Thursday, September 17, 2020

Điển tích - A

A Ă Â

A DI 

Bởi chữ “A Di Đà Phật  ”.

A Di Đà Phật là hồng danh của một vị Phật ở Tây Phương, là Giáo chủ của Cực Lạc Thế Giới.

Xem: A Di Đà.


1
Thỉnh ông Phật Tổ A Di.

Thập phương chư Phật phù trì giúp công.

(Lục Vân Tiên).



Vào Lôi Âm, kiến A Di,

Bộ Công Di Lạc Tam Kỳ độ sanh.

(Kinh Tận Độ).



Hậu vận vinh huê thiên lý mộng,

Bất như nhàn lạc tụng A Di.

(Đạo Sử).



A DI ĐÀ 

Một trong những vị Phật quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Ngài được thờ trong các ngôi chùa của phái Tịnh Độ Tông tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.

A Di Đà là một vị Phật làm Giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc. Ngài biểu hiện cho từ bi và trí tuệ. Ngài có phát 48 lời nguyện rộng lớn là cứu độ tất cả chúng sanh, trong đó có lời nguyện sẽ tiếp dẫn vãng sanh về cõi Tịnh độ chúng sanh nào hướng niệm đến Ngài.

Phật A Di Đà tức tự tánh Di Đà, tự tâm thanh tịnh sẵn có, bất sanh bất diệt, nên còn gọi là Vô Lượng Thọ Phật  , và tánh giác hằng sáng suốt, nên cũng còn gọi là Vô Lượng Quang Phật  .



Trong các ngôi chùa thường thờ Ngài ngồi chính giữa, Bồ Tát Thế Chí đứng bên phải, và Bồ Tát Quan Âm đứng bên trái.

Mới có Kinh A Di Đà

Lưu truyền thiên hạ gần xa đều tường.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Đầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,

A Di Đà Phật độ chúng dân,

(Kinh Tận Độ).



A ĐẨU 

A Đẩu là tiểu tự của Lưu Thiện, con của vua nước Thục là Lưu Bị, đời Tam Quốc. Trong trận Đương Dương, tướng Thường Sơn Triệu Tử Long đeo A Đẩu trước ngực, một mình xung đột giữa rừng tên mũi đạn của địch quân để bảo vệ cho A Đẩu được toàn vẹn.

Khi Lưu Bị mất, Lưu Thiện lên nối ngôi, vì tin dùng bọn nịnh thần và hoạn quan, nên không giữ nổi cơ nghiệp nhà Thục.

Về sau, Lưu Thiện phải đầu hàng nước Nguỵ và được phong làm An Lạc Công. Do vậy, người ta dùng chữ “A đẩu” để chỉ hạng người nhu nhược, bất tài.



Tay bồng A Đẩu tung hoành,

Đương Dương Triệu Tử liệt oanh muôn đời.

A GIAO 

Keo bằng da con lừa nấu với nước giếng A Tỉnh, được sản xuất tại huyện Đông A, tỉnh Sơn Đông. Người ta dùng A giao để làm thuốc.



Ví như một tấc a giao,

Mấy nguồn nước đục lóng vào cũng trong.

(Dương Từ Hà Mậu).



A HOÀN 

A: Hình giống cái nạng (
). Hoàn: Đầy tớ gái.

A hoàn là đứa đầy tớ gái. Ngày xưa những đứa đầy tớ gái đều bới tóc, phía đằng sau rẽ hai như hình chữ a (Y).



A hoàn trên dưới dạ rân.

Dẩu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào

(Truyện Kiều).



A hoàn một lũ nối theo,

Quạt tha thướt phẩy, lò dìu dặt mang.

(Nhị Độ Mai)



A HÀNH 

A nghĩa là dựa vào, hành là bình, làm cho yên ổn. A hành là một chức quan của Y Doãn, người có công to giúp vua Thành Thang đánh vua Kiệt, diệt nhà Hạ, dựng nghiệp nhà Thương.

Kinh Thi có câu: Thực duy A Hành, tả hữu Thương vương  , , nghĩa là thực chỉ có A Hành giúp cho nhà Thương.

A hành dùng để chỉ Y Doãn.



Công A hành đến trời biếc,

Tiết Tử lăng còn núi xanh.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Cớ chi có Doãn A Hành,

Làm chi đến đỗi rối mành nhà Thương.

(Hoài Nam Ca Khúc).



A HƯƠNG 

Tên một vị nữ thần Sấm sét. Sách Sưu Thần Ký viết: “Ông Châu Nghi Hưng dạo chơi, gặp lúc trời chiều lỡ đường, thấy có một nhà tranh bên đường, đến xin ngủ nhờ một đêm. Chủ nhà là một cô gái trẻ tuổi liền cho tá túc. Sang canh hai ngoài cửa có tiếng người bảo: A Hương! Quan lớn kêu đẩy xe sấm. Cô gái đi, một lúc sau bỗng nhiên sấm chớp nổi dậy khắp nơi. Sáng hôm sau, Nghi Hưng thấy mình nằm cạnh một ngôi mộ.

Ấu Học Quỳnh Lâm có câu: Lôi Bộ thôi xa chi nữ viết A Hương  . Nghĩa là : Cô gái đẩy xe cho thần Lôi Bộ tên là A Hương.

A Ý KHÚC TÙNG 

A ý: A dua theo ý kiến người khác. Khúc tùng: Uốn nắn mà theo.

Sửa dung mạo cho khéo, tức là tự uốn nắn để theo ý người khác mà a dua, bợ đỡ người.



Tu sắc lành để mà a ý khúc tùng,

Tu lời khéo để mà sức phi văn quá.

(Sãi Vãi).



A KIỀU 

A Kiều là vợ của vua Hán Võ Đế, sau bị phế ở Cung Trường Môn.

Theo điển “Kim Ốc Lang Kiều” (Nhà vàng để người đẹp ở) thì A Kiều là con người cô của vua Hán Võ Đế. Lúc Võ Đế còn nhỏ, người cô bồng đặt trên đùi mình và hỏi: Ngày sau cháu muốn cưới A Kiều làm vợ không? Võ Đế đáp: Nếu được A Kiều thì cháu sẽ làm nhà vàng cho nàng ở. Đến khi lên ngôi, Võ Đế phong A Kiều làm Hoàng hậu.

Nghĩa rộng: A Kiều chỉ người con gái đẹp.



A NAN 

Còn gọi là A Nan Đà (Ananda), dịch nghĩa Khánh Hỷ, là một trong mười đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca. Ngài sinh ở Ca Tì La Vệ, em họ sinh cùng ngày nhưng nhỏ tuổi hơn Đức Phật. Năm 20 tuổi, Ngài xuất gia theo Phật, và luôn ở cạnh Đức Phật để làm thị giả, nên Ngài được nghe thuyết giảng nhiều kinh và có trí nhớ rất giỏi, vì vậy, trong các đệ tử, Ngài là bậc đa văn (nghe nhiều) nhất. Chính tôn giả Ca Diếp đã nói về Ngài như sau: “Nước trong biển cả Phật pháp rót hết vào trong tâm A Nan”.

Tên Ngài đôi khi còn được dịch là Vô Nhiễm, vì những khi theo hầu Phật vào Thiên Cung, Long Cung…thuyết pháp, tâm Ngài không hề nhiễm trước nơi sắc cảnh. Nữ giới được Đức Phật chấp nhận cho xuất gia làm ni cũng nhờ Ngài đặc biệt thỉnh cầu. Trong các ni viện Trung Hoa, thường thờ Ngài A Nan tại Tổ đường để tưởng niệm ân đức là vì lẽ đó.

Khi Đức Phật nhập Niết Bàn, và Ngài chứng được quả A La Hán, Đại Ca Diếp Tôn Giả mới đề cử Ngài đứng ra kết tập Bộ Kinh Tạng.

Sau Ngài được Đại Ca Diếp truyền y bát cho làm tổ thứ nhì bên phái Thiền Tông.

Phật cáo A Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ.

(Kinh Cứu Khổ)



A PHÒNG 

Tức là Cung A Phòng, một cung lớn cực kỳ xa hoa tráng lệ, do Tần Thuỷ Hoàng cho xây dựng ở phía tây bắc Ly Sơn, ở Thiểm Tây, Trường An. Nguyên A Phòng là tên ngọn núi nơi đó được lấy để đặt tên cung điện. Cung A Phòng cao muốn đụng trời xanh, che lấp trên ba trăm dặm, lầu các được xây liên tiếp, cứ năm bước lại một lầu, mười bước lại một gác, có thể chứa cả mười ngàn người, trong đó cung nữ đông đến ba bốn nghìn người.

Về sau, cung A Phòng bị Hạng Võ đốt, lửa cháy đến ba tháng mới tắt.

Lửa đốt A Phòng đền lửa sách,

Hằm chôn hàng tốt trở hầm Nhu.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Một mồi lửa của người Hạng Vũ,

Cung A Phòng một thuở thành tro.

(Hà Thượng Nhân).



A TỲ 

Tức là “A tỳ địa ngục  ”.

Tiếng Phạn là Avici, nghĩa là “Vô gián”, tức không gián đoạn, không ngừng nghỉ. Vô gián địa ngục là ngục thấp nhất trong tám địa ngục lớn, giam những người phạm tội ngũ nghịch.

Đây là cõi địa ngục chịu tội báo nặng nề nhất, bởi vì các hình khổ nơi đây liên tục triền miên không ngừng



Lại xem một ngục A tỳ,

Mấy từng chông sắt đen sì tối om.

(Quan Âm Thị Kính).



Dữ giam vào ngục A tỳ,

Chịu phương khổ não gian nguy lâu đời.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Thường ngày tuần khắp xét tra,

Phạt người hung ác đọa sa A tỳ.

(Kinh Sám Hối).



Á KHÔI 

Á: Bậc thứ hai. Khôi: Đứng đầu.

Á khôi tức là thi vào được đứng bậc thứ hai, sau khôi nguyên (Tức người đứng đầu).



Truyền lô Lượng lại Thám hoa,

Diêu sinh hoàng giáp cũng là Á Khôi.

(Truyện Hoa Tiên).



Ả CHỨC CHÀNG NGƯU

Tức là “Chức nữ Ngưu lang  ”, nguyên là hai vì sao ở hai phía nam bắc sông Ngân hà.

Theo truyền thuyết, Chức nữ và Khiên ngưu bị Thiên đế đày ra ở hai bên sông, mỗi năm chỉ gặp nhau một lần vào đêm thất tịch.

Xem: Ngưu lang Chức nữ.



Nọ thì ả Chức chàng Ngưu,

Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



Bao giờ bắc lại cầu ô,

Mà cho ả Chức chàng Ngưu tới gần?

(Bần Nữ Thán).



Ả HẰNG

Tức là “Hằng Nga  ”, hay “Thường Nga  ” là vợ của Hậu nghệ, lén trộm lấy thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu ban cho Hậu Nghệ để uống, rồi thành tiên, bay lên cung trăng làm nguyệt tinh.

Vì vậy, chữ: Ả Hằng, Thường Nga, Gương Nga được dùng để chỉ mặt trăng.

Ả Hằng ví nặng lòng yêu,

Rẽ mây mở lối tinh thiều cho nao!

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



Chàng Lưu từ sánh ả Hằng,

Bởi chưng gặp gỡ há rằng rẳp rinh.

(Truyện Trinh Thử).



Thân sao nhiều nỗi bất bằng,

Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!

(Truyện Kiều).



Chờ gặp cơn hoa cợt đài trăng,

Bủa lưới bắt ả Hằng đem nhốt rọ.

(Phương Tu Đại Đạo).



Ả LÝ

Ả Lý tức là nàng Lý Ký.

Theo Đường Tùng Thư, trong làng của nàng Lý Ký có lệ cứ mỗi năm phải tế thần rắn thì dân mới được yên ổn làm ăn. Nàng Lý Ký vì nhà nghèo, phải bán mình chịu tình nguyện đem thân vào cúng cho thần rắn, để lấy tiền cứu cha mẹ. Về sau nàng giết được thần rắn, và làm vợ của Việt Vương.

Nghĩa bóng: Chỉ người con có hiếu.



Dâng thư đã thẹn nàng oanh,

Lại thua ả Lý bán mình hay sao?

(Truyện Kiều).



Ả NGUỴ NÀNG DIÊU

Tên hai loại hoa mẫu đơn.

Nguỵ Diêu là tên hai họ có trồng hoa mẫu đơn quý giá: Họ Diêu trồng hoa màu vàng, họ Nguỵ trồng hoa màu tía. Hai giống hoa mẫu đơn này được người ta coi là vua các loài hoa, được ví với người con gái đẹp.

Xem: Cành Diêu đóa Nguỵ.



Ả Nguỵ nàng Diêu khoe đẹp đẽ,

Người thơ khách rượu rộn mời khuyên.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Ả TẠ

Tức là Tạ Đạo Uẩn, con gái của Tạ Dịch, người đất Dương Hạ đời Tấn.

Tạ Đạo Uẩn là người nổi tiếng là thông minh, học rộng, giỏi thơ văn, có tài biện luận. Nàng thường giải những chỗ bí của em chồng là Hiển Chi khi biện luận với bạn bè.

Xem: Tạ Đạo Uẩn.



Khen tài nhả ngọc phun châu,

Nàng Ban Ả Tạ cũng đâu thế này.

(Truyện Kiều).



ÁC CƯU 

Ác: Hung hăng, dữ tợn. Cưu: Tên một giống chim, tức chim cú.

Ác cưu là một giống chim cú, tương truyền ăn thịt mẹ và treo đầu trên tổ.



Ác cưu nào có ra gì,

Con ăn thịt mẹ, kẻ chê người cười.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



ÁC ĐẢNG 

Ác: Hung dữ. Đảng: Bè đảng.

Ác đảng là bè đảng gồm nhiều người liên kết với nhau làm việc gian tà, hung dữ.



E khi ác đảng hành hung,

Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu.

(Lục Vân Tiên).



ÁC ĐẠO 

Ác đạo là con đường dữ. Đó là con đường dành cho những người làm điều ác độc trong kiếp sanh, sau khi chết phải chịu trả quả.

Trong Lục đạo luân hồi của Phật có ba đường thiện đạo là Nhơn đạo, Thần đạo, Tiên đạo và ba đường ác đạo là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.

Bố hồng oai Hội Thánh gội nhuần,

Dắt nhơn loại lánh thân ác đạo.

(Văn Tế Tiểu Tường).



ÁC GIẢ ÁC BÁO 

Ác giả: Người làm việc ác. Ác báo: Báo trả lại điều hung dữ.

Ác giả ác báo nghĩa là làm điều hung ác sẽ gặp điều hung ác trả lại.



Ác giả ác báo, ăn mặn khát nước,

khác nào cây yếu gió lay.

(Khuyên Thế Nhân).



ÁC NGHIỆT 

Ác: Hung dữ. Nghiệt: Mầm ác.

Ác nghiệt là nói người có mang sẵn mầm hung dữ, ác độc.



Lại có kẻ 
hung hoang ác nghiệt,

Cướp giựt rồi chém giết mạng người

(Kinh Sám Hối).



Ngó thử đầu hiên xem thấy dạng,

Hung hăng ác nghiệt kệ người ta.

(Đạo Sử).



ÁC PHONG 

Ác: Cầm giữ. Phong: Gió.

Bởi thành ngữ “Ác nguyệt đảm phong  ” nghĩa là cầm trăng gánh gió, chỉ người thích việc trăng gió, tức kẻ háo sắc, dâm đãng.

Nghĩa bóng: Tính ưa hoa nguyệt.

Khách má phấn môi son đậm sắc,

Đặng đem mồi trêu mặt ác phong.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ÁC TÀ

Tương truyền trong mặt trời có con quạ, nên người ta gọi mặt trời là “Kim ô  ”, tức là “Ác vàng” hay “Bóng ác”.

Ác tà là mặt trời xế bóng, tức con quạ (ác) sắp lặn, chỉ trời xế chiều.

Ðường Thi có câu: Nha phi Ðông Hải chí Tây Sơn nhứt nhựt trường. nghĩa là con chim quạ bay về biển Ðông tới núi Tây thì giáp một ngày. Mượn điển văn ấy mà chỉ rằng: Mặt Trời sớm mai mọc tại hướng Ðông, chiều lặn về hướng Tây thì qua một ngày. Ác tà tức là bóng mặt Trời ngả về Tây.

Xem: Kim ô.

Trải bao thỏ lặn ác tà,

Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm.

(Truyện Kiều).



ÁC TẬP 

Ác: Hung dữ. Tập: Thói quen.

Ác tập là quen thói hung dữ độc ác.



Thói quen tiêm nhiễm dần dần,

Thành ra ác tập, khó phần băng tiêu.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



ÁC THÚ NHỐT HẦM

Tức là ác thú nhốt chung một hầm.

Ác thú là loài thú hung dữ, cuồng sát, lại nhốt chúng chung một hầm, thì chúng chỉ biết cắn xé, tàn hại lẫn nhau, nào biết thương mạng sống cho nhau.

Cũng như ác thú nhốt hầm,

Ăn nhau cho đã nào cần mệnh nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ÁC VÀNG

Do chữ “Kim ô  ”, tức con chim quạ vàng. Tương truyền trong mặt trời có con quạ ba chân, nên gọi mặt trời là Kim ô.

Ác vàng tức chỉ mặt trời. Xem: Kim ô.

Lần lần thỏ bạc ác vàng,

Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn.

(Truyện Kiều).



Ác vàng thấm thoắt bay qua,

Phủ Dương sinh nhật một nhà đầy vui.

(Hoa Tiên Truyện).



Mảng coi phong cảnh nơi nơi,

Ác vàng chen núi, khó dời đường chim.

(Dương Từ Hà Mậu).



ÁC VÀNG THỎ BẠC

Bởi chữ “Kim ô bạch thố  ” là quạ vàng, thỏ bạc, tức măt trời mặt trăng dùng để chỉ thời gian, vì sự lặn mọc của hai thứ nầy kéo theo sự thay đổi ngày tháng. Ý nói thời gian qua mau như thoi đưa.

Xem: Kim ô, và bạch thố.

Tháng ngày thấm thoát chẳng lâu,

Ác vàng thỏ bạc chóng hầu dường thoi.

(Hứa Sử Tân Truyện).



AI HẦU CHI AI

Ai hầu chi ai tức là tự mình mình làm, không muốn ai hầu hạ, phục dịch cho ai cả.



Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,

Một mình một núi, ai hầu chi ai.

(Lục Vân Tiên).



ÁCH TẮC 

Ách: Khốn cùng, quẫn bách. Tắc: Tai nạn.

Ách tắc là chỉ thời vận không thông, gặp nhiều điều khó khăn ngăn trở.



Có đâu trải mấy nắng mưa,

Bao nhiêu ách tắc như xưa vẫn còn.

(Hoài Nam Ca Khúc).



ÁI ÂN 

Ái: Thương yêu. Ân: Ơn.

Ái ân có nghĩa là thương yêu và biết ơn lẫn nhau. Chữ này thường dùng để chỉ tình yêu giữa đôi trái gái.

Ngoài ra còn dùng để chỉ việc chăn gối.

Bây giờ trâm gẫy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

(Truyện Kiều)



Muốn khuyên giảm bớt ái ân,

Lại e giục kẻ Tấn Tần chia phôi.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Ái ân, ân ái là sao?

Đày thân lắm khách má đào gian truân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ÁI HÀ 

Chữ của nhà Phật. Sông yêu thương, tức là tình ái mênh mông như dòng sông.

Bài Kệ Chuỗi Phật Giáo có câu: Ái hà thiên xích lãng, Khổ hải vạn trùng ba. Dục thoát luân hồi khổ, Tảo cấp niệm Di Đà.  , . ,  , tức là sông yêu ngàn thước sóng, biển khổ rộng bao la, muốn thoát luân hồi khổ, mau sớm niệm Di Đà.

Lương Võ Đế có câu: Đăng trường lạc chi cao sơn, xuất ái hà chi thâm tế  , , nghĩa là leo lên núi cao trường lạc, ra khỏi sông sâu ái hà.



Sóng tình chìm nổi ái hà,

Chín ngôi hoàng hậu, phép nhà cũng sai.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Duyên lành hạt giống nguồn âm chất,

Đức tốt dường phao cõi ái hà.

(Thơ Huệ Phong).



ÁI Ố THAM SÂN 

Ái: Thương, yêu. : Ghét. Tham: Tham lam. Sân: Nóng giận.

Ái ố tham sân là thương ghét, tham lam và giận hờn. Đây là những thứ tình thường khuấy rối thân tâm của người tu hành.



Bao nhiêu ái, ố, tham, sân,

Bao nhiêu thói xấu rửa lần 
cho thanh

(Thánh Giáo Dạy Đạo).



ẢI BẮC CHĂN DÊ

Tức bị đày lên Ải Bắc để chăn dê, nói Tô Võ đi sứ Hung Nô, không chịu khuất phục chúa Thiền vu, nên bị bắt giam trong một cái hang lớn, không cho ăn uống gì cả, khiến ông phải hứng tuyết để uống tạm sống. Sau đó, vua Hung Nô lại bắt ông đày đi chăn dê ở miền Bắc Hải, mười chín năm mới được thả.

Xem: Tô Quân.

Ngồi đêm đông,

thương người nằm giá khóc măng,

Lên Ải Bắc,

thương kẻ chăn dê uống tuyết.

(Sãi Vãi).



ẢI HỔ 

Chữ đồng nghĩa với “Ải lang  ” tức là phân chó sói dùng để đốt lửa báo tin ở nơi biên ải.

Ải hổ ý nói nơi biên ải có giặc giã xảy ra.

Xem: Ải lang.



Bốn phương mọi rợ luông tuồng,

Nay giành ải Hổ, mai giành ải lang.

(Dương Từ Hà Mậu).



Nọ thuở Hung Nô đánh Hán,

tướng mạnh như hùm,

binh đông như cỏ,

cướp ải Lang, giành ải Hổ,

tới mãn tuồng Nô cũng về Nô;

(Cáo Thị Cần Vương).



ẢI LANG 

Tức là phân chó sói ở nơi biên ải. Nghĩa bóng: Chỉ nơi biên ải có giặc giã xảy ra.

Ngày xưa, mỗi khi có giặc, ở nơi biên ải người ta thường đốt phân chó sói và củi để báo tin cho triều đình biết có giặc đến. Sở dĩ đốt phân chó sói là để khói bốc thẳng lên trời, không bị gió bạt.

Một cơn gió bẻ chồi khô,

Ải lang dứt dấu ngựa Hồ vào ra.

(Quốc Sử Diễn Ca).



Ải lang vắng khói như xưa,

Nguyên nhung binh mã về bờ cõi châu.

(Dương Từ Hà Mậu).



Tuy rằng bền bệ phụng an cư,

Còn lo nỗi ải lang giặc dậy.

(Nhạc Hoa Linh).



Hang thỏ dẹp thanh khói lửa,

Ải lang quét sạch bụi trần.

(Tiễn Chồng Đánh Giặc).

ẢI LANG VẮNG KHÓI

Ải lang là phân chó sói ở nơi biên ải, chỉ nơi biên ải có giặc giã xảy ra.

Ải lang vắng khói chỉ sự an bình, yên ổn, không có loạn lạc hay giặc giã.

Xem: Ải lang.



Ải lang vắng khói như xưa,

Nguyên nhung binh mã về bờ cõi châu.

(Dương Từ Hà Mậu).



ẢI NHÀN

Bởi chữ “Ải nhạn  ”, tức là một cái cửa ải trên núi Nhạn Môn Sơn, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.

Ải nhàn dùng để chỉ chung các cửa ải hiểm yếu.

Xem: Ải nhạn.



Rợ Hồ ròng thói con kiêu,

Ruỗi mù bụi ngựa trẩy theo ải nhàn.

(Truyện Phan Trần).



ẢI NHẠN 

Một cái cửa ải trên núi Nhạn Môn Sơn, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.

Ải này được đặt ở vị trí cao nhất của dải Nhạn Môn Sơn, nhờ thế núi nên ải này rất hiểm trở.

Nghĩa bóng: Chỉ chung các cửa ải hiểm yếu.



Hây hẩy gió vàng thông ải nhạn,

Làu làu bóng ngọc nuốt nhà giao.

(Hồng Đức Quốc Âm).



AM HÁN CHÙA LƯƠNG

Am theo đời nhà Hán, chùa dựa triều nhà Lương, ý chỉ những lề thói mê tín dị đoan, những điều tà đạo.

Đời Hán, vua Hán Võ Đế tôn sùng đạo Nho, rất tin theo đạo thần tiên hay đạo Lão, lại chuộng việc xây dựng đền đài. Còn đời Lương Võ Đế cũng trọng đạo Nho, về sau lại sùng tín Phật giáo, cho xây dựng chùa chiền khắp mọi nơi.

Lửa Tần tro Hạng vừa nguôi dấu,

Am Hán chùa Lương lại réo đầy.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



AM MÂY

Bởi chữ “Vân am  ”, tức là cái am nhỏ, ở nơi tĩnh mịch, cách biệt với người đời.

Am mây chỉ ngôi chùa nhỏ.

Xem: Am vân.



Lão tiều trở lại lâm sơn,

Tiên, Minh hai gã đều hoàn am mây.

(Lục Vân Tiên).



Gửi thân được chốn am mây,

Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.

(Truyện Kiều).



Am mây kinh kệ hôm mai,

Lâm tuyền dưỡng tánh, khoan thai thanh nhàn.

(Hứa Sử Tân Truyện).



AM VÂN

Tức là “Vân am  ”, một cái am được dựng nơi hẻo lánh, tĩnh mịch, có ý cách biệt với người đời. Dùng để chỉ ngôi chùa nhỏ



Tưởng là tách dặm non sông,

Am vân khuya sớm ra công tu hành.

(Dương Từ Hà Mậu).



AM TỰ 

Am: Cái nhà nhỏ thờ Phật. Tự: Chùa thờ Phật.

Am tự là một cái chùa nhỏ trong có bày trí tượng Phật để thờ phụng.



Nói rồi quầy quả đăng trình,

Nhắm nơi am tự một mình ra đi.

(Dương Từ Hà Mậu).



Vân Tiên khi ấy an lòng,

Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.

(Lục Vân Tiên).



Còn am tự, còn chùa mây,

Mà chàng đâu vắng, chốn nầy lặng trang.

(Nữ Trung Tùng Phận).



AN BANG 

An: Yên ổn. Bang: Nước nhà.

Làm cho nước nhà trong ngoài được yên ổn gọi là an bang.

Xem: An bang tế thế.

Người trung trực lo âu nợ nước,

Hưởng lộc vua tìm chước an bang.

(Kinh Sám Hối).



AN BANG TẾ THẾ 

An bang: Làm cho nước nhà được yên ổn. Tế thế: Giúp đời.

Làm cho đất nước được yên ổn, và dân chúng được an cư lạc nghiệp gọi là “An bang tế thế”.



Nấu sôi cái máu 
anh phong,

An bang tế thế một lòng lo âu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Hễ gặp người an bang tế thế,

Nên quì mà nghênh lấy lễ trọng người.

(Đạo Sử).



AN BIÊN 

An: Yên Ổn. Biên: Cõi biên giới.

An biên là làm cho yên ổn nơi biên giới.



Ải quan rợ Thát quấy rầy,

Định ngày tiến thảo ngõ hầu an biên.

(Nhị Độ Mai).



AN ĐỔ 

An: Yên ổn. Đổ: Bức tường, bức vách.

An đổ là yên vách, nghĩa rộng dùng để chỉ vào trong lúc được yên vách, mọi người đều yên ổn, vững vàng làm ăn, không sợ gì quấy phá.



Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu an đổ,

dân nhờ vua đặng lẽ sống vui.

(Văn Tế Nghĩa Sĩ).



AN KỲ 

Tên một nhân vật đời nhà Tần, tức là An Kỳ Sinh, bán thuốc ngoài biển, được người đời gọi là Thiên Tuế Công. Xem: An Kỳ Sinh.



Rằng: Xưa Hoàng Đế, An Kỳ,

Nào phương thoát hoá tu trì sao đây?

(Bích Câu Kỳ Ngộ).



AN KỲ SINH 

An Kỳ Sinh hiệu là Bảo Phác Tử, người đất Lang Da đời Tần. Ông là học trò của Hà Thượng Trượng nhân, là một người bán thuốc ngoài bãi biển, được người đời gọi là Thiên Tuế Công.



Có ngày giăng túi An Kỳ Sinh,

hỏi sự thần tiên bao nả?

Có thuở giắt tay Xích Tùng Tử,

tìm phương tịch cốc dường nào!

(Thập Giới Cô Hồn).



AN PHẬN 

An: Yên ổn. Phận: Số mệnh trời đã định trước.

An phận là sống yên theo số phận, tức là vui lòng với số mệnh mình mà trời đã dành sẵn cho.

Tô Thức có câu: Hồ bất an kỳ phận đản thính vật sở dụ?  , ?, nghĩa là sao chẳng an lấy phận, để ngoại vật dụ lấy mình?

Một là an phận chờ duyên.

Hai là thong thả sách đèn cũng vui.

(Truyện Phan Trần).



Nên thì an phận kiếm cung,

Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.

(Nữ Trung Tùng Phận).



AN PHẬN THỦ THƯỜNG 

An phận: Yên với số phần. Thủ thường: Giữ theo mức bình thường.

An phận thủ thường là sống yên ổn theo số phận và giữ những việc bình thường.

Xem “An thường thủ phận”.

Sao không an phận thủ thường,

Đến khi hoạ tới, ai thương được nào.

ÁN NÂNG NGANG MÀY

Án nâng ngang mày là dâng cơm nước đưa ngang mày để tỏ lòng kính trọng chồng.

Do điển nàng Mạnh Quang rất kính trọng chồng là Lương Hồng, khi dâng cơm lên cho chồng, nàng nâng mâm cơm cao ngang mày.

Xem: Mạnh Quang.



Án kia nâng ở ngang mày,

Sạch trong một tiết, thảo ngay một bề.

(Truyện Phan Trần).



ÁN NGỌC 

Án ngọc là cái bàn có khảm ngọc dùng làm án thư cho các vị quan phủ ngày xưa. Ngày nay, chữ “Án ngọc” dùng để nói cái bàn viết quý giá.



Trên am thong thả sách cầm,

Nhân nương án ngọc, buồn ngâm quyển vàng.

(Truyện Phan Trần).



ÁN PHÊ 

Án: Cái bàn. Phê: Phán xét việc phải trái rồi dùng bút ký vào.

Án phê là cái bàn của các quan ngồi để phê duyệt giấy tờ.



Nàng vâng cất bút tay đề,

Tiên hoa trình trước, án phê xem tường.

(Truyện Kiều).



ÁN TẤU 

Án: Xem xét. Tấu: Tâu trình cho vua.

Án tấu là xét duyệt về văn chương, hay xem xét việc hình sự để tâu trình lên nhà vua.



Phùng công truyền phó canh giờ,

Rồi xem án tấu đợi chờ xử phân.

(Nhị Độ Mai).



ÁN TUYẾT 

Án Tuyết: Cái bàn học có rọi ánh sáng của tuyết.

Án tuyết là cái bàn, nơi đó có ánh sáng tuyết rọi vào để đọc sách.

Do tích Tôn Khang người đời Tấn ham học, dốc lòng dồi mài kinh sử, nhà nghèo, mùa đông không có dầu đốt, phải mượn ánh tuyết rọi vào để học. Về sau, Tôn Khang trở nên người danh vọng.

Nghĩa bóng: Nghèo mà chăm học.

Xem: Tôn Khang.

Án tuyết mười thu uổng độc thư,

Kéo còn lọt lọt chữ Tương Như.

(Quốc Âm Thi Tập).



Chừng trong chín vạn bằng trình,

Chẳng qua án tuyết song huỳnh mấy năm.

(Tây Sương).



Làng văn mấy bạn văn chương,

Bút hoa, án tuyết hơi sương mái đầu.

(Thơ Tản Đà).



ÁN TỬ 

Hay “Yến Tử”.

Tức Án Anh, người nước Tề đời Xuân Thu, tự là Bình Trọng, làm quan Đại phu, siêng năng lo việc nước. Án Tử là người nổi tiếng tiết kiệm, bữa ăn ông không hai lần ăn thịt, mặc áo hồ cừu trong suốt ba mươi năm. Án Tử là người nổi danh khắp thiên hạ. Ông có để lại một quyển sách tựa là “Án Tử Xuân Thu  ”, do người đời góp nhặt những công việc ông đã làm, cùng những lời can gián hằng ngày của ông.

Trái cân Án Tử không rơi dấu,

Cuốn sách Đào Công chẳng hết tuồng.

(Dương Từ Hà Mậu).



ÁNG CÔNG DANH

Áng là đám hay một bãi rộng, tập hợp nhiều thứ nhiều loại.

Áng công danh là những gì có thể giúp người ta tạo nên công nghiệp hay danh phận.

Tang bồng là cái nợ,

Đứng làm trai chi sợ áng công danh.

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



ÁNG MÂY

Hay chòm mây, cụm mây đều do chữ “Phiến vân  ”, lấy từ điển tích Địch Nhơn Kiệt là một người con có hiếu, làm quan ở Tinh Châu. Hằng ngày, ông nhớ nhà, nhìn về đám mây trắng ở núi Thái Hàng mà than rằng: Dưới áng mây đó là chỗ cha mẹ ta ở!

Nghĩa bóng: Chỉ quê nhà.

Xem: Thái Hàng.



Lòng còn gửi áng mây Vàng.

Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.

(Truyện Kiều).



ANH HÀO 

Do hai từ “Anh hùng” và “Hào kiệt” ghép nên để chỉ kẻ tài giỏi, có sức mạnh hơn người.



Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.

(Truyện Kiều).



Tôi xin ra sức anh hào,

Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.

(Lục Vân Tiên).



Hay là lạc bước nguồn Đào,

Để thương cho mặt anh hào đeo mang.

(Kinh Thế Đạo).



ANH HOA 

Anh: Tài trí hơn người. Hoa: Rực rỡ.

Anh hoa là những gì tốt đẹp biểu lộ ra ngoài. Ý chỉ tốt đẹp rực rỡ.



Anh hoa phát tiết ra ngoài,

Nghìn thu bạc mệnh, một đời tài hoa.

(Truyện Kiều).



ANH HÙNG

Anh là cái gì tốt đẹp nhứt trong các loài hoa. Hùng là vật xuất sắc nhứt trong loài thú.

Theo sách Hoài Nam, Anh hùng có bốn bậc: Anh trí quá muôn người. Tuấn tài trí hơn ngàn người. Hào tài trí hơn trăm người. Kiệt tài trí hơn mười người.

Anh hùng tiếng đã gọi rằng,

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.

(Truyện Kiều).



Nhớ câu bình thủy tương phùng,

Anh hùng lại gặp anh hùng một khi.

(Lục Vân Tiên).



Con xem từ trước đến chừ,

Đấng anh hùng gặp anh thư mấy người?

(Nữ Trung Tùng Phận).



Mặt anh hùng ở tại nơi đâu,

Phải kén chọn gieo cầu cho đáng.

(Phương Tu Đại Đạo).



ANH LINH 

Anh: Tốt đẹp. Linh: Thiêng liêng.

Anh linh là cái khí anh hoa, đẹp đẽ và linh thiêng tự trời sinh cho chung đúc lại. Chữ “Anh linh” còn có nghĩa là sự thiêng liêng của anh hồn người đã chết.



Người trí dũng kẻ anh linh,

Uy danh còn có uy danh nào tày.

(Cai Vàng Tân Truyện).



Trời nam cấu khí anh linh,

Có nơi phong cảnh hữu tình lạ thay.

(Cổ Tháp Linh Tích).



Chỗ nào oan khúc 
cho minh,

Chỗ nào non nước anh linh cho tường.

(Dương Từ Hà Mậu).



ANH NHI 

Anh: Con nít mới sinh. Nhi: Trẻ bé.

Anh nhi là đứa bé mới sinh. Đồng nghĩa với anh hài hay hài nhi.



Xem chừng coi mảnh anh nhi,

Co tay đếm tuổi bấy chầy không cha.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ANH PHONG 

Anh: Tốt đẹp, cao quý. Phong: Phong tục, tức thói quen lâu đời.

Anh phong là phong tục tập quán tốt đẹp đã có từ lâu đời.



Nấu sôi cái máu anh phong,

An bang tế thế một lòng lo âu.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Nước nhà ta có tiếng anh phong,

Vẻ đẹp trời Ðông sắc Lạc Hồng.

(Đạo Sử).



Nòi anh phong đó cơ nghiệp hỏi ai cầm?

Cũng xương, cũng thịt, cũng khí, cũng huyết Nam,

Cũng văn, cũng pháp cũng phong cũng tục Nam,

Cũng Xã Tắc, cũng Triều Đình của nhà Nam,

(Ngụ Đời).



ANH QUÂN 

Anh: Tài trí hơn người. Quân: Vua.

Anh quân tức là vị vua thông minh, sáng suốt, tài trí hơn người, an trị được thiên hạ. Đồng nghĩa với chữ “Minh quân  ”.



Tìm Mẫu đơn kể mọi đường,

Rằng: Vua ta thực rõ ràng anh quân.

(Hoa Điểu Tranh Năng).



ANH TUẤN 

Anh: Tài trí. Tuấn: Tài giỏi hơn người.

Anh tuấn là người có dáng đẹp đẽ, thông minh và tài giỏi hơn người.



Trường đời đem thử gan anh tuấn,

Cửa Đạo mới ra bậc Thánh Hiền

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



ANH THƯ 

Anh: người tài trí. Thư: Chữ dùng để gọi người đàn bà con gái.

Anh thư dùng để chỉ người đàn bà tài giỏi, anh hùng, như bà Trưng, bà Triệu được xưng tụng là “Anh thư nữ kiệt  ”.



Con xem từ trước đến chừ,

Đấng anh hùng gặp anh thư mấy người?

(Nữ Trung Tùng Phận).



Giồi trí thức tinh thần đẹp đẽ,

Trau tài ba vẹn vẻ anh thư.

(Nữ Trung Tùng Phận).



Xem từ trước anh thư nữ liệt,

Dầu đến điều chẳng tiếc phận đào thơ.

(Phương Tu Đại Đạo).



ANH VŨ 

Anh vũ là một loại chim học được tiếng nói của con người, tục gọi là chim vẹt.

Anh vũ châu là bãi chim vẹt, bãi này ở sông Trường Giang, phía tây nam huyện Hán Dương, tỉnh Hồ Bắc. Cuối đờ Đông Hán, Hoàng Tổ làm thái thú miền Giang Hạ, con trưởng của Tổ tên là Xạ mở tiệc thết đãi tân khách, có người dâng con chim anh vũ (vẹt), nhân đó Nễ Hành làm bài phú, và từ đấy, bãi sông mang tên nầy. Sau Nễ Hành bị Hoàng Tổ giết cũng được chôn ở đây.

Trong Đường thi, bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu có câu: Tình xuyên lịch lịch Hán dương thụ, Phương thảo thê thê Anh vũ châu 
, .

Hán Dương sông tạnh, cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non.

(Thơ Dịch, Tản Đà).



ÁNH THÁI DƯƠNG

Thái dương là Mặt trời. Theo sự phân tích về âm dương, mặt trời được người xưa quan niệm là dương, nên gọi là Thái dương; còn mặt trăng là âm nên gọi là Thái âm.

Ánh Thái dương, ánh sáng mặt trời, là nguồn sống của mọi sinh vật và cũng là nguồn sáng phá tan những bóng tối bao trùm trên quả địa cầu nầy. Ánh Thái dương mọc ở phương Đông còn được hiểu Đạo đến từ phương Đông (Đạo xuất ư Đông  ), đem giáo pháp tiêu trừ, xóa tan những bóng tối khổ đau và tội lỗi của chúng sanh, và mang đến ánh sáng hạnh phúc cho nhơn loại ở cõi trần gian nầy.

Biển trần khổ vơi vơi Trời nước

Ánh Thái Dương giọi trước phương đông.

(Kinh Cúng Tứ Thời).



AO CÁ VẠ LÂY CHÁY THÀNH

1.- Ao cá bị vạ lây bởi lửa cháy thành.

Do câu “Thành môn thất hoả, ương cập trì ngư  , ” nghĩa là cửa thành lửa cháy, cá trong ao bị lây. Bởi vì muốn tưới tắt lửa thành, phải múc cạn nước ao. Chỉ việc vô cớ bị vạ lây.

2.- Sách Lã Thị Xuân Thu chép: Tư Mã Hoàn có một hạt châu rất quý. Trong khi bị tội, ông bỏ chạy trốn, vua cho người chạy theo hỏi hạt châu, thì ông cho biết ném xuống ao cá rồi. Vì vậy, người ta tát cạn ao cá để tìm hạt châu. Hạt châu tìm chẳng thấy, nhưng cá bị khô nước mà chết lây.



Đèn trời soi xét 
gian ngay,

Lẽ đâu ao cá vạ lây cháy thành.

(Truyện Trê Cóc).



AO HÁN

Ao của nhà Hán.

Hán sử viết: Xích tử lộng giáp binh ư hoàng trì chi trung  , là trẻ con đùa bỡn áo giáp đồ binh khí ở trong ao hoàng trì, ý nói giặc giả chẳng ra gì, chỉ như bọn trẻ con đùa nghịch.

Làn nước phẳng, kình chìm ngạc lặn,

ao Hán còn mấy trẻ reo hò.

(Tụng Cảnh Tây Hồ).



AO NÓNG THÀNH VÀNG

Bởi nghĩa từ câu “Kim thành thang trì  ” tức là thành bằng vàng, ao quanh thành chứa nước sôi.

Ao nóng thành vàng dùng để nói sự kiên cố, bền vững của thành trì.

Xem: Kim thang.



Đề phòng chẳng chút vi sơ,

Đã hâm ao nóng lại hơ thành vàng.

(Hoài Nam Khúc).



AO NGHIÊN RUỘNG CHỮ

Đối với người nông dân, ao và ruộng là thứ tạo ra cơm áo để nuôi sống con người. Riêng đối với người học trò lấy cái nghiên làm ao, lấy chữ nghĩa thay ruộng để sau này tạo ra tiền tài có điều kiện để mưu sinh.



Thú thôn ổ ao nghiên ruộng chữ,

Mầu giang sơn cơm sử áo kinh.

(Tự Tình Khúc).



ÁO CHẾ

Tức là áo tang. Theo Kinh Lễ, ngày xưa các vị Thánh hiền chế ra các loại quần áo mặc khi có tang để phân biệt cấp bực của tang chế, như áo trảm thôi, áo tư thôi, do đó mà gọi là “Áo chế”.



Cả triều văn võ đều ra,

Ba quân áo chế cất ma vợ chàng.

(Phạm Công Cúc Hoa).



ÁO GAI

Sở dĩ người ta gọi áo tang bằng “Áo gai” là vì áo tang thường dùng các loại vải to sợi như gai thô, nên mới gọi là “Áo gai”.



Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm,

Đầu mũ mao mình tấm áo gai.

(Ai Tư Vãn).



ÁO GẤM VỀ QUÊ

Bởi câu thành ngữ “Ý cẩm hoàn hương  ” tức là mặc áo gấm trở về làng.

Thơ Lý Bạch đời nhà Đường có viết: “Công thành ý cẩm hoàn , nghĩa là khi được thành công, mặc áo gấm về làng.

Nghĩa thường: Khi được vinh hoa phú quý, ăn mặc rạng rỡ để trở về làng quê.

Xem: Ý cẩm hoàn hương.

Rõ ràng áo gấm về quê,

Vó câu lỏng khấu bánh xe êm bồ.

(Hoa Tiên Truyện).



ÁO GẤM MẶC VỀ

Một sĩ tử khi bảng hổ đã đề danh thì được vinh quy bái tổ, tức là nhà vua sẽ ban cho áo gấm để mặc về làng quê làm vinh hiển từ đường.

Xem: Áo gấm về quê.

Cũng đừng áy náy lòng quê,

Bao giờ áo gấm mặc về mới cam.

(Truyện Phan Trần).



ÁO GẤM HOÀN HƯƠNG

Hoàn hương là trở về làng cũ.

Khi được vinh hoa phú quý, người ta thường hay mặc áo gấm để trở về quê xưa để cúng lạy ông bà và cũng làm rạng ỡ tổ tiên, gọi là vinh quy bái tổ.

Hơn thiệt thôi đừng ai oán nữa,

Bỏ ngày áo gấm lại hoàn hương.

(Truyện Vương Tường).



ÁO GIÁP

Áo giáp là loại áo của các vị tướng ngày xưa mặc có kết vảy sắt để đỡ tên đạn, đao kiếm, còn gọi là “Chiến bào  ” nghĩa là áo chiến.



Não người áo giáp bấy lâu,

Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



ÁO HỒ

Áo Hồ là áo của rợ Hồ.

Ngày xưa khi cống các mỹ nhân sang Hồ, thì các mỹ nhân đó đều phải ăn mặc y phục theo lối rợ Hồ.

Áo Hồ đưa lại một rương,

Dạy cho nương tử cải trang xuất hành.

(Nhị Độ Mai).



ÁO HỒNG SEN

Do chữ “Hồng liên y  ”.

Sen là biểu tượng của Phật giáo, nên áo màu sen đỏ là áo của các vị sư nữ. Áo hồng sen, nói chung là chỉ những nhà tu hành.

Xe vàng lẫn áo hồng sen,

Hết phen sầu não, tới phen vui mừng.

(Truyện Phan Trần).



ÁO LÃ CƠM HÀN

Tức là áo Lã Vọng, cơm Hàn Tín.

Do tích thời hàn vi, Lã Vọng phải mặc áo tơi ngồi câu cá trên sông Vị; Hàn Tín đói phải nhờ cơm bà Phiếu mẫu cho ăn.

Áo Lã cơm Hàn ý nói gặp cảnh nghèo khó phải lo toan về cơm áo.



Ngại ngùng áo Lã cơm Hàn,

Trong sương ai kẻ đưa than đó giờ.

(Ngọc Kiều Lê).



ÁO LAI

Tức là áo của Lão Lai Tử, một trong hai mươi bốn người con hiếu.

Lão Lai là người nước Sở, thời Xuân Thu thờ cha mẹ rất có hiếu. Năm ông bảy mươi, không muốn cha mẹ buồn vì thấy ông tuổi đã già, nên thường mặc áo sặc sở nhảy múa trước sân, rồi vờ ngã, khóc như trẻ con để làm vui cho cha mẹ.

Xem: Lão Lai Tử.



Áo Lai chưa múa sân này,

Thì đem kinh bố mà thay gọi là.

(Quan Âm Thị Kính).



ÁO MÃNG

Bởi chữ “Mãng bào  ”. Mãng là một loại rắn lớn, bào là áo.

Mãng bào là loại áo của các quan có thêu hình con mãng. Theo quan chế đời Thanh, vua và Hoàng Thái tử mặc Long bào (Áo thêu rồng), còn Hoàng tử, Hoàng thân và các quan từ nhứt phẩm cho đến thất phẩm đều mặc áo Mãng bào. Hoàng tử, Hoàng thân thêu chín con mãng đều là năm móng. Các quan khác, tuỳ theo phẩm tước thêu từ một đến năm con mãng, nhưng chỉ thêu bốn móng mà thôi.

Ở Việt Nam, vua, Hoàng thân và các quan không mặc Mãng bào, chỉ mặc Long bào: Vua và Hoàng thân thêu rồng năm móng, còn các quan rồng bốn móng.



Duyên tao phùng may nghìn thuở rồng mây,

vẻ vang áo mãng đai mồi,

tuôn mưa móc thấm cả mình bố tố.

(Tự Thuật Ký).



ÁO NHUNG

Áo nhung do chữ “Nhung y  ” là tiếng đồng nghĩa với áo giáp, dùng để chỉ chung các loại áo của tướng tá hay quân lính mặc khi ra trận.



Nước thanh bình ba trăm năm cũ,

Áo nhung trao quan vũ từ đây.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc).



ÁO RỦ

Bởi chữ “Thuỳ y  ” là rủ áo, tức vua ở ngôi cai trị không làm gì cả, ý muốn nói đường lối chính trị của vua hợp với lòng trời, lòng người nên thiên hạ được thái bình thịnh trị.

Xem: Thuỳ y.

Thương sinh bốn bể chiêu an,

Hoàng cực chín lần áo rủ.

(Cung Trung Bảo Huấn).



ÁO SỒNG

Áo nhuộm màu nâu và màu sồng (Màu dà, tức màu nâu tối). Hai loại màu nầy được Phật giáo chọn để nhuộm quần áo cho các tăng ni mặc thường ngày, nhằm để tỏ ý không cần đẹp, tiết kiệm và thể hiện hạnh tốt của người tu hành: Phế đời hành đạo.



Gần chùa gần cảnh ta tu quách,

Cửa Phật quanh năm vẫn áo sồng.

(Thơ Trần Tế Xương).



ÁO THÔI MA

Thôi: Đồ tang phục. Ma: Gai.

Áo thôi ma là áo quần đẻ cho người tang chế mặc.



Trạng nguyên mặc áo thôi ma,

Trước vào lễ phật, sau ra tảo phần.

(Nhị Độ Mai).



ÁO TRẮNG MUÔNG ĐEN

Dịch nghĩa chữ “Bạch y thương cẩu  ”.

Thơ của Đỗ Phủ có câu: Thiên thượng phù vân như bạch y, Tu du hốt biến vi thương cẩu  , , nghĩa là trên trời mây nổi như áo trắng, phút chốc biến thành con muông đen (Chó xanh). Chỉ sự thay đổi biến hoá vô thường.

Phù vân một đoá bay đi,

Khi thì áo trắng, khi thì muông đen.

(Quan Âm Thị Kính).

ÁO TRỌNG DO

Trọng Do tức là tên của thầy Tử Lộ, người đời Xuân Thu, học trò Đức Khổng Tử. Ông là người rất có hiếu, thường đổi gạo để kiếm tiền nuôi mẹ. Khi ông làm quan, sống cuộc đời phú quý thì mẹ mất, nên thường than thở không còn được đội gạo kiếm tiền để nuôi mẹ nữa. Tử Lộ được xếp vào một trong nhị thập tứ hiếu.

Áo Trọng Do tức áo rách, chỉ sự chưa thành đạt.

Áo Trọng Do bạc thếch,

giãi xuân thu cho được sắc cần lao.

Cơm Phiếu mẫu hầm sì,

đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.

(Tài Tử Đa Cùng Phú).

ÁO VẢI CỜ ĐÀO

Áo vải là áo may bằng vải thường, chỉ người bình dân. Cờ đào là cờ may bằng lụa hồng đào, ý nói phất cờ khởi nghĩa dựng nên nghiệp lớn.

Áo vải cờ đào thường dùng để chỉ những hạng người bình dân đứng lên khởi nghĩa dựng nghiệp.

Bài chiếu lên ngôi Hoàng Đế của vua Quang Trung, do Ngô Thời Nhiệm viết bản dịch có câu: Trẩm là người áo vải ở đất Tây Sơn, không có một thước đất, vốn không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, mong mỏi được vua hiền để cứu đời yên dân, vì vậy trẩm tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi đi xe cỏ để mở mang núi rừng…



Mà nay áo vải cờ đào,

Giúp dân dựng nước biết bao công trình.

(Ai Tư Vãn).



ÁO XANH

1.- Bởi chữ “Thanh khâm  ” là áo xanh, chỉ thứ áo xanh mà các Nho sĩ ngày xưa thường mặc.



Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng,

Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh.

(Truyện Kiều).



2.- Bởi chữ “Thanh y 
” tức áo xanh, là áo của các hầu gái mặc.

Áo xanh đổi lấy cà sa,

Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.

(Truyện Kiều).



ẢO CẢNH 

Ảo: Giả mà giống như thật. Cảnh: Quang cảnh, những hình sắc phô bày trước mắt.

Ảo cảnh là quang cảnh mờ hồ, không thực.

Theo Phật, cảnh ở thế gian thường xảy ra như giấc mộng thì cảnh đời đâu phải là cảnh thật. Đó là ảo cảnh.

Ảo cảnh dùng để chỉ cuộc đời.



Thoi đưa ảo cảnh hồn như mộng.

Khoá chặt trần hoàn kiếp hữu sinh.

(Thơ Chiêu Lỳ).



ẢO HOÁ 

Ảo: Trái ngược sự thực. Hoá: Thay đổi.

Ảo hoá là sự thay đổi hay biến hoá không có thực.



Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy.

Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ĂN BẮC NẰM NAM

Do câu “Đông giả thực phạn, tây giả miên 西 , nghĩa là ăn cơm nhà bên đông, ngủ nhà bên tây

Chuyện xưa có chép: Có một nàng con gái mà hai nhà hàng xóm đến hỏi: Người phía đông giàu có nhưng xấu, người bên phía tây đẹp nhưng nghèo. Cha mẹ hỏi ý kiến thì nàng đáp: Đông gia thực phạn, tây gia miên, tức là ăn cơm nhà bên đông, ngủ nhà bên tây.

Nghĩa bóng: Chỉ người ăn ở hai lòng chỉ muốn có lợi cho mình. Ý nói được bề nầy không mất bề nọ.



Ăn bắc nằm nam chi học thói.

(Thơ Cổ).



ĂN CAY UỐNG ĐẮNG

Cay đắng, bởi chữ “Tân khổ  ” dùng để chỉ gian nan, khổ sở.

Ăn cay uống đắng ý muốn nói chịu mọi nỗi cay đắng, tức mọi sự đau đớn, khổ cực.

Nào là lúc ăn cay uống đắng,

Nào là khen rồi mắng bao phen.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ĂN CẠNH NẰM NGOÀI

Chỉ cảnh vợ chồng lúc ăn thì ngồi chung mâm, khi ngủ thì nằm phòng ngoài, ý nói thân phận bạc bẽo của người vợ lẻ mọn.



Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài,

Ấm no nên xót lấy người bơ vơ.

(Gia Huấn Ca).



ĂN CHAY

Ăn chay hay ăn lạt là ăn những thức ăn trong sạch, nhẹ nhàng, tinh khiết, tức là những thức ăn thuộc loại thảo mộc như hoa quả, rau đậu, tương chao…chứ không ăn thịt những loại động vật như cá thịt, tôm, cua…

Chay dịch từ chữ Trai , có nghĩa là ăn lạt, ăn những thức ăn từ thảo mộc, rau đậu. Trong tôn giáo, có ba hạng ăn chay: Lục trai (Ăn chay sáu ngày trong tháng), Thập trai (Ăn chay mười ngày), Trường trai (Ăn chay quanh năm suốt tháng).

Tuy là vợ sớm mất đi,

Ăn chay niệm Phật, kiên trì chẳng thôi.

(Hứa Sử Tân Truyện).



Thủy triều vận tải biển đông,

Lòng hằng dường ấy phước đồng ăn chay.

(Kinh Sám Hối).



ĂN CHẲNG CẦU NO

Do câu chữ trong Luận Ngữ: Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an  , , nghĩa là người quân tử ăn chẳng cầu no, ở chẳng cầu yên. Ý muốn nói chí của người quân tử chỉ lo việc học, mải mê vui vẻ về đạo, mà quên sự đói khát sự an nhàn.



Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,

Đêm năm canh an giấc ngáy pho pho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.

(Hàn Nho Phong Vị Phú).



ĂN GIÓ NẰM MƯA

Đồng nghĩa với câu: “Ăn tuyết nằm sương”.

Do câu: “Xan phong túc lộ  宿 ”, có nghĩa là ăn trong gió ngủ ngoài sương. Sương gió cũng như mưa gió đều dùng để nói cảnh gian nan, vất vả của người đi đường.

Quản bao tháng đợi năm chờ,

Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.

(Truyện Kiều).



ĂN NĂN

Ăn năn là trong lòng cảm thấy xót xa, ray rứt về những lỗi lầm của mình, tức hối hận những việc đã làm.



Ăn năn sám hối tội tình,

Xét câu minh thệ gửi mình cõi thăng.

(Kinh Tận Độ).



Quấy rồi phải biết ăn năn,

Ở cho nhân hậu chế răn lòng tà.

(Kinh Sám Hối).



ĂN RAU CHÊ BỆ NGỌC

Bá Di, Thúc Tề, hai người con vua Cô Trúc thà vào núi Thú Dương hái rau ăn mà sống, chứ không thèm nhận ngôi báu.

Ý nói chịu khổ cực để giữ tròn đạo lý.

Bá Di là anh cả, Thúc Tề là em út. Vua Cô Trúc yêu Thúc Tề, lập di mệnh cho Thúc Tề nối ngôi, Thúc Tề không chịu, nhường lại cho Bá Di cho phải lẽ. Bá Di cũng không chịu, nhường lại cho Thúc Tề để tuân lệnh cha. Không ai chịu nhận rồi cả hai trốn vào núi ở ẩn.

Khi Võ Vương đánh thắng Trụ, lên làm vua xưng hiệu nhà Châu, thiên hạ đều thần phục, chỉ Bá Di, Thúc Tề cho hành vi của Võ Vương là không đúng, nên không thờ nhà Châu và giữ nghĩa khí, chẳng chịu ăn lúa nhà Châu, lên ở ẩn trên núi Thú Dương, hái rau vi mà nuôi sống.

Xem: Di Tề.



Nhượng vinh huê trong buổi sang giàu,

Khuyên học khách ăn rau chê bệ ngọc.

(Phương Tu Đại Đạo).



ĂN RAU NON THÚ

Ăn rau vi trên núi Thú Dương, chỉ người cáo quan về ở ẩn để giữ tiết tháo trong sạch.

Do tích: Bá Di và Thúc Tề, hai người con vua Cô Trúc, không chịu lên ngôi vua, bỏ nước mà đi ở ẩn. Lúc Võ Vương nhà Châu kéo quân phạt Trụ, Bá Di Thúc Tề đón đầu ngựa mà can gián. Đến khi Võ Vương diệt được nhà Ân, dựng nhà Châu, Bá Di Thúc Tề nhất quyết không ăn thóc nhà Châu, bỏ vào núi Thú Dương háu rau vi để ăn cho qua ngày tháng. Sau có kẻ nói rau vi cũng của nhà châu, Bá Di Thúc Tề bèn nhịn đói mà chịu chết.

Di Tề chẳng khứng giúp Châu,

Ăn rau non Thú phải âu trọn mình.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



ĂN TUYẾT NẰM SƯƠNG

Ăn tuyết nằm sương có nghĩa ăn trong tuyết nằm ngoài sương, đồng nghĩa với “Ăn gió nằm mưa”, chỉ sự khổ nhọc, vất vả.

Xem: Ăn gió nằm mưa.

Xiết bao ăn tuyết nằm sương,

Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao,

(Lục Vân Tiên).



Vì ai khiến quan quân khó nhọc,

ăn tuyết nằm sương?

Vì ai xui hào luỹ 
tan hoang,

xiêu mưa ngả gió?

(Văn Tế Nghĩa Sĩ).



ĂN UỐNG TIỀN ĐỊNH

Quan niệm người xưa cho rằng một miếng uống, một miếng ăn đều có sự định trước, tục ngũ Trung Quốc có câu: Nhất ẩm nhất trác, mạc phi tiền định?  ?, tức là một lần ăn một lần uống há chẳng do tiền định sao?

Sách Mạnh Tử nói: Nhất ẩm nhất trác sự giai tiền định. Vạn vật phân dĩ định, phù sinh không tự mang  . , , nghĩa là một bữa ăn, một bữa uống cũng đã có định trước. Muôn việc thảy đều có định phận cả, chỉ có sự sống trôi nổi làm nên băng khoăn mà thôi.

Vẻ chi ăn uống sự thường,

Cũng còn tiền định khá thương lọ là.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ÂM CẢNH 

Âm: Cõi Âm. Cảnh: Cõi giới.

Âm cảnh là cảnh giới của người ở cõi Âm, tức Âm phủ, Âm cung…

Xem: Âm phủ.

Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn.

Miền Âm cảnh ngục môn khai giải,

(Kinh Tận Độ).



Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,

Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.

(Kinh Sám Hối).



ÂM CÔNG 

Âm công là công đức không hiển hiện ra, tức là mình làm điều phúc đức cho người mà người ta không thấy được, chỉ có Thần linh mới biết, về sau có báo ứng.

Âm công cũng dùng để nói những việc làm phúc đức mà ông cha truyền lại cho con cháu về sau.

Âm công còn có nghĩa là công việc lo cho người đã chết.



Một niềm vì nước vì dân,

Âm công cất một đồng cân đã già.

(Truyện Kiều).



Môn rằng thứ nhất y khoa,

Chữ kêu âm chất thật là âm công.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Của trời vốn thiệt của chung

Mình tu mình được, âm công về mình.

(Huấn Nữ Ca).



ÂM CUNG 

Âm cung là chỉ cung điện, đền đài dưới Âm Phủ, nơi ở của người đã chết.

Có nhiều từ để chỉ cõi nầy như Âm Phủ, Âm Cảnh, Âm Cung, Âm Ty, Diêm Đình, Diêm Cung…

Dương gian nay chẳng đặng gần,

Âm Cung biết có thành thân chăng là.

(Lục Vân Tiên).



Bóng trăng vừa khuất ngọn cây,

Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày Âm cung.

(Lục Vân Tiên).



Ôi thôi trời động đất nghiêng!

Chết chàng hồn thiếp chơi miền Âm cung.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ÂM CỰC DƯƠNG HỒI 

Theo Dịch học, âm dương là hai nguyên lý tác dụng hỗ tương nhau mà sinh ra vạn vật và tạo ra hiện tượng trong trời đất.

Âm cực dương hồi là khí Âm đến hồi cực thịnh thì khí Dương đến, ý muốn nói hết hồi suy đến hồi thịnh, hết khổ tới sướng.

Nghĩa rộng: Hết suy đến thịnh, hết khổ đến sướng.



Đời người đến thế thì thôi,

Trong cơ Âm cực Dương hồi không hay.

(Truyện Kiều).



ÂM CHẤT 

Những điều cát hung, hoạ phúc do trời định một cách âm thầm, gọi là “Âm chất”.

Người làm âm chất cốt tạo phước đức nơi cõi vô hình để được hưởng quả phúc về sau.

Môn rằng thứ nhất y khoa,

Chữ kêu âm chất thật là âm công.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Theo làm âm chất may bồi đắp,

Thì sẽ trở về chỗ vị xưa.

(Thánh Thi Hiệp Tuyển).



Nhờ âm chất đủ mẹ cha xưa,

Nên hưởng giàu sang cũng đã thừa.

(Đạo Sử).



ÂM DUNG 

Âm: Tiếng nói. Dung: Dáng người.

Âm dung là tiếng nói và dung mạo của người vắng mặt, chúng ta chỉ tưởng tượng hình dung và giọng nói mà thôi, chỉ người chết.

Người xưa thờ người chết thường viết câu: “Âm dung như tại  ”, tức là tiếng nói và hình bóng như còn đâu đó.

Trời cao đất rộng chẳng cùng,

Khi nào lại thấy âm dung trở về.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm,

luỹ kiến đồn ong,

còn bốn chữ âm dung phảng phất.

(Văn Tế Nghĩa Sĩ).



ÂM DƯƠNG 

Theo nguyên lý của Dịch học: Thái Cực sinh ra Lưỡng Nghi, tức là hai khí Âm Dương. Khí Dương thuộc đàn ông, ánh sáng, động… khí Âm thuộc đàn bà, bóng tối, tĩnh… Hai thứ khí nầy giao nhau và biến hoá thành muôn vật.

Âm dương chỉ đất Trời, vợ chồng, Địa phủ và Dương gian.

Âm dương chính là cơ động tịnh mầu nhiệm của Trời đất. Nếu không có Âm dương, muôn vật sẽ không thể hóa sanh. Nhờ có Âm dương tác động lẫn nhau nên mới tạo ra mọi cuộc biến hóa trên đời, Trời đất và vạn vật cũng nhờ đó mà sinh thành. Nếu chỉ có Âm mà không có Dương, hay ngược lại, có Dương mà không có Âm thì cuộc biến hóa cũng không thành hình, một Âm ấy rồi cũng tiêu, một Dương ấy rồi cũng diệt, vì “Cô Dương bất sinh, độc Âm bất trưởng  , ”. Vậy Âm dương là hai yếu tố đi đôi với nhau, dung hòa nhau, tương phản nhau, bổ túc cho nhau. Chính nhờ sự tương hòa, tương phản nhau như nóng, lạnh, sáng tối, cứng mềm, ngày đêm...mà vạn vật biến chuyển không ngừng. Hệ Từ Thượng viết: Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa  , , nghĩa là cứng mềm đun đẩy nhau mà sinh ra biến hóa.



Có Âm Dương, có vợ chồng.

Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



Âm Dương hai khí mặc xoay vần,

Nếu quả thời đông đến tiết xuân.

(Hồng Đức Quốc Âm).



Cơ sanh hóa Càn Khôn đào tạo,

Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên.

(Kinh Thế Đạo).



Âm Dương đôi nẻo như nhau,

Cửu Huyền Thất Tổ giữ câu thọ trì.

(Kinh Thế Đạo).



Âm Dương tuy cách cũng Trời chung,

Thấy trái nên đây mới tỏ cùng.

(Đạo Sử).



ÂM DƯƠNG CÁCH BÓNG

Âm Dương: Âm phủ, Dương gian. Cách bóng: Cách nhau hình bóng.

Âm Dương cách bóng ý nói kẻ nơi Âm phủ, người ở Dương gian, hình bóng cách trở nhau, không bao giờ thấy mặt.



Âm Dương cách bóng sớm trưa,

Thon von phận bạc không vừa hiếu thân.

(Kinh Thế Đạo).


ÂM ĐÀI 

Âm: Thuộc về người chết. Đài: Lâu đài.

Âm đài tức là lầu đài dưới Âm phủ. Đồng nghĩa với Âm cung, chỉ cõi Địa ngục.

Xem: Địa ngục.

Kỳ rằng: Ta hỏi Thiện Trai,

Cớ sao xuống chốn Âm đài làm chi.

(Dương Từ Hà Mậu).



Tôn sư nghe biết ý rồi,

Liền đem hai họ đến ngôi Âm đài.

(Dương Từ Hà Mậu).



Âm đài gông tróng sẵn sàng,

Chờ khi thác xuống cổ mang hành hình.

(Kinh Sám Hối).



ÂM GIỚI 

Âm: Thuộc về người chết. Giới: Địa phận, cõi.

Âm giới là cõi của người chết. Đồng nghĩa với Âm Cảnh, Âm Phủ.

Xem: Âm Cảnh, Âm Phủ.

Khi sống thì gìn giữ của đời,

Khi thác xuống giữ cầu Âm Giới,

(Lục Súc Tranh Công).



ÂM HAO 

Âm: Tiếng. Hao: Tin tức.

Âm hao là tiếng tăm và tin tức, chỉ tin tức.



Chàng từ thưa thớt âm hao,

Tới lui ngần ngại ra vào dở dang.

(Truyện Phan Trần).



Vả trên chín bệ thẩm cao,

Dễ đâu mà tỏ âm hao cho mình.

(Hoa Tiên Truyện).



Song đường, tuổi hạc, đã cao,

Xin thầy nói lại âm hao, con tường.

(Lục Vân Tiên).



ÂM HUYỀN 

Âm: Thuộc về người chết. Huyền: Đen tối sâu kín, mờ mịt. Âm huyền có ý chỉ cái cõi vô hình của người chết. Khí âm huyền đồng nghĩa với âm khí, tức là khí từ cõi âm.

Trời thăm thẳm mưa rào gió thét,

Khí âm huyền mờ mịt trước sau.

(Thập Loại Chúng Sinh).



ÂM KHÍ 

Âm: Thuộc về người chết. Khí: Hơi.

Âm khí là hơi âm, tức là hơi từ cõi Âm giới đưa lại. Thường ở vùng nghĩa địa người ta có cảm giác không khí lạnh lẽo, nặng nề, đó gọi là âm khí.



Ở đây Âm khí nặng nề.

Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa.

(Truyện Kiều).



ÂM NHAI 

Âm: tối tăm. Nhai: Hang sâu.

Âm nhai là chỗ triền núi hay hang sâu tối tăm, ánh mặt trời không soi thấu. Vì thế sách Tàu mới có câu: Thái dương tuy vô tư, kỳ chiếu âm nhai hàm cốc giả độc hậu  , , nghĩa là mặt trời tuy vô tư, nhưng thường chiếu hang sâu cùng cốc sau cuối.

Trong Cung Oán Ngâm Khúc, các cung nhân ở nơi tối tăm ví như nơi âm nhai, nên không được vua (NHư mặt trời) đoái hoài đến.

Đuốc vương giả chí công là thế,

Chẳng soi cho đến khoé âm nhai.

(Cung Oán Ngâm Khúc)



ÂM PHONG 

Âm: Âm phủ. Phong: Gió.

Âm phong tức là gió lạnh lẽo ẩm thấp, gió có âm khí (hơi âm), như từ cõi Âm Phủ thổi đến.



Nửa ngày nổi trận Âm phong.

Phất phơ lật lá, lạnh lùng thấu xương.

(Nhị Độ Mai).



ÂM PHÒ 

Hay “Âm phù  ”.



Âm: Thuộc về người chết. Phù: Giúp đỡ.

Âm phù có nghĩa là được người chết phò trợ, giúp đỡ cho. Âm phù đồng nghĩa với phù hộ.



Ngửa nhờ liệt thánh âm phò,

Họa là may lại qui mô vững bền.

(Hạnh Thục Ca).



ÂM PHỦ 

Âm phủ là ty phủ dưới âm cảnh, tức là nơi Thập Điện Diêm Vương cùng các phán quan làm việc.

Theo triết lý tôn giáo, những người lúc sanh tiền làm điều ác thì khi chết, linh hồn phải bị đoạ cõi ấy để chịu hình phạt.

Âm phủ có nhiều từ để gọi: Địa ngục, Âm cung, Âm Ty, Âm cảnh, Âm đài, Diêm cung, Diêm đình…



Tôi mà có dạ gian tà,

Thác xuống Âm phủ, đọa mà chẳng tha.

(Tội Vợ - Vợ Chịu).



Sanh, thời ở cảnh dương gian,

Thác, về Âm phủ là đàng xưa nay.

(Dương Từ Hà Mậu).



ÂM TY 

Âm: Thuộc về người chết. Ty: Nơi làm việc của quan. Âm ty là ty phủ nơi Âm Cảnh, nghĩa là nơi Diêm Vương và các quan chức làm việc, chỉ nơi giam cầm và trừng trị các tội hồn gây nhiều ác nghiệp lúc còn sống nơi thế gian.

Xem: Âm phủ.



Xuống vừa tới cõi Âm ty,

Mặt nhìn cảnh vật khác thì nhân gian.

(Dương Từ Hà Mậu).



Huống mầy giả dạng tu trì,

Gạt người lấy của, Âm ty biên đầy.

(Ngư Tiều Vấn Đáp).



Cả mình máu chảy lâm ly,

Xương tan thịt nát Âm ty thác liền.

(Dì Ghẻ Con Chồng).



Nguyện cho trời đất chứng minh,

Chúng tôi chịu đọa ngục hình Âm ty.

(Hứa Sử Tân Truyện).



ẤM BỔ 

Ấm là bóng râm che mát, nghĩa rộng là nhờ ơn trạch của ông cha mà cháu con được hưởng. Ví như ông cha làm quan, cháu con được hàm phẩm.

Ấm bổ là nhờ tập ấm mà được bổ làm quan.

Mới vâng ấm bổ phó kinh,

Đến mừng nhân kể ngọn ngành sự em.

(Hoa Tiên Truyện).



ẤM LẠNH NGỌT BÙI

Thành ngữ này dùng để chỉ việc người con hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ. Khi trời ấm lạnh, thì chăm sóc quần áo, chăn mền, khi đến bữa ăn, thì chọn thức ăn ngon ngọt để dâng cha mẹ.



Bờ sương dặm tuyết bao nài,

Nào ai ấm lạnh, nào ai ngọt bùi.

(Hoa Tiên Truyện).



ẨM MÃ ĐẦU TIỀN 

Ẩm mã: Cho ngựa uống nước. Đầu tiền: Ném tiền.

Ẩm thuỷ đầu tiền tức là cho ngựa uống dưới dòng nước , ném tiền xuống sông để trả.

Sách xưa có câu: Hạng Trọng sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền  , nghĩa là Hạng Trọng Sơn là người trong sạch đến nỗi cho ngựa uống nước dưới sông cũng ném tiền để trả.

Do tích trong sách Thế Thuyết chép: Hạng Trọng Sơn (Có sách ghi Hạng Trung sơn), người ở huyện An Lăng, là người rất thanh liêm, trong sạch đến nỗi cho ngựa uống nước dưới dòng sông Vị Thuỷ, ông đều ném ba đồng tiền để trả.



ẨM TRÁC 

Bởi câu “Nhất ẩm nhất trác  ”.

Theo Trang Tử, nhất ẩm nhất trác có nghĩa là ăn uống một cách thung dung, tự do không bị bó buộc, ví như con chim trĩ ở đồng nội đi mỗi bước lại mổ để ăn một lần, mỗi lần bước lại uống một lần.

Ngày nay câu nhất ẩm nhất trác dùng với nghĩa việc ăn việc uống, như câu: Nhất ẩm nhất trác sự gia tiền định  , nghĩa là việc ăn việc uống đều do trời định trước cả.



Ẩm trác cũng là tiền định,

Hỏi ý cô rằng liệu tính làm sao?

(Thơ Nguyễn Công Trứ).



ÂN ÁI 

Ân: Ơn. Ái: Thương yêu.

Ân ái có nghĩa là biết ơn rồi dẫn đến thương yêu lẫn nhau. Chữ này thường dùng để chỉ sự chăn gối, tình yêu giữa đôi trái gái, hay vợ chồng.

Xem: Ái ân.

Niềm ân ái thân hòa làm một,

Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi xương.

(Kinh Thế Đạo).



Ái ân, ân ái là sao?

Đày thân lắm khách má đào gian truân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ÂN HẬU 

Ân: Ơn. Hậu: Sâu dày.

Ân hậu là ơn sâu dày, ơn nặng, đồng nghĩa với chữ “Thâm ân  ”.

Ân hậu còn có nghĩa là nhiều đức độ.

Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,

Rán tập thành sửa tánh từ hòa.

(Kinh Sám Hối).



Nhà ân hậu bực tài danh,

Buồn lúc phong quang chẳng đắc thành.

(Đạo Sử).



ÂN OÁN 

Ân: Ơn nghĩa. Oán: Thù hận.

Ân oán là ơn nghĩa và oán hận.



Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,

Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.

(Truyện Kiều).



ÂN SƯ 

Ân: Ơn. : Thầy.

Ân sư chỉ thầy dạy học. Ngày xưa các sĩ tử gọi ông quan trưởng đã chấm cho mình đậu là ân sư.



Ân sư liên hữu có hai,

Môn sinh xin được một người là may.

(Lục Vân Tiên).



ÂN TỀ VƯƠNG

Hay “Ơn Tề Vương”. Tức là ơn của vua nước Tề.

Do tích Tề Tuyên Vương trông thấy người ta dắt trâu đi làm thịt để lấy máu bôi chuông, vua thấy động lòng thương trâu vô tội, bèn truyền lịnh bắt con vật khác giết thay trâu.

Bôi chuông nhớ thuở qua đường hạ,

Ân đội Tề vương bắt lại tha.

(Thơ Huỳnh Mẫn Đạt).



Không nhớ thuở bôi chuông đường hạ,

Ơn Tề Vương vô tội khiến tha.

(Lục Súc Tranh Công).



ÂN TRẠCH 

Hay “Ơn trạch”.



Ân: Ơn. Trạch: Ân huệ, đem nước vào ruộng.

Ân trạch là ân huệ giúp cho người. Ân trạch ví như ơn huệ của vua ban cho thần dân như đem nước tưới thấm vào cây cỏ tươi tốt.



Hạ Phương ân trạch ngấm nhuần,

Một châu tiết việt hai lần thừa tuyên.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ẤN RỒNG

Ấn: Con dấu. Rồng: Chỉ nhà vua.

Ấn rồng là con dấu của nhà vua, còn gọi là ngọc tỷ, thể hiện cái quyền hành của một vị vua.



Đem ấn rồng nạp tới long môn,

Cho Tạ thị đăng quang cửu ngũ,

(Nhạc Hoa Linh).

ẨN ÁI 

Ẩn ái cũng như lòng trắc ẩn, là thấy người gặp hoạn nạn trong lòng mình bất nhẫn.

Mạnh Tử nói: Thấy một đứa bé sắp rơi xuống giếng, mỗi người đều có lòng run sợ, đó là lòng trắc ẩn hay tâm ẩn ái.

Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,

Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.

(Nữ Trung Tùng Phận).



ẨN DẬT 

Ẩn: Giấu, núp. Dật: Rảnh rang.

Ẩn dật tức là người thích nhàn nhã, không chịu sự ràng buộc, nên ở ẩn, không ra làm quan.



Vân Tiên nghe nói mới tường,

Cũng trang ẩn dật, biết đàng thảo ngay.

(Lục Vân Tiên).



ẨN TÀNG 

Ẩn: Núp, giấu không cho ai biết. Tàng: Che dấu.

Ẩn tàng là che dấu kín không cho ai biết.



Trực rằng: Chùa rách phật vàng,

Ai hay ông quán ẩn tàng kinh luân.

(Lục Vân Tiên).



ẤP CÂY

Do chữ “Thủ châu đãi thố  ”, tức là ấp cây đợi thỏ, ý nói đợi mãi mà không thấy gì.

Sách Hàn Phi Tử có ghi chuyện ngụ ngôn nói về một người nước Tống đi cày, nhân thấy con thỏ va đầu chết dưới gốc cây. Người ấy bắt được, rồi từ đó, anh liền bỏ cày lại gốc cây để chờ thỏ khác đến.

Xem: Ôm cây.



Ấp cây một mực trần trần,

Nặng tình đành nhẹ đến thân có ngày.

(Hoa Tiên Truyện).



Muốn toan chờ thỏ ấp cây,

Lại lo từ mẫu chầy ngày ỷ lư.

(Song Tinh Bất Dạ).



ẤP LẠNH QUẠT NỒNG

Nói việc chăm sóc cha mẹ của người con hiếu thảo: Lúc tiết lạnh, thì ấp chiếu giường cho ấm, khi trời nóng thì quạt đỡ nồng.



Khi ấp lạnh, lúc quạt nồng,

Bữa dâng ngon ngọt bữa dùng sớm trưa.

(Thanh Hoá Quan Phong).



ẤP MẬN ÔM ĐÀO

Đào mận là hai loại cây trong văn chương thường dùng để ví với vợ chồng.

Ấp mận ôm đào có ý diễn tả vợ chồng khắng khít yêu mến nhau.

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt,

Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.

(Cung Oán Ngâm Khúc).



ÂU CA 

Âu: Nhiều người cùng hát. Ca: Ca hát.

Âu ca tức là cùng nhau hát để ca tụng công đức một người nào hay một việc gì.

Mạnh Tử có câu: Bất âu ca Nghiêu chi tử, nhi âu ca Thuấn  , nghĩa là không âu ca con vua Nghiêu mà âu ca Thuấn.

Mừng thay vua đã 
khang ninh,

Thiên hạ thái bình cổ vũ âu ca.

(Thiên Nam Ngữ Lục).



Âu ca mà chúc nhà vương,

Dường là đương buổi Trịnh Cường lấn Lê.

(Thanh Hoá Quan Phong).



Inh ỏi súng rền kinh cửa bắc,

hãi hùng trăm họ dứt âu ca;

(Gia Định Thất Thủ Phú).



ÂU LẠC 

Âu Lạc là tên nước Việt Nam vào đời vua Thục, hiệu là An Dương Vương, dời về đất Phong Khê, nay thuộc Phúc Yên để xây Cổ Loa Thành.

Xem: Trọng Thuỷ Mỵ Châu.

Thục từ dứt nước Văn lang,

Đổi tên Âu lạc, mới sang Loa thành.

(Quốc Sử Diễn Ca).



ÂU LỘ 

Âu: Một loài chim nước ở vùng hoang vắng, có mỏ cứng và cong, thường ví với người ở ẩn. Lộ: Con cò, cũng ví với kẻ ẩn dật.

Âu lộ là chim âu và chim cò, thường dùng để chỉ kẻ ẩn dật.



Âu lộ cùng ta như có ý,

Đến đâu thời cũng thấy đi theo.

(Quốc Âm Thi Tập).



ÂU TÔ 

Tức Âu Dương Tu và Tô Thức là hai danh sĩ đại tài, đời nhà Tống.

Âu tức Âu Dương Tu, người đời Tống, tự Vĩnh Phúc, hiệu Túy Ông, đỗ tiến sĩ năm 27 tuổi, làm quan đến chức phó sứ Khu mật viện. Sau vì không đồng ý với chính sách canh tân táo bạo của tể tướng Vương An Thạch mà từ quan về ở ẩn. Ông là một danh sĩ đời Tống, cùng thời với Tô Đông Pha, thơ, văn, từ, phú, loại nào ông cũng nổi tiếng.

Tô tức Tô Thức, tự là Tử Chiêm, biệt hiệu là Đông Pha, quán Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, người đời Tấn. Thân phụ ông là Tô Tuân, em là Tô Triệt, tất cả đều nổi tiếng hay chữ, người đương thời gọi ba người là “Tô gia tam kiệt” hay Tam Tô.

Năm 20 tuổi, Tô Thức đậu Tiến sĩ. Lúc Vương An Thạch lên cầm quyền, thi hành cải cách chính trị, Tô Thức công kích biến pháp, nên bị đổi ra đất Hàng Châu, tỉnh Hồ Bắc.

Tứ cao cách lạ tột vời

Quần thoa hiếm nhỉ nảy tài Âu, Tô!

(Mai Đình Mộng Ký).



ÂU VÀNG

Bởi chữ “Kim âu  ”: tức là cái bình hay cái chậu bằng vàng. Người ta thường ví nước nhà bền vững như cái âu vàng.

Tống Thư có câu: Quốc gia toàn thịnh tự kim âu  , nghĩa là nước nhà toàn thịnh giống như kim âu. Xem: Kim âu.

Xã tắc hai phen bon ngựa đá,

Non sông thiên cổ vững âu vàng.

(Thơ dịch Trần Trọng Kim).



Âu vàng vững đặt mấy thu,

Ở ăn nào có lo âu sợ nghèo.

(Hoài Nam Khúc).



ẤU XUNG 

Ấu: Trẻ nhỏ. Xung: Thơ bé.

Ấu xung đứa trẻ còn thơ bé, non nớt.



Khiến trên ngăn lấp thánh minh,

Ấu xung nào biết bất bình lẽ chi.

(Hoài Nam Ca Khúc).

 

 

No comments:

Post a Comment

Sãi Vãi - Nguyễn Cư Trinh

Điển Sử   »  Cổ văn Việt Nam  »  Thơ   SÃI VÃI Tác giả: Nguyễn Cư Trinh   Sãi vãi là một tác phẩm do Nguyễn Cư Trinh sáng tác vào n...