phú).



CANH TÀN 

Ngày xưa chia thời gian ban đêm ra làm năm canh, nên gọi là đêm năm canh.

Canh tàn có nghĩa là thời gian đã trôi qua gần hết năm canh, tức là trời bắt đầu sáng.

Đêm thâu khắc lậu canh tàn,

Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.

(Truyện Kiều).



Trời khuya chưa rõ canh tàn lụn,

Não oán trí lo ruột nát bầm.

(Đạo Sử).



Chừ sao bướm cũ lìa huê,

Vườn thu vắng khách, ử ê canh tàn.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CANH THIẾP 

Canh: Tuổi tác. Thiếp: Một tờ giấy trong đó ghi thiệp mời dự tiệc hay biên tên họ để xin yết kiến như danh thiếp.

Theo hôn lễ ngày xưa, khi nạp sính hai bên họ nhà trai, gái trao đổi tờ thiếp cho nhau, trong đó ghi lý lịch của đôi trai gái, gọi là canh thiếp.



Một lời thuyền đã êm giầm,

Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.

(Truyện Kiều).



CANH THUẦN GỎI VƯỢC

Do tích Trương Hàn đời Tấn, đang làm quan ở Lạc Dương, nhân buổi gió thu bắt đầu thổi mà nhớ đến canh rau thuần, gỏi cá vược ở quê nhà, rồi bỏ quan trở về làng cũ.

Canh thuần gỏi vược dùng để chỉ lòng nhớ quê hương.

Xem: Rau thuần gỏi vược.



Canh thuần gỏi vược thú quê,

Nồng phương tiêu sái lạt bề công danh.

(Tư Dung Vãn).



CÁNH BẰNG

Hay “Cánh chim bằng”.

Cánh bằng, một loại chim bay cao và xa, chỉ sự tung hoành của người có chí lớn, nói về công danh. Nếu gặp gió nổi, tức là gặp được thời thuận lợi thì làm nên việc cả.

Sách Tề Hài của Trang Tử viết: Khi chim bằng dời sang biển nam, nước sóng sánh ba ngàn dặm. Nó liệng theo gió lốc mà bay lên là chín vạn dặm. Đi liền sáu tháng mới nghỉ.

1.- Cánh bằng:

Cánh bằng khi gặp gió xa,

Tung mây chưa biết lên đà đến đâu,

(Nhị Độ Mai).



Quyết lời dứt áo ra đi,

Cánh bằng tiện gió đã lìa dặm khơi.

(Truyện Kiều).

2.- Cánh chim bằng:

Gió hỡi gió phong trần ta đã chán,

Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong.

(Thơ Tản Đàn).



CÁNH ĐIỆP

Điệp tức “Hồ điệp  ” là con bươm bướm.

Cánh điệp tức cánh bướm, chỉ giấc ngủ.

Do tích Trang Châu nằm ngủ chiêm bao thấy mình hoá ra bươm bướm.

Xem: Giấc bướm.

Thảo mà cánh điệp, lá đào,

Đi về Vu giáp, ra vào Vũ lăng.

(Mai Đình Mộng Ký).



CÁNH HỒNG

1.- Ví với người anh hùng có chí lớn như chim hồng hộc vỗ cánh bay cao.

Sử Ký chép: Trần Thiệp thời hàn vi đi cày thuê cho người ta, lúc ngồi nghỉ, nói với các bạn cày: Nếu được phú quý không bao giờ quên nhau. Những người cày khác cười mà nói: Nếu còn cày thuê thì làm sao giàu sang được? Trần Thiệp thở dài nói: Ta hồ, yến tước an tri hồng hộc chi chí tai  , !, nghĩa là than ôi, loài chim én chim sẻ sao biết được chí chim hồng chim hộc.

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

(Truyện Kiều).

2.- Ví như tấm thân nhẹ nhàng uyển chuyển của người đàn bà đẹp.

Bài phú Tào Thực có câu: Phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du long  , , nghĩa là nhẹ nhàng bay vút như chim hồng khi kinh sợ, uyển chuyển như con rồng khi lượn chơi.



Ngọn triều non bạc trùng trùng,

Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.

(Truyện Kiều).



CÁNH LÔNG

Bởi chữ “Mao dực  ” có nghĩa là lông và cánh, để chỉ sự thay đổi về bề thế, như thành ngữ “Thay lông đổi cánh”, hoặc “Cánh thêm lông”.

Cánh lông còn dùng để chỉ cái thế lực, quyền uy, hay vây cánh.

Dõi đời con cháu lâu xa,

Cánh lông đã lắm trảo nha đã nhiều.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



CÁNH MÂY

Có hai nghĩa:

1.- Chỉ cánh cửa sổ:

Người ta hay đứng bên cửa sổ nhìn ra mây trời để trông tin tức, nên cánh cửa sổ gọi là cánh mây.



Song hồ nửa khép cánh mây,

Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.

(Truyện Kiều).

2.- Chỉ tờ giấy viết thư:

Mây làm hoa văn trên giấy cho đẹp, dùng để viết thư từ.



Trong đình bốn báu sẵn sàng,

Cánh mây mới thảo, ngòi sương chửa rời.

(Mai Đình Mộng Ký).



CÁNH NHẠN VỀ NON

Cánh nhạn về non tức là đàn chim nhạn thấy trời sắp tối, lũ lượt bay về núi, ý muốn nói chim nhạn tìm về tổ ấm.



Chiều thu nhắc ủ ê cảnh hạn,

Nhấp nhô xem cánh nhạn về non.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CÁNH PHƯỢNG

Phượng là loài chim quý, thường được dùng để ví với người con giống cha, có chí khí và tài giỏi.

Cánh phượng cũng như gót phượng, lông phượng, chỉ con cháu có tài đức, nối chí cha ông.

Xem: Lông phượng.



Ngán thay cánh phượng chân lân,

Đến phong trần cũng phong trần biết sao.

(Truyện Phan Trần).



CÀNH BÍCH

Cành bích tức là cành cây ngô đồng , một loại cây mà chim phượng hoàng thường hay đậu. Ví với nhà vua. Ca dao ta có câu: “Cây ngô, cành bích, con chim phượng hoàng nó đậu cao…

Thơ Đỗ Phủ có câu: Bích ngô thê lão phụng hoàng chi  , tức là cành ngô biếc là cành chim phượng hoàng đậu đã già rồi.

Xem: Ngô đồng.



Khi trận gió 
lung lay cành bích,

Nghe rì rào tiếng mách ngoài xa.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CÀNH DIÊU ĐOÁ NGUỴ

Diêu Nguỵ là hai họ đã tìm ra hoa mẫu đơn.

Họ Diêu đã tìm ra đầu tiên giống hoa mẫu đơn màu vàng, còn họ Nguỵ đã tìm ra được hoa mẫu đơn màu tím.

Xem: Diêu Nguỵ.



Xảy nhớ khi cành Diêu đoá Nguỵ,

Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CÀNH THIÊN HƯƠNG

Do câu thành ngữ trong Tình sử: “Thiên hương nhất chi  ”, nghĩa là một cành thiên hương, dùng để chỉ người con gái đẹp.



Phận hồng nhan có mỏng manh,

Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

(Truyện Kiều).



CÀNH XUÂN NHUỴ NỞ

Cành xuân: Ví với con gái trẻ tuổi. Nhuỵ nở: Chỉ gái sinh con.

Cành xuân nhuỵ nở là nói người con gái trẻ tuổi sinh ra đứa con.



Kìa máu huyết, cành xuân nhụy nở,

Khối ái ân đành ở nơi con.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẢNH BỒNG LAI

Tương truyên trong bể Bột hải có ba ngọn núi tên là Bồng lai, Phương trượng và Doanh châu, người tiên và thuốc tiên đều ở ba núi ấy, loài vật toàn sắc trắng, cung điện toàn làm bằng châu báu bạc vàng.

Cảnh Bồng lai tức là cảnh trên núi Bồng lai, ý nói cảnh tiên ở.

Xem: Bồng lai.



Thôi xếp cả nguyệt hoa, hoa nguyệt,

Cảnh Bồng lai trải biết gọi làm duyên.

(Thơ Tản Đà).



CẢNH PHẠM

Bởi chữ “Phạm cảnh  ” tức là cảnh Phật, hay cảnh chùa.

Phạm do chữ Brahma là thanh tịnh, Phật. Cảnh phạm tức là cảnh Phật hay cảnh chùa.

Xem: Cõi Phạm.



Đã quen cảnh Phạm lánh mình,

Nên phương nhờ bởi đoạn tình ái yêu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẢNH TỈNH 

Cảnh: Đánh thức. Tỉnh: Thức dậy.

Cảnh tỉnh là đánh thức dậy. Nghĩa bóng: Đánh thức người thoát khỏi cảnh mê muội, sai lầm.



Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,

Tiếng trống giác mê nhặt đỉnh Thần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CẢNH TỊNH

Bởi chữ “Tịnh cảnh  ” là cảnh trong sạch và thanh tịnh.

Cảnh tịnh chỉ ngôi chùa hay cõi Tiên.

Ðâu bằng cảnh tịnh cõi Bồng Lai,

Thế thượng không ai biết giá nài.

(Đạo Sử).



Nương phướn Tây Thiên về cảnh tịnh,

Bỏ nơi phiền não chịu ai bi.

(Đạo Sử).



Bước cảnh tịnh đã đành để cẳng,

Tóc qui y nửa trắng nửa vàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,

Đem tấm tình để ngụ đài sen.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẢNH THIÊN

Bởi chữ “Thiên cảnh  ” là cõi Trời

Cảnh thiên là cõi Trời, theo Cao Đài, tức cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Xem: Thiên cảnh.



Cảnh Thiên noi bước Hóa Công,

Nắm phan Tiếp Dẫn vào vòng Như Lai.

(Kinh Thế Đạo).



Rẽ phân cốt nhục đồng bào,

Cảnh Thiên cõi tục lẽ nào không thương.

(Kinh Thế Đạo).



CẢNH TRÍ

Tức “Trí cảnh  ” là cảnh của những bậc đạt được sự sáng suốt, trí tuệ.

Cảnh trí là chỉ cõi sáng suốt, cõi của những người đắc Đạo, đó là cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, hay cảnh Tiên.

Chàng dầu đặng thảnh thơi cảnh trí,

Hộ dâu con giữ kỹ nhơn luân.

(Kinh Thế Đạo).



Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,

Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Lần gội tâm phàm vui cảnh trí,

Ðường trần lưu luyến nhọc tranh đua.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CẠNH TRANH 

Cạnh: Tranh nhau. Tranh: Giành giựt.

Cạnh tranh là cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau.



Tiếng đời hằng nói phước do lành,

Con chẳng biết tu cứ cạnh tranh.

(Đạo Sử).



CAO ĐÌNH 

Cao đình là tên một cái núi ở Chiết Giang, nơi ngày xưa có nhiều bộ hành qua lại tấp nập, là chỗ tiễn đưa, chia biệt nhau.

Cổ thi có câu: Cao đình tương biệt xứ  , nghĩa là chỗ tiễn biệt nhau ở Cao Đình.

Tiễn đưa một chén quan hà,

Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.

(Truyện Kiều).



CAO ĐƯỜNG 

1.- Ngôi nhà cao, nhà trên dành cho cha mẹ ở, chỉ cha mẹ. Thơ Lý Bạch có câu: Bão kiếm từ cao đường  , tức là ôm gươm từ giã cha mẹ.

Cao đường còn dùng để chỉ khách quý.

Chàng tuy vâng mệnh cao đường,

Nghĩa tình quỳnh ngọc chưa đường nào nguôi.

(Sơ Kính Tân Trang).

2.- Tên ngôi đền ở đầm Vân Mộng, chỉ trai gái ân ái với nhau.

Bởi tích vua Sở Tương Vương nằm mộng thấy chăn gối cùng Thần nữ ở đền Cao Đường núi Vu Sơn.

Xem: Vu Sơn.

Mộng hồn say giấc mây mưa,

Đá Vu Sơn tạc tiếng dư Cao Đường.

(Từ Thức).



Há rằng bán ngọc trao gương,

Năm năm Vu Giáp Cao Đường như ai.

(Tây Sương).



Lầu xanh thánh thót tiếng chuông truyền,

Tỉnh giấc Cao Đường lúc ngã nghiêng.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



CAO LƯƠNG 

Cao: Thịt mỡ. Lương: Kê, một loại cốc ngon.

Cao lương là tiếng dùng để chỉ thức ăn ngon của kẻ giàu sang, phú quý.



Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm,

Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Đã rằng dưa muối bả bô,

Lạp bình tương thuỷ, những đồ cao lương.

(Tư Dung Vãn).



CAO LƯƠNG MỸ VỊ  

Cao lương: Thịt béo, gạo ngon. Mỹ vị: Thức ăn ngon và quý.

Cao lương mỹ vị là gạo thơm thịt béo, nói chung là món ăn ngon và sang quý.



Cao lương mỹ vị hại thân phàm,

Hỏi thử thế đời mấy món tham?

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CAO NIÊN 

Cao niên là tuổi cao, dùng để chỉ các cụ già.

Hán Thư có câu: Vu hương lý phụng cao niên, cổ chi đạo dã  , , nghĩa là trong làng xóm tôn trọng người già cả, đó là đạo xưa nay.

Lần lần hè lại thu qua,

Hai ông thắm thoắt tuổi đà cao niên.

(Truyện Phan Trần).



CAO NGHĨA 

Cao: Cao lớn. Nghĩa: Làm việc phải. Cao nghĩa tức làm việc nghĩa to lớn.

Sử Ký có câu: Cứu Triệu cao nghĩa, khước Tần binh hiển danh dã  , , cứu nước Triệu là nghĩa lớn, từ khước quân Tần là làm rõ rệt thanh danh vậy.



Tướng công dẫn sự dọc đường,

Gặp Lưu cao nghĩa, được nàng tốt đôi.

(Hoa Tiên Truyện).



CAO QUỲ 

Tức là ông Cao Dao và ông Quỳ, là hai vị tôi thần giỏi của vua Thuấn.

Cao Dao là vị quan coi về tư pháp và giáo dục. Còn ông Quỳ giữ chức quan lo việc điển nhạc.

Xem: Cao Dao và Tiết Quỳ.



Tượng vì trên chúa Đào Đường,

Dưới tôi lại có những trang Cao Quỳ.

(Hoài Nam Khúc).



Cho hay Thuấn đã qua kỳ,

Tài dầu chẳng sánh Cao Quỳ cũng dâng.

(Hoài Nam Khúc).



CAO SĨ 

Cao là vượt trội hơn người. Sĩ là người có học thức và đạo đức. Vậy cao sĩ là người có học, có phẩm hạnh tốt, đạo đức hơn người.



Lão Lai Tử đời Chu, cao sĩ,

Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



CAO SƠN 

Núi cao.


Cao Sơn là tên khúc nhạc do Bá Nha đàn, Chung Tử Kỳ nghe qua đoán biết được tâm ý của Bá Nha.

Xem Bá Nha Tử Kỳ.



Gió đưa nhẹ mái thuyền lan,

Điệu xoang lưu thuỷ cung đàn cao sơn.

(Lưu Nữ Tướng).



CAO VƯƠNG 

Tức là Cao Biền , người được tôn xưng là “Cao Vương”.

Cao Biền là tướng giỏi của nhà Đường, sang đánh nước ta, và sau được vua nhà Đường phong làm Tiết độ sứ cai trị Giao Châu, rất có uy tín, được dân ta tôn lên là Cao Vương.

Sau Kim ngưu chạy vào đây hoá vực,

Cao Vương đào chặn mạch Hoàng Đô.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



CAO XANH

Dịch từ chữ “Cao thương  ”, tức là vòm trời cao mà xanh, dùng để chỉ Tạo hoá, ông Trời.



Tuần hoàn lẽ ấy chẳng xa,

Chớ đem nông nỗi mà ngờ cao xanh.

(Nhị Độ Mai).



Bâng khuâng mình tiếc cho mình,

Xa xa nói với cao xanh giải lòng.

(Tự Tình Khúc).



Cao xanh nào có phụ chi con,

Mà chẳng giữ cho đức vẹn còn.

(Đạo Sử).

CÁO ĐỘI OAI HÙM

Nói người chuyên mượn uy danh của kẻ có quyền thế để loè đời, bịp đời như cáo đội cái oai quyền của con cọp.

Xem: Cáo giả oai hùm.

Cáo đội oai hùm mà nết giống,

Ruồi nương đuôi ký luống khoe người.

(Bạch Vân Quốc Ngữ).



CÁO GIẢ OAI HÙM

Bởi câu “Hồ giả hổ uy  ”, tức là cáo mượn oai hùm.

Ví như con cáo đi sau lưng cọp để mượn oai, các loài vật khác thấy đều bỏ chạy hết, thật ra chúng sợ hùm chứ không sợ cáo.

Nghĩa bóng: Mượn thế lực để áp bức người.



Ngạnh rằng: Quan sự đã am,

Những phường cáo giả oai hùm ghê thay.

(Truyện Trê Cóc).



CÁO KÌNH

Cáo và cá voi, là hai loài vật một con thì có tính gian giảo, một con thì có thân mình to lớn và hung tợn, được dùng để chỉ bọn giặc cướp.

Xem: Kình ngạc.

Cáo kình im lặng tăm hơi,

Doành ngân rửa mác, non đoài treo cung.

(Truyện Phan Trần)



CÁO THÀNH

Bởi chữ “Thành hồ  ” là cáo ở bờ thành.

Cáo làm hang ở bờ thành, người ta không dám đào lỗ để bắt nó, vì sợ sập bờ thành, ý muốn nói kẻ cậy quyền thế.

Xem: Thành hồ xã thử.



Anh hùng trong nước khoe tài,

Nơi nơi chuột xã nơi nơi cáo thành.

(Thiên Nam Ngữ Lục)



CẢO TÁNG 稿

Cảo: Cọng rơm. Táng: Chôn cất. Cảo táng tức là lấy rơm bó xác người lại rồi đem chôn cất.

Nghĩa bóng: Chôn đơn sơ, vội vã.



Hồ công nghe nói thương tình,

Truyền cho cảo táng di hình bên sông.

(Truyện Kiều).



CẢO TÔ 稿

Cảo: Bản thảo, tài liệu nhà văn. : Tô Đông Pha.

Cảo Tô tức là những tài liệu, sách vở của Tô Đông Pha đời nhà Tống.

Xem: Tô Thức.

Trước hiên nương bóng tà song,

Cảo Tô biếng giở, túi đồng để suông.

(Hoa Tiên Truyện).



CÁT ĐẰNG 

Cát: Dây sắn bìm. Đằng: Dây mây.

Dây sắn bìm và dây mây là hai loại dây leo chuyên sống bám nhờ vào gốc cây khác. Chữ cát đằng còn có nghĩa là vương vấn, vấn vít.

Trong Diêu Kinh có nói rằng: Chúng sinh nếu sa vào lưới tình thì cũng như dây cát đằng vương vấn vào cây khô.

Cát đằng có nghĩa rộng là nương nhờ vào kẻ khác.



Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,

Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.

(Truyện Kiều).



Hễ cát đằng nhảy lá xanh chồi,

Thân tòng bá càng tươi thêm vẻ đẹp.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÁT LẦM

Cát lầm tức là bị cát sông hay bùn đất làm vẩn đục, làm nhơ bẩn.

Cát lầm được ví như thân phận con người ta bị cuộc đời làm đau đớn, khổ nhục.

Tính rằng sông nước cát lầm,

Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!

(Truyện Kiều).



CÁT LẦM NGỌC TRẮNG

Cát lầm: Bùn cát làm dơ bẩn. Ngọc Trắng: Ví thân phận người con gái.

Cát lầm ngọc trắng là bùn cát làm nhơ bẩn, vẩn đục viên ngọc trắng, ví với người con gái đẹp bị hành hạ khổ sở.



Vì ta cho lụy đến người,

Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!

(Truyện Kiều).



Cát lầm ngọc trắng cũng là,

Càng kiên trinh lắm, càng ma chiết nhiều.

(Thơ Bùi Kỷ).



CÁT LEO CÙ MỘC

Cát: Dây sắn, một loại dây leo. Cù mộc: Một loại cây to gốc lớn.

Bởi câu trong Kinh Thi: Nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi  , , nghĩa là phương nam có cây cù mộc, dây sắn dây bìm leo vào đó.

Cát leo cù mộc có ý muốn nói người vợ lẽ nhờ người vợ cả che chỡ.

Xem: Cù mộc.



Cát leo cù mộc rắp toan,

Xích thằng xui khéo tạo đoan một niềm.

(Truyện Trinh Thử).



CÁT LUỸ 

Cát: Dây sắn bìm. Luỹ: Dây mây.

Dây sắn bìm là giống dây mộc lan ra hay leo lên một cây khác. Chỉ phận người vợ nhỏ nương nhờ vào người vợ cả.

Kinh Thi có câu: Nam hữu cù mộc, cát lũy luy chi  , , nghĩa là phương nam có cây cù mộc, dây sắn dây bìm leo vào đó.

Xem: Cát leo cù mộc.



Tin nhà ngày một vắng tin,

Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.

(Truyện Kiều).



CÁT NHÂN THIÊN TƯỚNG 

Cát nhân là người lành, người tốt. Thiên tướng là Trời giúp.

Cát nhân thiên tướng là người tốt được Trời giúp đỡ cho.

Cũng nhờ đức cả cao dày,

Cát nhân thiên tướng ắt rày vững an.

(Hạnh Thục Ca).



CÁT PHÂN 

Cát: Cắt. Phân: Chia ra.

Cát phân là chia cắt, tiếng dùng để chỉ sự phân chia cương thổ.



Kể từ Ngô, Tấn lại đây,

Hai trăm mười bốn năm chầy cát phân.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CÁT TỊCH 

Cắt lìa chiếc chiếu.

Do sách Thế Thuyết chép: Ngày xưa có hai người bạn học là Hoa Hâm và Quảng Ninh, thường cùng ngồi trên một chiếc chiếu đọc sách. Một hôm, trong làng có một học trò đi thi về được vinh quy bái tổ, mũ cao áo rộng, cờ xí xe ngựa đi ngang qua nhà.

Lúc đó, Quảng Ninh vẫn điềm nhiên đọc sách, còn Hoa Hâm vội vàng liệng bỏ sách chạy đi xem. Ninh cho rằng Hâm là người không đáng cho mình làm bạn, bèn cắt đôi chiếc chiếu.

Nghĩa bóng: Tuyệt giao.

CĂN BỊNH

Hay “Bệnh căn  ”, còn được gọi là bệnh nghiệp, là bịnh do những hành vi hung ác từ kiếp trước, tạo nên căn nghiệp mà báo ứng trong hiện kiếp. Bịnh này làm cho người thọ lãnh phải chịu đau khổ triền miên để trả nghiệp, nên không có thuốc nào điều trị được, chỉ khi nào hết nghiệp là mới hết bịnh.

Tử Đồng Đế Quân có để lời dạy như sau: Diệu dược nan y oan trái bệnh, hoạnh tài bất phú mệnh cùng nhân  , , nghĩa là cái bịnh oan nghiệt thì thuốc hay khó chửa cho lành, của hoạnh tài không có thể làm cho người mạng cùng giàu sang được.

Sống dương thế hành thì căn bịnh,

Xui tai nàn dấp dính theo mình.

(Kinh Sám Hối).



CĂN NỢ

Bởi chữ Hán “Trái căn  ” tức là món nợ có gốc rễ từ kiếp trước, kiếp hiện tại phải trả.

Căn nợ khiến cho hai người phải vay trả cho nhau.

Phải căn nợ cách non cũng gặp,

Lỡ trái duyên vội gấp ra hư.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CĂN NGUYÊN 

Căn: Rễ. Nguyên: Nguồn nước.

Căn nguyên là nguồn gốc, tức là gốc tích, hay duyên do.



Để cho được tỏ căn nguyên,

Dở hay sẽ liệu kinh quyền giúp cho.

(Lục Vân Tiên).



CĂN NGHIỆT 

Căn: Gốc rễ. Nghiệt: Mầm ác.

Căn nghiệt là những việc ác gây ra từ kiếp trước (nghiệt) làm gốc rễ (căn) của các tai họa xảy đến trong kiếp này.



Cương tỏa đương thời đã giải vây

Đừng mơ căn nghiệt một đời này

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CĂN SANH 

Căn: Gốc rể. Sanh: Kiếp sống.

Gốc rể tức là những việc làm thiện hay ác của kiếp trước làm ảnh hưởng đến kiếp này. Do cái gốc rể đó mà kiếp sống này được sung sướng hay khổ sở, giàu sang hay nghèo hèn.

Căn sanh đồng nghĩa với “Kiếp căn”.

Xem: Kiếp căn.



Phải đủ căn sanh mới thấy Trời,

Ai ai đừng tưởng dễ như chơi.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Nhìn non chỉ nước làm hơn,

Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CĂN TA CA

Căn Ta Ca là phiên âm từ Phạn ngữ Kantaka, Hán dịch là Càn Trắc (hay Kiền Trắc), là con ngựa của Thái tử Tất Đạt Đa (Sĩ Đạt Ta), lúc nửa đêm chở Ngài cùng với quan giữ ngựa là Xa Nặc, bỏ cung vàng điện ngọc để đi đến nơi thâm sơn cùng cốc mà tu hành. Sau đó, Ngài bảo ông Xa Nặc dẫn con ngựa Kiền Trắc trở về hoàng thành. Về đến thành, con Kiền Trắc liền bỏ ăn rồi chết.



Căn Ta Ca đỡ bước đi,

Ra thành Phật Tổ gặp kỳ ly cung.

(Kinh Thế Đạo).



CẶP LIỄN TANG

Cặp liễn tang tức là một cặp đối được viết để hai bên bàn thờ tang. Nội dung cặp đối này được viết theo hoàn cảnh người chết. Ví dụ như liễn thờ cha, thờ mẹ, thờ vợ, thờ chồng…



Cặp liễn tang còn câu long ám,

Hạc qui hồi lãnh đạm trần ai.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẮT TAI

Lệnh Nữ có chồng là Tào Văn Thúc, đã mất sớm, nàng sợ mình còn trẻ cha mẹ bắt tái giá, nên đã cắt tai, cắt mũi cho xấu xí để thủ tiết thờ chồng.



Tìm trong vạch mắt cắt tai,

Trăm nghìn chửa được một hai đâu là.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



CÂY CẢ NGỒI TỰA

Do chữ “Đại thụ tướng quân  ” tức là Tướng quân ngồi tựa gốc cây to.

Theo lịch sử nhà Hán đời Quang Võ có quan tướng quân tên là Phùng Dị, hễ đánh được trận về, chư tướng xúm nhau tranh công. Phùng Dị tránh đi ngồi dưới một gốc cây lớn, không thèm kể công mình. Người đời quý trọng đức khiêm nhường của Phùng, nên gọi là Đại Thụ Tướng Quân.

Xem: Phùng Dị.



Kìa ai cây cả nhàn ngồi tựa,

Nếu có công nhiều lọ phải tranh.

(Quốc Âm Thi Tập).



CÂY ĐỨC NỀN NHÂN

Bởi chữ “Đức thụ nhân cơ  ”.

Đức thụ là trồng cây đức, có nghĩa làm việc thiện để gây phước đức, nhân cơ là tạo nền nhân, có nghĩa làm việc lành để đắp nền nhân

Có tiên thì hậu mới hay,

Đã trồng cây đức ắt dày nền nhân.

(Nữ Tú Tài).



CÂY LIỀN CÀNH

Do điển: Vợ Hàn Bằng tên là Hà Thị, là người đàn bà đẹp người đẹp nết, đến đổi Tống Khang Vương thấy rồi mê thích. Nhưng biết Hà Thị là người tiết hạnh, khó mà ép uổng cho được, bèn ra lịnh giết Hàn Bằng. Vậy mà Hà Thị vẫn cương quyết không chịu thất thân với Khang Vương, cắn lưỡi tự tử và để lại một bức thư xin được chôn chung với chồng.

Tống Khang Vương tức giận, chôn hai mộ song song nhưng cách xa nhau. Sau người ta thấy mỗi ngôi mộ mọc lên một cây to, trên thì có cành giao nhau, còn dưới thì rể ăn liền với nhau.

Trong bài Trường hận Ca của Bạch Cư Dị có câu: Tại địa nguyện vi liên lý chi, , nghĩa là dưới đất nguyện làm cây liền cành.

Nghĩa bóng: Vợ chồng gắn bó không rời nhau.

Thiếp xin về kiếp sau này,

Như chim liền cánh, như cây liền cành.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Chim kết cánh, cây liền cành,

Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÂY NGÔ CÀNH BÍCH

Tức cây ngô đồng, một loại cây mùa thu đến thường hay rụng lá. Cành cây ngô đồng là nơi chim phượng hoàng thường hay đậu, vì thế thơ Đỗ Phủ có câu: Bích ngô thê lão phụng hoàng chi  , tức là cành ngô biếc là cành chim phượng hoàng đậu đã già rồi. xem: Ngô đồng.



Nước trong xanh lơ lửng con cá vàng,

Cây ngô cành bích con chim phượng hoàng đậu cao.

(Thơ Tản Đà).



CÂY QUỲNH CÀNH GIAO

Dịch chữ “Quỳnh lâm giao thụ  ”, ý chỉ người đẹp đẽ và hào hoa. Do câu: Vương Diễn như quỳnh lâm giao thụ  , có nghĩa là ông Vương Diễn đẹp như cây ngọc dao ở trong rừng ngọc quỳnh.



Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

(Truyện Kiều).



CÂY THƯƠNG PHÁ LỖ

Cây thương: Một loại binh khí, tức cây giáo. Phá lỗ: Lỗ là giặc mọi, phá lỗ tức là phá bọn giặc mọi.

Cây thương phá lỗ là ngọn giáo chống giặc.



Chí dốc đem về non nước cũ,

ghe phen hoạn nạn,

cây thương phá lỗ chưa lìa;

(Văn Tế Trương Định).



CÂY TRĂM THƯỚC

Cây trăm thước tức cây Bồ đề, ý chỉ sự tu hành.

Trong Kinh Phật có câu: Bồ đề bách xích thụ, liên tọa tứ thời hoa  , , nghĩa là bồ đề cây trăm thước, toà sen hoa bốn mùa.

Chính Thái Tử Sĩ Đạt Ta ngồi thiền định dưới cội cây Bồ Đề này mà thành đạo. Vì thế, chữ cây trăm thước dùng để chỉ sự tu hành.



Sẵn Quan âm các vườn ta,

Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.

(Truyện Kiều).



Cây trăm thước đổi hương tàn,

Treo y bá nạp làm màn phòng the.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÂY TRĂM THƯỚC BẮC THANG BẾN KHỔ

Cây trăm thước: Cây bồ đề, chỉ sự tu hành. Bến khổ: Cũng như biển khổ, chỉ cõi tục.

Cây trăm thước bắc thang bến khổ ý nói sự tu hành như một cái thang đưa người tu vượt qua bể khổ.



Cây trăm thước bắc thang bến khổ,

Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẬY SẮC KHOE TÀI

Cậy sắc khoe tài tức là nói những người thường ỷ vào sắc đẹp, hay khoe khoang tài giỏi của mình.



Em đừng cậy sắc khoe tài,

Khéo thay nồi lủng cũng tay thợ hàn.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CẬY THẾ THỊ HÙNG

Cậy thế: Dựa vào thời thế. Thị hùng 
: Cậy mạnh mà làm dữ.

Cậy thế thị hùng tức là dựa vào thế lực và ỷ vào sức mạnh mà làm việc hung hăn.



Quở rằng: Cậy thế thị hùng,

Ra ngoài văn pháp vào trong dâm tà.

(Nhị Độ Mai).



CẤM THÀNH 

Cấm: Ngăn cấm. Thành: Thành luỹ, bức tường thành bao quanh.

Cấm thành là thành xây bao bọc chung quanh không cho người bên ngoài xâm nhập vào.



Luống làm tiện việc chẳng kiêng,

Bồi lăng nay cũng phục bên cấm thành.

(Hạnh Thục Ca).



CẦM CỜ TƯ VĂN

Tư văn chỉ nhà Nho.

Cầm cờ tư văn là chỉ những người thầy dạy học theo đạo Nho.

Than rằng: Sanh chẳng gặp giờ,

Phải cam ở dưới cầm cờ tư văn.

(Dương Từ Hà Mậu).



CẦM DAO 

Cầm: Tên một thứ đờn. Dao: Tên một thứ ngọc.

Cầm dao tức là cây đờn cầm có khảm ngọc dao. Sách Chu Hy có câu: Dao cầm nhất khúc lai huân phong  , nghĩa là cây đàn dao gảy một khúc gió mát tới.



Cầm giao sẵn dóng dây huân,

Nuôi tươi chậu chậu, cắm xuân cành cành.

(Hoa Tiên Truyện).



CẦM ĐÃ BÉN DÂY

Cầm: Cây đờn cầm. Đã bén dây: Đã quen dây, tức là hợp với cây đàn.

Cầm đã bén dây ý nói đã hợp với đàn, và quen với dây, ví với vợ chồng đã êm xuôi, hoà thuận với nhau.



Xót vì cầm đã bén dây,

Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.

(Truyện Kiều).



CẦM ĐÀI 

Cầm: Cây đàn. Đài: Một ngôi nhà cao, có thể ngồi trông xa được.

Cầm đài là nơi ngồi gảy đàn. Ngày xưa, Tư Mã Tương Như ngồi ở cầm đài đàn để trêu ghẹo Trác Văn Quân, khiến nàng phải trốn theo.

Nghĩa bóng: Đàn hay giỏi.

Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài,

Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.

(Truyện Kiều).



CẦM ĐIỂU 

Cầm: Tiếng gọi chung các giống chim. Điểu: Chỉ loài chim.

Cầm điểu là nói chung các loại chim.



Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,

Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦM ĐUỐC CHƠI ĐÊM

Hay “Cầm đuốc dạo đêm”.

Do chữ “Bỉnh chúc dạ du  ” trong câu thơ cổ: Trú đoản khổ dạ trường, hà tất bỉnh chúc du  , , nghĩa là ngày ngắn, khổ nỗi đêm dài, sao chẳng cầm đuốc đi chơi?

Cầm đuốc dạo đêm có ý muốn nói tiếc thời gian đi quá mau, đêm choán hết phần lớn, chỉ có cách đốt đuốc đi chơi đêm cho đỡ phí thì giờ.

1.- Cầm đuốc chơi đêm:

Cầm đuốc chơi đêm này khách nói,

Tiếng chuông chưa gióng ắt còn ngân.

(Quốc Âm Thi Tập).

2.- Cầm đuốc dạo đêm:

Người xưa cầm đuốc dạo đêm chơi,

Nào có cưu chi cái việc đời,

(Dương Từ Hà Mậu).

CẦM ĐƯỜNG 

Cầm là cây đàn. Đường là ngôi nhà. Cầm đường chỉ nơi làm việc của quan huyện.

Do tích chép từ sách Lã Thị Xuân thu như sau: Học trò của Đức Khổng Phu Tử là Mật Tử Tiện làm Tri huyện Đan Phụ. Thường ngày, nơi huyện đường, ông chỉ đàn hát, vậy mà dân trong hạt đều an cư lạc nghiệp. Sau đó triều đình có phái Vu Mã Tử Kỳ đến thay thế Tử Tiện.

Tử Kỳ đến làm việc suốt cả ngày, không lúc nào rỗi rảnh, như vậy trong hạt mới được yên ổn. Gặp Tử Tiện, Tử Kỳ mới hỏi: Công việc ở huyện tôi phải làm một cách cực lực, dân tình mới được yên ổn, còn ông, tôi thấy chỉ đánh đàn mà thôi, sao mọi việc lại chu tất hết? Tử Tiện mỉm cười đáp: Tôi không làm nhưng điều hành thuộc hạ làm, còn ông tự làm lấy. Ai biết dùng người thì người đó khoẻ, ai không biết dùng người thì tự làm lấy, ắt phải mệt.

Do câu chuyện trên người sau mới gọi nơi làm việc của quan huyện là “Cầm đường”.

Cầm đường ngày tháng 
thung dung,

Tên ngay là tiết, nước trong ấy lòng.

(Nhị Độ Mai).



Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,

Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.

(Truyện Kiều).



CẦM GIAM 

Cầm: Bắt, giữ. Giam: Nhốt vào ngục.

Cầm giam hay giam cầm, tức là trói buộc hay giam giữ người phạm tội lỗi.



Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,

Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.

(Kinh Sám Hối).



CẦM HẠC 

Cầm: cây đàn. Hạc là chim hạc. Cầm hạc nghĩa là một cây đàn và một con chim hạc.

Do tích Triệu Thanh Hiến đời nhà tống được triều đình cho trấn giữ đất Thục. Khi đi phó nhậm, ông không đem theo vợ con hay đầy tớ chi cả, mà chỉ đi một mình cùng với một cây đàn và một con chim hạc.

Nghĩa bóng: Chỉ làm quan phong lưu nhàn hạ.

Của trời trăng gió kho vô tận,

Cầm hạc tiêu dao đất nước nầy.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



CẦM KỲ 

Cầm: Đàn. Kỳ: Đánh cờ.

Cầm kỳ là đánh cờ và đánh đàn là hai thú chơi thích hợp với bực tao nhân mặc khách, dùng để chỉ tình bè bạn.



Chàng dầu nghĩ đến tình xa,

Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ.

(Truyện Kiều).



CẦM KỲ THI HOẠ 

Hay “Cầm kỳ thi tửu  ”.



Cầm: Gảy đàn. Kỳ: Đánh cờ. Thi: Ngâm thơ. Hoạ: Hội hoạ. Tửu: Uống rượu.

Cầm kỳ thi hoạ hay cầm kỳ thi tửu là bốn thú tiêu khiển của người nho phong, tao nhã.

Nghĩa bóng: Chỉ cảnh phong lưu.

1.- Cầm kỳ thi hoạ:



Xưa nay ngươi vốn tính hào,

Cầm kỳ thi hoạ ngón nào cũng chăm.

(Tống Thần Cùng).

2.- Cầm kỳ thi tửu:

Tài hoa quốc, sắc khuynh thành,

Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành trần duyên.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Cầm kỳ thi tửu mọi đường,

Phong lưu phú quý chẳng nhường ai hơn.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CẦM LÀNH

Cầm là cây đàn, chỉ sự hoà thuận. Cầm lành tức cây đàn đã hư, đã bị đứt dây, nay trở lại nguyên vẹn, ví người đàn bà dang dở, hay chồng chết, nay được êm ấm trở lại, hay tục huyền để nối lại dây đàn như xưa.



Dạy rằng: Hương lửa ba sinh,

Dây loan xin nối cầm lành cho ai.

(Truyện Kiều).



CẦM LOAN 

Cây đàn và chim loan.

Chim loan là một loài chim với chim phụng, con trống gọi là phụng, con mái gọi là loan. Sách Ngoại Truyện chép: Xứ Tây Tạng có một loại keo được chế bằng máu con chim loan. Keo chim loan gắn phím đàn rất tốt. Xem: Giao loan  .

Cầm loan là thứ đàn cầm gắn phím bằng keo con chim loan.



CẦM NGƯ 

Chim cá, một giống bay trên không, một loài lặn dưới nước.

Người ta thường dùng từ ngữ này để diễn tả sắc đẹp như câu thành ngữ chim sa cá lặn.

Xem “Chim sa cá lặn”.



Hình mộc thạch vàng kim ố cổ.

Sắc cầm ngư ủ rủ e phong.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CẦM SẮT 

Đàn cầm và đàn sắt là hai loại đàn âm thanh thường hoà hợp nhau, dùng để chỉ đôi vợ chồng thuận hòa với nhau.

Trong Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, cầm sắt hữu chi  , (Vợ chồng hòa hợp nhau như gảy đàn sắt đàn cầm). Người ta thường dùng hai câu sau để chúc tụng đôi vợ chồng thương yêu, hòa hợp: Loan phượng hòa minh, sắt cầm hảo hiệp  , .

Nghĩa bóng: Chỉ vợ chồng hoà hợp.



Chàng dầu nghĩ đến tình xa,

Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ.

(Truyện Kiều).



Võ Công lấy đọc bấy giờ,

Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.

(Lục Vân Tiên).



Đẹp duyên cầm sắt kính yêu,

Uyên ương phu phụ dập dìu đoàn viên.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



Thà cho đáng mặt thuyền quyên,

Đừng làm cầm sắt ra duyên bĩ bàng.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦM TÂM 

Lấy âm thanh tiếng đàn mà bày tỏ tấm lòng.

Do tích đời nhà Hán, có vị văn nhân là Tư Mã Tương Như lấy cầm tâm (Âm thanh của tiếng đàn) mà trêu ghẹo nàng Trác Văn Quân qua khúc “Phượng Cầu Hoàng”. Văn Quân say đắm tiếng đàn, bỏ nhà theo Tương Như.

Cầm tâm một khúc gửi trao,

Cậy lòng dì gió, đưa vào sân cung.

(Thơ Phạm Thái).



CẦM TÔN 

Cây đàn và chén rượu, là hai trong bốn thú ăn chơi của bậc cao nhân mặc khách: Cầm, kỳ, thi, tửu.

Cầm tôn là cây đàn và chén rượu dùng để chỉ thú ăn chơi tao nhã.

Vườn riêng còn thú cầm tôn.

Hoàng Diêu tử Nguỵ vẫn còn chưa phai.

(Hoa Tiên Truyện).



CẦM THI 

Gảy đàn và ngâm thơ.

Cổ thư viết về phong cách tao nhã của vua Thuấn như sau: “Thuấn đàn ngũ huyền chi cầm, ca nam phong chi thi  , ”, nghĩa là Thuấn gảy đàn cầm năm dây và hát bài thơ nam phong.

Nghĩa bóng:Chỉ sự phong lưu.



Cầm thi xiêm áo thảnh thơi.

Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



CẦM THUẤN 

Cầm: Cây đàn cầm. Thuấn: Vua Thuấn, đời Hữu Ngu. Cầm Thuấn là cây đàn cầm của vua Thuấn.

Xưa vua Thuấn chế ra cây đàn cầm năm dây để gảy khúc Nam Phong. Ý nói cảnh thái bình thịnh trị.



Gió nhân vỗ khắp nhuần thiên hạ,

Cầm Thuấn lừng đưa phỉ mọi tình.

(Hồng Đức Quốc Âm).



CẦM THƯ 

Cầm: Cây đàn. Thư: Sách vở.

Cầm thư là đàn và sách, dùng để chỉ sự học hành, hay các Nho sĩ.



Đi không há dễ trở về không,

Cái nợ cầm thư phải trả xong.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Hồ thỉ đã quen tay vũ trụ,

Cầm thư chi lạ mặt quan hà.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



Ý bát theo một mối cầm thư,

Chung đỉnh dõi năm đời khanh tướng.

(Trương Lưu Hầu Phú).

CẦM TRĂNG

Tức nguyệt cầm.

Nguyệt cầm, hay hồ cầm là tên một loại đàn tỳ bà. Theo sách Văn hiến thông khảo thì cầm trăng hay cầm nguyệt, và hồ cầm là cùng một loại đàn như nhau.

Xem: Nguyệt cầm.



Hiên sau treo sẵn cầm trăng,

Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.

(Truyện Kiều).



CẨM BÀO 

Cẩm: Gấm. Bào: Áo.

Cẩm bào là áo gấm, một loại áo do vua ban cho các quan lại thời quân chủ và những người thi đổ tiến sĩ trở lên.

Nghĩa bóng: Chỉ áo của các quan.

Thám hoa vào lạy đơn trì,

Cẩm bào phô cật, hoa chi giải đầu.

(Truyện Phan Trần).



Dám đâu đọ khách lầu cao,

Bao giờ đi bạc, cẩm bào mới hay.

(Nữ Tú Tài).



Nghèo hèn đừng đổi lòng thành thật,

Mới đặng khi may mặc cẩm bào.

(Đạo Sử).



CẨM HOÀN 

Cẩm: Gấm. Hoàn: Trở về.

Cẩm hoàn là mặc áo gấm trở về làng, do câu thành ngữ “Ý cẩm hoàn hương  ”.

Thơ Lý Bạch đời nhà Đường có viết: “Công thành ý cẩm hoàn  ”, nghĩa là khi được thành công, mặc áo gấm về làng.

Nghĩa thường: Khi vinh hoa phú quý, trở về làng xưa.

Xem: Áo gấm về làng, hay Ý cẩm hoàn hương.

CẨM LA 

Cẩm: Gấm vóc. La: Lụa là.

Cẩm la là một thứ lụa đẹp như gấm vóc.



Hương xông sực nức mọi bề,

Nhìn xem thế giới khác gì cẩm la.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



CẨM NANG 

Cái túi bằng gấm dùng để chứa mật kế để đến khi gặp những việc rắc rối, khó khăn thì mở ra xem mà có cách đối phó.

Ngày xưa, Khổng Minh sai Triệu Tử Long phò Lưu Bị sang nước Ngô, có trao cho ba cái cẩm nang (Sách Tam Quốc Chí gọi là cẩm nang kỳ kế), dặn khi gặp việc chẳng lành thì mở ra xem, sẽ có kế hay để đối phó. Nhờ vậy mà Triệu Tử Long phò Lưu Bị về nước một cách an lành.

Phải Khổng Minh nhập quỷ xuất thần,

Cho Triệu Tử cẩm nang diệu kế.

(Giang Tả Cầu Hôn).



CẨM TÂM TÚ KHẨU 

Cẩm tâm: Lòng như gấm vóc. Tứ khẩu: Miệng như thêu hoa.

Cẩm tâm tú khẩu là lòng như gấm, miệng như thêu, thành ngữ dùng để ca tụng những lời nói hoa mỹ.



Xem thơ nức nở khen thầm,

Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường.

(Truyện Kiều).



CẨM TÚ 

Cẩm: Gấm. : Thêu.

Cẩm tú là gấm thêu, chữ dùng để ca tụng lời nói hoa mỹ hay văn chương đẹp đẽ. Đồng nghĩa với câu thành ngữ “Cẩm tâm tú khẩu”.

Xem: Cẩm tâm tú khẩu.

Mai sinh là bậc thiên tài,

Câu văn cẩm tú, vẻ người y quan.

(Nhị Độ Mai).



Khen cho cẩm tú sắc tài.

Lạ cho con Tạo lựa người ghê thay!

(Mai Đình Mộng Ký).



Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,

Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Cẩm tú giang san một gánh nâng,

Ðường xưa nẻo cũ đã quen chừng.

(Đạo Sử).



CẨM TRƯỚNG 

Cẩm: Gấm. Trướng: Bức màn.

Cẩm trướng là trướng gấm, chỗ vua ngự, vì nơi đó có treo màn trướng bằng gấm vóc thêu lộng lẫy.



Gương đã lạnh lùng mờ cẩm trướng,

Châu còn thánh thót quẹn la bào.

(Truyện Vương Tường).



Trằn trọc chẳng an cẩm trướng,

Ngửa nghiêng khó nhắp loan phòng.

(Nhạc Hoa Linh).



CẨM VĂN 

Cẩm: Gấm. Văn: Văn chương. Cẩm văn tức là văn chương hay đẹp như là gấm thêu.

Cẩm văn còn là bài văn hay thơ dệt trên gấm, như bài “Chức cẩm hồi văn”.

Xem:Chức cẩm hồi văn.

Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng,

Đạo vị trau giồi bữa bữa no.

(Dương Từ Hà Mậu).



CÂN ĐAI

Cân đai là cái khăn và sợi dây đai.

Ngày xưa người đàn ông để tóc dài, nên khi làm quan, mặc triều phục, đầu phải bịt khăn, lưng phải buộc sợi dây đai. Do vậy, từ “Cân đai” dùng để chỉ quan lại.

Rỡ mình, là vẻ cân đai,

Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.

(Truyện Kiều).



Tử Trung xem hết phân vân,

Cân đai áo mũ rời chân tức thì.

(Nữ Tú Tài).



Đẹp mình với vẻ cân đai,

Công thầy tô điểm từ ngày ấu xuân.

(Kinh Thế Đạo).



Nương chơn chưa biết chơn nào vững,

Níu thử cân đai thấy nặng trì.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Sâu dân mọt nước bạo tàn,

Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÂN QUẮC 

Cân: Cái khăn. Quắc: Một loại đồ trang sức trên đầu đàn bà.

Nghĩa bóng: Chỉ người đàn bà, con gái.

Thời Tam Quốc, Tư Mã Ý đánh không lại Khổng Minh, nên truyền đóng cửa thành cố thủ. Mấy lần khêu chiến, Tư Mã Ý đều không đem binh ra đánh. Khổng Minh mới dụng kế, sai người đem qua dinh Ý một gói đồ, trong đó chỉ có chiếc khăn bịt đầu của đàn bà.

Dụng ý của Khổng Minh là làm nhục và có ý chê Tư Mã Ý là đàn bà. Thế mà Tư Mã Ý vẫn cố thủ, khiến Khổng Minh sau đó cũng phải lui binh.



Xưa nay cân quắc mấy người.

(Liệt Sử).



CÂN QUẮC TIÊN SINH 

Ông thầy khăn yếm.

Do câu: Huệ Cơ chấn đạc vi nghiêm truyền, phả xưng cân quắc tiên sinh  , , nghĩa là Huệ Cơ làm nghề cha truyền, đáng gọi là cân quắc tiên sinh.

Bà Tống Thị (Mẹ của Vi Sính) nối truyền sự nghiệp của cha là dạy học. Bà lập giảng đường, kẻ thư sinh theo học ngoài trăm người. Bà treo màn the đỏ, ngồi sau màn để dạy học, được người đời coi là “Cân quắc tiên sinh”.



CÂN THƯỜNG 

Tên một loại cờ mà ngày xưa các vị vua dùng để ghi công tướng sĩ. Trong cân thường người ta có vẽ mặt trăng, mặt trời và giao long.



Thiết vì thủa theo cờ trước gió,

thân chả quản màn sương đệm giá,

những chờ xem cao thấp bức cân thường.

(Trận Vong Tướng Sĩ)



CÂN TRẤT 

Cân: Khăn bịt đầu. Trất: Cây lược.

Ngày xưa người đàn ông còn để tóc, nên vẫn xài khăn và lược. Như vậy, bổn phận của người đàn bà có chồng phải lo khăn lược cho chồng, gọi là nâng khăn sửa lược (Hay nâng khăn sửa túi).

Trong Tả Truyện, lời bà Khương Hậu nói: Dư dĩ cân trất sự tiên quân  , nghĩa là ta từng cầm cái khăn cái lược mà hầu hạ đấng tiên quân. Ý nói làm việc hầu hạ chồng.

Cân trất, nghĩa bóng chỉ bổn phận người đàn bà lo cho chồng.



Gẫm như cân trất duyên này,

Cam công đặt cái khăn này tắc ơ!

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CẦN BỘC 

Rau cần và ánh nắng.

Do sách Liệt Tử nói: Xưa có một người rất nghèo khổ, mùa đông đợi khi mặt trời mọc, ngồi sưởi nắng để được ấm áp, chẳng biết được trong thiên hạ đã có nhà cửa rộng kín, áo hồ lạc và nhung lụa ấm, ông liền bảo vợ: Cái việc nhờ mặt trời được ấm, con người chưa ai biết được, nếu ta lấy đem dâng cho vua, ắt là được trọng thưởng!.

Người nhà giàu trong làng nghe vậy, bèn nói chuyện với ông rằng: Hồi xưa có một người nông dân nước Tống, đem hột rau cần đến khen tốt, khen ngon với viên chức trong làng, các viên chức nếm thử, thì nó thông nơi miệng mà nhiễm nơi bụng. Họ nhăn mặt nạt anh nông dân! Chuyện này cũng giống như chuyện ông đem dâng vua cách sưởi nắng vậy.

Ta thấy tia nắng ấm áp đối với người nghèo khổ, nhưng sẽ làm nóng bức đối với nhà vua, cũng vậy, cùng một thức ăn, đối với người nầy ăn thấy ngon (Có thể do nghèo khổ, thiếu thực phẩm, nên ăn gì cũng ngon),còn người kia thì chê dở (Bởi giàu có). Vì vây, khi muốn tặng gì cho người thì phải khiêm nhường cho là đồ không ngon, không tốt, gọi là cần hiến (Dâng rau cần), hay bộc hiến (Dâng ánh nắng), hay cần bộc.

Mấy nơi làng xóm trải qua,

Tấm lòng cần bộc đều ra dâng thành.

(Hạnh Thục Ca).



CẦN CÂU LỮ

Tức là cần câu của Lữ Vọng, một vị hiền thần ngồi câu trên sông Vị chờ thời vận, sau được Tây Bá Hầu Cơ Xương (Tức Văn Vương) rước về làm Tướng quốc, và trở thành vị khai quốc công thần cho nhà Châu.



Ðợi thời toan mượn cần câu Lữ,

Dựng nghiệp tua chờ mặt lưới Thang.

(Đạo Sử).



CẦN CÙ

Cần cù là chỉ sự chuyên cần, chăm chỉ chịu khó nhọc một cách thường xuyên.



Tròn năm luống phận cần cù,

Không nuôi thê tử không bù thân sanh.

(Ngụ Đời).



CẦN CHUYÊN 

Cần: Siêng năng. Chuyên: Để tâm vào một công việc gì.

Như vậy, cần mẫn siêng năng để lo một việc gì gọi là cần chuyên.



Thờ nghiêm phụ cần chuyên khuya sớm.

Đạo làm con chẳng dám biếng khuây.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



CẦN DÂN 

Cần: Siêng năng. Dân: Nhân dân.

Cần dân là siêng năng về việc nhân dân, việc nước nhà, ý muốn nói những người cầm quyền trị dân phải biết chăm lo đến đời sống của dân chúng, quan tâm đến việc của nhân dân.



Khuyến nông chăm việc cần dân,

Chiếu chăn thương kẻ tù nhân lạnh lùng.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CẦN ÍCH 

Cần: Tha thiết đến một thứ gì. Ích: Lợi ích.

Cần ích là việc cần thiết và ích lợi.



Ngọn rau tấc đất là ân,

Một dòng một giống lo cần ích chung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦN KIỆM 

Cần: Siêng năng. Kiệm: Tằng tiện, không tiêu xài hoang phí.

Cần kiệm có nghĩa là siêng năng cần mẫn và tiện tặn, không phung phí.



Đồng tiền bát gạo mang ra,

Rằng đây "cần kiệm" gọi là làm duyên.

(Gia Huấn Ca).



Người đời cần kiệm 
doanh sinh,

Có nhiều có ít cũng dành cho con.

(Huấn Nữ Ca).



Thờ chồng ta giữ tiết ta,

Chữ cần chữ kiệm nghiệp nhà như xưa.

(Huấn Nữ Ca).



CẦN VƯƠNG 

Cần: Siêng năng. Vương: Vua.

Cần vương là hết lòng siêng năng vì công việc của vua. Vua gặp tai biến, hoạn nạn, kéo quân về giúp vua thì gọi là Cần vương.

Thời nhà Nguyễn ở nước ta, vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết đứng lên chống Pháp, ban hịch “Cần vương” và gửi đi cho các sĩ phu và dân chúng khắp nơi.

Đồn nghe chiếu dụ tưng bừng,

Bay tư các tỉnh lẫy lừng cần vương.

(Hạnh Thục Ca).



Giận Quốc Phó ra lòng bội thượng,

Nên Tây Sơn xuống nghĩa cần vương.

(Hịch Tây Sơn).



Tồn tại tưởng nghìn năm lời ngọc thệ,

Cờ cần vương nên hợp sức khuông phù.

(Khuyên Trung Nghĩa).



Dầu rủi phận nợ thân chẳng vẹn,

Đạo cần vương nêu tiếng thanh cao.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẬN CHÂU CẬN MẶC 

Gần son gần mực, do câu nói của người xưa: “Cận châu giả xích, cận mặc giả hắc” , , nghĩa là gần son thì đỏ, gần mực thì đen.

Do tính của con người thường hay bị tập nhiễm theo xã hội, nên tục ngữ ta cũng có nói: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.

CẬN HIỀN NHƯ DỰA CHI LAN

Cận hiền: Gần kẻ hiền lương. Dựa chi lan: Tựa vào cỏ chi và cỏ lan, hai loại hoa thơm.

Khổng Tử Gia Ngữ có câu: Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất, cửu bất văn kỳ hương, tức dữ chi lan hoá  , , , , nghĩa là cùng ở với người hiền, như vào nhà trồng chi lan, lâu ngày không thấy mùi thơm, đã cùng hoá theo mà không biết.



Cận hiền như thể dựa chi lan,

Chẳng nhiểm mùi hương cũng phẩm hàm.

(Đạo Sử).



CẨN THẬN 

Cẩn: Thận trọng. Thận: Không sơ suất.

Cẩn thận tức là thận trọng không cho sơ suất.

Cổ ngữ có câu: “Cần vi vô giá bửu, thận thị hộ thân phù , , nghĩa là siêng năng là của báu vô giá, cẩn thận là bùa hộ thân. Vì thế, thận trọng trong mọi việc thì chuyện lo buồn không có thể xảy ra.

Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn

Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



CẤP NHƯ LUẬT LỊNH 

Cấp như luật lịnh có nghĩa là gấp theo mệnh lịnh, là một câu văn mà ngày xưa thường đặt sau cùng những tờ công văn khẩn cấp của đời nhà Hán.

Những câu chú của các vị đạo gia hay các pháp sư, cuối câu cũng đều có câu: Cấp cấp như luật lịnh.

Tôn sư lại niệm chú linh,

Cấp như luật lịnh âm binh đứng hầu.

(Dương Từ Hà Mậu).



CẬP KÊ 

Cập: Đến. : Cài trâm.

Cập kê là đến tuổi cài trâm. Tục lệ ta ngày xưa con gái đến mười lăm tuổi là làm lễ cài trâm, tức gần đến tuổi lấy chồng.

Kinh Lễ viết: Nữ tử thập hữu ngũ niên nhi kê  , con gái 15 tuổi thì cài trâm.

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

(Truyện Kiều).



CẬP QUA 

Đến kỳ dưa chín, những viên lính thú được thay thế người khác, gọi là cập qua.

Do sách Tả Truyện chép: Liên Xứng và Quản Chí được Tề hầu phái đi canh phòng ở biên giới Quỳ Châu. Hai người thay phiên nhau, hễ tới mùa dưa chín thì người nầy thế người kia, gọi là “cập qua nhi đại , có nghĩa tới mùa dưa thì thay thế cho nhau.

Tóm lại, thay thế cho nhau thì gọi là “Cập qua” hay “Qua đại”



CẤT GIÓ

Tức là cất bước đi nhanh như gió hay bắt đầu đi nhanh như gió, chỉ sự đi mau lẹ.



Kíp truyền sắm sửa lễ công,

Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao.

(Truyện Kiều).



CẤT VẠC

Vạc là cái đỉnh có ba chân, thường đúc bằng đồng, có hình to lớn và rất nặng.

Cất vạc do chữ “Cử đỉnh  ”tức là đưa cao cái đỉnh, dùng để nói người sức mạnh phi thường, có thể cất nổi vạc ngàn cân.

CÂU ẢNH 

Bóng câu ngựa.

Do câu nói của Tống Thái Tổ cho rằng đời người qua nhanh như bóng của ngựa câu trắng chạy vụt qua khe cửa: “Nhân sinh nhất thế gian như bạch câu quá khích  ”.

Xem : “Bạch câu quá khích”.



Trăm năm thấm thoát thân câu ảnh.

(Cổ Thi).



CÂU DẦM

Câu dầm tức là móc mồi buông câu, thả ngâm dầm mồi câu dưới nước, chờ cá cắn câu, ý nói làm việc kéo dài, lê thê.



Một mình thong thả làm ăn,

Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.

(Lục Vân Tiên).



CÂU KINH TIẾNG KỆ

Kinh : Là nền tảng của một triết thuyết hay giáo lý một Tôn giáo. Ví dụ như: Ngũ kinh trong Nho giáo, Đạo Đức kinh trong Lão giáo, Tam Tạng kinh trong Phật giáo và Kinh Thánh của Công giáo.

Kệ : Những bài thơ ngắn hay dài để tóm tắt đại ý một bài thuyết pháp hay một đoạn kinh, hoặc để ca ngợi công đức Phật, hoặc để cầu nguyện, hoặc là một bài dùng để kệ chuông, kệ trống…

Câu kinh tiếng kệ là tiếng kinh và câu kệ trong thời công phu vang lên.



Câu kinh tiếng kệ gọi hồn,

Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÂU KÝ VÃNG

 
: Đã. Vãng : Qua. Ký vãng là việc đã qua.

Câu ký vãng là những câu thơ, câu hát đã qua rồi.



Tỉnh giấc mộng ngâm câu ký vãng,

Trải tám thu ngày tháng như thoi.

(Tự Tình Khúc).



CÂU TÍCH KIM

Câu “Tích kim  ” là chứa vàng, để vàng lại.

Do trong sách Gia Huấn của Tư Mã Ôn Công có nói: Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ; tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng đọc; bất như tích âm đức minh minh chi trung, dĩ vi tử tôn truờng cửu chi kế  , ; , ; , , nghĩa là chứa vàng để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đã giữ được; chứa sách để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đã học được; Cách để lại cho con cháu lâu dài không gì bằng chứa âm đức ở trong chỗ minh minh. Xem: Chứa vàng để lại cho con.

Câu tích kim lời đã đáng lời,

Cơ nan thủ phép Trời đã định.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÂU TIỄN 

Vua nước Việt đời Đông Châu.

Phụ thân của Việt vương Câu Tiễn thường bị vua nước Ngô là Hạp Lư đánh bại. Câu Tiễn rửa nhục cho cha, bằng cách đánh thắng được Ngô Hạp Lư. Con của Hạp Lư là Ngô Phù Sai trả thù cho cha, bắt Câu Tiễn cầm tù ở Thạch Thất để chăn ngựa cho vua Ngô. Nhờ lo lót và giả ngu khờ để nếm phẩn của vua Ngô, nên Phù Sai không nghi ngờ mà tha cho Câu Tiễn về nước.

Nhớ mối thù xưa, Câu Tiễn miệng thường nếm mật đắng, thân thường nằm trên gai (Ngoạ tân thường đảm) để nhắc nhở mối hận ở Cối Kê, mà cố gắng chiêu binh mãi mã, tích thảo đồn lương hầu sau đó đánh thắng được vua Ngô Phù Sai, báo được mối hận.



Câu Tiễn trước nào còn Việt,

Tấn Vương xưa cũng sang Tần.

(Khuyên Trung Nghĩa).



Nền nhân Câu Tiển đà chen bước,

Cửa ải Phù Ta đã bước vào.

(Nguyệt Tâm Chơn Nhơn).



CÂU THƠ TANG TỬ

Tang tử là cây dâu và cây thị.

Do trong Kinh Thi có câu: Duy tang dữ tử tất cung kính chi  , nghĩa là phải cung kính nơi trồng cây dâu cây thị.

Bởi vì cây dâu cây thị do cha mẹ trồng nên phải cung kính.

Câu thơ tang tử dùng để chỉ làng xóm, quê hương, chỗ cha mẹ ở.

Cành mai chếch mác càng thương,

Câu thơ tang tử giữa đường càng đau.

(Tự Tình Khúc).



CẦU ĐẢO 

Cầu: Xin, mong. Đảo: Cúng tế để cầu xin.

Cầu đảo là bày lễ cúng tế để cầu xin các Đấng Thiêng Liêng một điều gì.

Tương truyền, Đức Khổng Tử bị đau nặng, học trò là Tử Lộ xin Thầy bày lễ cầu nguyện để mau được khỏi bệnh. Ngài nói rằng: Khâu chi đảo cửu hỹ  , nghĩa là Khâu này cầu nguyện đã lâu rồi. Ý Ngài muốn nói chung thân Ngài làm điều nhơn nghĩa, như vậy lúc nào Ngài cũng cầu xin rồi vậy. Theo Ngài, nếu ai bất nhân bất nghĩa, làm điều trái đạo, mắc tội với Trời, dù có cầu xin cũng không ích gì: Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo dã  , : Phải tội với Trời còn cầu xin vào đâu được.

Dầu nghiệt chướng số căn quả báo,

Đừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.

(Kinh Tận Độ).



CẦU HOÀNG 

Bởi chữ “Phụng Cầu hoàng  .



Cầu: Tìm kiếm. Hoàng: Chim phượng mái.

Phụng Cầu Hoàng có nghĩa là chim phượng trống tìm chim phượng mái, đó là tên một bản đàn, còn gọi là “Phụng Cầu Kỳ Hoàng”.

Bản đàn này do Tư Mã Tương Như đời nhà Hán, gãy để ghẹo nàng Trác Văn Quân. Trác Văn Quân nghe khúc đàn này mê, bèn theo Tương Như, rồi hai bên lấy nhau.

Duyên này mà đã dở dang,

Còn nên gảy khúc Cầu hoàng nữa sao?

(Quan Âm Thị Kính).



Cầu hoàng tay tựa nên vần,

Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CẦU HỒNG

Bởi chữ “Hồng kiều  ” là cái cầu sắc đỏ giăng như cái mống, tức cái cầu vồng mọc ngang bầu trời.

Người ta thường ví chiếc cầu bắc ngang qua sông như cái cầu vồng vắt ngang bên trời.

Cầu hồng dậm tiếng dầy tợ sấm,

xô bồ dưới nguyệt gót kim liên.

(Tần Cung Nữ).



CẦU LAM

Cầu Lam là một cây cầu bắc ngang sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.

Đời nhà Đường có Bùi Hàng thi hỏng, trở về nhà tình cờ gặp phu nhân Vân Kiều tặng cho bài thơ trong đó cho biết có duyên cùng Vân Anh. Hôm sau, Bùi Hàng bèn đi tìm, ngang qua một cây cầu tên là Lam Kiều, rồi vào một quán gặp nàng Vân Anh. Sau hai người kết duyên với nhau.

Nghĩa bóng: Nơi gặp duyên nợ.

Xem: “Lam Kiều.

Cầu Lam từ tỏ lối tìm,

Nhẫng nay chừng đã đầu thềm nửa sương.

(Hoa Tiên Truyện).



Chày sương chưa nện cầu Lam,

Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?

(Truyện Kiều).



Lỡ lối cũ động đào lạc bước,

Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦU LAM CHƯỞNG NGỌC

Cầu Lam: Tức Lam kiều, nơi Bùi Hàng gặp được Vân Anh. Chưởng ngọc 
: Cầm cây chày ngọc.

Cầu Lam chưởng ngọc tức là nơi Lam kiều, Bùi Hàng lấy chày ngọc giã thuốc trường sanh để được kết duyên cùng nàng Vân Anh.

Xem: Bùi Hàng.

Nào khi đến cầu Lam chưởng ngọc,

Nào khi lo giã thuốc trường sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CẦU LỢI MUA DANH

Cầu lợi: Tìm cầu lợi lộc. Mua danh: Kiếm chác hư danh. Đồng nghĩa với câu “Mua danh chác lợi”.

Cầu lợi mua danh là nói người chạy theo danh lợi.



Dầu trong cơn cầu lợi 
mua danh,

Cũng chớ khá đua tranh hao kém của.

(Phương Tu Đại Đạo).



CẦU MỴ GIẾT CON

Bởi chữ “Sát tử mỵ quân  ”.

Dịch Nha là người đầu bếp giỏi của vua Tề Hoàn Công đời Chiến Quốc. Vua bảo với Dịch Nha: Các giống điểu thú trùng ngư ta ăn gần đủ mùi, duy chỉ thịt người thì chưa biết vị nó thế nào?

Dịch Nha muốn cầu mỵ với vua, về giết đứa con đầu lòng nên ba tuổi, làm món ăn dâng vua. Tề Hoàn Công ăn ngon, hỏi ra mới biết, cho là Dịch Nha thương mình, có ý tin dùng.

Do vậy, người đời sau mới nói: Sát tử mỵ quân, Tề Dịch Nha chi nhân tâm hề tại?  , ? Nghĩa là giết con mỵ vua, lòng người của tên Tề Dịch Nha ở đâu?

Sau Dịch Nha mưu phản, bỏ vua Tề Hoàn Công ở hầm đá hơn nửa tháng, đói khát mà chết.



Ghét đứa cầu mỵ mà giết con,

Ghét đứa tham sang mà hại vợ.

(Sãi Vãi).



CẦU NẠI HÀ

Bởi chữ “Nại Hà kiều  ”.

Theo Phật giáo và Kinh Sám Hối của đạo Cao Đài, ở cõi Âm phủ có con sông lớn, gọi là Nại Hà, trong ấy có các loại thủy tộc như rắn, cua, kình rất dữ tợn. Trên sông có bắc một cây cầu, gọi là cầu Nại Hà, Tội nhơn đến đó không thể nào qua sông đặng, chỉ những người có đầy đủ phước đức mới đi qua cầu Nại Hà được, còn những kẻ hung dữ đều bị té nhào xuống sông để cho cua kình rỉa thây.

Xem: Nại Hà kiều.



Gặp phải lúc đi đường lỡ bước,

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau.

(Thập Loại Chúng Sinh).



Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,

Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.

(Sám Hối Kinh)



CẦU Ô

Bởi chữ “Ô kiều  ” hay “Thước kiều  ”, tức là cầu do chim ô thước bắc qua sông Ngân Hà để Chức Nữ sang gặp Ngưu Lang trong đêm thất tịch (Mồng bảy tháng bảy). Tương truyền, vào tháng bảy đầu chim ô thước bị trụi cả lông, nên người ta cho rằng vì đội làm cầu cho Chức nữ.



Sầu vừa ngớt, ngớt lại sầu,

Sông Ngân thử bắc lấy cầu ô xem.

(Truyện Phan Trần).



Bao giờ bắc lại cầu ô,

Mà cho ả Chức chàng Ngưu tới gần?

(Bần Nữ Thán).



Nào khi hỏi thăm hang Từ Thức,

Nào khi dò mấy bực cầu ô.

(Nữ Trung Tùng Phận).

CẦU Ô THƯỚC

Cầu do chim ô và chim thước bắc cho Ngưu Lang và Chức Nữ bị Trời đày phải xa cách hai bên sông Ngân, qua lại gặp nhau trong đêm thất tịch (Tức mùng 7 tháng 7

Xem: Ngưu Lang Chức Nữ.

Sông Ngân chưa bắc cầu Ô Thước,

Phận liễu còn e trận gió mưa.

(Thơ Chu Mạnh Trinh).



CẦU PHONG 

Cầu: Xin giúp. Phong: Gió. Cầu phong là cầu xin gió nổi lên. Cầu phong là cầu gió đông.

Do tích Châu Du nhà Ngô hợp tác với Khổng Minh, dùng kế hoả công phá binh Tào Tháo. Nhưng nhằm lúc mùa đông không có gió chướng (Gió hướng đông). Gia Cát Lượng bèn lãnh việc “Cầu gió đông”.

Khổng Minh lên đàn khấn tế vừa xong, thì gió chướng bắt đầu thổi, nhờ vậy Châu Du mới phá được binh Tào Tháo.

Xem: Tế đông phong.



Kíp truyền hiệu lệnh đồn binh,

Đăng đàn bái tướng ra thành cầu phong.

(Lưu Nữ Tướng).



Ai cầu phong! Mà gió tự đâu sang?

Hay mỏi khách văn chương tìm kết bạn.

(Thơ Tản Đà).



CẦU SĨ MẠC CẦU TOÀN 

Cầu kẻ sĩ chớ nên cầu người thật hoàn toàn.

Do câu: Cầu sĩ mạc cầu toàn, vô dĩ nhị noãn khí can thành chi tướng; Dụng nhân như dụng mộc, vô dĩ thốn hủ khí liên bão chi tài  , , , , nghĩa là tìm kẻ sĩ chớ nên cầu người thật hoàn toàn, đừng vì hai cái trứng, bỏ mất tướng can thành; dùng người như dùng mộc, đừng vì một tấc cây mục, mà bỏ mất khúc gỗ cả ôm.

Sử Ký chép: Thầy Tử Tư tiến cử ông Tuân Biến cho chúa Vệ Hầu: Tài nầy được làm tướng ăn lộc năm trăm thặng. Vệ Hầu nói: Ta biết tài làm tướng của ông ấy. Nhưng tên Biến nầy, có lần làm quan Lại, đánh thuế dân, ăn mất của người hai cái trứng gà, cho nên chớ dùng vậy. Thầy Tử Tư tâu: Xét lại, sự cất nhắc người lên làm quan của bậc Thánh nhân, cũng như sự dùng cây gỗ của người thợ mộc, lấy sở trường của nó, bỏ sở đoản của nó, cho nên cây trắc, cây gỗ cả ôm, có mục vài thước, thợ hay chẳng bỏ. Nay chúa công ở vào thời Chiến Quốc, tuyển chọn người vây cánh, mà vì hai quả trứng, bỏ một tướng can thành, việc nầy không nên đồn ra nước láng giềng vậy!



CẦU TỰ 

Cầu: Xin. Tự: Nối dòng. Cầu tự là cầu xin có con để nối dòng.

Người xưa quan niệm: Bất hiếu hữu tam, Vô hậu vi đại  , , tức là có ba điều bất hiếu, không con nối dõi là tội lớn đối với Tổ tông. Vì vậy, vợ chồng không con thường đi các chùa để cầu tự, tức là cầu xin các Đấng phù hộ cho có con để nối dòng.



Nghe rằng già pháp thần linh,

Quyết lòng cầu tự đinh ninh đến chùa.

(Truyện Trinh Thử).



CẦU THĂNG TIÊN

Cầu Thăng Tiên là nơi Trang Khanh, tức Tư Mã Tương Như, lúc còn hàn vi đi vào đất Thục, qua cây cầu ấy có đề vào cột cầu rằng hễ không được ngồi vào xe cao đi bốn ngựa thì không qua lại cầu này.



Lửa Thái Ất đêm soi Lưu Hướng,

Cầu Thăng Tiên ngày tưởng Tràng Khanh.

(Tự Tình Khúc).



CẦU THƯỚC

Bởi chữ “Thước kiều  ”, tức là cầu ô thước, một cái cầu do chim quạ bắc ngang sông Ngân Hà để vợ chồng Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau vào đêm thất tịch, mồng 7 tháng 7 hằng năm.

Xem: Thước kiều.

Trướng loan lạnh lẽo hồn hồ vẩn,

Cầu thước bơ vơ chiếc nhạn bay.

(Truyện Vương Tường).



CẦU XANH

Tức là cầu Lam, một cây cầu bắc ngang sông Lam, thuộc huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.

Đời nhà Đường có Bùi Hàng gặp nàng Vân Anh tại quán nước bên cầu Lam, bèn kết thành vợ chồng. Sau Hai người đều thành tiên.

Xem: Lam kiều.



Lưng trời nói những đâu đâu,

Những tơ nào thắm, những cầu nào xanh.

(Hoa Tiên Truyện).



CẨU HỢP 

Cẩu: Làm bừa. Hợp: Tụ hợp.

Cẩu hợp là tụ hợp một cách bừa bãi, tạm bợ. Cẩu hợp còn có nghĩa là đôi trai gái lấy nhau không cưới hỏi, tạm bợ.



Cũng còn có lễ lệ bì,

Chê loài cẩu hợp răn bề dâm bôn.

(Truyện Trinh Thử).



Với người chẳng có lễ văn,

Lấy nhau cẩu hợp, thói gần muông chim.

CẨU VĨ TỤC ĐIÊU 

Cẩu vĩ: Đuôi con chó. Tục điêu: Nối vào lông con điêu, một loài vật ở phương bắc, giống như chuột, lông dài sắc vàng hay đen, da làm áo choàng.

Quan chức được phong quá nhiều, lông con điêu không đủ làm mũ cho quan đội, nên ngạn ngữ thời bấy giờ có câu: Điêu bất túc, cẩu vĩ tục  , nghĩa là lông con điêu không đủ thì lấy đuôi chó để thêm vào.

Nghĩa bóng: Lạm phong quan tước, không xứng đáng.

CO ĐẮP CHUNG MỀN

Đắp chung mền tức anh em nằm ngủ đắp chung một cái mền.

Do điển tích trong Hán Thư chép: Khương Quảng cùng hai em là Trọng Hải, Quí Giang rất nên hòa thuận, cùng thương yêu nhau chí thiết. Tuy mỗi người đều có vợ, nhưng tình cảm anh em không đành ngủ riêng, bèn sắm một cái mền to, khi ngủ cùng chung nhau đắp. Do vậy sách Ấu học có câu: “Khương gia đại bị dĩ đồng miên  ” nghĩa là nhà họ Khương sắm mền rộng để anh em cùng nhau đắp chung.

Thương những thuở huyên đường ôm ấp,

Thương những khi co đắp chung mền.

(Kinh Thế Đạo).



CÓ THÂN KHỔ CHO THÂN

Do câu “Hữu thân hữu khổ  ”.

Theo triết lý của nhà Phật, con người sở dĩ bị khổ là vì mang xác thân. Có thân xác nên con người phải chịu đọa cõi trần, phải vất vả vì miếng ăn, phải đớn đau vì thân bịnh.

Gồng gánh hai vai nặng nợ trần,

Có thân âu hẳn khổ cho thân.

(Đạo Sử).



CỎ BIẾC DÂU XANH

Dịch từ chữ “Yên thảo  ” là cỏ Yên và “Tần tang ” là dâu Tần, lấy ở bài Xuân Tứ của Lý Bạch: Yên thảo như bích ty, Tần tang đê lục chi. Đương quân hoài quy nhật, Thị thiếp đoạn trường thì  , . , , nghĩa là Cỏ Yên như sợi tơ biếc, cành dâu Tần sà thấp xuống, chính là lúc chàng nhớ về mà thiếp cũng nhớ chàng đứt từng đoạn ruột trong lúc ấy.



Trông bến Nam, bãi che mặt nước,

Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



CỎ BỒ

Tên một loại cỏ như cỏ lác, ngày xưa người ta dùng bọc bánh xe cho êm, gọi là xe bồ luân. Hoặc có người dùng làm gươm, gọi là bồ kiếm, hoặc dùng làm roi thì gọi là bồ tiên.

Theo Hán Thư: Lộ Ôn Thư, tự là Trường Quân, quê ở Cự Lộc, người đời Hán, nhà rất nghèo thuở nhỏ phải đi chăn dê. Ông có tính ham học, không có tiền mua sách, phải kiếm cỏ bồ về bện thành tấm để chép sách học. Nhờ có chí nên ông đỗ Hiếu liêm, làm quan rất có tiếng tăm, về sau được thăng đến chức Thái thú.

Xem: Ôn Thư.



Nhặt lấy cỏ bồ biên thư mà đọc,

Người Ôn Thư chí học mới cao.

(Gia Huấn Ca).



CỎ SÔNG Ô

Tức là cỏ ở Ô Giang, còn gọi là Ngu mỹ nhân thảo, một loại cỏ mà người đời sau vì thương cho Hạng Võ đã tự tận tại bến Ô Giang, nên lấy tên của người thiếp yêu là nàng Ngu Cơ, đặt tên cho loại cỏ nơi đó.

Bài hành Ngu mỹ nhân thảo có câu: Hương hồn dạ trục kiếm quang phi, thanh huyết hoá vi nguyên thượng thảo  , , nghĩa là đêm đến hương hồn đuổi theo ánh sáng của lưỡi gươm bay, máu tươi hoá thành ngọn cỏ trên thảo nguyên.

Buồm mây khói tỏa năm hồ,

Lăm tăm bờ cỏ sông ô khắp đường.

(Hoa Tiên Truyện).



CỎ THI

Cỏ thi là tên một loại cỏ có thân hình tròn, lá nhỏ dài, có bông. Ngày xưa người ta thường dùng cỏ thi để bói quẻ.



Ứng vào rùa với cỏ thi,

Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường.

(Lục Vân Tiên).



CÕI BA NGHÌN

Bởi chữ “Tam thiên thế giới  ”.

Theo Phật, Tiểu thiên thế giới là gộp lại của một nghìn thế giới, Trung thiên thế giới gồm một nghìn Tiểu thiên thế giới, còn Đại thiên thế giới bao gồm một nghìn Trung thiên thế giới. Mỗi Đại thiên thế giới là một Phật độ, có một vị Phật giáo hoá.

Xem: Tam thiên thế giới.



Khắp 
so trong cõi ba nghìn,

Yên hà riêng nửa, lâm tuyền chia đôi.

(Bích Câu Kỳ ngộ).



CÕI ÂM

Tức là cõi Âm phủ, nơi trở về của hồn người đã chết. Âm phủ còn được hiểu là nơi cửa ngục để giam cầm vong hồn người có tội.



Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

(Thập Loại Chúng Sinh).



CÕI DƯƠNG

Tức là cõi Dương gian, nơi ở của con người còn sống, chỉ cõi thế gian.



Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

(Thập Loại Chúng Sinh).



CÕI ĐÀO NGUYÊN

Tức chỉ cõi tiên.

Bài “Đào hoa nguyên ký  ” của Đào Tiềm, đời nhà Tấn, kể lại một người quê ở Võ Lăng làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà chèo thuyền đi, quên mất đường về, nên chèo lạc vào một cái động trồng đầy hoa Đào. Trong động ấy, có một nhóm người đang sinh sống, mà trước đây tổ tiên của họ trốn loạn đời nhà Tần, đến đó ở biệt lập hẳn với người đời bên ngoài động đã từ lâu rồi.

Sau người đánh cá trở lại, tìm những chỗ trước đã đánh dấu, nhưng không tìm được lối vào nữa.

Cõi Đào nguyên chỉ cõi tiên ở.

Xem: Đào Nguyên.



Trụ nguyên tánh hồn linh nhàn lạc,

Cõi Đào nguyên cỡi hạc thừa long.

(Kinh Thế Đạo).



CÕI SUỐI LÀNG MÂY

Cõi suối tức là cõi có ngọn suối vàng, cõi của người chết.

Làng mây là làng ở đám mây, do điển xưa, người dân ở đất Hoa Phong chúc vua Nghiêu rằng: Khi bệ hạ thăng hà, hương hồn sẽ theo đám mây trắng mà về với cõi trời. Do vậy, làng mây cũng chỉ cõi người chết.

Cõi suối làng mây là chỉ cõi trở về của hương hồn người chết.



Tiết cho khi lỡ bước giữa dòng,

kiếp đã về cõi suối làng mây,

nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ.

(Trận Vong Tướng Sĩ)



CÕI TĨNH

Bởi chữ “Tĩnh thổ  ” hay “Tịnh thổ  ” là cõi nước thanh tĩnh, trang nghiêm vi diệu, tức chỉ Phật độ hay Phật quốc.

Như vậy, cõi tĩnh tức là cõi Phật.

Cho hay cõi tĩnh ngày dài,

Mấy giây phút đã sự đời trăm năm.

(Truyện Trinh Thử).



Mảnh riêng sinh những bàng hoàng,

Tuy say cõi tĩnh, chưa tan lòng phàm.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CÕI THỌ

Bởi chữ “Thọ vực  ” là chỉ cõi người sống lâu.

Cõi thọ là chỉ cõi có sự sống lâu dài, hay cõi sống của Chơn linh đắc đạo, tức là chỉ cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Xem: Thọ vực đài xuân.



Biển mê cầu ngọc liên phàm tục,

Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Thong dong cõi thọ nương hồn,

Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

(Kinh Thế Đạo).



Bên màn đòi lúc trêu hồn phách,

Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.

(Đạo Sử).



CÕI THỌ ĐÀI XUÂN

Do câu thành ngữ “Thọ vực xuân đài  ”, tức là chỉ cõi người sống lâu và cảnh tươi đẹp của thời thái bình.

Cõi thọ đài xuân ý muốn nói là đời thái bình thịnh trị.

Dân vui cõi thọ đài xuân,

Sáu mươi năm lẻ, hưu trưng thái bình.

(Hạnh Thục Ca).



CON ĐEN

Bởi chữ “Lê dân  ”, tức là dân đen. Tục thường nói: Phàm người dân, ai cũng đầu đen máu đỏ.

Kinh Thi có nói rằng: Lạc chỉ quân tử, dân chi phụ mẫu  , , nghĩa là vui vẻ hoà thuận thay người quân tử ấy! thiệt đáng làm cha mẹ cho dân. Như thế người dân người ta mới gọi là con dân, còn “Lê dân” tức là con đen.

Tóm lại, “Con đen” là chỉ dân chúng.



Mập mờ đánh lận con đen,

Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?

(Truyện Kiều).



Tuồng chi hoa thải hương thừa,

Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.

(Truyện Kiều).



CON ĐỎ

Trong Kinh Thư có câu: Nhược bảo xích tử  , tức là thương dân như bảo vệ con đỏ. Vì vậy, ngày xưa người ta coi nhân dân như là “Con đỏ”, tức là đứa con mới sinh còn đỏ hỏn, tâm còn hồn nhiên, vô tội gọi là Xích tử chi tâm  .

Xem: Xích tử.

Nước sông vàng lẻo lẻo dòng xanh;

dân con đỏ hây hây nhà rạng.

(Sãi Vãi).



Cờ Thành Thang sao không thấy

phất, bỏ liều con đỏ chông gai;

(Gia Định Thất Thủ Phú).



Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

(Bình Ngô Đại Cáo).



Mình vợ quan đáng phận mẹ cha,

Phải yêu mến trăm nhà như con đỏ.

(Phương Tu Đại Đạo).



CON GIẶC TÔI LOÀN

Bởi chữ “Loạn thần tặc tử  ”, làm bề tôi thì tạo phản loạn, làm người con thì sinh giặc cướp.

Con giặc tôi loàn là nói người bất hiếu bất trung, chỉ làm hại nhà hại nước.

Xem: Tôi loàn con giặc.



Chớ làm con giặc tôi loàn,

Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.

(Kinh Sám Hối).



CON HỒNG CHÁU LẠC

Con Hồng tức con cháu của họ Hồng Bàng. Họ Hồng Bàng gồm 18 đời vua Hùng Vương, làm vua nước Văn Lang. Hùng Vương là tổ của dân tộc Việt`.

Cháu Lạc tức là con cháu của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra một trăm người con, là tổ tiên của dân tộc Việt.

Do vậy, dân tộc Việt Nam được gọi là con Hồng cháu Lạc. Xem: Con Rồng cháu Tiên.



Con Hồng cháu Lạc bao nhiêu,

Thiếu tài khiếm đức, định triều an bang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CON HƯƠU BÁCH NHỊ

Con hươu: Nói việc nhà Tần mất con hươu, thiên hạ cùng đuổi đi bắt, chỉ ngôi vua, hoặc chỉ thiên hạ.

Bách nhị: Chỉ sức mạnh, do câu “Tần đắc bách nhị yên  ”, tức là nhà Tần được sức mạnh, ví với gian sơn hiểm trở.

Con hươu bách nhị là nói nhà Tần mất, anh hùng trong thiên hạ nổi lên đua đánh như săn một con hưu vậy.

Con hưu bách nhị lạc loài đâu,

ba cỏ ủ ê vườn thượng uyển,

Cái én tam thiên ngơ ngẩn đó,

mây mưa bát ngát đỉnh vu phong.

(Tần Cung Nữ).



CON KIÊU

Đứa con tự thị kiêu ngạo.

Do chữ “Kiêu tử  ” trong Hán Thư chép về việc rợ Hung Nô gửi quốc thư cho vua Hán có câu: Nam hữu đại Hán, bắc hữu cường Hồ. Hồ giả thiên chi kiêu tử dã  , . , nghĩa là phương nam có nhà đại Hán, phương bắc có cường Hồ. Hồ ấy là đứa con kiêu ngạo của trời vậy.

Vì vậy, “Con kiêu” hay “Giặc trời” dùng để chỉ rợ Hồ, hay Hung Nô.

Xem: Thiên kiêu.

Rợ Hồ lộng thói con kiêu,

Ruổi mù bụi ngựa, trẩy theo ải nhàn.

(Hoa Tiên Truyện).



CON NGƯỜI TỐI LINH

Con người: Chỉ loài người. Tối linh: Rất linh.

Con người là loài linh hơn các loài vật là bởi vì: Thứ nhứt là bởi vì con người phải qua muôn nghìn kiếp tiến hóa, từ vật chất, thảo mộc, thú cầm, rồi mới chuyển hóa đến nhơn loại. Thứ nhì là vì con người có ba phần hồn: Sanh hồn, giác hồn, linh hồn, mà loài vật chất thấp nhứt kim thạch, là loài vô tri vô giác, kim thạch tiến lên thảo mộc thì có một hồn là sanh hồn, thảo mộc tiến lên thú cầm thì có được hai hồn là sanh hồn, giác hồn, thú cầm tiến lên con người thì có đủ ba hồn: Sanh hồn, giác hồn và linh hồn.

Con người nhờ Sanh hồn mới có được sự sống, Giác hồn mới có cảm giác, biết đau đớn khổ sở và Linh hồn mới khôn ngoan, biết đạo lý, suy xét đủ điều, nên con người đứng vào hàng phẩm tối linh.

Con người đứng phẩm tối linh,

Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi.

(Kinh Tận Độ).



CON QUỐC QUỐC

Tức là con chim đỗ quyên, còn gọi là đỗ vũ, hay tử quy, là một giống chim có tiếng kêu “quốc quốc” nghe thật buồn thảm, nên cũng được gọi là chim quốc quốc.

Do điển tích Thục Đế bị cướp ngôi và chết trong rừng hoá ra chim, ngày đêm nhớ nước kêu rất não nuột, nên người đời gọi là chim quốc.

Xem: Đỗ quyên.



Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

(Thơ Huyện Thanh Quan).



Con quốc quốc chưa âu đổi bạn,

Máu đỗ quyên đợi mãn kiếp sanh.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CON RỒNG CHÁU TIÊN

Do chữ “Long phụ tiên mẫu  ”, tức là cha rồng mẹ tiên.

Do truyền thuyết vua Lạc Long Quân nước ta là thuộc giống con rồng, lấy bà Âu Cơ là con tiên, đẻ được trăm cái trứng nở ra trăm người con trai, là tổ tiên nòi giống của dân tộc ta, nên dân tộc Việt Nam được gọi là “Con rồng cháu tiên”.

Gươm thư giúp sức gươm gươm hùng,

Điểm tô nghiệp cả con rồng cháu tiên.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CON TẠO

Bởi chữ “Tạo hoá tiểu nhi  ”, tức là trẻ Tạo hoá, hay con Tạo.

Con Tạo dùng chỉ Tạo hoá với nghĩa cuồng phóng, ý nói hay đặt bày cho người đời nhiều điều oái oăm.

Xem: Tạo hoá tiểu nhi.



Cũng liều nhắm mắt đưa chân,

Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!

(Truyện Kiều).



Ừ là trót đã chịu lời!

Thử xem con Tạo chiều người hay không.

(Hoa Tiên Truyện).



Dù chăng con Tạo khắt khe,

Thì chi cánh điệp còn mê với tình.

(Mai Đình Mộng Ký).



CÔ BỒNG 

: Lẻ loi, một mình. Bồng: Mui thuyền, đò, hoặc chỉ chiếc thuyền, đò.

Cô bồng là chỉ chiếc thuyền hay chiếc đò đi một mình trên sông nước lẻ loi.



Lênh đhttps://hocday.com/thin-vn-quch-vn-ha-trong-thi-vn-nm-2011-li-ta/30102_html_6f264e0b.pngênh thuyền giữa biển đông,

Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ.

(Lục Vân Tiên).



Ngó lên trên khúc sông quanh,

Thấy bên vực thẳm có manh cô bồng.

(Dương Từ Hà Mậu).



CÔ CHÚ 

Có nghĩa là có bao nhiêu đem ra đánh hết một lần để quyết định được thua.

Đời nhà Tống rợ Khiết Đan đem quân vào đánh, Khấu Chuẩn rước vua đến Thiện Châu.

Vương Khâm Nhược mới tâu rằng: Bệ hạ có biết trong các sòng bạc, khi đã bị thua nhiều, còn bao nhiêu tiền trong túi người ta dốc ra hết để đánh một trận cuối cùng gọi là “Cô chú” không? Nay Khấu Chuẩn dùng bệ hạ làm “Cô chú” đó.



Phen này may rủi thử xem,

Đã đành cô chú quyết đem đánh vầy.

(Hạnh Thục Ca).



CÔ ĐĂNG 

: Lẻ loi một nình. Đăng: Ngọn đèn.

Cô đăng là ngọn đèn đơn độc, chỉ người ngồi cô đơn bên cạnh ngọn đèn leo lét, lẻ loi.



Chừ sao chong ngon đèn ngồi,

Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.

(Nữ Trung Tùng Phận).



CÔ HỒN 

: Lẻ loi, mồ côi. Hồn: Phần tinh thần của con người, sau khi chết rời khỏi thể xác vẫn tồn tại mãi.

Cô hồn là hồn của người chết bay vất vưởng, không nơi nương tựa, không có người cúng kính.



Cho hay thành bại là cơ,

Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!

(Thập Loại Chúng Sinh).



Cô hồn nhờ gửi tha phương,

Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.

(Thập Loại Chúng Sinh).



CÔ LẬU 

: Lẻ loi. Lậu: Quê mùa.

Cô lậu là chỉ nơi ở vắng vẻ, quê mùa.



Đã đủ thế sửa đời tốt xấu,

Mà hổ hang cô lậu tại nơi nào.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÔ MIÊN 

: Lẻ loi, một mình. Miên: Ngủ.

Cô miên tức là ngủ một mình, giấc ngủ cô đơn.



Lạnh lùng thay giấc cô miên,

Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



CÔ NHI QUẢ PHỤ 

Cô nhi: Đứa trẻ mồ côi. Quả phụ: Đàn bà chồng chết. Cô nhi quả phụ là chỉ nhưng hạng người đơn độc, lẻ loi như những trẻ mồ côi hay những đàn bà goá.

Con là Ai Đế vụng lầm,

Cô nhi quả phụ khôn cầm giang sơn.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



CÔ PHÒNG 

: Một mình. Phòng: Cái buồng.

Cô phòng là sống trơ trọi một mình trong phòng. Thường người ta hay dùng chữ “Cô phòng” tức “Phòng không chiếc bóng” để nói về người đàn bà vắng chồng.



Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ,

Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,

Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.

(Đạo Sử).



CÔ QUẢ 

Bởi chữ “Cô lậu quả văn  ”, tức là người quê mùa, ít nghe thấy, ít hiểu biết.

Cô quả là một tiếng khiêm xưng của các vị vua chúa và các chư hầu thời xưa.

Nghĩa bóng: Kiến văn ít ỏi.



Nghênh ngang một cõi biên thùy,

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!

(Truyện Kiều).



CÔ THÂN 

: Lẻ loi. Thân: Thân mình.

Cô thân là chỉ kẻ cô độc, trơ trọi một mình, hoặc không có thân thế.



Phú hữu thiên gia bất thoát trần,

Vinh thê ấm tử độ cô thân.

(Đạo Sử).



Dầu có của dạy đừng ỷ sức,

Đừng cậy tiền ép bức kẻ cô thân.

(Phương Tu Đại Đạo).



CÔ TRÚC 

Tên một nước của ngày xưa, chư hầu nhà Ân, nay thuộc tỉnh Trực Lệ của Trung Quốc. Vua Cô Trúc chính là phụ vương của hai vị hiền sĩ là Bá Di, Thúc Tề.

Sau khi nhà Ân bị mất về nhà Châu, cả hai đều không chịu ăn thóc của nhà Châu và lên núi Thú dương hái rau di mà ăn, rồi chết đói ở đấy.

Mặt đất đùn, này thóc, này rau,

dầu ông Cô Trúc,

Mặt nước chảy, nọ dòng, nọ bến,

mặc chí Sào Do.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



CÔ TRUNG 孤忠

: Lẻ loi, một mình. Trung: Ngay với vua, nước.

Cô trung là tấm lòng trung chỉ một mình, mình biết, một mình, mình hay, chứ người ngoài không ai hay biết lòng mình được.



Cờ sứ vẫy cầm một cán không,

Mười thu nghìn dặm tiết cô trung.

(Tô Công Phụng Sứ).



Cô trung quyết giữ lời thề,

Để hồn di thể đi về cho an.

(Tự Tình Khúc).



CỐ CÙNG 

Yên ổn trong cảnh nghèo.

Sách Luận ngữ có câu: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ  , , nghĩa người quân tử yên ổn trong cảnh nghèo, còn kẻ tiểu nhân gặp nghèo thì tham lạm.

Đồng nghĩa với “An bần”.



Nhớ câu: Quân tử cố cùng,

Đèn trăng, gió quạt, non sông phận đành.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).

CỐ QUỐC 

Cố: Xưa cũ. Quốc: Nước.

Người đi xa nước nhà đã lâu, thì gọi về nước mình là cố quốc. Mạnh Tử nói: Sở vị cố quốc giả, phi vô kiều mộc chi vị dã, hữu thế thần chi vị dã  , , , nghĩa là bảo rằng nước cũ, chẳng phải có cây cao, có những bề tôi thế từ đời này qua đời khác mới gọi là nước cũ.



Tấc lòng cố quốc tha hương,

Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.

(Truyện Kiều).



Ngại ngùng thay, lúc phân kỳ,

Người về cố quốc, kẻ đi sa trường.

(Nhị Độ Mai).



CỔ ĐỘ 

Cổ: Xưa, cũ. Độ: Bến nước.

Cổ độ là bến nước hay bến đò ngày xưa.



Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,

Quán thu phong đứng rũ tà huy.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Mặt chinh phu khôn vẽ nét 
gian nan,

Lập loè lửa trơi soi chừng cổ độ.

(Trận Vong Tướng Sĩ).



CỔ HY 

Cổ: Xưa. Hy: Ít.

Bởi chữ “Cổ lai hy  ”, nghĩa là xưa nay ít.

Cổ hy chữ dùng để chỉ người 70 tuổi. Thơ Đỗ Phủ có câu: Nhơn sinh thất thập cổ lai hy  , nghĩa là đời người sống 70 tuổi, xưa nay ít.

Nay tiết mừng ông mới bảy mươi,

Cổ hy chưa dễ mấy lăm người.

(Thơ Nguyễn Khuyến).



CỔ KHÂU 

Cổ: Xưa, cũ. Khâu: Cái gò mả.

Cổ khâu là cái gò mả đã được chôn từ lâu, gò mả xưa cũ.

Xưa có câu thơ: Hiền ngu thiên tải tri thuỳ thị, mãn nhãn bồng cao thổ nhất khâu  , 滿 , nghĩa là người hiền kẻ ngu ngàn năm trước biết ai hay dở, đầy mặt một nắm đất toàn những lau lách.

Trăm năm còn có gì đâu,

Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì!

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,

Ấy nền Đồng tước, hay lầu Nhạc dương.

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



CỔ LOA 

Cổ Loa là một cái thành hình xoắn ốc, là Kinh đô của An Dương Vương Thục Phán, nhờ pháp thuật của thần Kim Quy giúp xây dựng nên. Sau Kim Quy tặng cho Thúc Phán cái móng chân để làm một cái nỏ thần, giúp giữ yên thành trì.



Ðắp lũy Cổ Loa chưa mấy mặt,

Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên.

(Đạo Sử).



CỔ PHÚC 

Cổ: Vỗ. Phúc: Bụng.

Bởi thành ngữ “Cổ phúc hàm bô  ” là vỗ bụng ngậm cơm.

Cổ phúc ý nói cảnh đất nước thái bình, nhân dân no ấm, vừa đi vừa vỗ bụng ca hát.

Xem: Ngậm cơm vỗ bụng.



Đêm đêm cổ phúc nhi du,

Ngày thì kích nhưỡng khang cù vô ngu.

(Thanh Hoá Quan Phong).



CỔ TẨU 

Cổ Tẩu nghĩa đen là một ông già mù loà, nhưng đây là một danh hiệu mà người đương thời tặng cho cha của vua Thuấn, lấy cớ ông có mắt như mù, bởi vì ông không phân biệt được người thiện kẻ ác, hiếu thảo hay ngỗ nghịch.

Cổ Tẩu tánh độc ác, nghe theo lời vợ kế có ý hại vua Thuấn. Nhưng Thuấn là con chí hiếu, chẳng bao giờ oán giận cha mẹ. Lòng chí hiếu của vua Thuấn đã cảm hoá được cha và mẹ ghẻ.

Tuổi xanh khuất bóng từ vi,

Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương.

(Nhị Thập Tứ Hiếu).



Sãi muốn nói chuyện:

“Vi phụ chỉ ư từ” cho vãi hản,

Sãi lại e ông Cổ Tẩu dứt rằng ngây;

(Sãi Vãi).

CỐC LĂNG 

Cốc: Hang sâu. Lăng: Gò lớn.

Cốc lăng tức là hang sâu biến thành gò lớn. Chỉ sự biến thiên của vạn vật, hay nói sự thịnh suy, thay đổi của các triều đại.

Kinh Thi có câu: Cao ngạn vi cốc, thâm cốc vi lăng  , , nghĩa là bờ cao thành hang sâu, hang hốc thành gò núi.

Xem: Hang sâu núi cả.



Cốc lăng trời khéo đổi thay,

Giận riêng bờ cõi từ nầy thuộc Minh.

(Quốc Sử Diễn Ca).



CỐC SÓC 

Cốc (Cáo): Lễ tế trình cho các Đấng Thần Thánh biết. Sóc: Ngày mồng một hằng tháng.

Theo cổ lễ thì cứ đến ngày mồng một mỗi tháng, vua chư hầu giết dê để tế ở Thái miếu và gọi lễ tế đó là lễ Cốc Sóc.

Luận Ngữ chép: Tử Cống dục khứ Cốc Sóc chi khái dương. Tử viếtTứ dã, nhĩ ái kỳ dương, ngã ái kỳ lễ  . : , , nghĩa là Tử Cống muốn bỏ lệ dâng con dê sống trong lễ cốc sóc. Đức Khổng Tử nói: Này Tứ! Ngươi thương con dê chớ ta thích cuộc lễ.

Lễ Cốc sóc thánh nhân còn bảo,

Tử Cống sao dê sống bỏ đi.

(Lục Súc Tranh Công).



CỐC THÀNH 

Núi Cốc Thành ở phía bắc Tế Thuỷ.

Do tích Trương Lưu Hầu gặp một ông già cho cuốn Thái Công binh pháp ở cầu Hạ Bì, có dặn: Mười ba năm nữa sẽ gặp lại ta nơi tảng đá vàng ở chân núi Cốc Thành. Sau Lưu Hầu có theo Cao Đế đi qua Tế Bắc, thấy một tảng đá màu vàng ở chân núi Cốc Thành thật. Ông kính mến tảng đá và cho lập đền thờ. Khi Lưu Hầu mất, cũng được chôn ngay ở dưới tảng đá ấy.

Dĩ hạ Lưu Hầu từ Hán lộc,

Cốc Thành náu ẩn Xích Tùng chơi.

(Hồng Đức Quốc Âm).



CỐI KÊ

Tên đất, thuộc tỉnh Chiết Giang Trung Quốc, là nơi xuất thân của nhà thơ Vương Hy Chi, cũng là một danh sĩ viết chữ đẹp đời nhà Tấn.

Xưa ông Vương Hy Chi cùng mấy bạn thơ tụ họp ở Lan Đình ngâm thơ uống rượu, có làm bài “Lan đình tập tự”. Xưa ông Vương Hy Chi cùng mấy bạn thơ tụ họp ở Lan Đình thuộc huyện Sơn Âm, đất Cối Kê tỉnh Chiết Giang để ngâm thơ uống rượu, có làm bài “Lan đình tập tự”, được người đời sau truyền tụng là “Thiếp Lan Đình”.

Nức mùi hương long hoa một hội,

Giữa ngày lành hoà khách Cối Kê.

(Tứ Thời Khúc Vịnh).



CỖI XUÂN

Như chữ “Chồi Xuân”.

Theo sách Trang Tử thì cây xuân là một thứ cây sống lâu, cứ tám ngàn năm là một mùa xuân, tám ngàn năm là một mùa thu. Lấy chữ xuân để gọi cha là có ý mong cầu cho cha được sống lâu. Như vậy, cỗi xuân dùng để chỉ người cha đã già.

Xem: Xuân đường.



Cỗi Xuân tuổi hạc càng cao,

Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.

(Truyện Kiều).